← Quay lại trang sách

Chương 5 .

Đột nhiên con lừa của vị linh mục khuỵ xuống: cũng không có gì ngạc nhiên vì nó đã đi hơn mười hai giờ trong rừng. Trước hết, ông đi về hướng Tây,nhưng người ta nói có lính ở đó, ông lại quay qua hướng Đông: Bọn Sơ mi đỏ triển khai nhiều quân ở vùng đó do đó ông phải đi lên hướng Bắc, nơi ông phải lội trong đầm lầy, trong bóng tối rừng bạc hà. Bây giờ, con lừa và vị linh mục đã kiệt sức. Linh mục trèo xuống và cười. Ông cảm thấy vui. Đó là một trong những điều lạ lùng nơi con người: dù khổ cực đến thế nào,con người cũng có những lúc sảng khoái; lúc nào cũng có thể nhớ đến những giờ phút cam go: ngay trong hiểm nguy và cùng cực, đồng hồ vẫn chạy.

Ngài cẩn thận băng qua hàng cây rồi đi vào trong một khoảng trống lầy lội. cả tỉnh nầy là như thế,sông, đầm lầy, rừng. Ngài quỳ gối trong ánh chiều tà và vục mặt vào vũng nước, vũng nước phản chiếu khuôn mặt xương xẩu lởm chởm râu,cái đầu tròn; bất ngờ là ngài lại cười với cái khuôn mặt ấy. Một cái cười nhăn nhó, rụt rè, xa xôi,ngờ vực của một tội nhân bị bắt qủa tang. Ngày xưa,ngài mất nhiều thời gian để tập trước gương một động tác. Do đó ngài biểt rõ khuôn mặt mình như các diễn viên tự biết nét mặt mình. Khuôn mặt tự nhiên của ngài không phù hợp với điều ngài mong muốn. Đó là khuôn mặt của anh hề,thích hợp khi nói chuyện tiếu lâm vô hại với các bà, nhưng không thích hợp khi đứng trên bàn thờ. Ngài đã cố gắng thay đổi nó đi “ Thật ra, ngài nghĩ, mình đã thành công.Hiện nay họ không còn nhận ra mình nữa.” Và nguyên nhân làm cho niềm vui trở lại với ngài như mùi rượu cô nhác, nó giúp tạm quên đi nỗi sợ, cô đơn, và nhiều thứ khác. Hoạt động của lính trong vùng buộc ngài phải trở về cái nơi mà ngài muốn đến hơn hết. Ngài đã trổn tránh nơi đó hơn sáu năm nay, nhưng lần nầy không phải do lỗi ở ngài, ngài buộc phải đến đó, cái đó không phải là tội. Ngài quay lại với con lừa và đá nhẹ nó:” Đứng lên..” Con người nhỏ bé,mặc áo quần nông dân rách rưới,lần đầu tiên trở về nhà sau nhiều năm, như mọi người khác để tìm lại mái ấm.

Dù sao, nếu cho dù ngài đi con đường phía Nam để tránh làng nầy, cái đó cũng chỉ thêm một sự đánh mất: sau lưng ngài,những tháng năm đầy dẫy những đánh mất, bỏ rơi cùng loại - trước hết là bỏ rơi những ngày lễ, những ngày ăn chay kiêng thịt; sau đó,thỉnh thoảng ngài mới đụng đến kinh nhật tụng, sau đó ngài đánh mất trên bến cảng,nơi ngài đã muốn trốn đi. Sau sách kinh,là viên đá bàn thờ, ngài đã bỏ đi vì mang theo quá nguy hiểm. Ngài không có quyền dâng lễ không có tấm đá nầy: nguy cơ bị treo cổ là chắc chắn.

Nhưng những qui định cho giáo sĩ trong tình cảnh của ngài ngày càng tỏ ra không thực tế khi hình phạt dành cho ngài là cái chết. Công việc hàng ngày của ngài như một con đập bị thấm nước; nước của lãng quên,từng giọt, từng giọt thấm vào và xóa bỏ tuần tự từ cái nầy đến cái khác. Năm năm trước, có lúc ngài đã buông xuôi trong tuyệt vọng: ngài đã phạm tội không tha thứ được và bây giờ ngài trở lại nơi xưa, trái tim đã nhẹ nhõm.Vì ngài đã chiến thắng được tuyệt vọng. Ngài là một linh mục tội lỗi, một linh mục nghiện rượu ( ngưòi ta nói thế và ngài biết mình là thế),nhưng tất cả những thất bại đó,ngài đã quên mất; cách kín đáo,ngài chất đống nó vào một nơi: bãi bùn thất bại. Ngày kia, ngài giả thiết như thế, những thứ xấu xa đó sẽ làm tắc nghẽn nguồn ơn thánh. Cho đến nay, có những lúc nghi ngờ, những lúc kiệt sức, nhưng ngài vẩn trung thành cách đơn sơ đến nỗi ngài thấy xấu hổ.

Nước tung toé dưới mỗi bước chân, con lừa đi qua khu rừng thưa. Họ lại vào rừng. Chiến thắng được sự tuyệt vọng dĩ nhiên không có nghĩa là sẽ không bị luận phạt. Vấn đề là mầu nhiệm quá lớn lao: một con người tội lỗi lại phân phát Chúa cho người khác, ngài là thừa tác viên quỷ quái gì thế!...Trong trí ngài nhớ đến một câu chuyện:Thánh Micae mặc áo giáp đang phanh thây con rồng và những thiên thần có mái tóc đẹp bềnh bồng từ trời rơi xuống vì ganh tỵ ( một giáo phụ đã viết như thế) rằng Chúa đã dành cho con người một đặc ân vĩ đại là sự sống…cuộc đời nầy.

Những dấu tích trồng trọt xuất hiện; những gốc cây, tro than của những đám lửa dùng để khai quang đất để trồng tỉa. Ngài ngừng thúc con lừa: tự nhiên ngài thấy rất ngại ngùng…Một bà từ trong chòi đi ra, nhìn ngài đi trên con đường mòn, chậm rãi trên lưng con lừa mệt nhoài. Ngôi làng rất nhỏ:chừng hơn hai chục cái chòi vây quanh một quảng sân bụi bặm, chỉ có thế, như những ngôi làng khác. Nhưng ngôi làng nầy rất thiết thân với ngài. ở đây, ngài cảm thấy an toàn và chắc chắn được đón tiếp, ở đây ngài biết ít nhất cũng có một người ngài có thể tin cậy được, sẽ không nộp ngài cho cảnh sát. Khi ngài đến gần xóm nhà, con lừa lại ngồi phịch xuống: lần nầy ngài phải xô nó qua một bên để đứng lên. Một người đàn bà nhìn ngài như đang canh chừng kẻ thù.

• Chào Maria, ngài nói, con có khoẻ không?

• A, cha đây mà, bà la lên.

Ngài không dám nhìn thẳng mặt bà,mà chỉ nhìn trộm.

• Con không nhận ra cha sao? Ngài hỏi.

• Cha thay đổi nhiều quá.

Bà nhìn ngài từ đầu đến chân, với một chút khinh miệt.

• Cha mặc bộ đồ nầy từ khi nào?

• Một tuần.

• Thế áo quần của cha?

• Cha đổi cho người ta rồi.

• Sao thế? Áo quần cha tốt lắm mà.

• Nó rách nát quá, và mang nó làm cho người ta để ý.

• Sao cha không mang về đây để con vá và thu đi. Thật phí của. Dáng dấp cha bây giờ cũng như những người đàn ông khác thôi.

Ngài cười khổ, cúi mặt xuống khi nghe bà ta mắng mình như một bà giúp việc của các cha xứ. Giống như ngày xưa ở nhà xứ, khi còn hội Con Đức Mẹ, các hội đoàn khác …Ngài hỏi nhỏ với một nụ cười lúng túng:

« Brigitte ra sao? »

Tim ngài nhảy ra khỏi lồng ngực khi ngài nhắc đến tên con bé. Tội có thể mang đến những hậu quả to lớn. Sáu năm rồi ngài mới về…nhà.

« Cũng như mọi người thôi. Không tệ hơn. Cha muốn biết thêm gì nữa không?

Sự sung sướng mà ngài cảm thấy liên hệ với tội ác của ngài; ngài không có quyền cảm thấy hạnh phúc với cái điều có liên quan đến quá khứ.

