← Quay lại trang sách

NHỮNG ĐIỀU LỤN VỤT VÀ LẶT VẶT

“Bộ não (Kennedy) đã được giao cho

Phó Đô đốc Burkley trong một cái xô …”

- BÁC SĨ THORNTON BOSWELL(172) [(Horne, Douglas ARRB MEMORANDUM FOR FILE: “Questions Regarding Supplementary Brain Examinations Following the Autopsy of President John F.Kennedy”, 28.8.1996 (trích bút lục cuộc phỏng vấn bác sĩ J. Thornton Boswell)]

Trong một lúc – hoặc một đoạn khá dài – ý nghĩ cuối cùng của chương trước và một số phần thuộc các chương khác đã quanh quẩn với những điều vốn không nhất thiết liên quan đến những yếu tố cốt tuỷ của cuốn sách này nhưng vẫn thú vị như thường – những điều mà bạn có lẽ không được biết, và những khía cạnh khác của cuộc tranh luận về việc sát hại JFK mà gần đây đã xuất hiện những tia sáng mới.

Nonsenko và KGB

Từ lâu đã có một lực lượng những người luôn tin rằng Kennedy bị giết trong một âm mưu do Liên Xô và Nikita Khruschev sắp đặt. Cơ sở bằng chứng cho giả thuyết này nằm trong lời tuyên bố rằng công dân Xô-viết vượt tuyến đầy tai tiếng Yuri Nonsenko chẳng phải là kẻ vượt tuyến sang hàng ngũ địch gì cả, mà y chỉ là nhân viên KGB được phái đi để gỡ mối nghi ngờ đối với Moscow quanh vụ ám sát JFK. Những người theo thuyết này cho rằng, Nonsenko trước đây đã tạo dựng uy tín với CIA bằng cách bán cho họ những tin tức tình báo trong khi đang giữ một chức vụ cao trong KGB. Hai tháng sau khi Kennedy bị giết, Nonsenko thông báo với CIA rằng anh ta muốn đảo ngũ và thời điểm đảo ngũ phải là ngay lúc đó vì thượng cấp của anh ta đang nghi ngờ anh ta.

Do đó, CIA chộp ngay lấy anh này.

Điều chủ yếu trong những thông tin mà Nosenko trao cho những người Mỹ đã cứu giúp mình là lời tuyên bố rằng anh ta chính là người giám sát hồ sơ KGB về Lee Harvey Oswald. Anh ta tuyên bố rằng, cho dù KGB có một hồ sơ Oswald, họ chưa hề tỏ ra quan tâm tới tay này khi cần tuyển nhân viên, chưa hề sử dụng tay này trong bất kỳ hoạt động dưới vỏ bọc hay những hoạt động khác, và đã lập tức loại bỏ ông ta ra như một mẫu giấy vụn. Tất cả những điều này khiến CIA suy ra rằng Oswald không liên hệ gì với KGB khi ông ta giết Kennedy và do đó Liên Xô không liên quan gì tới vụ ám sát này(173) [(Benson)].

Tất cả các thông tin trên chủ yếu là đúng sự thật, tuy nhóm theo giả thiết Liên Xô vẫn cho rằng đó là một trò lừa, và thông tin của Nosenko về Oswald thực ra chỉ là thông tin giả, một lời nói dối nhằm làm lạc hướng nghi ngờ đối với Liên Xô. Sau này người ta khám phá ra rằng Nosenko đã nói dối vài điều quanh vai trò của anh ta trong KGB, và nhóm theo giả thuyết Liên Xô tin rằng nếu anh ta đã nói dối về những điều đó thì anh ta cũng nói dối về chuyện KGB chẳng quan tâm gì tới Oswald, có nghĩa là Oswald đã giết Kennedy như một phần trong âm mưu của Khruschev/ Liên Xô.

Từ 1995, một số những hồ sơ của chính phủ Mỹ đã được giải mật và công bố toàn văn, và tài liệu nhiều tiết lộ nhất trong số đó cho chúng ta biết rằng Liên Xô đã trao toàn bộ hồ sơ KGB về Oswald cho chính phủ Mỹ hai ngày sau vụ ám sát – Đại sứ Liên Xô Anatoli Dobynin đã đích thân trao hồ sơ này cho Bộ trưởng Ngoại giao Dean Rusk ngay sau đám tang của JFK. Và đoán thử coi có chuyện gì? Thông tin trong hồ sơ đó tiết lộ hầu như cùng những điều mà Nosenko đã nói với CIA mấy tháng trước đó. Như thế, khi Nosenko kể rằng KGB không hề quan tâm tới Oswald và đã loại bỏ ông này như một mẩu giấy vụn thì ông ta đã nói thật. Kể từ đó, nhất là sau khi Liên Xô tan rã, nhiều quan chức cao cấp của KGB cũng đã xác định tương tự.

Đại tá Oleg Maximovich Nechphrenko, thành viên của Ban giám đốc thứ nhất của KGB, trong tác phẩm Passport to Assassination, trích dẫn một thông tin của chính Giám đốc KG Vladimir Semichastny, trong đó Giám đốc xác nhận KGB không quan tâm gì tới Oswald(174) [(Nechiphrenko, Oleg Maximovich, Passport to Assassination (Birch Lane Press, 1993)]. Vào tháng 10.1998, một nhân vật lớn khác của KGB, Oleg Kalugin đã xác nhận thêm về điều đó. Khi xảy ra vụ ám sát Kennedy, Kalugin đang làm việc cho KGB dưới vỏ bọc một sinh viên tại Đại học Columbia, và ông ta chứng thực rằng Nosenko đã nói dối một số điều quanh địa vị của anh ta nhưng quả thực anh ta có phụ trách hồ sơ của KGB về Oswald, và quả Oswald đã bị gạt qua một bên vì không sử dụng được cho bất kỳ lợi ích nào của KGB. Lý do chính để KGB theo dõi Oswald là nhằm xác định xem ông ta có phải điệp viên được cài qua phía địch hay không(175) [(Phỏng vấn Kalugin, từ phim video The Secret KGB/JFK Assassination Files (1998), Associated Television)]. Không ai tranh luận chuyện KGB theo dõi Oswald vì lý do muốn tìm khả năng chiêu mộ khi ông ta sang Liên Xô lần đầu, nhưng bây giờ chúng ta cũng biết rằng ông ta đã mau chóng bị KGB loại bỏ và xem như vô dụng khi KGB xem ông ta như một “tay loạn thần kinh không trung thành với tổ quốc của mình và mọi thứ khác…”(176) [(Tài liệu FBI 124-10144-10086, tài liệu CIA 62-109060-4321, ngày 1.12.1966; tr 4, giải mật ngày 15.8.1995)].

Trong tài liệu đặc biệt này (Hồ sơ lưu FBI số 124-10144-10086, nếu như bạn không thích lật tới phần chú thích ở cuối sách), chúng ta cũng biết tìm hiểu thêm được vài điều chứng tỏ rằng Liên Xô không dính dáng vào vụ ám sát JFK. Thực vậy, họ đã rất lo lắng Mỹ có thể nghi ngờ họ có thông đồng dự mưu (cả Mỹ lẫn Liên Xô đều đã đặt quân đội vào tình trạng báo động vài giờ sau khi JFK chết)(177) [(Tài liệu dẫn trên, tr 1; và Tài liệu Nhà Trắng, 4.12.1963, Memorandum For Bromely Smith, về: “Changes in defense Readiness Conditions as a Result of the Assassination of President Kennedy”; O.S.Hallet ký, giải mật ngày 7.4.1998 với số hiệu JFK 177-10001-10000)]. Quả là Liên Xô đã lo ngại một sự hiểu lầm có thể dẫn đến chiến tranh hạt nhân đến nỗi họ đã tiến hành một cuộc điều tra riêng(178) [(Tài liệu FBI 124-10144-10086, tài liệu CIA 62-109060-4321, ngày 1.12.1966)], thứ nhất, để bảo đảm rằng không có “tổ hành động” nào của KGB có dính dáng vào vụ này, và thứ nhì, để xác định, nếu có thể được, chính xác điều gì đã xảy ra tại Dallas vào ngày 22 tháng 11 đó.

Chúng ta đã nghe nói rất nhiều lần về tài liệu nói rằng sau cái chết của JFK, các tay súng FBI đã nhiều lần cố gắng tái hiện lại kỹ năng thao tác bắn mà Oswald phải có để làm được công việc ấy nếu ông ta là tay súng duy nhất – và những tay thiện xạ FBI đó đã không làm được. KGB và những quân nhân thiện xạ tại Liên Xô cũng thực hành bài kiểm tra ấy và cũng thất bại như vậy(179) [(The KGB/Oswald Files, phim tài liệu video (Associated Television) tháng 11.1998)]. Kết luận của họ là gì?

