Chương 18 BỨC TƯỜNG TRONG CÔNG VIÊN-(Thứ Bảy, 16 tháng Tư; 11 a.m.)
Khi vị bác sĩ kéo thẳng thi thể bà Drukker trên giường và phủ nó lại bằng một tấm vải, chúng tôi quay xuống lầu. Barstead ngay lập tức rời khỏi sau khi hứa sẽ gởi giấy chứng tử cho viên trung sĩ trong vòng một giờ.
“Chính xác theo khoa học mà nói đó là một cái chết tự nhiên do bị sốc,” Vance nói, khi chỉ có riêng chúng tôi; “nhưng vấn đề trước mắt của chúng ta, các anh biết đó, là xác định rõ nguyên nhân gây ra cú sốc đột ngột. Rõ ràng là điều này có liên quan đến cái chết của Drukker. Bây giờ, tôi tự hỏi…”
Đổi hướng một cách hấp tấp, anh đi vào phòng khách. Bà Menzel đang ngồi ở nơi chúng tôi gặp khi nãy, trong một tư thế ngóng chờ khiếp sợ. Vance đi tới chỗ bà ta và nói một cách chân thành:
“Trong đêm qua bà chủ của bà đã chết do suy tim. Và nó sẽ tốt hơn so với việc bà ấy phải sống lâu hơn con trai mình.”
“Gott geb’ ihr die ewige Ruh’!”[*] người phụ nữ lẩm bẩm một cách ngoan đạo. “Ja, đó là điều tốt nhất…”
“Bà ấy chết khoảng 10 giờ tối qua. - Bà còn thức vào lúc đó không, bà Menzel?”
“Tôi thức suốt cả đêm.” Bà ta thấp giọng, sợ hãi nói.
Vance nhìn bà ta với đôi mắt khép hờ.
“Hãy nói cho chúng tôi biết bà đã nghe thấy gì?”
“Có người đã đến đây đêm qua!”
“Đúng, ai đó đã đến đây vào khoảng 10 giờ - bằng cửa trước. Bà có nghe thấy hắn vào không?”
“Không; nhưng sau khi tôi vào giường thì tôi nghe có giọng nói trong phòng anh Drukker.”
“Có bất thường không khi có giọng nói trong phòng anh ta lúc 10 giờ tối?”
“Nhưng đó không phải là anh ta! Anh ta có chất giọng cao, còn giọng nói này thì trầm và cộc cằn.” Người phụ nữ ngước lên trong hoang mang lo sợ. “Và giọng nói khác là của bà Drukker… và bà ấy không bao giờ vào phòng anh Drukker vào ban đêm!”
“Làm thế nào mà bà có thể nghe rõ như thế trong khi cửa phòng bà lại đóng?”
“Phòng tôi ở ngay bên trên phòng của anh Drukker,” bà ấy giải thích. “Và tôi đã lo lắng - tất cả những gì tồi tệ đều đang xảy ra; vì thế tôi ngồi dậy và lắng nghe tiếng bước chân.”
“Tôi không thể đổ lỗi cho bà,” Vance nói. “Bà đã nghe thấy gì?”
“Lúc đầu thì nó giống như là bà chủ đang than van, nhưng ngay lập tức bà ấy bắt đầu cười phá lên, và sau đó người đàn ông nói chuyện như thể giận dữ. Nhưng rất nhanh chóng, tôi cũng nghe hắn cười phá lên. Sau đó có vẻ như quý bà tội nghiệp ấy đang cầu nguyện - tôi có thể nghe bà ấy nói ‘Ôi, Chúa ơi - ôi, Chúa ơi!’ Sau đó người đàn ông nói gì đó nhiều hơn nữa - rất hòa nhã và nhỏ nhẹ… Và trong một thời gian ngắn hình như bà chủ đang - ngâm nga - một bài thơ…”
“Bà có nhận ra bài thơ đó nếu bà được nghe lại lần nữa không?… Có phải là:
#
Humpty Dumpty ngồi trên tường,
Humpty Dumpty ngã khỏi tường…”
#
“Bei Gott, das ist’s[*]! Nó giống như thế!” Một nỗi kinh hoàng mới xuất hiện trên vẻ mặt của người phụ nữ. “Và anh Drukker đã ngã từ trên tường xuống vào đêm qua…”
“Bà còn nghe thấy gì khác nữa không, bà Menzel?” giọng nói bình thường của Vance đã làm gián đoạn mối tương quan lộn xộn của bà ta về cái chết của Drukker với những câu thơ mà bà ta nghe được.
Bà ta chậm rãi lắc đầu.
“Không. Mọi thứ trở nên im lặng sau đó.”
“Bà có nghe thấy tiếng ai đó rời khỏi phòng anh Drukker không?”
Bà ta hoảng sợ gật đầu với Vance.
