← Quay lại trang sách

PHẦN II - Chương 1

Phân xưởng làm tôm ở Xí nghiệp Cầu Tre náo nhiệt hẳn mỗi khi có học trò trường Hạ kéo đến lao động giữa hai học kì, theo một hợp đồng kết nghĩa giữa hai đơn vị. Học trò vừa được giáo dục về lao động, vừa góp phần gây quỹ cho trường, lớp và cả thu nhập cho cá nhân. Những giờ lao động kiểu ấy vui nhộn và thiết thực hơn rất nhiều so với cách tổ chức trước đây. Dẫu sao việc bóc vỏ những con tôm còn lạnh ngắt, rồi phân loại, cân ký để đưa vào đông lạnh, cũng cho các bạn học sinh thấy ngay được kết quả lao động từng buổi của mình, lý thú hơn nhiều so với việc cuốc đất lên vồng để trồng khoai, sắn, hoặc còng lưng ngồi uốn mấy cái lò so cho chiếc mấy roay Sinco, vừa cực lại vừa không biết sau này kết quả sẽ như thế nào. Những con tôm vừa bóc vỏ trông trắng hồng, mũm mĩm, săn chắc mới ngon lành làm sao! Tất nhiên cái ngon lành của nó chỉ những người xa lạ ở tận đâu đâu mới được thưởng thức, nhưng với ý thức rằng công việc mình đang làm sẽ góp phần đem thêm ngoại tệ về cho đất nước đã đủ cho đám học trò - vốn chưa từng làm được điều gì ích lợi thiết thực - thấy hào hứng.

Hoa vừa bóc tôm vừa ồn ào đố đám bạn đứng gần mình:

- Đố tụi bây ở nước mình, con vật nào dài nhất? Đứa nào nói trúng, tao tặng luôn mớ tôm nãy giờ tao bóc được đó! Hân, mày biết con nào không?

- Con trăn! - Hân nói đại.

- Trật bét!

- Con bạch tuộc! - Đức hét.

- Tầm bậy!

Tùng ra bộ bí mật:

- Tao biết rồi!

Hoa hơi run:

- Biết rồi thì đừng nói.

Cả đám nhao nhao:

- Để cho nó nói chứ! Ê Tùng, nói đi. Trúng là mày hốt mớ tôm đó coi như đạt chỉ tiêu có quyền về sớm rồi. Cho nhỏ Hoa ở lại làm tới chiều luôn.

Tùng gạ Hoa:

- Muốn tao không nói thì chia một nửa đống đó đi!

Hoa nổi nóng:

- Đồ bóc lột! Nói đi!

- Con... sán sơ mít!

- Đồ quỷ! Dô diên!

Cả bọn lăn ra cười. Tùng tranh thủ cơ hội quơ lẹ mấy con tôm bự của Hạ đang đứng bên cạnh về phía mớ tôm của mình, rồi hất mấy con tôm nhỏ trả sang. Tôm bự dễ bóc vỏ, mà chỉ vài con là đủ kí, làm chẳng mấy chốc đã xong chỉ tiêu. Mỗi đứa mỗi lần được phát một xô tôm đủ cỡ, nên cứ có dịp là hoạt động tráo tôm lại diễn ra, đổ bể là bị cự cãi chí chóe.

- Thua hết rồi phải không? - Hoa hỏi.

- Rồi, nói đi. Con gì?

- Con tôm! - Hoa đắc ý nhìn quanh các bạn.

Cả bọn phản đối:

- Xí, con tôm mà dài nhất!

- Chứ gì nữa? Này nhé, cái đầu nó ở Việt Nam, còn cái mình thì ở tận Nhật Bản, Hồng Kông. Vậy không dài nhất nước là gì?

Hạ vỗ tay:

- Hay quá! Đúng rồi!

Tùng len lén chộp thêm một con tôm bự nữa thì bị Hân phát hiện:

- Ê Hạ! Thằng Tùng chôm tôm của mày kìa!

Hạ xách nguyên cái xô đựng đầu tôm, vỏ tôm lên:

- Biết điều trả lại ngay! Không là ta cho nguyên cái xô này lên người bây giờ!

Tùng riu ríu bỏ lại. Cả bọn lại càng cười ầm ĩ. Đức bình luận:

- Tao nghi câu đố của tên Hoa lấy ở báo Tuổi Trẻ Cười quá!

Hoa bĩu môi:

- Còn lâu!Tờ báo đó dở ẹc, làm sao biết được câu đố hay như vậy.