Nó cũng giống như kết luận của hầu hết mọi người ngày nay thôi.

Đại táBoris Ivanov, giám đốc văn phòng KGB tại New York – và là một trong những người đã ra lệnh tiến hành những điều tra ban đầu của KGB – kết luận rằng “cái chết của Kennedy hiển nhiên đã được dàn xếp bởi một nhóm có tổ chức lớn hơn là hành động giết người của một cá nhân đơn lẻ”(180) [(Tài liệu FBI 124-10144-10086, tài liệu CIA 62-109060-4321, ngày 1.12.1966)].

Chúng ta có hàm ý rằng KGB là một nhóm những tay cự phách không? Dĩ nhiên là không. Nhưng trong một ghi chú cuối cùng, hồ sơ này cho chúng ta thấy lý do đích thực cho “cú sốc” của Nga trước cái chết của Kennedy. “Liên Xô có lẽ thích có Kennedy đứng đầu chính phủ Mỹ hơn” bởi vì ông ta có “sự hiểu biết lẫn nhau với Liên Xô, và đã cố hết sức để cải thiện những quan hêcủa Kennedy. “Liên Xô có lẽ thích có Kennedy đứng đầu chính phủ Mỹ hơn” bởi vì ông ta có “sự hiểu biết lẫn nhau với Liên Xô, và đã cố hết sức để cải thiện những quan hệ giữa Mỹ và Liên Xô”(181) [(Tài liệu dẫn trên)]. Nói cách khác, Liên Xô rất muốn JFK tiếp tục nắm quyền bởi vì ít nhất họ cũng biết JFK xuất phát từ quan điểm gì và thậm chí còn ký một hiệp ước cấm thử vũ khí hạt nhân với Liên Xô. Người mà Liên Xô ưu tư nhất lại là vị kế nhiệm Kennedy, Lyndon Johnson. Nikolai Fedorenko, đại diện thường trực trong Phái bộ Liên Xô tại Liên hiệp quốc, có nói rằng “Chính phủ Liên Xô không biết hoặc biết rất ít về Tổng thống Lyndon Johnson và do đó, chính phủ Liên Xô không biết Tổng thống Johnson trong tương lai sẽ có chính sách nào đối với Liên Xô”(182) [(Tài liệu dẫn trên)].

Johnson, tân tổng thống, sau khi Kennedy chết, đã trở thành ưu tư lớn nhất của Liên Xô; Johnson là một ẩn số chính trị vì họ không biết chút gì về ông ta. Thực vậy, chính Ivanov là người sau này đã chỉ thị KGB làm một cuộc điều tra rốt ráo về Johnson!(183) [(Tài liệu dẫn trên)].

Dù sao đi nữa, chúng tôi hy vọng rằng điều này sẽ xoá được một số những luận điểm sai lầm hiện diện trong các giả thuyết qui kết về Liên Xô/ Khrushchev/ KGB.

Tấm Chắn Sáng Và Cây Vĩ Cầm: Tài Thiện Xạ

Của Oswald

Để so sánh, chúng ta có thể nói một cách chắc chắn là những người như Michael Mertz và Jean Souetre là những tay sát nhân thiện nghệ, cả hai đều có tay nghề được hình thành và rèn luyện trong chiến đấu thực sự. Mertz từng được thưởng anh dũng bội tinh trong Thế chiến 2 khi phục vụ trong lực lượng Pháp kháng chiến, một lực lượng bán quân sự với những tay bắn tỉa xuất chúng thường ám sát các sĩ quan Đức và chính khách trong chính phủ Vichy. Và mặc dù chiến đấu vì một mục tiêu hoàn toàn khác hẳn, OAS về mặt hoạt động vẫn tương tự như lực lượng Pháp kháng chiến ở chỗ nó cũng hoạt động ngầm, và cũng thường sử dụng những tay bắn tỉa tầm xa để ám sát kẻ thù.

Nhưng còn Lee Harvey Oswald?

So với những người như Mertz và Souetre, Oswald chỉ là một thứ tay mơ. Y chưa từng tham dự cuộc chiến nào, chưa từng kinh nghiệm trận mạc, chưa từng xuất sắc trong bất kỳ lĩnh vực nào khi là lính thuỷ quân lục chiến, thường bị những bạn lính khác chế giễu, thường xuyên bị phạt và ra toà án binh vì bất cẩn hoặc sai phạm kỷ luật, và bị cho giải ngũ sớm hai năm vì một lý do không ai muốn có(184) [(Benson)]. Nói cách khác, Oswald hoàn toàn thất bại trong vai trò một thủy quân lục chiến Mỹ – đơn giản là y chẳng làm gì ra trò.

Tuy nhiên, nhiều tài liệu về vụ ám sát JFK đã khiến độc giả tin rằng Oswald là một tay súng trường thiện xạ. Gerald Posner chẳng hạn, nói với chúng ta rằng vào tháng 12.1956, Oswald bắn súng đạt “212 điểm, hai điểm cao hơn mức yêu cầu đối với loại ‘thiện xạ’, bậc xếp loại cao thứ nhì trong lực lượng Thuỷ quân lục chiến”. Và vào tháng 5.1959, Oswald “cố gắng đạt được 191 điểm, vừa đủ để được xếp loại ‘bắn giỏi’”(185) [(Posner, Case Closed)].

Thiện xạ! Bắn giỏi! Những tên gọi ấy rõ ràng được dùng để chỉ chuyên gia sử dụng vũ khí, đúng không?

Không, tuyệt đối không, nhất là trong chuyện Oswald được huấn luyện tác xạ trong quân đội.

Sự thật, Oswald chưa bao giờ vượt qua kiểm tra bắn súng trường với số điểm cao trong Thuỷ quân lục chiến; sự thực, mức chính xác của y giảm dần theo thời gian(186) [(Fetzer)]. Sự thực, trong lần bắn kiểm tra cuối cùng của Oswald trong Thuỷ quân lục chiến, kết quả bắn của y tệ đến độ chỉ cao hơn mức điểm liệt được một điểm(187) [(Warren Commisison Report (“Báo cáo Warren”)].

Ơû đây chúng ta gặp vấn đề về thuật ngữ chuyên môn, hoặc sự chỉ rõ và hàm ý. Nhiều nhà nghiên cứu về JFK biết điều này nhưng không bao giờ đề cập tới vì muốn bảo vệ những giả thiết đang hái ra tiền của mình. Có một sự khác biệt rất lớn giữa thuật ngữ “bắn giỏi” (marksman) trong quân đội với “bắn giỏi” trong ngôn ngữ thông thường. Những nhà nghiên cứu ủng hộ Uỷ ban Warren đã cố tình và nhất quán không cho độc giả biết rằng tuy Oswald đạt loại “bắn giỏi” theo thuật ngữ quân sự, nhưng thực ra “bắn giỏi” là tiêu chuẩn THẤP NHẤT trong quân đội. Trong quân đội Mỹ, nếu bạn không đạt loại “marksman” trong môn huấn luyện súng trường cơ bản, bạn sẽ bị rớt. Hoặc bạn sẽ bị đưa ra khỏi quân đội hoặc bạn phải học lại. Hãy xem một thí dụ khác cho rõ hơn. Khi đồng tác giả Lee của sách này còn trong quân đội, ông ta được chứng nhận đạt loại “chuyên gia” (expert) với súng M1911Á 12 ly (một đẳng cấp trên trung bình trong quân đội) và đạt loại “thiện xạ” với súng M-16 (một đẳng cấp trung bình theo tiêu chuẩn quân đội). Ông Lee nói, “Về mặt kỹ thuật, kết quả lần bắn súng trường tệ nhất của tôi thì cũng cao hơn lần bắn tốt nhất của Oswald tới vài ba điểm. Và đó là những mục tiêu cố định, chứ không phải di động. Nhưng tôi có thể nói với ông rằng với một vũ khí tốt hơn khẩu Mannlicher- Carcano, ngay cả với một khẩu súng trường bán tự động thay vì một khẩu bắn từng phát, thì cũng không có cách nào mà tôi bắn trúng đầu một người ngồi trên xe đang chạy ở cùng cự ly đó. Không một ai với tài bắn cỡ tôi hay Oswald lại làm được chuyện đó”.