“Vài phút sau có người mở cửa và đóng cửa lại, rất nhẹ nhàng; và tôi nghe thấy tiếng bước chân di chuyển xuống sảnh trong bóng tối. Sau đó cầu thang phát ra tiếng động, rồi cửa trước nhanh chóng được đóng lại.”
“Sau đó bà làm gì?”
“Tôi lắng nghe một chút nữa, và sau đó tôi trở lại giường. Nhưng tôi không ngủ được…”
“Mọi chuyện bây giờ kết thúc rồi, bà Menzel,” Vance an ủi bà ta. “Không còn gì khiến bà sợ hãi nữa. - Tốt nhất bà nên về phòng mình và chờ cho đến khi chúng tôi cần bà.”
Người phụ nữ miễn cưỡng đi lên lầu.
“Bây giờ tôi nghĩ là,” Vance nói, “chúng ta gần như có thể đoán được những gì đã xảy ra ở đây vào đêm qua. Tên sát nhân lấy chìa khóa của Drukker và vào nhà bằng cửa trước. Hắn biết phòng bà Drukker ở phía sau, và hắn tin chắc sẽ hoàn thành công việc của hắn trong phòng Drukker và đi như cách hắn đã đến. Nhưng bà Drukker nghe thấy hắn. Có thể bà ấy đã liên tưởng hắn với ‘người đàn ông nhỏ thó’ đã để lại quân giám mục đen ở cửa phòng bà ấy, và lo sợ rằng con trai bà ấy đang gặp nguy hiểm. Bất luận thế nào, bà ấy ngay lập tức đi vào phòng của Drukker. Cánh cửa có thể đã hé mở, và tôi nghĩ bà ấy thấy kẻ đột nhập và nhận ra hắn. Hoảng hốt và sợ hãi, bà ấy bước vào và hỏi hắn tại sao hắn ở đây. Hắn có thể đã trả lời là hắn đến đây để báo cho bà ấy biết về cái chết của Drukker - điều đó giải thích cho việc bà ấy than van và cười điên loạn. Nhưng đó chỉ là sự khởi đầu trong nhiệm vụ của hắn - một vở kịch được diễn ra trong lúc này. Hắn đã bày mưu cho cuộc gặp gỡ này - hắn đang lên kế hoạch sẽ giết bà ấy như thế nào! Ồ, không còn nghi ngờ gì nữa. Hắn không thể để bà ấy sống sót rời khỏi căn phòng đó. Có lẽ hắn đã nói thế với bà ấy - hắn nói chuyện ‘như thể giận dữ’, các anh nhớ lại xem. Và sau đó hắn cười phá lên. Lúc này, hắn đang tra tấn bà ấy - có lẽ hắn nói với bà ấy toàn bộ sự thật trong vẻ háo hức của sự cố chấp điên cuồng; và bà ấy chỉ có thể nói ‘Ôi, Chúa ơi - ôi, Chúa ơi!’ Hắn giải thích việc hắn đã đẩy Drukker qua tường như thế nào. Và hắn có đề cập đến Humpty Dumpty không? Tôi nghĩ là có; làm gì có khán giả nào biết thưởng thức trò đùa ghê tởm của hắn hơn là mẹ của nạn nhân? Việc tiết lộ sau cùng này là quá mức với bộ não nhạy cảm của bà ấy. Bà ấy lặp lại bài đồng dao như một câu thần chú trong sự khủng khiếp; và rồi một cú sốc được tích lũy đã làm bà ấy suy tim. Bà ấy ngã xuống giường, và tên sát nhân không cần phải bịt miệng bà ấy bằng đôi tay của hắn. Hắn thấy những gì đã xảy ra, và lặng lẽ chuồn khỏi đó.”
Markham đi qua đi lại trong phòng.
“Phần khó hiểu nhất của thảm kịch đêm qua,” anh ta nói, “là tại sao gã này lại tới đây sau cái chết của Drukker.”
Vance hút thuốc một cách trầm tư.
“Tốt hơn nên nhờ Arnesson giúp chúng ta giải quyết điểm này. Có lẽ anh ta có thể làm sáng tỏ điều này.”
“Đúng, có lẽ anh ta có thể đấy,” Heath phụ họa. Sau khi ngậm điếu xì gà giữa đôi môi được một lúc, anh ta nói thêm một cách ảm đạm: “Có vài người ở quanh đây, tôi nghĩ, có thể đưa ra vài lời giải thích khá hơn.”
Markham do dự trước viên trung sĩ.
“Điều đầu tiên chúng ta nên làm là tìm hiểu những gì mà người của anh biết về hành động của những người khác quanh đây vào đêm qua. Đề nghị anh mang họ đến đây và để tôi hỏi họ. Nhân tiện, có bao nhiêu người đã ở đó? Và nhiệm vụ của họ là gì?”