« Thôi được »,ngài trả lời cách máy móc,còn cái tình yêu thầm kín, bất xứng,làm tim ngài đập nhanh. Ngài nói thêm: « Cha rất mệt. Cảnh sát lùng sục quanh Zapata….

• Sao cha không lên miệt Monte-Cristô? »

Ngài ngước mắt lên, lo âu. Đó không phải là sự tiếp đón mà ngài mong đợi: một nhóm nhỏ tụ tập giữa hai căn chòi đang quan sát ngài từ xa- có một cái quán nhạc đã sụp đổ và một quầy bán nước khoáng- người ta đã mang ghế để hóng chút gió buổi chiều.Không có ai đến hôn tay ngài và xin ngài chúc lành.Có thể nói rằng, tội của ngài đã hạ ngài xuống trong vũng bùn những tranh chấp hơn thua của con người để ngài học được rằng,ngoài tuyệt vọng và tình yêu, ngài cũng không được mong đợi ở nhà mình.

« Bọn Áo đỏ ở đó, ngài trả lời.

• Thôi cũng được, thưa cha. Không lẽ chúng con đuổi cha.Cha vào đây với con. »

Ngài ngoan ngoãn đi theo bà,vấp chân mấy lần vì cái quần nông dân hơi dài, niềm vui biến mất trên mặt ngài, chỉ còn lại nụ cười, quên lãng, như người sống sót sau vụ đắm tàu. Có tám người đàn ông,hai bà, khoảng sáu đứa trẻ con: ngài đến giữa họ như người ăn mày. Ngài không thể quên được sự hồ hởi khi ngài đến đây lần trước, họ đào vò rượu chôn dưới đất lên…Tội ác của ngài lúc đó còn đang mới toanh,nhưng họ vẫn hân hoan đón ngài! Như thể ngài cũng giống họ, trong xiềng xích của tội lỗi, như người lưu vong trở lại quê nhà sau khi thành đạt.

« Cha đấy », người đàn bà nói.

Có lẽ đơn giản vì họ không nhận ra ngài, ngài nghĩ thầm và chờ họ đến chào ngài. Họ tiến đến từng người một hôn tay ngài, rồi lùi lại vài bước, lại quan sát ngài.

« Tôi rất vui được gặp lại các ông các bà » ngài nói.Ngài định nói « các con »,nhưng ngài nghĩ là chỉ duy nhất người không có con mới có quyền xưng hô như thế với người lạ. Bây giờ, cha mẹ đẩy những đứa trẻ tiến đến hôn tay ngài. Chúng còn quá nhỏ để biết đến cái thời xưa lúc các linh mục còn mặc áo chùng thâm,mang cổ cồn trắng, có những bàn tay ban ơn, dáng dấp thánh thiện; chúng hơi ngạc nhiên vì phải tôn kính một ông nông dân cũng chẳng khác gì cha mẹ chúng. Ngài quan sát chúng cẩn thận.Hai bé gái- một em gầy, da sáng màu, độ chừng năm, sáu hay bảy tuổi gì đó. – và bé kia, cái đói khát đã làm nó có những đường nét khắc khổ trước tuổi. Từ hai mắt cô bé toát ra cái nhìn của phụ nữ. Ngài lặng yên nhìn lũ trẻ tản đi: chúng xa lạ với ngài.

« Thưa cha, cha tính ở lại đây lâu không?một người đàn ông hỏi.

• Cha nghĩ rằng…cha muốn nghỉ ngơi vài ngày, ngài đáp.

Một ông khác nói.

« Sao cha không lên vùng cao, mạn Pueblitô?

« Con lừa và cha mới đi mười hai tiếng liên tục. »

Người đàn bà trả lời thay cho ngài,giọng nóng nảy:

• Đêm nay ngài ngủ lại đây. Ta không thể làm khác được.

• Sáng mai, tôi sẽ dâng lễ cho bà con.

Ngài nói, như thể để giảng hòa với họ bằng một món quà. Nhưng nhìn vẻ mặt khó chịu của họ, có thể nói là ngài muốn tặng cho họ của ăn cắp.

• Nếu các ông bà muốn, sáng sớm, thật sớm, nếu có thể…

• Nhưng ông bà bị gì vậy? Ngài hỏi, tại sao lại sợ?

• Cha không biết gì sao?

• Cái gì?

• Bây giờ họ bắt con tin…trong bất cứ làng nào họ nghi là cha có đến. Và nếu không khai…họ bắn một người…rồi người khác, rồi họ bắt con tin mới.Đã xảy ra như vậy ở Conception.

• Ở Conception à.

Mắt ngài giựt giựt, ngài không tự chủ được. Đó là dấu chỉ ngài đang rất sợ, sợ hay tuyệt vọng.

• Ai thế? ngài hỏi.

• Họ nhìn ngài chưng hửng.Ngài tức tối lặp lại:

• Họ đã giết ai?

• Pedrô Montez. »

Ngài kêu khẻ, như tiếng chó tru, dấu chỉ của sợ hãi. Đứa trẻ có khuôn mặt người lớn cười.

« Tại sao họ không bắt tôi? ngài nói.Lũ ngốc!Tại sao họ không bắt tôi đây nầy? »

Đứa con gái lại phì cười.Ngài nhìn nó nhưng không thấy gì, nghe tiếng nhưng không thấy mặt.Hạnh phúc, một lần nữa, đã chết trước khi có thời gian để thở hơi thở đầu tiên và vị linh mục đứng đó như người đàn bà ôm đứa con chết lúc vừa sinh ra: người ta chôn nó gấp, quên nó đi và làm lại từ đầu. Hy vọng đứa sau sẽ sống sót!

• Thưa cha, một người đàn ông phân bua, cha thấy đó… »

Ngài thấy mình như kẻ tử tội đứng trước quan toà.

• Các ông bà có thích tôi…sống như cha Jôsê, trên tỉnh không?...Các ông có nghe nói về ngài rồi chứ?

Họ trả lời buông xuôi.

• Chắc chắn là không, thưa cha.

• Vậy thì tôi làm sao đây? Vấn đề không phải là cái tôi hay các ông bà muốn. »

Ngài nói thêm, giọng quyền uy:

« Bây giờ, tôi ngủ một chút…Các ông bà có thể thức tôi dậy một giờ trước bình minh…nửa giờ để xưng tội …thánh lễ, rồi tôi sẽ đi. »

Nhưng đi đâu? Trong toàn tỉnh nầy, bất cứ nơi nào ngài đến đều có thể nguy hiểm cho người ta.

• Qua đây, thưa cha”, người đàn bà nói.

Ngài đi theo bà vào trong một căn phòng nhỏ,tất cả vật dụng đều làm từ thùng đựng hàng cũ: một cái ghế, một cái giường ván ghép lại bằng đinh, một chiếc chiếu, một cái két lớn phủ vải, trên vải có một cây đèn dầu.

“ Tôi không muốn chiếm phòng ngủ của ai cả, ngài nói.

• Phòng nầy của con.”

Ngài nhìn bà nghi ngại.

“ Thế bà ngủ ở đâu?”

Ngài kín đáo quan sát bà,sợ rằng bà đòi quyền…hôn nhân chỉ có thế thôi sao: lãng quên, nghi ngờ, bất an? Khi người ta đến xưng tội với ngài nói đến đam mê, có phải họ nói đến chuyện đó không?...cái giường cứng, người đàn bà bận rộn, và sự im lặng bao trùm quá khứ?

“ Con sẽ ngủ khi cha đi khỏi nơi nầy.”

Ánh mặt trời xuống thấp sau khu rừng; những bóng cây bây giờ đã dài đến tận cửa. Ngài nằm trên giường, người đàn bà bận rộn đâu đó; ngài nghe tiếng đào đất. Ngài không ngủ được. Trốn thoát có phải là trách nhiệm của ngài không? Nhiều lần,ngài đã tìm đường ra đi, nhưng cứ mỗi lần lại bị ngăn trở…Bây giờ,chính họ yêu cầu ngài ra đi. Sẽ không có ai giữ ngài lại vì một người đàn bà bệnh hoạn hay một người hấp hối. Từ nay, căn bệnh chính là bản thân ngài.

“ Maria,ngài gọi,Maria, con làm gì đó?