Vậy mà có nhiều tác giả tiếp tục bóp méo sự thực cho hợp với các giả thuyết của họ. Thực vậy, Oswald đạt loại thiện xạ theo thuật ngữ quân đội, rồi Posner nói với độc giả của ông ta rằng đây là “bậc xếp loại cao thứ nhì trong lực lượng Thuỷ quân lục chiến”. Bậc cao thứ nhì nghe cũng khá cao chứ, phải không? Nhưng chính điều Posner không nói với độc giả mới là điều làm phiền chúng ta. Trong quân đội Mỹ, chỉ có ba bậc xếp loại, marksman (bắn giỏi) là bậc thấp nhất, sharpshooter (thiện xạ) là bậc trung bình, và expert (chuyên gia) là bậc cao nhất. Phải, Posner nói với độc giả của ông ta rằng “sharpshooter” là bậc xếp loại hạng nhì trong thi bắn súng của Thuỷ quân lục chiến, như ông ta đã che dấu khi không nói với độc giả rằng đây chỉ là bậc nhì trong ba bậc. Nên “sharpshooter” ở đây chỉ có nghĩa là “trung bình”.

Rồi Posner cũng nói với chúng ta rằng việc đạt loại “sharpshooter” này “cho thấy ở tư thế đứng, ông ta {Oswald}có thể bắn trúng tâm điểm có đường kính 10 inch (cỡ 25cm) ở cự ly 200 thước, mười lần trúng tám”(188) [(Posner, Case Closed)], và ông ta nêu nhận định này dựa trên chứng thực của Uỷ ban Warren(189) [(Posner, Case Closed)], cái bộ phận điều tra đã bị nghi là nói dối suốt ba thập niên qua!

Sau cùng, lời chứng của Uỷ ban Warren chỉ là ý kiến của một người và chúng tôi không xác tín ý kiến đó. Để làm như thế, chúng tôi sẽ trưng dẫn một ý kiến không liên quan đến Uỷ ban Warren tai tiếng đó và ý kiến này gần đây hơn thông tin trên từ 1964. Trong một buổi phỏng vấn Randy Martin, cựu binh chiến tranh Việt Nam và là chuyên gia bắn tỉa, vào tháng 12.1998, ông này đã nói với chúng tôi rằng ông ta đã trải qua huấn luyện tác xạ căn bản y như Oswald trước khi vào trường huấn luyện bắn tỉa (là chuyên gia bắn tỉa trên mặt trận, ông ta đã mười lần hạ gọn mục tiêu ở tầm xa trên trận địa) “tám lần trong 10 lần bắn trúng một mục tiêu 25cm cố định ở cự ly tối thiểu 200 thước là vượt xa tiêu chuẩn của một sharpshooter, cho dù không bị giới hạn về thời gian. Trong huấn luyện tác xạ của quân đội, các điểm số của Oswald cho thấy đó là một tay không có khả năng chọi cây đàn violon trúng vào tấm chắn sáng trước cái đèn rọi sân khấu nữa”(190) [(Phỏng vấn “Randy Martin”, 1.12.1998. Người được phỏng vấn yêu cầu không nêu rõ tên thật vì anh ta làm lính bắn tỉa hồi ở Việt Nam)].

Dĩ nhiên, đến đây, rõ ràng ta phải thừa nhận chuyện phát súng giết chết Kennedy và làm bị thương John Connally không thể là công trình một xạ thủ loại “trung bình”.

Và cũng không cần phải nhắc lại rằng, vào năm 1964, những tay bắn tỉa của FBI cũng không thực hiện nỗi công trình tác xạ mà Posner và các tác giả khác cứ nói với chúng ta là Oswald đã làm được(191) [(Summers)]. Nếu một số tay bắn tỉa loại giỏi nhất của FBI còn không làm nổi, thì làm sao Oswald – tối đa cũng chỉ là xạ thủ trung bình – thực hiện được?

Hơn nữa, còn có khẩu súng trường hung khí mà người ta cho rằng Oswald đã dùng để thực hiện được một chiến công bắn tỉa vượt ngoài khả năng của y.

Khẩu Mannlicher – Carcano 6,5 là một khẩu carbine, không phải súng trường của dân bắn tỉa. Nó là thứ vũ khí nhẹ của bộ binh với nòng ngắn được thiết kế cho tầm bắn ngắn, dễ kiểm soát trên trận địa. Sự thực, khẩu súng trường cảnh sát thu hồi được từ tầng sáu của kho sách giáo khoa là một loại vũ khí đã bị rút khỏi sử dụng cho quân đội từ năm 1918 vì cỡ nòng 6,5 ly của nó được coi như không thoả đáp được những mụch đích chiến trận hiện đại(192) [(Hogg, Ian và Rob Adam, Jane’s Guns Recognition Guide (Harper & Collins, 1996)] (mà năm 1918 thì hiện đại cỡ nào?) Nói một cách đơn giản, thứ vũ khí này không được thiết kế để dùng làm súng bắn tỉa, giống như lý do khiến súng carbine M-1 không được thiết kế làm súng bắn tỉa. Nếu Lee Harvey Oswald muốn giết JFK thì y có thể dễ dàng kiếm được cả chục thứ vũ khí hữu hiệu khác. Chuyện Oswald dùng khẩu Mannlicher – Carcano để giết Kennedy thì cũng khác chi chuyện dùng cái muỗng để đào huyệt hoặc lợp mái nhà bằng những tấm bìa carton. Làm thế không được.

Oswald, vào năm 1963, hẳn có thể mua nhiều loại súng trường chính xác hơn tại các cửa hàng ở Dallas với giá cũng không đắt hơn. Thay vào đó, những người ủng hộ Uỷ ban Warren lại nói với chúng ta rằng Oswald đã đặt mua bằng thư một loại vũ khí xoàng cho công việc này trong khi y có thể đi bộ tới một tiệm bán súng gần nhất và mua một khẩu tốt hơn nhiều. Posner và Uỷ ban Warren hy vọng chúng ta sẽ tin rằng Oswald sẵn sàng chọn một cái xẻng để làm công việc của một xe xúc đất. Đó là chưa kể tới lời chứng khác cho rằng khẩu Mannlicher – Carcano tìm được trong kho sách đã bị lắp ráp sai, cơ bấm không đúng chỗ và không được thiết kế để dùng với ống ngắm. Sự thực, các chuyên gia trong quân đội khẳng định rằng sử dụng một ống ngắm với loại vũ khí này sẽ làm cho nó kém chính xác hơn trong điều kiện tác xạ tại quảng trường Dealey, bởi vì súng này sau khi bắn một phát, phải kéo cơ bẩm để chuẩn bị cho phát kế tiếp, và khi làm như thế thì ống nhắm không còn nhắm vào mục tiêu nữa(193) [(Summers)]. Điều này chỉ làm đổ thêm dầu cho một ngọn lữa đã cháy gần 40 năm nay rồi. Rõ ràng Lee Harvey Oswald không có tài thiện xạ cũng như vũ khí thích hợp để làm được điều mà Uỷ ban Warren và các tác giả theo thuyết tay súng đơn độc cố gắng chứng minh.

Bộ Não Của Tổng Thống Đã Thất Lạc

Trong bảng dẫn phương pháp luận trị giá 8 triệu đô la vốn chẳng xác định cụ thể hồ sơ nào, hay các mã hồ sơ mà công chúng cần biết, Tiểu ban tái thẩm các hồ sơ về vụ ám sát ít nhất cũng làm được chuyện công bố rất nhiều hồ sơ mới về vụ JFK – chính việc tìm ra những hồ sơ này mới là chuyện gay go. Tuy nhiên, Gerald Posner (tác giả cuốn Case Closed – “Vụ án đã khép lại” – gây nhiều tranh cãi) hiển nhiên cũng đã tìm ra một số hồ sơ, trong đó đặc biệt có một hồ sơ ghi bằng chứng liên quan đến vụ kỳ án đã làm nát óc công chúng suốt 35 năm qua. Khi các bác sĩ khám nghiệm thi thể JFK tại Phòng cấp cứu I của Bệnh viện Parkland ở Dallas, họ đã báo cáo rằng từ 1/5 đến 1/4 bộ não của Kennedy đã bị viên đạn bắn văng ra khỏi đầu ông ta. Do đó, phần lớn bộ não này vẫn còn nằm trong sọ ông ta khi thi thể ông được đem đi khỏi Dallas. Nhưng khi thi thể này tới bệnh viện Hải quân Bethesda, điều đầu tiên mà nhiều nhân chứng nhận thấy là bộ não của JFK đã biến mất. Cái sọ rỗng không trong khi vài giờ trước đó nó còn chứa ít nhất 75% bộ não của ông ta(194) [(Tuy vấn đề bộ não mất tích của JFK đã được nhiều tác phẩm xuất sắc tường thuật, nhưng chúng tôi thấy nó được trình bày rõ nhất là trong phim video của Nigel Turner: The Men Who Kill Kennedy)]. Nhưng bây giờ, nhờ nỗ lực tận tình của Tiểu ban tái thẩm các hồ sơ về vụ ám sát vốn nuốt sạch 8 triệu đô la tiền của dân đóng thuế, chúng ta sau cùng cũng biết được điều gì đã xảy ra cho bộ não Kennedy.

