← Quay lại trang sách

- VII - Sa lưới

Một tiếng gà đầu tiên gáy ở đầu làng.

Một tiếng gà thứ hai ở cuối xóm.

Và những tiếng gà eo óc trả lời nhau, trong lúc sương xuống nhiều trên ruộng lúa.

Sức sống đã dậy. Trong gian nhà bếp của mấy người có ruộng, tiếng ồn ào càng ngày càng to. Ánh đèn dầu cố nhả tia sáng để đuổi bớt cái khó chịu của một bầu không khí đầy khói. Những con gặt quây quần chia cho nhau những vắt cơm nếp mà họ ăn để làm việc từ hừng sáng cho đến lúc mặt trời đứng ngay đỉnh đầu. Đáng lẽ họ phải ăn mau để còn đi: “bắt công”, dân quê có thói quen ăn rất chậm, và vừa ăn vừa nói những mẩu chuyện vặt để cùng cười. Mấy người đàn bà thì lại càng già chuyện hơn nữa. Cái mo trầu, cái vòng hái, cái cách chích khăn mỏ quạ cũng là những đầu đề thú vị mà họ kéo ra đến không cùng.

Mấy người đàn ông ăn xong, ngồi xếp bằng dưới đất, vấn những điếu thuốc to bằng ngón tay trỏ, liếm nước miếng dán mép giấy (thường là nhật trình), đốt bằng một que củi cháy đỏ và hút một cách ngon lành. Bọn đàn bà thì chia nhau những miếng trầu têm thật nhiều vôi. Họ nhai trầu cũng như người ta nhai bánh bông lan.

Trời nhá nhem sáng. Không một chút gió. Cây cối dường như cũng lạnh nên đứng im. Người ta chỉ nghe và đoán đường bay của vài con chích chòe hát vui vẻ như để chào mừng một ngày sắp mở.

Đã đến lúc họ phải theo chủ ruộng ra đồng.

Từ nãy, Sơn và Thái ngồi trong bóng tối, bên những người bạn dân quê, im lặng ngắm những cử chỉ mộc mạc và nghe những câu chuyện vẩn vơ của họ. Trái với ý Sơn từ lâu, Sơn thấy rằng họ là những người sung sướng. Dường như họ không biết đến cái công việc lam lũ khổ sở của họ, mà chỉ đó là một bổn phận. Họ là những người sinh ra trong bóng tối của hạ tầng giai cấp, suốt đời sống trong bóng tối để rồi chết âm thầm trong bóng tối. Họ không hề hấp thụ được một chút ánh sáng của khoa học, của văn hóa để có thể nâng cao đời sống của mình lên và để hiểu chút ít về quyền làm người và làm dân.

Sơn bâng khuâng tự hỏi:

- Tại làm sao mà họ có thể sống yên phận như vậy được?

Sơn thấy căm tức cái tâm hồn vô tư của họ, căm tức sao họ không như mình, không biết sống như thế là nhục nhã và phải đòi hỏi cái quyền sống “không nhục nhã”.

Tại sao những con người vạm vỡ kia, những người mà nếu đoàn kết lại là cả một lực lượng nan địch, không đứng cả vậy để đạp bao nhiêu xích xiềng phong kiến, phá tan bao nhiêu trở lực đã làm cho dân tộc yếu mềm?

Sơn đang đeo đuổi theo dòng tư tưởng sôi nổi của mình, bỗng Thái vỗ mạnh vào vai chàng:

- Ta cũng ra đồng với họ chứ?

Cả hai vươn vai đứng lên, theo gót đoàn con gặt. Họ đi nối nhau trên một bờ ruộng, hăng hái như người ta đi xem hội chùa.

Mặt trời bắt đầu chiếu lên những tia nắng dịu, làm cho cảnh sắc nổi bật một màu hồng. Họ bắt đầu cho lưỡi hái ăn lúa.

Thái và Sơn ngồi dưới gốc cây cà na, nhìn ra dải ruộng tăm tắp đến rặng cây xa. Tiếng hát lảnh lót quê mùa của những nàng thôn nữ đi sâu vào tâm hồn làm cho đôi bạn thấy người lâng lâng dễ chịu. Trong một lúc, sức hấp dẫn của đồng quê làm cho mạch máu của hai chàng như chảy mạnh và tâm hồn như tươi trẻ hơn tất cả bao giờ.