Những bàn tay đeo găng cao su cứ thoăn thoắt nhặt tôm, thẩy ra làm mấy loại trên mặt bàn, trong khi các câu chuyện cứ tít tắp nổ ra không ngừng. Họ bàn về những chuyện vui buồn trong học kì I vừa trôi qua, về chương trình cho đêm Noel Sắp tới, về những mô-đen quằn quại trong dịp Tết này... Những câu chuyện của tuổi học trò, biết bao giờ mới cạn?

Suốt từ đầu buổi, Hằng cứ lẳng lặng làm việc. Cô đứng cuối một dãy bàn, hơi tách ra khỏi các bạn, không hề tham gia trong bất cứ câu chuyện nào. Nét mặt cô càng lạnh lùng càng đẹp như một pho tượng. Chỉ rất tinh ý người ta mới nhận thấy hai quệt quầng thâm quanh mắt cô. Hằng thao tác rất nhanh và là một trong nhứng người đầu tiên hoàn thành định mức của ngày hôm đó. Cô lặng lẽ ra về một mình.

Trên đường về, Hân, Hoa và Hạ ghé vào một xe nước mía. Hân hỏi Hạ:

- Nhỏ Hằng hôm nay sao kì quá!

- Chắc nó bị bệnh. Chiều hôm qua, tao đã thấy nó sụt sịt cả buổi.

- Bệnh gì? Tao thấy hình như nó có chuyện gì buồn lắm.

Hoa chen vào:

- Hay là tại ông thầy Minh? Tao nghi lắm.

Hạ gạt đi:

- Không có đâu.

- Mày nói chuyện với nó chưa? - Hoa hỏi.

- Thì tao đá kể cho tụi bây nghe rồi. Bảo đảm không gì chuyện gì đâu mà.

Hân phân công:

- Thôi, tối nay nhỏ Hạ chịu khó ghé nhà nhỏ Hằng lần nữa đi. Tao lo quá! Tao thấy mặt nó buồn hiu à. Mọi ngày nó đâu có vậy.

- Ờ, tao cũng vậy. Không biết chuyện gì đã xảy đến cho nó. - Hoa hưởng ứng.

Hạ không nói, nhưng tự nãy giờ còn lo hơn các bạn. Cô không tin có nguyên nhân thầy Minh trong nỗi buồn của Hằng. Phải chăng cái điều mà cô hằng lo đã xảy ra? Hằng đã phát hiện ông Quang đang chia sẻ tình yêu với một người phụ nữ khác?

Tối ấy, Hằng đã tiếp Hạ bằng một vẻ mặt khép kín, và tiếp dưới phòng khách chứ không đưa lên phòng riêng. Cô giải thích với bạn là cô đang bệnh chỉ muốn được nghỉ ngơi. Thái độ khó hiểu của cô trong suốt buổi lao động chỉ là vì quá mệt mỏi. Các bạn cứ yên tâm về cô. Chẳng có gì quan trọng cả.

Chỉ cần nhìn vào mắt Hằng là Hạ biết ngay bạn mình nói dối. Cô thở dài, từ giã ra về sau khi chúc Hằng mau hồi phục sức khỏe. Trên đường về, Hạ cứ băn khoăn mãi. Chuyện gì đã xảy đến với Hằng? Phải là một chuyện gì ghê gớm lắm, và rất riêng tư, Hằng mới giấu Hạ như vậy. Chuyện gì?

Vâng, cái chuyện ấy đúng là ghê gớm - không, phải nói là khủng khiếp - đến quá sức chịu đựng của Hằng, làm cô bàng hoàng suốt từ đêm qua. Đêm qua...

Đêm qua...

Hằng đã chớm bệnh từ chiều. Có lẽ vì cô đã dốc quá nhiều sức cho kì thi cuối học kì, nên người yếu hẳn. Tháng 12, trời đổi lạnh bất chợt, sáng sớm ra đường không mặc áo ấm đã đủ để trưa đến, cô thấy người gây gây mệt. Ỷ y vào sức khỏe của mình, Hằng vẫn gắng đứng làm cho xong chỉ tiêu trong ngày, rồi còn đi ăn chè Yên Đỗ với các bạn. Chỉ khi về đến nhà, cô mới bắt đầu thấy thấm. Toàn thân mỏi nhừ, đầu nặng trịch. Tắm xong, cô lên giường năm vùi cho đến bứa cơm tốì.