Chúng ta biết được không?

Trong bài báo trên Newsweek tháng 10.1998, Gerald Posner viết: “Tiểu ban có vẻ như đã giải quyết được một trong những bí ẩn kinh hoàng của vụ ám sát này”, rồi ông nói với chúng ta rằng Tiểu ban tái thẩm đã tìm được một bằng chứng cho thấy một trong những bác sĩ trong vụ này, Phó Đô đốc George Burkley, đã mang bộ não của Kennedy ra khỏi bệnh viện Bethesda trong một cái xô(195) [(Posner, “Cracks in the Wall of Silence”, Newsweek, 4.10.1998)]. Tại sao Đô đốc Burkley làm như thế?

Để giao bộ não đó cho Robert Kennedy, Posner nói như thế, nhưng sau đó ông ta nói rằng người ta chưa xác định được hiện bộ não đang ở đâu và “được coi như” là đã an táng chung với thi thể JFK. Thực tế, ông Posner hoàn toàn không chính xác khi nói rằng điều bí ẩn này đã được giải quyết. Tất cả những gì chúng ta biết hiện nay là người nào đã mang bộ não Kennedy đi, và chúng ta chỉ có thể “coi như” nó được chôn chung với thi hài. Thế này thì khó mà giải quyết được bất kỳ cái gì.

Phó Đô đốc Burkley bây giờ thì đã chết, nhưng nếu như ông ta còn sống, thì hoàn toàn có thể truy tố ông ta về tội cản trở công lý và giấu diếm bằng chứng quan trọng của một vụ sát nhân tày trời. Việc khám nghiệm đạn đạo và tế bào của bộ não có thể chứng minh viên đạn gây tử vong đã xuất phát từ hướng nào và hơn nữa còn làm sáng tỏ vấn đề vẫn còn tranh luận hiện nay là liệu Oswald có phải là tay súng duy nhất trong Kho sách giáo khoa Texas hay còn có những tay súng khác đã bắn vào Kennedy (hoặc chuyện phải chăng Oswald chẳng dính líu gì vào vụ này). Đây là bằng chứng khá quan trọng đáng để bỏ vào một cái xô và mang đi khơi khơi vào quên lãng bởi một tay đô đốc nào đó.

Một mô tả rõ hơn về các sự kiện quanh bộ não của JFK có thể tìm thấy trong cuốn Live by the Sword (“Sống nhờ lưỡi kiếm”) in năm 1998 của Gus Russo. Trong tác phẩm nghiên cứu kỹ lưỡng này, Russo đã truy xét việc lưu giữ bộ não của tổng thống cặn kẽ hơn bất cứ tác phẩm nào khác đã viết về đề tài này. Russo khẳng định rằng bộ não đã được giao cho Phó Đô đốc Burkley, ông này đem gởi vào một hầm của Cục mật vụ, giao cho Cục này chăm sóc. Bộ não, lúc đó được bảo quản trong một cái bình, nằm trong hầm ấy khoảng hai năm rưỡi cho đến khi Robert Kennedy chỉ thị cho Burkley giao nó cho thư ký của Kennedy là Evelyn Lincoln. Robert Kennedy nhất quyết đòi nắm được bộ não và những hồ sơ khám nghiệm tử thi “bước đầu”, không một thứ nào được công bố để nghiên cứu mà không có văn bản cho phép.

Từ đó, “tài liệu bước đầu” này được cất kỹ, và về mặt chính thức ta vẫn không biết cụ thể chuyện gì đã xảy ra với chúng sau đó. Nhiều người trực tiếp liên quan đến những tài liệu ấy đã không hở môi điều gì với Russo khi ông ta phỏng vấn họ(196) [(Russo, Guy, Live by the Sword (Bancroft Press, 1998)].

Thế bộ não ấy ở đâu?

Có lẽ chúng ta chẳng bao giờ biết được, và hầu hết những người có biết (như Robert Kennedy, Evelyn Lincoln và Phó Đô đốc chôm não George Burkley) cũng sẽ không nói gì với chúng ta cả vì tất cả bọn họ đã chết.

Nhưng giống như vô số những câu hỏi khác liên quan đến vụ ám sát Kennedy, câu hỏi về chuyện gì đã xảy ra với bộ não của ông ta sẽ là một vấn đề luôn được nêu ra.

Và câu hỏi này, vào cuối thập niên 1990, đã phanh phui nhiều thông tin hơn về một trò dấu giếm của chính phủ. Sau đây là mấy điều có thể bạn chưa biết:

Không phải một, mà có hai bộ não đã được khám nghiệm…

Câu Chuyện Hai Bộ Não…

Và Hai Báo Cáo Khám Nghiệm Tử Thi

Các nhà phản bác hài lòng rằng không có ai quan tâm đến vụ ám sát Kennedy nữa. Oà, phải? Nếu vậy, tại sao lại có ồ ạt nhiều bài báo mang tính phát giác vào cuối năm 1998?

Ta hãy nêu một bài trên Washington Post số ra ngày 10.11.1998. Tựa đề bài báo là:

ẢNH CHỤP LƯU TRONG VĂN KHỐ KHÔNG PHẢI NÃO CỦA JFK

TRỢ LÝ CỦA UỶ BAN TÁI THẨM KẾT LUẬN

Rồi bài báo giải thích làm sao một trong những nhà nghiên cứu của Tiểu ban tái thẩm hồ sơ về vụ ám sát truy ra được bằng chứng cho thấy rằng đã có hai bộ não khác nhau được khám nghiệm trong vụ khám nghiệm tử thi JFK. Hai bộ não à? Làm sao có chuyện ấy được?

Sự thực, chuyên viên phân tích của Tiểu ban tái thẩm hồ sơ về vụ ám sát đã nói trong bài báo Washington Post này rằng, “Tôi chắc từ 90% đến 95% là các ảnh chụp lưu trong Văn khố không phải ảnh chụp bộ não của Tổng thống Kennedy”(197) [(Lardner, George Jr., The Washington Post, “Archive Photos Not of JFK’s Brain, Concludes Aide to Review Board”, 10.11.1998)].

Lời tuyên bố này, và thông tin gây chấn động trong bài báo, được dựa trên sự phân tích của chuyên viên này đối với lời chứng của mấy bác sĩ đã tham gia khám nghiệm bộ não (hay các bộ não) của JFK, một thợ chụp hình của hải quân, và cả một nhân viên FBI nữa, tất cả là từ những tàn dư bằng chứng đã bị giấu nhẹm hơn 35 năm qua.

Chúng tôi đã giải thích rằng Tiểu ban tái thẩm hồ sơ về vụ ám sát không có nhiệm vụ chuyên tìm kiếm những hồ sơ có liên quan đến JFK mà chúng có thể đem lại manh mối mới về vụ ám sát. Tiểu ban chỉ được giao việc xem xét công bố các hồ sơ có liên quan đến JFK trong một thời biểu cụ thể. Và các tác giả của sách này đã nhận định về đủ mặt của Tiểu ban đó rồi. Những nhận định phê phán đó không hề mang tính cá nhân; Tiểu ban không có lỗi khi khả năng truy tìm sự kiện của họ bị cản trở vì guồng máy quan liêu và một mớ bòng bong những chỉ thị.

Nhưng ít nhất cũng có một thành viên trong Tiểu ban cần được tuyên dương, đó là Douglas Horne, Phân tích trưởng về hồ sơ quân đội thuộc Tiểu ban này, và chính những phát hiện của ông ta đã được tường thuật trong bài báo Washington Post hồi cuối năm 1998 nói trên.

Horne, sau khi có được những phát hiện trong khi làm nhiệm vụ khảo sát với Tiểu ban, đã viết một tường trình 30 trang mô tả chi tiết khả năng có tới hai bộ não khác nhau đã được khám nghiệm bởi các bác sĩ sau khi JFK chết. Một trong hai bộ não ấy là của Kennedy.