Nhưng mặt trời càng lên cao, nắng càng gắt. Bọn trẻ theo sau kiền trâu, nắm chặt dây dàm cho chúng thâu cái lưỡi thè ra ngoài mép đầy bọt. Trâu là một vật chịu mưa nắng hay mà cũng là con vật cứng đầu không tài nào chịu nổi. Mặc dầu lũ trẻ ghì dàm hết sức, kiền trâu cứ lôi đại mà đi ngay xuống rạch. Chúng đánh tét cả roi mây, trâu cũng không sợ, hay sợ nhưng vì nóng quá, nó nhảy ùa cả xuống nước.

Bọn con gặt bước phành phạch trên lúa, sức nóng như thiêu như đốt đem đến cho đầu họ cái ý sống kiên gan, khổ cực và chịu bạc đãi. Nông nghiệp xứ ta chỉ nhờ ở ba đức tính ấy của họ. Sự phát triển nhọc nhằn bằng những phương pháp của ông cha ta về trước phải đòi hỏi quá nhiều năng lực mới đi đến kết quả. Nhưng tiếc thay những kết quả ấy lại không đi đôi với lòng hy sinh của họ. Và lòng hy sinh của họ chỉ được trả bằng bảy chục đến một trăm bạc mỗi năm là cùng.

Sơn không muốn nghĩ ngợi nhiều sinh hoạt của những người bạn quê mùa kia nữa. Muốn cải tạo đời sống họ, chỉ còn cách là phá tan cái nạn mù chữ của họ. Phải kéo họ đứng dậy, chỉ họ rõ những quyền lợi mà họ có quyền hưởng, vạch cho họ một con đường và trao cho họ một chương trình. Bao nhiêu dự định ấy Sơn chưa thi hành được vì chàng hiện đang mang nặng một sứ mạng, và có bổn phận là làm tròn sứ mạng ấy trước hết.

Thái hỏi Sơn:

- Từ đây đến Tuyên Quang ta phải đi độ bao lâu nữa? Và phải nên dùng lối đi nào thuận tiện nhất?

- Nếu không có gì trở ngại thì ta có thể đến đấy trong hai hôm. Vì phải trải qua nhiều rừng núi, ta nên dùng ngựa. Từ Tuyên Quang đến Bắc Kạn, ta sẽ có nhiều đồng chí giúp.

Nghĩ ngợi một lúc, Sơn tiếp:

- Nguy hiểm nhất là đoạn đường từ đây...

- Bao giờ ta khởi hành?

- Khuya nay. Không thể chần chờ được.

Hai ngày sống chung với những người dân quê mộc mạc, hai chàng thấy cảm động với cái bản năng chất phác của họ. Hơn nữa, trước hình ảnh kham khổ và tấm lòng hy sinh không tự biết của những người cần lao, đôi bạn càng thấy vững lòng trên con đường đã vạch. Hai chàng ước mong một ngày kia có thể trở lại đây, nắm chặt những bàn tay cứng rắn của họ, dẫn họ đi tìm đời sống mới trên những bước vinh quang.

* * * * *

Nắng đã ngã về chiều.

Những vệt sáng vàng từ chân chân trời xiên qua kẽ lá, rơi xuống mặt đường như những mảnh gương vỡ. Tiếng hò kéo dài từ bờ ruộng, vang vang như tiếng thổn thức của đồng quê.

Thái và Sơn dẫn đầu bọn con gặt trở về. Lần này, hai chàng đi hăng hái, tưởng như mình là hai chiến sĩ tiên phong đang lãnh đạo đoàn quân trên con đường tranh đấu. Những câu chuyện dòn rang nở dưới bầu trời trong sáng. Cả một niềm vui sống tràn ngập ở cõi lòng.

Đến cổng làng. Bầy chó quen thuộc ùa ra, chào chủ nhân với những cái vẫy đuôi thân mật. Đứng trước cảnh nên thơ ấy, tại sao Thái và Sơn bỗng thấy lòng hồi hộp. Hai chàng nhìn quanh quất, cố tìm ra cái thắc mắc vô cớ. Có một việc sắp xảy ra chăng?

Hai chàng chưa kịp tìm ra câu trả lời, chân đã bước qua cổng. Và cùng một lúc, hai vẻ mặt rắn rỏi bỗng tái lại. Đoàn con gặt đều dừng bước để chứng kiến một sự kinh ngạc ra ngoài sức tưởng tượng ngây ngô của họ.