Viên trung sĩ đứng lên, lanh lẹ và mạnh mẽ.
“Có ba người, thưa anh, ngoài Guilfoyle. Emery được cử đi theo dõi ông Pardee; Snitkin gác ở giao lộ đường Drive và đường số 75 để theo dõi nhà Dillard; và Hennessey gác ở đường số 75 gần đại lộ West End. - Họ đều đang đợi ở nơi mà Drukker được tìm thấy. Tôi sẽ gọi họ đến đây ngay tức thì.”
Anh ta biến mất ở cửa trước, và chưa đầy năm phút thì anh ta trở lại cùng với ba thám tử. Tôi nhận ra tất cả bọn họ, mỗi người từng làm việc trong một hay nhiều vụ mà Vance đã tham gia[*]. Markham hỏi Snitkin đầu tiên như là khả năng cao nhất có được thông tin liên quan trực tiếp đến vụ việc đêm qua. Những điểm sau được đưa ra từ lời khai của anh ta:
Pardee ra khỏi nhà ông ta lúc 6.30 và đi thẳng tới nhà Dillard.
Lúc 8.30 Belle Dillard, trong bộ đồ dạ hội, đã lên một chiếc taxi và đi tới đại lộ West End. (Arnesson ra khỏi nhà với cô ấy và giúp cô ấy lên taxi, nhưng lại trở vào nhà ngay.)
Lúc 9.15 giáo sư Dillard và Drukker rời khỏi nhà Dillard và chậm rãi đi bộ tới đường Riverside Drive. Họ băng qua đường Drive tại đường số 74, và đi vào đường xe ngựa.
Lúc 9.30 Pardee rời khỏi nhà Dillard, đi bộ đến đường Drive, và rẽ lên phố trên.
Hơn 10.00 một chút, giáo sư Dillard trở về nhà một mình, băng trở lại đường Drive ở đường số 74.
Lúc 10.20 Pardee trở về nhà, đi từ cùng một hướng mà ông ta đã đi lúc ra ngoài.
Belle Dillard được đưa về nhà lúc 12.30 trong chiếc limousine đầy những người trẻ.
Hennessey là người tiếp theo được hỏi; nhưng chứng cứ của anh ta cũng chỉ chứng minh chứng cứ của Snitkin. Không ai tiếp cận nhà Dillard từ hướng đại lộ West End; và không có gì khả nghi xảy ra cả.
Markham sau đó chuyển sự chú ý của anh ta lên Emery, người đã báo cáo, theo Santos là người đã đổi gác với anh ta lúc 6 giờ, rằng Pardee đã dành thời gian đầu giờ chiều tại câu lạc bộ cờ vua Manhattan và quay về nhà vào khoảng 4 giờ.
“Sau đó, như Snitkin và Hennessey đã nói,” Emery tiếp tục, “ông ta tới nhà Dillard lúc 6 giờ rưỡi, và ở lại đó tới 9 giờ rưỡi. Khi ông ta đi ra thì tôi liền theo sau, giữ khoảng cách nửa khu nhà hoặc đi phía sau ông ta. Ông ta đi từ đường Drive tới đường số 79, băng qua công viên phía trên, và đi bộ quanh bồn cỏ lớn, qua những tảng đá, và hướng về câu lạc bộ du thuyền…”
“Ông ta có đi trên con đường nơi Sprigg bị bắn không?” Vance hỏi.
“Ông ta phải đi. Không có con đường nào khác theo lối đó trừ phi anh đi bộ dọc theo đường Drive.”
“Ông ta đi bao xa?”
“Sự thật là, ông ta dừng lại ngay tại nơi Sprigg bị giết. Rồi ông ta quay lại theo con đường mà ông ta đã đi và rẽ vào công viên nhỏ có sân chơi ở phía nam đường số 79. Ông ta đi bộ chậm rãi dưới hàng cây dọc theo đường xe ngựa; và khi ông ta đi dọc theo bờ tường đến chỗ hồ nước, ông ta tình cờ gặp ông lão và anh gù, đang ngồi nghỉ trên gờ tường và nói chuyện…”
“Anh nói ông ta đã gặp giáo sư Dillard và Drukker ở ngay nơi mà Drukker té từ trên tường xuống phải không?” Markham chồm tới trong hy vọng.
“Đúng, thưa anh. Ông Pardee dừng lại để chào hỏi họ; và tôi tiếp tục đi một cách tự nhiên. Khi tôi đi ngang qua họ thì tôi nghe anh gù nói: ‘Sao ông không luyện cờ vua tối nay?’ Và tôi thấy có vẻ như anh ta không thích việc ông Pardee dừng lại, và gợi ý rằng anh ta không muốn thế. Dù sao thì, tôi đã đi thong thả dọc theo bức tường cho tới khi tôi đến đường số 74 nới có vài cái cây để ẩn mình…”
“Làm thế nào mà anh có thể thấy ông Pardee và anh Drukker sau khi anh đi tới đường số 74?” Markham ngắt lời.