Bộ còn lại là thứ đánh tráo.

Sau đây là một mẫu thú vị trong những điều mà Horne viết trong bản tường trình:

“Một cuộc tái thẩm các hồ sơ của Tiểu ban Hạ viện về Những vụ ám sát, cộng với các nỗ lực của Tiểu ban tái thẩm hồ sơ về vụ ám sát để làm sáng tỏ hồ sơ khám nghiệm tử thi JFK… đã phát hiện một kiểu bằng chứng giàu chi tiết cho thấy rằng có thể có hai bộ não đã được khám nghiệm sau khi kết thúc khám nghiệm tử thi JFK… Các hàm ý về hai sự kiện như vậy đã xảy ra (và đặc biệt, theo một cách thức mà một trong hai khám nghiệm hẳn là dành cho một bộ não không phải của Tổng thống Kennedy nhưng đã được cố tình đưa ra như là của ông ấy) là có tầm quan trọng hiển nhiên, và khó mà cường điệu được”.

Bạn không đùa chuyện nó khó mà cường điệu được. Những gì Horse đưa ra là khoảng một tuần sau khi chôn Kennedy, một cuộc khám nghiệm thứ nhì cho bộ não của ông ta đã được tiền hành.

Làm sao có thể như vậy được?

Qua nghiên cứu và điều tra cực nhọc, Horne xác quyết rằng bộ não của Kennedy ban đầu đã được các bác sĩ khám nghiệm ngay ngày JFK chết, rồi nó được khám nghiệm lại vào sáng thứ hai, 25.11.1963, sau đó bộ não lập tức được giao cho Phó Đô đốc Burkley, theo yêu cầu chính thức của Burkley.

Aùi chà, từ ngày 27 tháng 11 đến 2 tháng 12, một bộ não khác – được nói là của JFK – đã được khám nghiệm. Nhưng bộ não này, theo các nhân chứng, là cái khác. Bộ não thứ nhất bị cắt xẻ, còn bộ não thứ hai thì không. Và bộ não thứ hai – rõ ràng không phải của JFK – là bộ với các kết quả khám nghiệm được báo cáo cho Uỷ ban Warren!

Làm sao bộ não thứ nhất “có cắt xẻ” được khám nghiệm ngày 25 tháng 11 và rồi được khám nghiệm lại một tuần sau đó và trong tình trạng “không bị cắt xẻ”? (“Bị cắt xẻ”, trong trường hợp này, là nói về một bộ não đã bị phẫu thuật cắt lát ra như một tảng thịt)

Tại sao? Horne đã xuất sắc đưa ra câu trả lời hiển nhiên nhất:

“Động cơ có thể tin được nhất của việc tiến hành khám nghiệm não lần hai (“trễ”) hẳn là để ém nhẹm bản chất thực của vết thương trên đầu Tổng thống bằng cách ghi vào hồ sơ một kiểu vết thương khác (trên một mẫu khám nghiệm khác)…”

và hơn nữa, thông tin này:

“… hàm ý rõ ràng rằng các ảnh chụp bộ não trong Văn khố không phải là những ảnh chụp bộ não của Tổng thống John F.Kennedy(198) [(Horne, Douglas ARRB MEMORANDUM FOR FILE: “Questions Regarding Supplementary Brain Examinations Following the Autopsy of President John F.Kennedy”, 28.8.1996)]”.

Thế là đủ, phải không? Khả năng rõ ràng là bộ não của ai đó đã được xét nghiệm để dùng trong công bố chính thức của chính phủ về cái chết của Kennedy, và những ảnh chụp bộ não JFK lưu trong Văn khố là đồ ngụy tạo?

Bạn tin đó là âm mưu chưa?

Horne không phải một kẻ kỳ quái hay một nhà nghiên cứu JFK bình thường nào đó – ông ta là nhà phân tích chuyên nghiệp làm cho chính phủ. Và bản tường trình ông viết về những khám nghiệm “chính thức” hai bộ não khác nhau được dựa trên sự phân tích chuyên môn, khách quan và tập trung cao độ các lời khai, các phỏng vấn nhân chứng và những sự kiện rõ ràng.

Nhưng đây chưa phải thông tin duy nhất mà nghiên cứu của Horne mang lại. Trong một tờ trình khác ông ta viết dựa trên những phát hiện của mình gửi cho Tiểu ban tái thẩm những hồ sơ về vụ ám sát, Horne đã mô tả cái khả năng tương tự rằng không chỉ có hai bộ não được khám nghiệm, mà có thể đã có hai báo cáo khám nghiệm tử thi khác nhau đã được soạn ra. Nên ở đây, để tránh làm cho cuốn sách này bị sa lầy vào các chi tiết, chúng tôi sẽ làm một tham khảo nhanh như sau:

“Việc nghiên cứu hồ sơ kỹ hơn đã phát hiện nhiều dấu hiệu rõ rệt cho thấy có khả năng rằng biên bản khám nghiệm tử thi ban đầu được chuyển đi bởi Burkley cùng các món khác… là một biên bản khác (sớm hơn) với biên bản khám nghiệm tử thi được Uỷ ban Warren công bố(199) [(Horne, Douglas ARRB MEMORANDUM: “Chain – of – Custody Discrepancy Re: Original Copy of President John F. Kdennedy’s Autopsy Protocol”, 2.8.1996)]”.

Và:

“Tuyên bố này… nếu không vướng nhầm lẫn, là bằng chứng giàu chi tiết về một báo cáo khám nghiệm tử thi khác ngoài báo cáo đang được giữ làm bằng chứng hiện nay(200) [(Tài liệu dẫn trên)]”.

Ông Horne phải được tuyên dương vì đã bỏ nhiều công phu hơn trong nhiệm vụ của mình với Tiểu ban tái thẩm các hồ sơ về vụ ám sát qua việc cung cấp những phân tích quan trọng và gây chấn động trong những phát hiện của mình.

Sau cùng, đối với hồ sơ khám nghiệm tử thi JFK nói chung, Tiểu ban tái thẩm đã viết đoạn dẫn nhập này vào ngày 31.7.1998:

“Những cuộc khám nghiệm pháp y là không thể thiếu trong những cuộc điều tra án sát nhân được tiến hành đúng cách thức. Một cách lý tưởng, một bác sĩ tiến hành khám nghiệm pháp y cho một nạn nhân bị bắn chết {như Tổng thống Kennedy} sẽ xem xét mọi bằng chứng về đạn đạo, trao đổi với các bác sĩ cứu chữa nạn nhân trước khi nạn nhân chết, khám nghiệm chu đáo y phục nạn nhân mặc lúc bị bắn, tiến hành việc khám nghiệm tử thi một cách chu đáo và có lương tâm, và lập báo cáo về nguyên nhân cái chết có kèm hồ sơ đầy đủ, chi tiết và cụ thể. Trong trường hợp có người tình nghi sau đó bị đưa ra toà vì vụ sát hại đó, người bác sĩ tiến hành khám nghiệm tử thi thường được khảo chứng và chất vấn trước toà đến từng chi tiết nhỏ nhặt nhất liên quan đến nguyên nhân cái chết. Việc khám nghiệm tử thi và các hồ sơ của toà trở thành bằng chứng có thể được khảo sát và thẩm tra tường tận bởi các chuyên gia pháp y(201) [(“Draft: Assassination Records Review Board, Staff Report to Accompany Release of Medical and Autopsy Records” của ARRB, 31.7.1998)]”.

Hấp dẫn chứ?

Và đây thêm một ít nữa:

“Một trong nhiều bi kịch của vụ ám sát Tổng thống Kennedy chính là sự thiếu chu toàn của hồ sơ khám nghiệm tử thi và mối nghi ngờ gây ra bởi màn bí mật bao quanh các hồ sơ hiện có. Tuy các nhà chuyên môn đã tham gia vào việc xác lập và xử lý bằng chứng y học có thể đã có thiện ý không công khai tiết lộ thông tin – nhằm bảo vệ sự riêng tư và các tình cảm của gia đình tổng thống – nhưng di sản của sự bí mật như vậy rốt cục đã gây hoài nghi và mất mát niềm tin. Những điều này hiện là những lý do nghiêm trọng và hợp pháp cho việc đặt dấu hỏi không những đối với sự thiếu chu toàn trong các hồ sơ khám nghiệm tử thi, mà còn đối với sự thiếu phân tích lập tức và thấu đáo các hồ sơ đó bởi Uỷ ban Warren nữa(202) [(Tài liệu dẫn trên)]”.