• Con có dấu cho cha một ít rượu mạnh.”

Ngài nghĩ thầm:” Nếu ra được khỏi cái xứ nầy, mình sẽ gặp linh mục khác; mình sẽ xưng tội; mình sẽ hối tội và sẽ được tha thứ; sự sống đời đời sẽ tái tục,như thể chưa có gì xảy ra. Mẹ Hội thánh dạy rằng: bổn phận đầu tiên của một con người là phải cứu rỗi linh hồn của chính mình.” Những ý niệm đơn giản về Thiên đàng, địa ngục thoáng qua trong đầu ngài: sống không sách vở,không có quan hệ nào với những người có học, đã xoá đi trong đầu ngài tất cả,chỉ còn lại là những hình ảnh rất cơ bản.

“Rượu đây” người đàn bà mang vào một chai đựng thuốc nhỏ đầy rượu mạnh.

Nếu ngài bỏ họ mà đi, họ sẽ được an toàn; họ cũng thoát được cái gương xấu là chính ngài. Ngài là hình ảnh linh mục duy nhất có thể còn sót lại trong trí các em nhỏ. Chính nơi ngài, họ thấy hình bóng của Thiên Chúa, đưa Mình Thánh Chúa cho họ. Ngài ra đi, hình như Chúa hết hiện diện trong khoảng trời đất giữa biển và núi nầy. Bổn phận của ngài không phải là ở lại sao, dù cho họ phải chết vì ngài? Vì gương xấu của ngài? Tầm quan trọng của vấn đề làm ngài run lên; ngài nằm xuống và lấy tay che mặt; khắp nơi, trong cái xứ mênh mông đầm lầy nầy, không còn ai có thể cho ngài một lời khuyên. Ngài uống rượu. Ngài rụt rè hỏi:

“ Brigitte...có...có khoẻ không?

• Cha mới thấy nó đó.

• Không.

Ngài không tin là ngài không nhận ra nó. Như thế là xem thường tội trọng của mình: người ta không thể phạm một sai lầm lớn như thế rồi không nhận ra...

• Vâng, cha có thấy.

Maria đi ra cửa gọi:”Brigitte,Brigitte!” và ông linh mục nằm nghiêng lại để nhìn con bé xuất hiện: đó là đứa bé có vẻ dữ tợn đã trêu ngài.

“Đến nói chuyện với cha đi, đi đi.”

Ngài muốn dấu chai rượu, nhưng không làm được,rồi ngài tìm cách dấu nó trong hai bàn tay. Không rời mắt khỏi con bé, rung động vì tình thương.

“ Nó thuộc kinh bổn, Maria nói, nhưng nó không muốn đọc.”

Con bé đứng đó, nhìn ngài với ánh mắt xoi mói và oán hận. Họ không có một chút yêu thương nào khi tạo ra sinh linh nầy: sự sợ hãi, tuyệt vọng, nửa chai rượu mạnh, sợ hãi vì cô đơn đã đẩy ngài đến cái hành động mà ngài ghê tởm…và kết quả là cái tình yêu đầy âu lo, tủi nhục và lớn lao nầy.

“ Tại sao con không muốn đọc kinh bổn,ngài lên tiếng.

Không để cho những cái nhìn gặp nhau, ngài kín đáo quan sát con bé. Tim ngài đập loạn xạ, trong cái ước muốn mãnh liệt nhằm bảo vệ nó…

• Tại sao con phải đọc?

• Chúa muốn như thế.

• Làm sao cha biết?

Ngài cảm thấy một trách nhiệm nặng nề đè lên mình: cái đó hoà lẫn với tình thương.” Tất cả mọi cha mẹ chắc đều cảm thấy như thế,ngài nghĩ thầm; những người bình thường đều sống như thế, đốn cây, cầu nguyện xin thoát khỏi khổ đau…nhờ những cái đó mà ta thoát khỏi một động tác không quan trọng của thân xác.” Từ nhiều năm nay,ngài đã chịu trách nhiệm về các linh hồn, nhưng khác kia…nhẹ nhàng hơn nhiều. Ta có thể tin tưởng vào lòng khoan dung của Thiên Chúa, nhưng khó mà tin vào cái mụn nhọt, cái đói, con người…

“ Con yêu, ngài nói,tay siết chặt chai rượu…ngài đã rửa tội cho nó trong lần trước ngài về đây:Khi đó con bé giống như một con búp bê bằng vải với khuôn mặt đầy nếp nhăn, già dặn, hình như nó khó mà sống được…Ngài chỉ thấy hối hận; ngài khó mà cảm thấy xấu hổ vì không ai chống đối ngài. Với đa số trong họ,ngài là linh mục duy nhất-và nhìn ngài,mọi phụ nữ sẽ đánh giá cả hàng giáo sĩ.

• Cha là tên người Mỹ à?

• Người Mỹ naò?

• Con ngốc, người đàn bà mắng. Bà nói với vị linh mục: Đó là người mà cảnh sát đang truy lùng.

Ngài ngạc nhiên vì người ta còn truy lùng một người khác ngoài ngài.

• Ông ta đã làm gì?

• Đó là một tên cướp.Nó đã giết người trên phía Bắc.

• Tại sao nó lại đến đây?

• Người ta nghĩ rằng nó muốn trốn đến Quinta na Roo, trong những đồn điền.

Ở Mêxico,nhiều tên sát nhân thường trốn đến vùng đó: chúng làm việc trong các đồn điền, thu nhập khá và không còn ai lo ngại về chúng nữa.

• Ông có phải là tên tướng cướp không? Con bé lại hỏi.

• Cha có vẻ là tên sát nhân lắm sao?

• Không biết. »

Nếu ngài bỏ xứ ra đi, ngài cũng bỏ rơi nó ở đây. Khiêm tốn, ngài hỏi người đàn bà:

« Cha có thể ở lại đây một vài ngày được không?

« Thưa cha, nguy hiểm lắm. »

Ngài chợt thấy trong mắt con bé một cái nhìn làm ngài sợ. Có thể nói, con bé là một phụ nữ già trước tuổi, đang hoạch định những kế hoạch rất chính xác. Ngài như thấy cái tội trọng không hối tiếc của mình đang nhìn mình. Ngài cố gắng tìm một nét giống nhau giữa ngài với con bé hơn là giữa con bé với người đàn bà:

• Con yêu, ngài nói, kể cho cha nghe những trò con chơi đi. »

Con bé cười. Ngài quay lại nhìn lên trần nhà có con nhện đang chạy.Ngài nhớ đến câu ngạn ngữ cha ngài thường nói: Mùi thơm nhất là mùi bánh mì, vị ngon nhất là vị muối, tình yêu đẹp nhất là tình yêu của trẻ con. Tuổi thơ của ngài là tuổi thơ hạnh phúc dù ngài sợ hơi nhiều điều và xem cái nghèo như một tội ác: ngài tưởng rằng,làm linh mục ngài sẽ thành giàu có và quan trọng: đó là cái mà người ta gọi là ơn gọi. Ngài nhớ đến khoảng thời gian xa vời từ con vụ đầu tiên cho đến cái giường ngài đang nằm đây. Và với Chúa, đó chỉ là một khoảnh khắc. Từ tiếng cười của con bé đến tội trọng đầu tiên chỉ gần như một nháy mắt. Ngài với tay ra như thể để cứu con bé khỏi…cái gì? Ngài bất lực: con người, đàn ông hay đàn bà,mà cuộc đời đã chỉ định đến để làm băng hoại con bé có thể chưa sinh ra; làm sao che chở nó tránh cái chưa hiện hữu?

Con bé nhảy một bước thoát khỏi tầm tay ngài.

• Đồ quỉ, bà mẹ nói và dang tay lên đánh con.

• Đừng, vị linh mục nói, đừng.

Ngài ngồi dậy cách khó nhọc.

• Tôi không cho phép bà….

• Con là mẹ nó.

• Chúng ta không có quyền.”

Ngài lại nói với con bé. “Nếu con có bộ bài tây,cha sẽ bày cho con một trò. Con có thể khoe với các bạn...”

Ngài chưa bao giờ biết cách nói chuyện với trẻ con, trừ khi từ trên toà giảng. Con bé nhìn ngài với ánh mắt thách thức.