Ông Quang, ba Hằng, đã đi công tác tỉnh. Nhà chỉ còn hai mẹ con - vì chú Đăng ăn cơm ngoài - nên Hằng phải gắng gượng ngồi ậy ăn cơm với mẹ cho mẹ yên lòng. Cô uể̉ oải nuốt được lưng chén cơm rồi xin phép mẹ lên phòng đi ngủ sớm vì thấy hơi mệt. Mẹ hỏi Hằng có bệnh gì không, để mẹ đưa thuốc cho uống. Hằng tự tin chỉ cần ngủ ngon một đêm là sẽ khỏe lại - đã bao lần cô bị như vậy - nên lắc đầu, nói cô chỉ mệt vì thiếu ngủ sau những đêm thức khuya học bài. Mẹ hôn trán cô và chúc cô ngủ ngon. Hằng nhìn mẹ, cảm động. Mẹ còn trẻ và vẫn rất đẹp. Nhiều người đã nói Hằng đẹp là nhờ giống mẹ. Cũng không ít người, thấy hai mẹ con Hằng đi với nhau, đã lầm tưởng là hai chị em. Hằng luôn tự hào về nét xinh đẹp dịu dàng của mẹ, như vẫn tự hào về tài năng và uy tín của ba. Trong mắt cô, không một ông bố bà mẹ nào có thể so sánh được với ba mẹ mình.

Nhưng giấc ngủ mãi vẫn không đến, trong khi đầu Hằng càng lúc càng nghe nhức buốt. Chiêc đồng hồ nhỏ ở đầu giường cứ tích tắc đếm nhịp¬. Tám giờ. Chín giờ. Mười giờ. Có tiếng chuông điện, rồi tiếng kéo cửa sắt dưới nhà, có lẽ chị Năm - người giúp việc - đang mở cửa cho chú Đăng đi chơi tối về. Rồi mười một giờ... Tích tắc, tích tắc, tích tắc... Mười một giờ rưỡi. Không chịu nổi nữa, Hằng ngồi dậy, loạng choạng đi ra mở cửa phòng, bước qua phòng mẹ định xin thuốc uống. Cô hơi ngạc nhiên khi thấy cửa phòng mẹ chỉ khép hờ.

Hằng nhẹ nhàng đẩy cửa, bước vào. Ngọn đèn ngủ soi rõ mặt giường nệm trống trơn. Hằng lần bước đi vào phòng tắm. Cũng chẳng có mẹ ở đó. Cô bỗng có một cảm giác sợ hãi thật kì lạ. Nửa đêm, mà mẹ đi đâu?

Cố trấn tĩnh, Hằng nhẹ bước đi ra hành lang, đến đầu cầu thang, nhìn xuống dưới nhà. Phòng khách, phòng ăn, nhà bếp, đều không một ánh đèn. Chị Năm ngủ ở một căn buồng nhỏ bên cạnh nhà bếp Hằng rón rén xuống lầu, mò mẫm đi trong bóng tối, đến trước phòng chị. Phòng đóng kín cửa, tối đen, bên trong vọng ra tiếng thở đều đều của chị Năm. Hằng ra xem lại cánh cửa lớn. Tất cả ổ khóa đều được khóa từ bên trong. Vậy thì, mẹ ở đâu?

Tim đập thình thịch trong ngực, Hằng lại trở lên lầu, nhìn qua phòng mẹ một lần nữa. Căn phòng vẫn trống trơn. Cô đi đến đầu cầu thang dẫn lên sân thượng, ngần ngại nhìn, rồi lấy hết can đảm, bước lên.

Căn phòng của chú Đăng nằm ngay đầu cầu thang, phía bên trái. Bên phải là cánh cửa dẫn ra sân thượng, cũng được khóa kín từ bên trong. Ánh đèn ngủ trong phòng chú Đăng hắt ra khe cửa, tạo thành một vệt sáng xanh biếc. Toàn thân Hằng run lẩy bẩy khi cô nghe có tiếng cười khe khẽ vọng ra từ khe cửa ấy. Đó là một tiếng cười của phụ nữ, và chính là giọng cười của mẹ cô!

Hằng phải bấu chặt tay vịn của cầu thang mới đứng vững được. Mẹ cô, người mẹ thân yêu của cô nửa đêm lại lên phòng chú Đăng làm gì khi ba cô đi vắng? Mồ hôi Hằng rịn ra khắp người, trước một phát hiện quá khủng khiếp. Cô nhắm mắt lại, thở ra một hơi dài. Không, không thể là mẹ của cô đang ở trong ấy! Đứng yên một lúc lâu, Hằng bậm môi, bước lên hết cầu thang. Trong phòng lại lặng im. Thật nhẹ nhàng, cô áp tai vào cửa. Lần cửa gỗ mỏng không ngăn được nhứng tiếng rên khe khẽ, đều đặn. Không nén nổi, Hằng khom người nhìn qua lỗ khóa. Chiếc giường của chú Đăng đặt ngay phía tường đối điện với cánh cửa. Hằng điếng người trước quang cảnh đang diễn ra ngay trước mắt mình...