Hãy suy nghĩ về chuyện đó.

Những Điều Không Bao Giờ Thay Đổi:

Những Aûnh Chụp Khám Nghiệm Tử Thi

Thật lý thú – và phấn khởi nữa – khi sự quan tâm của công chúng đối với cái chết của John Kennedy không hề có vẻ tàn lụi đi; thực vậy, nó chưa hề có vẻ trở nên cũ đi. Nhiều năm qua, chúng ta đã nghe tranh cãi suy diễn quanh những ảnh chụp khám nghiệm tử thi JFK chẳng hạn. Chúng ta đã nghe rằng chúng đã bị thiêu huỷ, chúng ta nghe nói rằng chúng đã bị thay đổi, chúng ta nghe nói rằng chúng đã bị biến cải, chúng ta nghe nói chúng đã bị nguỵ tạo hoàn toàn. Và bây giờ, nhờ nghiên cứu chuyên môn của Douglas Horne, chúng ta có thêm bằng chứng để hậu thuẫn cho điều này: các ảnh chụp bộ não JFK thực ra là ảnh chụp bộ não người khác. (Thế thì chính xác đó có thể là bộ não của ai? Một gã ăn mày nào đó? Bộ não đánh cắp được từ một xác dùng để thực tập y khoa? Chính phủ sẽ đi đâu khi cần một bộ não thế chỗ cho bộ não của tổng thống?)

Sự thực, cuộc tranh cãi quanh các ảnh chụp khám nghiệm tử thi JFK là điều gì đó không đơn giản biến mất đi được (và chúng ta cho rằng nó có một lý do). Bản tổng kết nêu trên của Tiểu ban tái thẩm đã mạnh dạn nói đến mục đích nằm sau trò trí trá mà dân Mỹ đã phải chấp nhận hơn 35 năm qua. Phần tồi tệ duy nhất là ở chỗ người công dân bình thường muốn đọc được điều này và các báo cáo khác của Tiểu ban tái thẩm phải vượt qua cả một mê cung thủ tục hành chính thì mới tiếp cận được.

Chúng tôi đã nói về điều này nhiều lần và đã phê phán Tiểu ban tái thẩm đến hết sức, nhưng chúng tôi phải khen ngợi mục tiêu ban đầu của họ (xác định những hồ sơ liên quan đến JFK và xem xét để công bố cho dân chúng). Nhưng cho đến mùa thu 1998, có hay không có sự giúp đỡ của Tiểu ban tái thẩm, chúng ta vẫn thấy các bài báo về vụ JFK trên toàn quốc không tìm ra lối thoát.

Nếu không ai quan tâm về vụ ám sát JFK nữa, thì hãy xem bài báo sau của hãng tin AP vào cuối 1998 với tựa là “Những bức ảnh mới làm sống dậy cuộc tranh luận về vụ khám nghiệm tử thi JFK”:

“Lời chứng mới công bố hôm thứ sáu về vụ khám nghiệm tử thi Tổng thống John F.Kennedy nói rằng có một bộ ảnh chụp thứ nhì về những vết đạn của Kennedy nhưng chúng chưa từng được công bố cho dân chúng biết”(203) [(Associated Press, “Photos Renew Dispute About JFK Autopsy”, 1998)].

Lại như thế nữa. Ít nhà điều tra án sát nhân nào có thể phủ nhận rằng công cụ tốt nhất để nhận ra cơ chế một vụ sát nhân chính là khám nghiệm tử thi. Trong trường hợp bị chết vì súng bắn, các ảnh chụp khám nghiệm tử thi trở nên một bộ phận cực kỳ quan trọng của việc điều tra.

Và chúng ta có cái gì?

Ngay từ đầu, chúng ta có hết nhân chứng này đến nhân chứng khác, hết chuyên gia này đến chuyên gia khác, cứ nhất định rằng có một trò gian trá nào đó quanh các bức ảnh khám nghiệm tử thi JFK.

Tuy vậy, sau ba thập niên, những điểm phản đối ấy bắt đầu nghe như một đĩa nhạc rè; chúng tiếp thêm nhiên liệu cho những tác giả ủng hộ Uỷ ban Warren như Gerald Posner vốn có thái độ thản nhiên đối với một hoạt động có tính toán trước mà bất kỳ quan toà nào cũng coi như việc che giấu bằng chứng. Posner xác định rằng tất cả những ảnh chụp X – quang và ảnh khám nghiệm tử thi JFK đều không được công bố vì gia đình Kennedy “từ chối” không cho công bố(204) [(Posner, Case Closed)].

Nhưng trừ phi những ảnh đó được chụp bởi một thợ ảnh tự do gia đình Kennedy thuê mướn (mà chuyện này không có), nếu không thì gia đình Kennedy KHÔNG THỂ từ chối công bố chúng vì chúng KHÔNG thuộc quyền sở hữu của gia đình Kennedy.

Chúng thuộc quyền sở hữu của mọi người dân đóng thuế cho nước Mỹ, và không gia đình nào, dù hoàng gia quý tộc hay thứ dân, được quyền từ chối không bố chúng.

Nhưng 35 năm sau, cuối 1998, chúng ta biết rằng có “một bộ ảnh chụp thứ nhì” chụp lúc khám nghiệm tử thi, và những ảnh chụp ấy “chưa từng được công bố cho dân chúng biết”. Phải, bây giờ chúng ta biết rằng lại thêm những bằng chứng nữa về vụ ám sát JFK đã bị giấu nhẹm.

Saundra K. Spencer, một kỹ thuật viên làm việc tại Trung tâm nhiếp ảnh hải quân (NPC) vào thời điểm JFK chết, làm chứng rằng các ảnh chụp khám nghiệm tử thi JFK được lưu trong Văn khố là khác với những ảnh chụp mà cô đã góp phần phóng rửa(205) [(Associated Press, “Photos Renew Dispute About JFK Autopsy”, 1998)]. Điều này chứng minh rõ ràng rằng những bức ảnh bổ sung ấy đã bị cố ý giấu nhẹm không cho công chúng biết. Khi một người nào đó có thế lực – bất kỳ ai đó có thế lực – tìm cách ngăn cản không cho công chúng có được đánh giá toàn diện về một biến cố mà họ có quyền được biết, thì việc đó gọi là “che giấu trái phép”. Nhưng Posner thậm chí còn giở trò biện minh cho gia đình Kennedy để bỏ qua phát hiện mới này. Vì những bức ảnh mà bà Spencer góp phần phóng rửa cho thấy “không có máu hoặc các lỗ mở”, nên Posner đã viết trong bài báo trên Newsweek tháng 10.1998: “Điều này hàm ý rằng gia đình Kennedy chỉ muốn có những bức ảnh không gây chấn động để có thể công bố cho dân chúng”(206) [(Posner, “Cracks in the Wall of Silence”, Newsweek, 4.10.1998)].

Một lần nữa, xin lỗi ông Posner, nhưng những điều gia đình Kennedy “chỉ muốn” đều không thành vấn đề. Những quan sát của bà Spencer thực sự rất đáng báo động. Bà đã thấy những ảnh chụp “không có các lỗ mở”. Làm sao lại “không có các lỗ mở” trên một cái sọ đã bị trúng đạn súng trường trừ khi cái sọ đó đã bị thay đổi bằng phẩu thuật? Từ lâu người ta đã nghi rằng những vết đạn trên đầu JFK đã bị cố ý sửa đổi để hậu thuẫn cho điều khẳng định trong báo cáo Warren rằng chỉ có một người – Oswald – bắn vào JFK. Bây giờ chúng ta lại có thêm lời chứng chuyên môn để củng cố thêm mối nghi ngờ ấy, nhưng Posner đã gạt bỏ điều này đi như một trò tưởng tượng của “kẻ mê chuyện âm mưu”.

Posner cũng đối xử tương tự với thông tin còn quan trọng hơn mà ông ta nhắc tới trong bài báo nói trên: đó là chuyện Đô đốc Burkley biến đi với bộ não JFK trong một cái xô. Posner viết: “Sự thực, có lẽ cảm xúc của gia đình {Kennedy}, chứ không phải sai trái về phía viên chức, mới là các giải thích đáng tin hơn cho các câu hỏi quanh biến cố Dallas”.