• Con có biết, ngài nói, gởi tín hiệu bằng cách gõ những tiếng dài, ngắn, dài...không?

• Cái đó là cái gì? người đàn bà la lên.

• Đó là trò chơi của trẻ con. Ngài lại nói với con bé: “ Con có bạn không?”

Con bé lại bật cười. Vóc dáng con bé bảy tuổi trông giống như vóc dáng một phụ nữ lùn.

• Ra ngoài, người đàn bà la lên,nếu không, tao sẽ cho mày biết....”

Con bé biến mất..có lẽ là mãi mãi đối với ngài. Người ta không bao giờ nói vĩnh biệt với những người ta yêu thương bên giường bệnh, trong khung cảnh thanh bình đầy mùi hương trầm. Ngài nói:

• Cha nghĩ, điều mà chúng ta có thể dạy nó....”

Ngài nghĩ đến cái chết của chính mình, đến cuộc đời con bé sẽ tiếp tục: có lẽ địa ngục đối với ngài là nhìn thấy con bé đi theo con đường lầm lỗi của ngài, càng lúc càng hư đốn sau khi ngài đã truyền cho nó sự yếu hèn của mình như truyền căn bệnh lao di truyền...Ngài lại nằm và quay mặt đi tránh ánh nắng chiều đang xuống, muổi bay đi kiếm ăn vùn vụt như những con dao lính thuỷ phóng ra.

• Con treo mùng cho cha nhé.

• Không,không cần đâu.”

Trong mười năm gần đây, ngài bị sốt quá nhiều lần, bao nhiêu lần ngài không nhớ nỗi. Ngài không quan tâm. Sốt, hết sốt. vậy thôi, có khác gì đâu. Bây giờ đó là một phần cuộc sống của ngài.

Một lúc sau, người đàn bà ra khỏi lều và ngài nghe giọng bà ba hoa ngoài kia. Ngài ngạc nhiên và hơi an tâm vì tính tình mềm mỏng của Maria. Một lần thôi, bảy năm trước đây, trong năm phút, họ đã yêu nhau, nếu có thể nói như thế về cái lần quan hệ mà bà còn không cho ngài biết tên mình. Với bà, đó là một sự việc, một vết thương nhẹ đã lành sẹo hoàn toàn, bà cũng hơi hãnh diện vì đã là tình nhân của một linh mục. Chỉ có ngài, ngài mang một vết thương sâu hoắm: đó là thời điểm sụp đổ một thế giới.

Bên ngoài,trời còn tối: chưa có dấu chỉ là sắp bình minh. Hai mươi bốn hay hai mươi lăm người ngồi dưới đất, trong ngôi lều lớn nhất làng nghe ngài giảng. Ngài không thấy rõ họ: mấy cây đèn cầy đặt trên một thùng gỗ,khói bay thẳng lên trời; cửa đóng kín, không có một chút gió nào trong nhà. Đứng giữa những con người đó và mấy ngọn đèn, mặc quần rách và cái áo của người nhà quê, ngài nói với họ về Nước Trời. Họ càu nhàu và cựu quậy vì lo lắng: ngài biết là họ mong thánh lễ kết thúc nhanh, họ đã đánh thức ngài từ rất sớm,có tin cảnh sát đang ở gần đây...

Ngài nói: “ Một giáo phụ dạy chúng ta rằng niềm vui phụ thuộc vào đau khổ. Gian nan là một phần thiết yếu của niềm vui. Anh chị em nghĩ xem: Khi ta đói, thức ăn xem ra ngon biết chừng nào.Khi ta khát...”

Ngài đột ngột dừng lại và chờ một tiếng cười chế giễu,nhưng không có. Ngài nói tiếp:

• Chúng ta hy sinh để được hạnh phúc hơn. Anh chị em có nghe nói về những người giàu có trên phương Bắc, họ ăn những thức ăn thật mặn trước khi uống cái mà họ gọi là cocktail. Trước hôn nhân cũng vậy,có thời gian đính hôn dài....”

Ngài lại ngừng. Ngài thấy sự bất xứng đè nặng trên lưỡi ngài.Một ngọn nến đang tàn toả mùi hương sáp trong không khí nóng nực: trong bóng tối,mọi người nhúc nhích.Mùi mồ hôi của những con người không bao giờ tắm trộn với mùi nến. Giọng uy quyền của ngài bỗng cất lên:

• Do đó, tại sao tôi nói với anh chị em là Nước Trời đang ở đây: đây là một phần của nước trời, cũng như khổ đau là một phần của niềm vui. Anh chị em hảy xin được chịu khó thêm nữa, thêm nữa. Đừng nản lòng vì khổ đau. Cảnh sát bóc lột anh chị em, lính thu thuế, anh chị em bị đánh đập vì nghèo quá,không có tiền đóng thuế, mụt nhọt, sốt, đói khát...tất cả là một phần của Nước Trời, và chuẩn bị cho anh chị em vào. Và biết đâu, không có những khốn khó đó, anh chị em lại thấy Nước Trời ít đẹp đi. Nước Trời sẽ không toàn vẹn. Và Nước Trời. Nước Trời là gì?

Hình như những câu văn chải chuốt nầy bây giờ thuộc về một cuộc sống khác- cuộc sống bình yên nhặt nhiệm trong chủng viện- các từ rối rắm trên môi ngài, tên những loại đá quí, Giêrusalem thành vàng...nhưng những người nầy có bao giờ thấy vàng đâu.

Ngài tiếp tục lúng búng:” Nước Trời là nơi không còn cảnh sát, không còn luật lệ bất công,không còn lính,không còn đói.Trên trời, con cái anh chị em sẽ không còn chết yểu.”

Cửa căn lều mở ra, một người đi vào bên trong.Có tiếng thì thầm trong góc khuất.

• Anh chị em sẽ không còn sợ hãi vì sẽ không còn đe doạ.Không còn đội áo đỏ. Ở đó không còn ai phải già đi, và mùa màng luôn tươi tốt. Ôi, thật dễ nêu ra những gì không có trên Thiên đàng. Trên đó có Chúa. Điều nầy khó hiểu hơn.Ngôn từ của chúng ta chỉ dành để mô tả những gì giác quan cảm nhận được. Khi ta nói “ánh sáng” chúng ta chỉ nghĩ đến mặt trời, “ tình yêu...”

Khó có thể tập trung được: cảnh sát đang đến. Người kia có thể đã mang tin đến.

Một giọng nói thì thầm vào tai ngài.

• Thưa cha.

• Cái gì?

• Cảnh sát đã xuất phát; họ băng qua đường rừng, chỉ cách đây một dặm.”

Ngài quá quen với những điều nầy: những lời không nói, cái kết thúc, chờ đợi cực hình đang hiện diện giữa ngài và đức tin. Kiên trì, ngài tiếp tục nói:

• Tóm lại, xin anh chị em nhớ cho Nước Trời đang ở đây.”

Họ đi bộ hay đi ngựa? Nếu họ đi bộ, ngài còn có hai mươi phút để kết thúc thánh lễ và đi trốn.

“ Ngay tại đây, ngay phút nầy, nỗi sợ của anh chị em và của tôi thuộc về Nước Trời ở đó sẽ không con lo sợ nữa.”

Ngài quay lưng về phía họ và đọc nhanh kinh Tin Kính. Lần đầu tiên sau khi phạm tội trọng, ngài đã kinh hãi thực sự khi đến phần Kinh nguyện Thánh Thể, khi ngài rước Mình Máu Chúa; sau đó,cuộc sống đã cung cấp cho ngài những lý do để miễn trừ...Rồi một thời gian sau, ngài thôi nghĩ đến việc bị luận tội hay không, điều quan trọng là những người nầy....

Ngài hôn lên thùng hàng và quay lại phía họ để ban phép lành...trong ánh sáng tù mù, ngài thấy có hai người quỳ gối, tay dang ra hình thánh giá...Họ sẽ quỳ như thế cho đến hết phần Truyền Phép, thêm một sự ép mình vào cuộc sống khó khăn,khốn khổ của họ.Ngài cảm thấy nhục nhã trước cảnh những người tầm thường tự nguyện chịu khó khăn; phần ngài, những đau khổ thì ngài bị bắt buộc phải chịu.

• Ôi, lạy Chúa, con yêu mến nhà Chúa biết bao....”