Cô vịn tay vào tường, từ từ đứng dậy. Căn nhà như đang sụp đổ dưới chân cô. Miệng khô quánh, cô run rẩy, sờ soạng ngồi xuổng bậc thang đầu, mắt trừng trừng nhìn vào bóng tối phía trước. Mãi một lát sau, cô mới có cảm giác mình đang ngồi làm mồi cho muỗi. Thình lình, cô đứng phắt dậy, nhặt một chiếc dép của chú Đăng để phía trước và ném mạnh vào cửa, rồi bỏ chạy xuống phòng mình, vật mình xuống giường, nức nở khóc.

Một lúc sau, Hằng nghe tiếng cánh cửa phòng mình mở ra thật nhẹ, rồi tiếng bước chân rón rén đi vào. Tiếng mẹ cô cất lên, nghẹn ngào:

- Hằng!

Hằng vẫn nằm im. Giọng mẹ cô thảm thiết hơn:

- Hằng ơi!

Cô xoay người lại. Mẹ đứng trước mặt cô, mặt tái nhợt. Chiếc áo ngủ mỏng manh, xộc xệch. Mái tóc rối. Đôi mắt cụp xuống. Đôi môi... Trời, đôi môi ấy, khi nãy... Và hai bàn tay với những móng dài sơn màu hồng cánh sen đang run rẩy kia nữa, giờ Hằng mới biết chúng chính là thủ phạm của những vết xước dọc hai bên hông chú Đăng, chứ không phải ai khác. Đôi bàn tay ấy đã từng vuốt ve Hằng, từng âu yếm ba... Trời ơi, sao mẹ lại có thể làm được chuyện tồi bại như thế!

Ánh mắt Hằng lạnh như băng. Mẹ như một tử tội, quỳ sụp xuống bên giường Hằng, nắm lấy tay cô:

- Con tha lỗi cho mẹ.

Hằng lẳng lặng giằng tay ra và quay mặt vào tường. Thế là hết, người mẹ mà cô yêu quý!

Giọng mẹ cô đều đều vang lên:

- Nhiều năm qua, ba và mẹ không còn yêu nhau nữa... Ba con có rất nhiều nhân tình, kể cả cô thư ký hiện nay của ổng …

Hằng ngồi bật dậy, hét:

- Im đi! Bà không được quyền nói xấu ba tôi.

Hai mẹ con trừng trừng nhìn nhau. Mặt bà Quang lộ vẻ đau khổ cùng cực. Suốt mười tám năm, đây là lần đầu tiên đứa con duy nhất đã xưng "tôi" với bà. Đứa con mà bà vẫn hãnh diện và đặt rất nhiều kì vọng. Đứa con mà bà đã một thân một mình vất vả nuôi nấng, trong những ngày ông Quang lại vào Nam chiến đấu biền biệt, thậm chí có khi hằng năm trời không nhận được một chút tin, trong lúc mẹ ông đã bị bệnh, qua đời. Lúc ấy, Đăng, người bạn học cũ, nhờ thế gia đình nên được ở lại Hà Nội làm công tác nghiên cứu, đã thường xuyên lui tới chăm sóc giúp đỡ bà, và dần dần bà mới hiểu Đăng đã yêu bà từ lâu nhưng không dám nói, cuối cùng đã thành người đến sau trong cuộc đời bà. Những ngày tháng ấy... Làm sao Hằng hiểu được nỗi dằn vặt của một người đàn bà trẻ, đẹp, yếu đuối, sống xa chồng… trong một cuộc sống cực kì khó khăn với một người đàn ông luôn ở bên cạnh, lúc nào cũng sẵn sàng đưa tay ra giúp đỡ. Tình yêu của người đàn ông ấy, bà không thể đáp ứng, nhưng sự sâu sắc và mãnh liệt của nó không thể không làm bà cảm động. Đồng thời nó cũng khiến bà nhận ra một điều: tình yêu giữa vợ chồng bà sao mờ nhạt, đơn giản quá. Ông là một sĩ quan quân đội, nhà chỉ còn một mẹ già, gia đình hai bên có quen biết nhau từ lâu. Một chuyến ông đi phép từ miền Nam ra, lúc bà vừa học xong trung học. Chỉ cần một sự đánh tiếng và vài cuộc tiếp xúc là lễ cưới của họ đã diễn ra, đơn giản như chính tình cảm mới mẻ của họ. Đơn giản, nhưng vẫn tồn tại vững chắc cho đến một ngày Đăng quay lại tìm và làm cho bà hiểu điều đó. Chỉ đáng tiếc là bà đã không hiểu một điều khác quan trọng hơn, rằng trong tình yêu, khi sự so sánh bắt đầu xuất hiện, thì đi cùng với nó chính là mầm mống của sự đổ vỡ.