Nếu một quân nhân lấy đi bộ não của Tổng thống mà không được coi như một sai trái của viên chức, thì chúng ta phải nghiêm túc chất vấn những khái niệm của ông Posner về qui trình pháp định. Thực tế, Posner trong cuốn sách của mình và trong bài báo trên Newsweek, liên tục gọi những người nghiên cứu vụ JFK là “những người nhiệt tình” và “những người am hiểu” – chủ yếu là để cười cợt nỗ lực tìm biết điều gì đã thực sự xảy ra cho tổng thống Kennedy. Ông ta tiếp tục biện minh rằng ít nhiều thì các ý nguyện của gia đình Kennedy vẫn quan trọng hơn quyền được biết sự thật của công chúng.

Hãy nhìn thẳng vào điều đó, có lẽ ở đất nước này, số người tin rằng trái đất phẳng còn nhiều hơn số người tin rằng JFK bị một mình Lee Harvey Oswald bắn chết. Cuốn sách của Posner đầy những châm chích đối với những nhà nghiên cứu có các phát hiện không giống với của ông ta; thực vậy, Posner đã dành cả một chương trong tác phẩm vòng vo của mình cho việc bôi bác các nhà nghiên cứu với những người ông ta phản đối(207) [(Posner, Case Closed, tr 402-420; Posner còn có nhiều phê phán gay gắt với các tác giả khác trong những trang từ 460 đến 470; trong khi nhiều công kích khác rải khắp tác phẩm nhiều không đếm xuể và cũng chẳng đáng để đếm)]. Về cuốn Reasonable Doubt của Henry Hurt, Posner nói, “Hurt đã bày ra những chi tiết ly kỳ của một âm mưu dính dáng đến Oswald, CIA, những kiều dân Cuba chống Castro, chủ yếu dựa trên những lời không được kiểm chứng của Robert Easterling, một kẻ đã bị đưa vào bệnh viện tâm thần”(208) [(Posner, Case Closed)].

Sự thực, tác phẩm được viết rất tốt của Hurt hoàn toàn không có chuyện “chủ yếu” dựa trên “những lời không được kiểm chứng” của Robert Easterling. Thay vì thế, nó dựa trên công phu nghiên cứu xuất sắc vốn chứng tỏ được những liên quan rất thú vị và trình bày một giả thuyết có sức thuyết phục và gợi nhiều suy nghĩ. Hurt nói rất thẳng thắn về sự không đáng tin cậy của Easterling: “Robert Wilfred Easterling là… một kẻ được chẩn đoán là bị bệnh thần kinh và chứng tâm thần phân liệt”(209) [(Hurt)]. Với những ai đã đọc sách của Hurt thì rõ ràng sự kỳ quái trong lời khai của Easterling được đưa vào vì những phần trong lời khai ấy chứng minh những sự kiện có liên quan – chứ không phải “những lời không được kiểm chứng” mà Posner đã nói một cách sai lầm với độc giả của mình. Hung hăng hơn, Posner còn công kích tác giả Mark Lane, kết tội Lane là “chỉ sử dụng bằng chứng hậu thuẫn cho luận điểm của mình…”

Posner còn viết nhiều đoạn thẳng thắn nói rằng các nỗ lực của Lane bị thúc đẩy bởi việc kiếm tiền và rước danh mình lên(210) [(Posner, Case Closed)].

Đây là một trò công kích phi chuyên môn và đáng xấu hổ đối với các tác giả khác trong lĩnh vực này. Ơû đất nước này có một thứ gọi là tự do diễn đạt. Các tác giả của sách này chẳng hạn, không đồng ý với một số ý kiến của các ông Lane và Hurt, và ý kiến của những tác giả khác, và chúng tôi cũng phản đối ý kiến của đạo diễn đoạt Oscar Oliver Stone. Đó chỉ là quyền bất đồng ý kiến của chúng tôi. Nhưng chúng tôi tôn trọng tất cả những tác giả đó, tài năng của họ và ý kiến của họ. Chúng tôi không bôi bác họ; chúng tôi chỉ bất đồng ý kiến với họ.

Nhưng ông Posner đã bôi bác nhiều nhà nghiên cứu như vậy. Được rồi, sau đây là một số phương thuốc cho chính Posner. “Posner liệt kê bất cứ gì có thể biến một lựa chọn ngốc nghếch thành đáng tin cậy hơn và bỏ qua hoặc bóp méo những bằng chứng bất lợi”.

Câu này là của Giáo sư James H. Fetzer, người biên tập cuốn Assassination Science (“Khoa học ám sát”) năm 1998(211) [(Fetzer, James H., Assassination Science (Catfeet Press – Chicago, 1998)]. Đây là cuốn sách bao hàm những dữ kiện khoa học cụ thể được viết bởi nhiều chuyên gia với năng lực không thể phủ nhận, tập trung vào các bằng chứng cụ thể về đạn đạo, nhiếp ảnh, và khoa học nói chung mà Posner đã khôn khéo bỏ qua hoặc bẻ cong để giữ vững giả thuyết của mình hơn.

Sự thực, cuốn sách của Posner thì đầy những lỗ hổng, những dữ kiện và lời chứng bị bỏ qua, và những diễn giải vô lý, đến nỗi bố già trong nghiên cứu về JFK, Barold Weisberg (cựu điều tra viên của thượng viện và tác giả cuốn sách đầu tiên chỉ ra được những sai sót trong báo cáo của Uỷ ban Warren) thấy rằng đáng để viết hẳn một cuốn sách khác – Case Open (“Vụ án còn mở ngỏ”) – để phản bác các dữ liệu đáng nghi trong cuốn Case Closed của Posner. Cuốn sách tuyệt vời của Weisberg nêu rõ những bằng chứng đã bị bóp méo, ém nhẹm và bỏ sót, những nguồn tư liệu bị bỏ sót, và những tuyên bố gây lầm lạc cho độc giả. Nếu các bạn đã đọc Case Closed của Posner thì xin hãy đọc Case Open của Weisberg. Các bạn sẽ ngạc nhiên khi biết ra những thói quen nghề báo của Posner(212) [(Wiesberg, Harold, Case Open (Carol & Graf, 1994))].

Nên ý kiến của chúng tôi là, nếu có bất kỳ ai “chỉ sử dụng bằng chứng hậu thuẫn cho luận điểm của mình” thì đó chính là Posner. Posner vẽ ra bức tranh dễ dàng nhất về những nhận xét của Saundra Spencer về những ảnh chụp bổ sung việc khám nghiệm tử thi JFK, mà không hề khách quan thừa nhận ý nghĩa tiềm tàng của chúng trong một âm mưu che giấu sự thật. Posner vẽ ra bức tranh dễ dàng về chuyện Đô đốc Burkley chuyển bộ não của JFK, mà không khách quan thừa nhận ý nghĩa tiềm tàng của nó trong một âm mưu che giấu sự thật

Sự thực, trong cuốn sách 600 trang của mình, Posner hầu như không có một nhận xét đáng kể về hồ sơ 632-796. Điều này có thể so sánh với việc thuyền trưởng tàu Titanic nhún vai khi biết về tảng băng đang trôi lại gần tàu.

Bọn giang hồ

Mafia Mỹ đã luôn luôn xuất hiện trong những giả thuyết phổ biến nhất về vụ ám sát JFK, và những giả thuyết đó được hậu thuẫn bởi một khối bằng chứng quá hiển nhiên. Đi đầu trong số những kẻ tình nghi lớn là Jack Ruby, Sam Giancana, Santos Trafficante và đặc biệt là Carlos Marcello.

Về Ruby, kẻ giết Oswald, Uỷ ban Warren nhất định rằng không có bằng chứng nào nối kết Ruby với hoạt động tội phạm có tổ chức(213) [T(he Warren Commission Report)] trong khi rất nhiều nhà nghiên cứu uy tín về vụ JFK đã khám phá ra cả núi bằng chứng chứng tỏ điều ngược lại(214) [(Các độc giả quan tâm đến sự dính líu của Ruby với tội phạm có tổ chức nên xem những tài liệu tiêu biểu sau: Reasonable Doubt của Hurt (chương 8), Conspiracy của Summers (chương 23), Mafia Kingfish của Davis (chương 24)].