Một tốp lính đứng giàn phía trong cổng đang chỉa súng vào họ. Hai người trong tốp tiến ngay lại phía Thái và Sơn:

- Chúng tôi được lệnh bắt hai ông.

Sự đột ngột đã qua, Thái trấn tĩnh và thấy một dòng máu nóng tràn lên mặt. Chàng khẽ mỉm cười:

- Các ông có lịnh bắt chúng tôi về tội gì?

Một người trả lời:

- Vì các ông là... Giấy tập nã cho biết các ông từ Quảng Tây về Hà Nội để mưu cuộc phiến loạn.

Sơn bĩu môi:

- Các ông cứ thi hành phận sự.

Tuy với giọng kiêu hãnh của một chiến sĩ, Sơn vẫn thấy lòng thắt lại và trước mặt một cái huy hoàng đang sụp đổ. Hai chàng cùng đưa tay ra cho hai vòng xiềng từ từ khóa lại. Nó giản dị trong một phút mà làm tan vỡ cả dự định một cuộc đời.

Trong lúc ấy, đoàn dân gặt dồn lại phía sau, tùm nhum lại từng bọn năm ba người. Họ trố mắt nhìn Sơn và Thái như nhìn những con quái vật. Sau sự kinh ngạc, họ phát biểu ý kiến ngây ngô qua những lời bàn tán.

Một người nói:

- Họ là những người phiến loạn, mày ạ!

Người khác:

- Sao trông họ hiền lành quá! Tao cứ tưởng phiến loạn là phải ghê lắm.

- Ghê thật! Người như thế mà làm phiến loạn.

Một người đàn bà xen vào:

- Phiến loạn là gì, hở?

Một mụ khác:

- Đồ ngu! Mày không nghe mấy ông lính mấy ông ấy nói à?

Bọn lính nghe dân quê bàn tán, khoan khoái đứng nghe.

Tên chỉ huy lấy làm bằng lòng vì sự bắt bớ không đến nổi khó khăn, cũng hướng về bọn người chất phác dễ tin kia lên giọng dẫn giải:

- Phải, chúng là quân phiến loạn. Thay vì làm việc lương thiện như các người, họ chỉ lo gây việc rối rắm cho thiên hạ. Chính phủ vì an ninh của các ngươi mà cho tập nã họ đó.

Một giọng giận dữ bật ra tự đám dân quê:

- Đồ khốn nạn!

Sơn và Thái từ nãy đứng im như bức tượng. Tất cả sự hiểu lầm của những người bạn thân yêu làm cho hai người tê tái. Họ là những người đáng thương hại, mà than ôi! Từ đây hai chàng không còn thể lưu lại nữa để mong đem lại cho họ một chút ánh sáng nào về cuộc đời sống mới. Bao nhiêu dự định với bao nhiêu sứ mạng đành để buộc trói trong xiềng xích ngục tù...

Tên chỉ huy ra lịnh cho tốp lính dẫn tội nhân đi. Sơn ngẩng mặt nhìn lưu luyến những người bạn thân, rồi lẳng lặng bước đi với một cõi lòng nặng trĩu. Thái không thể im lặng được. Chàng thấy cần phải tỏ một cử chỉ, thốt một lời - dầu cử chỉ lời nói ấy không được nhận một cách thân ái như ở những cuộc vĩnh biệt khác - để cho nhẹ bớt sự bực tức của một con mãnh hổ sắp vào chuồng. Chàng đưa tay hướng về phía dân quê, gởi lời chào của người chiến sĩ sa cơ:

- Thôi, tạm biệt các bạn. Hẹn một ngày mai tươi sáng.

Tốp lính lên đường. Sơn và Thái nối gót theo họ. Cơn gió thốc đánh chát vào mặt như để rửa sạch những ngày sương giá nơi biên thùy. Đôi bạn bỗng thấy lòng ấm áp khi nghe tiếng thở dài của một người bạn dân quê từ xa vọng lại:

- Hai người ấy đáng thương quá nhỉ! Sao họ không như chúng mình?

Thái mỉm cười, tự nói thầm: “Một ngày kia các bạn sẽ hiểu. Ngày ấy chúc các bạn sẽ được nhiều may mắn hơn...”