Mấy ngọn nến tiếp tục cháy, các tín hữu quỳ gối nhưng nhúc nhích không yên. Bổng nhiên, một niềm hạnh phúc phi lý xâm chiếm lấy ngài, trước cơn lo âu: như thể ngài được phép chiêm ngắm những công dân Nước Trời. Thiên Đàng có lẽ cũng có những khuôn mặt thất thanh vì sợ, đói khát như thế nầy. Trong một vài giây, ngài cảm thấy mãn nguyện vì từ nay ngài có thể nói với họ về đau khổ mà không giả hình...Một linh mục được ăn no, mặc ấm thì không thể tôn vinh sự nghèo khó. Ngài bắt đầu kinh cầu cho kẻ sống: danh sách dài các thánh Tông đồ, các thánh Tử đạo. Tên các ngài vang lên như tiếng bước chân: Cornêliô, Cyprianô, Lôrenti, Chrysôgôni...Cảnh sát sắp đến khu đất trống, nơi con lừa của ngài khuỵ xuống, nơi ngài rửa mặt trong vũng nước. Những lời kinh lẩn lộn vào nhau; chung quanh ngài, sự nôn nóng trở thành rõ rệt. Ngài đọc lời Truyền phép ( từ lâu nay, ngài không còn có bánh không men... đây là miếng bánh nướng trong lò của Maria); đột nhiên, sự nôn nóng biến mất: với thời gian,mọi sự trở thành tầm thường trừ điều nầy: hôm trứơc ngày chịu nạn, Người cầm bành trong tay....Tiếng động của đoàn người đang di chuyển trên con đường mòn, ở đây mọi sự đều bất động, Nầy là Mình Ta. Ngài nghe tiếng họ thở phào vì họ nín hơi đã lâu: Chúa đang hiện diện, trước mặt họ, dưới hình bánh, lần đầu tiên từ sáu năm nay.Khi ngài đưa Mình Thánh Chúa lên, ngài hình dung họ nhìn lên như những con chó đói. Ngài truyền phép rượu, trong một cái chén sứt. Lại thêm một mất mát, bỏ rơi: trong hai năm, đi đâu ngài cũng mang chén thánh đi: cái nầy đánh đổi bằng mạng sống; nếu một sĩ quan cảnh sát nào đó không có đạo mà lục xách ngài...Cũng có thể viên sĩ quan nầy phải đánh đổi bằng mạng sống của chính mình, nếu bị phát hiện...Ai biết...Chúa biết ai là người tử đạo... ở Conception hay nơi nào đó....còn mình thì thiếu ân huệ cần thiết để được chết.

Việc truyền phép diễn ra lặng lẽ: không có rung chuông. Kiệt sức, vị linh mục quỳ gần thùng chứa hàng, không thể cầu nguyện được. Ai đó mở cửa, một giọng lo sợ nói thầm vào tai ngài;”Họ đến rồi”.” Vị linh mục nghỉ thầm “ Như vậy không phải là họ đi bộ. Trong cái thinh lặng tuyệt đối của bình minh, đâu đó có tiếng ngựa hý. Chắc họ ở đâu đó không quá ba trăm mét.

Vị linh mục đứng dậy....Maria đứng gần ngài:

• Khăn bàn thờ, cha đưa cho con.

Ngài vội vã cho bánh thánh vào miệng và uống rượu; phải tránh sự phạm thánh; khăn trải được nhanh chóng lấy khỏi thùng hàng. Maria thổi tắt các ngọn nến. Căn lều trở nên trống trơn,chỉ còn ông chủ lều nấn ná gần cửa ra vào để hôn tay linh mục. Qua cánh cửa, mọi người chầm chậm đi ra, trong làng, có tiếng gà gáy.

• Mau lên, về lều của con.

• Vâng, không nên để họ bắt cha ở đây ( ngài không có kế hoạch gì cả).

• Họ đang vây quanh làng.

Thôi, như vậy là tận số rồi sao? Ngài tự hỏi. Sự sợ hải dường như sắp ập tới,nhưng ngài chưa cảm thấy.Ngài theo người đàn bà đi nhanh về lều và trong lúc đi,ngài máy móc đọc thầm kinh ăn năn tội. Ngài tự hỏi không biết lúc nào thì sự sợ hãi sẽ chộp được ngài: ngài đã sợ hãi khi viên cảnh sát lục soát xách tay ngài,nhưng đó là từ nhiều năm trước kia. Ngài cũng đã sợ khi nằm trong kho chuối, nghe con bé mặc cả với viên sĩ quan cảnh sát...cách đây mấy tuần. Và bây giờ, cái sợ thật gần gũi. Chưa thấy dấu hiệu gì của cảnh sát- chỉ là một buổi bình minh xám xịt, gà và ngỗng thức dậy, nặng nề bay xuống khỏi những ngọn cây trên đó chúng qua đêm. Con gà trống lại cất tiếng gáy. Nếu cảnh sát cẩn thận như vậy, thì họ chắc chắn có linh mục ở đây. Lần nầy, chắc chắn là lần cuối.

Maria kéo áo ngài.

• Vô đây.Nằm lên giường đi.”

Có lẽ,bà ta có kế hoạch gì đó. Đàn bà thực tế đến lạ lùng: trên đổ nát của những kế hoạch thất bại, ngay lập tức, họ xây dựng kế hoạch mới,nhưng để làm gì?

• Để con xem hơi thở của cha? Ôi, Chúa ơi, bất cứ ai cũng có thể nhận ra...mùi rượu nho...như thể cha mới uống!

Bà biến mất đi đâu phía sau căn lều một lúc, nghe tiếng lục lạo. Đột nhiên, cách làng một trăm mét, một sĩ quan cỡi ngựa đi ra khỏi bìa rừng. Trong cái im lặng tuyệt đối, ta nghe tiêng rít của bao súng lục khi ông vẩy tay ra hiệu.

Cảnh sát xuất hiện, bao vây chung quanh ngôi làng- chắc họ đã phải đi thật nhanh, vì chỉ có viên sĩ quan cỡi ngựa. Súng cầm tay, nòng chúi xuống, họ thận trọng tiến về phía mấy căn chòi- một cuộc phô diễn sức mạnh quá đáng,hơi lố bịch là đàng khác. Một người lính kéo lê cái xà cột bị tuột ra: có lúc, nó vướng vào cành cây. Anh ta trượt chân, té xuống. Báng súng đập vào băng đạn; từ trên ngựa, viên trung uý nhìn anh ta rồi quay khuôn mặt giận dữ và chua chát nhìn về hướng mấy căn lều im lặng.

Người đàn bà kéo vị linh mục vào bên trong lều.

• Cha cắn cái nầy đi

Ngài đứng quay lưng về phía cảnh sát và bước chậm chậm vào lều. Trên tay người đàn bà là một củ hành sống.

• Cha cắn cái nầy đi.

Ngài cắn, cay chảy nước mắt.

• Khá hơn không? Bà hỏi.

Ngài nghe tiếng vó ngựa cẩn thận rảo quanh khu làng.

• Cay quá, ngài cười và trả lời.

• Đưa đây.

Bà dấu củ hành mất tăm đâu đó trong áo quần: trò ảo thuật mà người đàn bà nào cũng biết.

• Va li tôi đâu? Ngài hỏi.

• Cha đừng quan tâm. Cha nằm xuống giường đi.

Nhưng trước khi ngài kịp nhúc nhích, một con ngựa đã đứng án ngữ trước cửa: vị linh mục và người đàn bà thấy một đôi giày kỵ binh viền đỏ; các phụ liệu bằng đồng sáng loáng, một bàn tay đeo găng đang nắm bờm con ngựa.Maria đặt tay mình trên tay vị linh mục –đó là cử chỉ âu yếm mà bà chưa bao giờ dám làm: giữa hai người, sự âu yếm bị cấm đoán. Một giọng vang lên:

• Tất cả mọi người ra khỏi nhà.

Con ngựa thở phì phì và một cột bụi nhỏ bốc lên.

• Tôi nói ra khỏi nhà mà!.

Đâu đó, có tiếng súng nổ.Linh mục rời ngôi lều.

Ngày lên: những gợn mây bay trên trời, theo hướng gió; một người cầm súng chĩa lên trời.một chút khói còn vương trên đầu súng. Cuộc hấp hối bắt đầu như thế nầy sao?