Mùa hè 1999, đồng tác giả Brad O’Leary của sách này đã gặp Bill Bonanno tại Santa Monica. Bonanno đã viết cuốn Bound by Honor (“Ràng buộc vì danh dự”), một tường thuật tiêu biểu về cuộc đời của ông ta trong giới giang hồ. Bonanno là con trai của Joe Bonanno, một trong những trùm mafia thế lực nhất của thập niên 1960. Bill kể với O’Leary những chuyện mà sau này được xuất bản thành Bound by Honor, rằng các gia đình băng đảng bên ngoài nhóm Marcello-Trafficante-Giancana lập tức biết giới giang hồ đã dính líu vào vụ JFK khi truyền hình quay được cảnh Jack Ruby giết chết Lee Harvey Oswald. “Trong giới chúng tôi ai cũng biết Jack Ruby”, Bonanno nói trong sách của mình như thế. Khi Bonanno gọi vài cú điện, ông ta đã có thể liên lạc được với một đồng sự của Santos Trafficante (ông trùm Florida), người này bảo với ông ta rằng đó là một “chuyện địa phương”, nghĩa là nó không dính đến những gia đình ngoài nhóm và những gia đình ngoài nhóm sẽ được cách ly khỏi các vấn đề có thể nẩy sinh. Về Ruby, Bonanno nói: “Anh ta là của Sam Giancana y như cái nhẫn trên tay lão vậy”. (Thú vị hơn, Bonanno nói với O’Leary rằng ông ta mong được biết về cuốn sách này của chúng tôi trước khi sách của ông ta được in bởi vì nó sẽ bổ sung vài khiếm khuyết trong sách của ông ấy). Cuốn sách của Bonanno cũng đã xác minh mấy điều mà các nhà nghiên cứu đã tin từ lâu, rằng một số thành viên trong Sở cảnh sát Dallas có nhận lương từ trùm Carlos Marcello, nhất là sĩ quan J.D. Tippit. “Cớm Tippit được dự trù là sẽ giết y {Oswald}, nhưng Oswald biết được. Do vậy nên họ xài tới Ruby”. Smitty D’Angelo, một đầu dây liên lạc của Trafficante đã nói như thế với Bonanno ngày 25.11.1963(215) [(Bonanno, Bill, Bound by Honor (St. Martin’s Press, 1999)].

Còn gì nữa về Ruby không?

Theo tác giả John H. Davis (người có những phát hiện về Carlos Marcello mà chúng ta sẽ bàn sau), một trong những nhiệm vụ hàng đầu của Jack Ruby tại Dallas là tìm cách mua chuộc rồi chiêu mộ những sĩ quan cảnh sát Dallas tham nhũng để họ giúp đỡ giới giang hồ; hắn sẽ đưa tiền mặt cho các cảnh sát và cung cấp gái điếm cho họ. Sự thực, Ruby đã giao du thân mật được với cả chục cảnh sát Dallas. Cả nhóm sĩ quan cảnh sát chân chính đã đi lại với nhưng trung gian giang hồ như Ruby là gì? Trả lời: Họ không chân chính; họ nhận hối lộ từ một tay băng đảng làm việc dưới trướng Carlos Marcello. Điều ly kỳ nhất là vào cái đêm trước ngày xảy ra vụ ám sát, một số nhân viên Mật vụ Mỹ đi uống rượu ở một quán tại Dallas. Khi Ruby hay tin này, hắn lập tức phái một số vũ nữ thoát y tới quán đó nhằm lôi kéo các nhân viên đó ở lại chơi lâu hơn và phục rượu cho họ. Đặc biệt, những nhân viên Mật vụ ấy lại nằm trong nhóm bảo vệ cá nhân JFK(216) [(Benson)].

Bản thân Ruby cũng là trường hợp đáng nghiên cứu, nhưng đáng kể hơn lại là những người hắn quen biết và làm việc cho họ: Santos Trafficante, Sam Giancana và Carlos Marcello. Ba người này không chỉ dính líu đến tội phạm có tổ chức, họ chính là tội phạm có tổ chức, các “ông trùm” tại thành phố của họ, các “bố già”, và ba người hợp lại thành một hệ thống phân phối ma tuý toàn quốc, rửa tiền, tổ chức mại dâm, cờ bạc, và mọi hoạt động khác có thể đem tới bóp nặn tiền bạc. Trafficante là trùm băng đảng ở Florida, Giancana là ông chủ của Chicago, và Marcello là trùm ở New Orleans và Dallas. Họ có quan hệ với nhau, và từ lâu đã bị nghi là dính líu đến vụ ám sát Kennedy (Ở đây, Posner lại là người bất đồng với sự nhất trí hầu như trọn vẹn này… nhưng chúng ta cứ để như thế).

Sam Giancana chẳng hạn, cộng tác với CIA, sử dụng những đầu mối Cuba của hắn trong ít nhất một âm mưu ám sát Castro(217) [(Duffy)]. Một số họ hàng của Giancana khẳng định rằng Giancana là nhân vật chính trong vụ ám sát JFK(218) [(Benson)], và hắn ta có một số động cơ mạnh mẽ để muốn Kennedy bị chết, là động cơ thú vị nhất trong đó là điều khẳng định lâu nay rằng chính Giancana và mạng lưới Mafia Chicago đã giả mạo những phiếu bầu trễ ở Illinois có tác dụng đẩy phiếu của Kennedy lên cao trong kỳ bầu cử tổng thống năm 1960(219) [(Roberts, Kill Zone)] trong đó ông ta chỉ thắng cách biệt 118.000 phiếu (một cách biệt rất mong manh trong quy mô bầu cử tổng thống trên toàn quốc). Cảm giác phản bội mà Giancana hẳn đã cảm thấy thì cũng dễ tưởng tượng: sau khi giúp Kennedy đắc cử, Giancana (và các trùm băng đảng khác) đã bị em trai của Kennedy, Bộ trưởng tư pháp Robert Kennedy, liên tục tấn công. Robert quyết biến cuộc sống của Giancana thành cơn ác mộng bằng cách chỉ thị cho FBI thường xuyên giám sát nhân vật này đến mức độ những bạn bè và nhân vật trong thế giới ngầm cảm thấy ngại không muốn đi đâu gần hắn ta nữa(220) [(Duffy)]. (Một phụ chú thú vị: Giancana bị hạ sát khi nằm dưới sự bảo vệ của cảnh sát ngay trước khi hắn ta được đề nigh ra làm chứng trước Uỷ ban tình báo Thượng viện năm 1975)(221) [(Benson)].

Người kế tiếp trong danh sách các trùm băng đảng bị nghi là có tham gia tích cực vào vụ ám sát Kennedy là trùm Miami Santos Trafficante. Trafficante cũng dính líu với CIA trong các âm mưu ám sát Castro(222) [(Benson)]. Trafficante được ghi nhận là đã nhiều lần nói miệng rằng hắn có dính vào âm mưu sát hại JFK(223) [(Benson)]. Lý thú hơn, sáu ngày sau khi JFK chết, một tờ trình được CIA chuyển đến cho Mac Bundy, trợ lý an ninh quốc gia cho Tổng thống Johnson, trong đó xác nhận rằng khi Trafficante bị Castro cầm tù năm 1959, hắn ta đã có người tới thăm và người đó không là ai khác hơn Jack Ruby(224) [(Benson)], điều này rõ ràng xác định mối liên hệ chặt chẽ giữa Jack Ruby với tội ác có tổ chức nói chung, và Trafficante nói riêng (một điều mà Uỷ ban Warren do Johnson thành lập tuyên bố là không tìm ra bằng chứng!). Trên giường bệnh lúc sắp chết, người ta nói Trafficante đã thừa nhận với luật sư của hắn – Frank Ragano – rằng hắn có dính líu vào vụ ám sát JFK cùng với Carlos Marcello(225) [(Benson)]. Điều này đem chúng ta tới điểm kế tiếp…

Lời Thú Tội Của Marcello

Có lẽ hơn hẳn mọi trùm Mafia khác, Marcello đã bị trực tiếp tình nghi là có dính líu tích cực vào vụ ám sát JFK ngay khi bi kịch này xảy ra. Giám đốc FBI J. Edgar Hoover, trong toàn bộ sự nghiệp, đã công khai phủ nhận sự tồn tại của Mafia, nhưng trong bí mật ông ta lại tiến hành một cuộc chiến lớn chống lại Mafia(226) [(Davis)]. Nhưng tại sao phải bí mật? Tại sao không công khai thừa nhận cuộc chiến chống Mafia của mình theo kiểu Robert Kennedy đã làm và được công chúng rất ủng hộ? Có lẽ vì chính Hoover cũng có liên hệ gì đó với giới băng đảng chăng? Có thể vì Mafia biết được chứng đồng tính luyến ái của Hoover và thậm chí chụp được nhiều hình về ông ta chăng? Một giám đốc FBI mà lại phủ nhận sự tồn tại của Mafia thì cũng phi thực tế như một sở cảnh sát phủ nhận sự tồn