Hòa bình lập lại, ông Quang trở về, với hào quang của một người lính đã trực tiếp góp công vào sự nghiệp thống nhất đất nước. Thế nhưng... Không hiểu sao tình cảm vợ chồng của họ bỗng lợt lạt hẳn. Cuộc sống quân ngũ nhiều năm đã biến ông Quang thành một người đàn ông cục mịch, ồn ào. Ông vụng về hẳn trong đối xử với vợ, thậm chí có khi còn có phần thô lỗ, dung tục. Tất cả những điều đó chỉ làm cho bà Quang nghĩ tới sự tế nhị, mềm mỏng của Đăng. Chỉ mới là nghĩ tới thôi, nhưng khi trong tâm tưởng của một trong hai người, vợ hoặc chồng, mà lại có sự hiện diện của một bóng hình thứ ba, dù rất mờ nhạt, thì thật là điều nguy hiểm cho cuộc sống chung của họ.

Đăng và ông Quang vốn cũng đã biết nhau, nên sự trở về của ông không hề cắt đứt sự tới lui thăm viếng của Đăng, nhất là khi ông Quang thấy ngay cả Hằng cũng tỏ ra mến và tin cậy người bạn thân của gia đình này. Rồi ông Quang được quyết định chuyển ngành, vào công tác trong Thành phố Hồ Chí Minh. Đăng thì được cho đi nghiên cứu sinh ở Liên Xô. Thỉnh thoảng những lá thư từ bên ấy bay về, cho bà Quang hiểu Đăng vẫn còn nghĩ tới mình. Những lá thư mà lúc đầu còn viết chung là “đôi dòng thăm anh chị" gởi về địa chỉ nhà họ, sau gởi riêng về cơ quan bà Quang mà bà đọc xong luôn cất kín trong hộc bàn làm việc, không hề đem về nhà. Cứ thế, bà sống với chồng nhưng vẫn mơ hồ tơ tưởng đến người bạn trai ở phương trời xa xăm đó...

Còn ông Quang? Ngay từ đầu được bố trí những vị trí quan trọng, cuộc sống đến với ông ngày càng dễ dàng, thoải mái hơn. Những quan niệm sống trong ông cứ dần dần thay đổi tự lúc nào ông cũng không hay biết. Ông vẫn cứ tin mình là một con người tốt, là "cách mạng nòi", là bản thân đã được thử thách, trui rèn qua bao gian lao, khổ ải. Trong khi đó, ông lại bắt đầu quen với những cuộc tiệc tùng, liên hoan, chiêu đãi, quen sử dụng những tiện nghi vật chất ngày càng hào nhoáng, hiện đại… như quen sử dụng những sức mạnh của quyền thế. Không ai dám nhắc nhở ông, trừ chính bản thân con người cách mạng trong ông. Nhưng con người đó, lại bị bịt mắt bằng những tấm huân chương và bằng khen dày đặc, luôn yên tâm và hài lòng về bản chất trung kiên của mình. Cuộc sống bây giờ nó quy định phải thế, vị trí công tác mình phải được hưởng như thế, có sao đâu, miễn mình vẫn yêu nước, thương dân, sẵn sàng cống hiến và hi sinh cho chủ nghĩa xã hội. Thí dụ như, rủi cách mạng gặp tai biến, mình vẫn sẵn sàng đổ máu để bảo vệ, sẵn sàng vào chiến khu cầm súng trở lại kia mà. Và, cứ thế, con người yêu nước, thương dân, sẵn sàng cống hiến và hi sinh... ấy, dần dần đã có thể uống hàng chục lon Heineken, chỉ hút được thuốc 555, nghe nhạc vàng đã thấy quen tai, hàng ngày đi xe con có máy lạnh, và thoải mái chi xài tiền của của Nhà nước. Ông lầm tưởng những điều đó là do vị trí công tác quy định và tương xứng với những gì ông đã làm được cho Nhà nước, cho nhân dân, trong vị trí ấy. Chế độ bao cấp đã làm ông không thể có cảm giác xót của của một người chủ tư nhân, và ông cũng không thể hiểu là với những quyền lực và phương tiện như ông đang có, bất cứ người chủ tư nhân nào cũng có thể đạt hiệu quả hơn ông hàng chục lần.