Từ tất cả mọi chòi,dân làng tập trung lại; lũ trẻ con trước hết: tò mò và chẳng chút e sợ gì.Mấy người đàn ông và phụ nữ thì như thể đã là tội nhân đã bị chính quyền kết án,mà chính quyền thì có bao giờ sai đâu. Không ai nhìn vị linh mục.Mọi người chờ đợi.mắt cúi gầm xuống đất. Lũ trẻ con nhìn con ngựa như thể đó là trung tâm của màn kịch nầy.

“ Lục soát trong tất cả các lều”, viên trung uý ra lệnh. Một vài phút trôi qua nặng nề; khói súng lúc trước trong không khí không chịu tan đi.Một vài con heo chạy ra khỏi lều kêu ục ịch, một con ngỗng chạy ra tận giữa đám đông,lúc lắc cái bờm màu hồng dưới mỏ.Một anh lính lại gần chào viên trung uý và báo:

• Họ ở đây cả rồi.

• Không có gì khả nghi à?

• Không.

• Lục soát lại.

Thời gian lại ngưng trôi như cái đồng hồ chết. Viên trung uý rút ra một điếu thuốc, ngập ngừng rồi cất lại vào túi. Viên cảnh sát quay lại báo cáo

• Không có ai cả.

Viên trung uý hô:

• Nghiêm! Tất cả nghe đây. »

Vòng vây cảnh sát thu hẹp quanh đám đông,trước mặt viên trung uý. Chỉ có lũ trẻ con được tự do. Linh mục thấy con gái mình đứng bên cạnh con ngựa của viên trung uý: đầu nó cao đến gần đôi giày của ông trung uý; nó đưa tay sờ chiếc giày.

• Chúng tôi tìm hai tên tội phạm, trung uý nói. Một là tên cướp người Mỹ, một tên sát nhân. Tôi thấy rõ ràng là nó không có ở đây. Sẽ có phần thưởng năm trăm peso cho ai bắt được nó. Nhìn đây. »

Ông ngừng lại một lúc và nhìn người nầy đến người khác. Vị linh mục cảm thấy cái nhìn đè nặng trên mình, ngài cúi nhìn xuống đất như mọi người.

• Hai là một linh mục. Ông ta nói lớn « Các người biết đó là cái gì rồi: một tên phản bội nền Cộng Hoà. Ai bao che cho nó cũng là phản động. »

Sự bất động của đám đông làm cho ông ta càng tức giận.

• Các người ngu đần quá, các người còn tin những gì mấy ông linh mục nói sao? Họ chỉ muốn tiền các người thôi, thế thôi. Chúa đã làm gì cho các người nào? Các người có được ăn no không? Con cái các người được ăn no không? Thay vì cho các người cơm gạo,họ hứa cho các người thiên đàng. Ôi, mọi sự sẽ tốt đẹp biết bao khi các ông bà đã qua đời, họ nói với các người như thế. Tôi, tôi nói cho các người biết: mọi sự sẽ tốt đẹp khi họ chết hết, chết hết. Các nguời phải giúp tôi. »

Đứa con gái đã đặt tay lên giày ông ta. Từ trên ngựa, ông nhìn nó với vẻ âu yếm cộc cằn và nói giọng chắc nịch.

• Em bé nầy còn có giá trị hơn Giáo hoàng La Mã. »

Các anh lính đứng tựa vào súng; một người ngáp.Con ngỗng chạy trở lại khu lều miệng kêu quàng quạc.

• Nếu các người đã thấy tên linh mục, viên trung uý tiếp lời, hãy nói ra. Ai nói được thưởng bảy trăm peso. »

Không ai nói gì.

Viên trung uý nói tiếp:

• Tôi biết là hắn ta trốn trong vùng nầy. Có lẽ các người chưa biết chuyện gì xảy ra ở Conception chứ?

Một bà bắt đầu khóc.

• Thôi, đến đây. Từng người một và khai tên họ.Không, chỉ đàn ông thôi, đàn bà khỏi.

Vẻ buồn rầu,họ tiến lên trong khi viên trung uý hỏi: « Tên gì?nghề nghiệp gì? Có vợ chưa?Vợ ông là ai? Đã nghe nói về tên linh mục đó chưa?

Chỉ còn một người giữa đầu ngựa và vị linh mục. Ngài âm thầm đọc kinh ăn năn tội, nhưng lòng trí đâu đâu…

« Tội con, vì chúng đã đóng đinh Chúa con...nhưng nhất là vì chúng con đã phạm tội... » Chỉ còn một mình ngài đứng trước mặt viên trung uý... » Con quyết chừa cải từ nay không phạm tội làm mất lòng Chúa. » Đó chỉ là một công thức phải làm vì lúc nào cũng phải sẵn sàng,như người ta làm di chúc: nhiều khi là vô ích.

• Tên gì?

Tên người giáo dân ở Conception chợt thoáng qua óc ngài.

• Montez.

• Có bao giờ thấy tên linh mục chưa?

• Chưa.

• Làm nghề gì?

• Tôi có một miếng đất.

• Có gia đình không?

• Có.

• Vợ đâu?

Maria đột nhiên la lên:

• Tôi đây.Sao ông hỏi ông ấy nhiều quá vậy? Ông ta giống linh mục lắm sao?

Viên trung uý đang xem một cái gì đó đặt trên đầu yên. Giống như một tấm hình cũ.

• Đưa tay ra.

Linh mục chìa tay ra: tay ngài còn chai hơn tay nông dân chính hiệu. Đột nhiên viên trung uý cúi xuống kiểm tra hơi thở của ngài. Im lặng tuyệt đối bao trùm đám dân làng, sự im lặng đáng sợ vì hình như làm cho viên trung uý thêm nghi ngờ…Ông ta lại nhìn khuôn mặt hốc hác và nhìn lại tấm hình…

• Được, trung uý nói, Ông linh mục bước đi; « Khoan, đợi chút. ».

Ông ta đặt tay lên đầu Brigitte, xoa nhẹ mái tóc đen và cứng của em.

• Nhìn tôi đây, ông ta nói. Em biết hết mọi người trong làng nầy phải không?

• Vâng,cô bé đáp.

• Vậy thì ông nầy là ai?nói tên ông ta đi.

• Tôi không biết, cô bé trả lời.

Viên trung uý nín thở:

• Em không biết tên ông ta sao? Ông ta là khách lạ à?

Bà Maria nói chen vào: « Nhưng con bé còn không biết cả tên của chính nó. Ông hỏi nó xem cha nó là ai.

• Chỉ cha em cho tôi.

Đứa bé đưa mắt nhìn viên trung uý,rồi nhìn vị linh mục...” Con xin chừa hết mọi tội và con xin ơn tha thứ...” ngài đọc rất nhỏ, mấy ngón tay bắt chéo hình Thánh giá để xua đi vận rủi.

• Ông nầy,con bé nói, ông nầy.

• Tốt, ông trung uý nói.Người tiếp theo.

Cuộc tra khảo tiếp tục: tên? nghề nghiệp? vợ con? Lúc nầy mặt trời lên trên bìa rừng.Vị Linh mục đứng, tay bắt chéo trước ngực. Một lần nữa, cái chết cho ông lùi lại một thời gian. Tự nhiên ngài muốn bước ra trước mặt ông trung uý và gào to:” Tôi đây. Tôi là người các ông tìm.” Họ sẽ bắn mình ngay không? Một hứa hẹn bình an loé sáng trong ngài. Cao trên trời, một con diều hâu đang trông chừng đám đông: ở độ cao đó, chắc hai nhóm người nầy giống như hai nhóm thú ăn thịt lúc nào cũng có thể nhào vào nhau để cấu xé;con chim, một chấm đen li ti trên trời cao kiên nhẫn chờ đợi khi tất cả bọn họ đều đã thành thây ma. Chết không phải là hết đau khổ...Tin vào sự bình an là một thứ tà đạo.

Người đàn ông cuối cùng đã trả lời xong.

• Không có ai muốn giúp chúng tôi hết phải không? Viên trung uý hỏi.

Họ vẩn im lặng, gần cái quán nhạc đổ nát.

• Các người biết chuyện xảy ra ở Conception rồi chứ? Tôi bắt con tin...và khi tôi biết vị linh mục đã đi qua đó, tôi sẽ cho con tin dựa vào thân cây gần nhất...Tôi biết sự thật, bởi vì khi nào cũng có người thay đổi ý kiến, có thể là môt ông nào đó ở Conception yêu vợ của con tin và muốn loại trừ anh ta.Tôi không cần tìm chứng cứ. Sau đó, chúng tôi đã tìm thấy rượu nho ở Conception...Có thể ai đó trong làng lấn đất ruộng của anh,hay bắt bò của anh. Tốt nhất là nên khai ngay lúc nầy. Vì tôi cũng có ý định bắt con tin ở đây.

Ông trung uý im tiếng rồi lại nói:

• Các người không cần lên tiếng tố cáo, nếu có tên linh mục ở đây, chỉ cần nhìn về phía ông ta.Không ai biết là các vị đã tố cáo. Chính ông linh mục cũng không biết, nếu quí vị sợ ông ta chúc dữ. Đây là cơ hội cuối cùng.”

Vị linh mục không dám ngước mắt lên; ngài không muốn làm người sắp tố cáo ngài phiền lòng.

• Được,viên trung uý nói.Vậy thì tôi chọn con tin. Đây là do các vị muốn vậy đấy nhé.

Từ trên ngựa, ông nhìn đám người; một người lính đã kê súng vào quán nhạc và quấn lại xà cạp. Dân làng vẫn kiên trì nhìn xuống đất; ai cũng sợ gặp tia mắt của viên trung uý. Đột nhiên, ông la lên:

• Sao các người không tin tôi? Tôi không muốn ai phải chết cả.Trong mắt tôi- các ông không thể hiểu được- các ông có giá trị hơn tên đó nhiều. Tôi muốn cho các ông....” Ông ta phác một cử chỉ không cần thiết vì có ai nhìn ông ta đâu.

• Tôi muốn cho các người tất cả!”

Rồi ông ta nói giọng khản đi:

• Anh, anh đằng kia.Tôi bắt anh.

Một bà la lên:

• Nó là con trai tôi. Miguel. Ông không được bắt con tôi.

Ông trung uý nói giọng trầm buồn:

• Các đàn ông ở đây đều là chồng hay là con trai của ai đó, tôi biết.

Vị linh mục đứng lặng yên, tay bắt chéo; ngài nắm tay chặt đến nỗi các khớp trắng bệch ra… Ngài cảm thấy chung quanh ngài trỗi lên sự oán hận,bởi vì ngài không là chồng, là con trai của ai cả.

• Trung uý…, ngài nói.

• Cái gì?

• Tôi già yếu rồi không làm đồng được nữa,xin ông bắt tôi đi.

Một bầy heo từ sau một căn lều chạy ra,không cần biết đến ai cả. Người lính đã quấn xong cái xà cạp, đứng lên. Trên cánh rừng, mặt trời chiếu ánh lấp lánh xuống mấy chai nước khoáng trong quán.

• Tôi bắt con tin, ông trung uý nói. Tôi không dâng cho những người biếng nhác nhà ở,cơm ăn. Nếu ông không làm đồng được, ông cũng không làm con tin được.

Rồi ông ra lệnh:

• Trói tay lại và dẩn nó đi.

Chỉ một loáng thôi, cảnh sát đã rời làng.Họ bắt đi hai ba con gà,một con ngỗng và một anh tên Miguel.

• Anh chị em thấy đó, tôi đã làm hết sức mình,vị linh mục nói lớn tiếng. Chính các người phải tố cáo tôi chứ. Các ông bà mong đợi gì nơi tôi? Bổn phận của tôi là phải tránh để khỏi bị bắt.

• Như thế rất tốt, thưa cha,một người đàn ông nói,nhưng xin cha cẩn thận. Khi đi,xin cha nhớ đừng để rượu lại như ở Conception.

• Ở lại cũng chẳng ích gì, thưa cha,một người khác nói. Sớm hay muộn,họ cũng bắt được cha thôi.. Từ nay, họ sẽ không quên mặt cha nữa đâu. Cha phải đi lên hướng Bắc, phía núi,bên kia biên giới.

• Bên kia là một tỉnh đẹp,một người đàn bà nói.Họ còn có nhà thờ.Không ai được lui tới,dĩ nhiên,nhưng còn nhà thờ. Tôi còn nghe nói là trong thành phố còn có linh mục. Một người bà con của tôi đã đi đến tận Las Casas bằng cánh đi băng qua núi và ngày kia anh ta được dự lễ…trong một ngôi nhà, có bàn thờ thật, và linh mục mặc áo lễ như ngày xưa. Ở đó cha sẽ sung sướng, thưa cha.

Linh mục theo Maria về lều. Chai rượu nằm lăn lóc trên bàn, ngài lấy tay chạm vào nó, chai rượu gần như trống rỗng.

• Maria, va li của cha đâu?

• Bây giờ mà cha mang nó đi theo thì nguy hiểm quá cha ơi,Maria nói.

• Nhưng làm sao cha mang rượu nho đi được.

• Cha nói sao?

• Con không muốn cha bị nguy hiểm,cha cũng như những người khác. Con đã đập vở chai rượu rồi. Dù nó có mang lại tai hoạ cho con...”

Ngài nói với bà giọng dịu dàng nhưng buồn rầu:

• Không nên dị đoan. Đó chỉ là....rượu thôi mà. Rượu đó không có thánh thần gì cả. Có điều, ở đây khó kiếm lắm. Do đó tại sao cha luôn có dự trữ ở Conception. Nhưng họ đã khám phá ra.

• Và bây giờ con nghĩ là cha sẽ ra đi... đi luôn. Cha không còn có ích cho ai cả, bà nói cách hung bạo.Cha không hiểu sao, thưa cha? Chúng con không muốn có cha ở đây nữa.

• Vâng, đúng thế,nhưng vấn đề không phải là tại con muốn hay cha muốn...”

Kiên nhẫn, bà ngắt lời ngài.

• Con cũng có hiểu biết chút ít. Con có đi học. Con không ngu như...bọn họ. Con biết cha là một linh mục xấu xa. Những gì chúng ta đã làm với nhau...Con tin là cha không chỉ dừng lại ở đó. Con nghe đồn nhiều chuyện, tin con đi. Cha nghĩ rằng Chúa mong muốn cha ở lại đây để đựơc chết hay sao- một linh mục nghiện rượu như cha?

Ngài kiên nhẫn đứng trước mặt bà,giống như khi ngài đứng trước mặt viên trung uý, và nghe bà nói. Ngài không tin là bà có thể có những ý nghĩ như thế.

• Giả sử như họ bắn cha, bà nói, cha sẽ là một vị tử đạo, đúng không? Theo cha, cha là loại thánh tử đạo như thế nào? Thật đáng tức cười!”

Ngài chưa bao giờ có ý nghĩ là người ta xem ngài như một vị tử đạo. Ngài nói

• Khó lắm,khó lắm. Cha sẽ suy nghĩ thêm. Cha không muốn người ta cười nhạo giáo hội.

• Thế thì cha qua bên kia biên giới mà suy nghĩ.

• Nhưng...

• Khi sự việc xảy ra, như cha biết rồi đó, bà nói, con đã hãnh diện. Con nghĩ rằng những ngày tháng tươi đẹp sẽ trở lại. Có phải ai cũng được làm tình nhân của một linh mục đâu. Và con bé...con tưởng là cha sẽ làm cho nó nhiều điều. Nhưng cha cũng chỉ có thể là một tên trộm...”

• Nhưng cũng có những tên trộm lành, ngài hời hợt trả lời.

• Thề có trời, xin cha cầm chai rượu nầy và đi đi.

• Trong va li của cha có....Trong va li của cha có....

• Cha đến đống rác mà kiếm nếu cha muốn. Con, con không đụng đến nó nữa đâu.

• Còn con bé, ngài nói, con là một phụ nữ tốt, Maria. Ý cha muốn nói là con sẽ cố gắng dạy nó....nên người công giáo tốt.

• Con bé đó không được tích sự gì cả. Chính cha cũng thấy đó.

• Ở tuổi nó...nó cũng chưa có gì hư hỏng lắm đâu,giọng ngài cầu khẩn.

• Nó có nhiều tật xấu và càng lúc càng hư.

• Thánh lễ tới, cha sẽ cầu nguyện đặc biệt cho nó.”

Nhưng người đàn bà không thèm nghe.

• Con bé hoàn toàn hư hỏng.

Ngài cảm thấy niềm tin vụt tắt khi ngài bước dần ra cửa...Rồi đây, thánh lễ đâu còn ý nghĩa gì với mọi người đâu, cũng chỉ như một con mèo đen chạy băng qua đường. Ngài chỉ làm cho cuộc sống của họ thêm nguy hiểm.

• Con lừa...

• Người ta đang cho nó ăn bắp. Cha phải đi lên hướng Bắc, bà nói thêm. Cha không cách gì trốn tránh ở phía Nam này được đâu.

• Có lẽ cha sẽ đi Carmen...

• Ở đó cũng đang bị canh chừng.

• Ôi, thôi...ngài nói,có lẽ...một ngày kia...mọi sự sẽ khá hơn...”

Ngài vạch lên không một dấu thánh giá và ban phép lành cho Maria đang đứng trước mặt ngài, sốt ruột chờ ngài ra đi mãi mãi.

• Thôi, vĩnh biệt Maria.

• Vĩnh biệt cha.

Ngài băng qua khoảng sân, dáng người khòm xuống. Ngài cảm thấy là trong làng, không ai mà không vui mừng khi thấy ngài ra đi... ngài chỉ mang đến cho họ bất hạnh, và họ đã kiên quyết, do một sự mê tín mơ hồ nào đó, đã không giao nộp ngài cho cảnh sát; ngài tự nhiên thấy ganh tỵ với tên tướng cướp mà mọi dân làng sẽ không ngần ngại đón bắt...Hắn, ít nhất, hắn không phải mang nợ ân tình với ai cả.

Dưới triền dốc nham nhở vết chân lừa và điểm xuyết với những rễ cây sần sùi, con sông lượn lờ trôi...Sát mép nước, một đoạn bờ đổ đầy những vỏ đồ hộp, chai bể. Dưới tấm bảng ghi” Cấm đổ rác”, tất cả những rác rưởi của cả làng chất thành đống và đang lấn ra mép sông. Mùa mưa,nước lụt sẽ quét sạch mọi thứ. Ngài bước lên trên đống vỏ đồ hôp và rau trái thối, với tay cầm va li: nó đã là một cái va li tốt, một chứng tích của quá khứ yên bình...Ngài gần như quên mất đời sống trước đây và hiện nay khác như thế nào. Ai đó đã giật tung ổ khoá; ngài luồn tay qua hai làn lụa mỏng...

Giấy tờ vẫn còn: tiếc nuối, ngài vứt cái va li...một thời trẻ trung,quan trọng, được vây quanh bằng sự kính trọng nằm chơ vơ trên đống rác...cái va li nầy do giáo dân Conception dâng ngài nhân dịp mừng năm năm ngài chịu chức linh mục...Ngài nghe tiếng động sau lùm cây. Tay nắm chặt mớ giấy tờ,ngài rút chân ra khỏi đống rác, mấy con nhặng bay quanh chân ngài.Ngài đi vòng ra sau thân cây xem ai đang rình rập ngài...Con bé ngồi đó, trên một gốc cây. Hai mắt nó nhắm nghiền lại.

• Con yêu,linh mục nói, con sao thế? Ai đã làm gì con?”

Hai con mắt giận dữ mở ra, đỏ ngầu nhưng kiêu hãnh.

• Chính cha...chứ còn ai nữa, cô bé nói.

• Cha sao?

• Vâng.Chính cha làm khổ con.

Ngài tiến đến gần con bé như người ta tiến đến gần một con vật nguy hiểm, rất thận trọng. Ngài cố tỏ ra âu yếm.

• Con ơi, tại sao là cha?

• Chúng nó chế nhạo con, con bé trả lời cách hung tợn.

• Vì cha sao?

• Tất cả mọi đứa đều có cha... cha chúng làm việc

• Cha cũng vậy, cha làm việc.

• Cha là linh mục, phải không?

• Vâng.

• Pedrô nói cha không phải là đàn ông, và cha không làm gì được với đàn bà. Con không biết nó nói thế có ý gì.

• Cha nghĩ là chính nó cũng không biết nó nói gì.

• Nhưng nó mười tuổi rưỡi. Và con,con muốn biết. Cha sắp đi phải không?

• Vâng.

Ngài lại hoảng sợ vì cái khôn trước tuổi của nó khi nó mỉm cười, một cái cười có chọn lọc trong cái kho sung túc, đa dạng.

• Cha nói đi... con bé nói giọng quyến rũ.

Ngồi trên thân cây, gần đống rác, nó có vẻ như sẵn sàng dâng hiến.Nó đã mang thế giới trong tim mình như hạt mầm của sự thối rữa dấu trong ruột trái cây: con bé không có chút duyên hay sắc nào để giúp nó.Ngài cảm thấy xao xuyến vì sự hư hỏng gần như chắc chắn của nó.

• Con ơi, con cần lưu ý...

• Lưu ý cái gì? Tại sao cha phải ra đi?

Ngài tiến lại gần con bé thêm một chút. Ngài tự nhủ: mình được phép hôn con mình mà. Nhưng cô bé nhảy tránh ra xa.

• Đừng đụng vào con, nó kêu lên giọng chát chúa của một bà già và cười gằn.

Ngài tự bảo “ Mọi trẻ con sinh ra trên đời, trong một chừng mực nào đó, là kết quả của tình yêu, nó được thấm đẫm tình yêu khi nó bú, nhưng cái đó tuỳ thuộc vào cha mẹ, bạn bè vì tình yêu nầy có thể trở thành cái cứu rỗi hay đày đoạ nó. Dâm đãng cũng là một dạng của tình yêu.” Ngài thấy con mình bị giam hãm trong đời sống của nó như con ruồi trong cây ăn thịt...bàn tay Maria sẵn sàng đánh nó...Pêdrô và những câu nói người lớn nói với nó trong đêm tối; cảnh sát lục soát khắp rừng... ở đâu cũng đầy bạo lực. Ngài âm thầm cầu nguyện.

• Ôi,lạy Chúa, xin cho con chết mà không ăn năn tội cũng được...xin sao cho con bé nầy được cứu thoát.

Ngài là người trước đây người ta xem là người đi cứu linh hồn người khác. Ngày xưa, công việc nầy với ngài xem ra đơn giản, khi ngài giảng trong buổi chầu Phép lành,khi ngài tổ chức lễ bổn mạng, khi ngồi uống cà phê với mấy bà đứng tuổi bên song cửa sổ,làm phép nhà mới với một chút trầm hương, mang bao tay đen...nó cũng dễ như ky cóp chút tiền: bây giờ đó là cả một huyền thoại. Ngài cay đắng nhận ra sự bất lực ê chề của mình.Ngài quì gối xuống và kéo con bé đang cười và giẫy giụa về phía mình.

• Con phải hiểu cho cha. Cha yêu con. Cha là cha của con và cha yêu con. Con phải cố mà hiểu.

Ngài cầm chắc cổ tay con bé và đột nhiên con bé thôi vùng vẫy, ngước mắt nhìn ngài.

• Cha sẽ hy sinh cả đời cha, ngài nói tiếp, không,chưa đủ, cả linh hồn cha...con yêu, con hảy biết rằng con quan trọng biết bao.”

Đây chính là cái khác biệt, ngài luôn luôn ý thức về điều đó, giữa đức tin của ngài và của họ, của các chính trị gia, những người đối với họ chỉ có nhà nước mà thôi: với ngài, con bé nầy còn quan trọng hơn cả một đại lục.

• Con không cần quan tâm, vì con qúa quan trọng, quá cần thiết... Ông Tổng Thống ở kinh đô có người hầu mang súng bảo vệ...còn con, con của cha ơi, con có chung quanh mình tất cả các thiên thần trên trời đang bảo vệ con.”

Con bé nhìn ngài với cái nhìn trống rỗng, vô hồn: ngài biết là ngài đã đến quá muộn. Ngài nói với con bé:” Vĩnh biệt con...” và với một cử chỉ vụng về, ngài muốn ôm hôn con bé, cái ông già vụng về.Khi ngài buông con bé ra và tiến về phía sân với