“À, thưa anh, để tôi cho anh biết sự thật, tôi không thể nhìn thấy bọn họ mọi lúc. Có khá nhiều sương mù lúc đó, và không có đèn đường tại khu đi bộ đó nơi họ nói chuyện. Nhưng tôi nghĩ Pardee sẽ đi sớm thôi, nên tôi chờ ông ta.”
“Hẳn phải tới 10 giờ.”
“Khoảng mười lăm phút sau, tôi nghĩ thế, thưa anh.”
“Có bất kỳ ai đi bộ lúc đó không?”
“Tôi không thấy ai cả. Sương mù hẳn đã đẩy họ vào nhà - đó không phải là một buổi tối ấm áp dễ chịu. Và đó là lý do vì sao không có ai xung quanh khi tôi đã đi xa như thế. Ông Pardee không phải là kẻ ngốc, và tôi đã bắt gặp cái nhìn của ông ta một hai lần như thể ông ta nghi ngờ tôi đang theo dõi ông ta.”
“Bao lâu trước khi anh lại theo dõi ông ta?”
Emery thay đổi tư thế.
“Việc suy đoán của tôi vào đêm qua không tốt lắm,” anh ta thú nhận, với một nụ cười nhạt. “Ông Pardee hẳn phải trở lại con đường mà ông ta đã đến và lại băng qua đường Drive ở đường số 79; khoảng nửa giờ hoặc lâu hơn tôi thấy ông ta về nhà đứng trước đèn của khu nhà ở đường số 75.”
“Nhưng,” Vance xen vào; “nếu anh đã ở lối vào công viên trên đường số 74 cho tới 10 giờ 15 anh phải thấy giáo sư Dillard đi ngang qua anh. Ông ấy về nhà lúc 10 giờ bằng con đường đó.”
“Chắc chắn rồi, tôi đã thấy ông ấy mà. Tôi đứng đợi ông Pardee khoảng hai mươi phút khi giáo sư đi dạo một mình dọc theo con đường, băng qua đường Drive, và về nhà. Tôi vốn nghĩ ông Pardee và anh gù vẫn đang nói chuyện phiếm, - đó là lý do tại sao tôi cứ từ từ và không quay lại kiểm tra.”
“Sau đó, như tôi hiểu, khoảng 15 phút sau khi giáo sư Dillard đi ngang qua anh, anh đã thấy ông Pardee trở về nhà theo hướng ngược lại dọc theo đường Drive.”
“Đúng vậy, thưa anh. Và, dĩ nhiên, tôi tiếp tục việc canh gác của mình ở đường số 75.”
“Emery, anh có nhận thấy,” Markham nghiêm trang nói, “rằng trong suốt thời gian anh chờ ở đường số 74 thì Drukker đã ngã xuống tường.”
“Có, thưa anh. Nhưng anh không đổ lỗi cho tôi, phải không? Theo dõi một người trong một đêm đầy sương mù trên một con đường vắng vẻ khi không có ai xung quanh che chắn cho anh, là công việc không dễ dàng gì. Anh phải chấp nhận may rủi và trông chờ một chút nếu anh không muốn bị phát hiện.”
“Tôi hiểu khó khăn của anh,” Markham nói với anh ta; “và tôi không chỉ trích anh.”
Viên trung sĩ giải tán ba thám tử một cách cộc cằn. Rõ ràng là anh ta không hài lòng với báo cáo của họ.
“Chúng ta càng đi xa,” anh ta phàn nàn, “thì vụ này càng bế tắc.”
“Sursum corda[*], trung sĩ,” Vance cổ vũ anh ta. “Đừng để bóng tối tuyệt vọng đánh bại anh. Khi chúng ta có lời khai của ông Pardee và giáo sư giống như những gì đã xảy ra trong lúc Emery đã theo dõi và chờ đợi trên đường số 74, chúng ta có thể làm cho một vài thứ thú vị ăn khớp với nhau.”
Khi anh nói thì Belle Dillard bước vào sảnh từ phía sau của ngôi nhà. Cô ấy nhìn thấy chúng tôi trong phòng khách và bước đến ngay.
“Quý bà Mae đâu rồi?” Cô ấy hỏi với giọng lo âu. “Tôi đã ở đây vào một giờ trước, và bà Grete nói với tôi là bà ấy đã ra ngoài. Và giờ thì bà ấy không có ở trong phòng của bà ấy.”
Vance đứng lên và đưa ghế của mình cho cô ấy.
“Bà Drukker chết vào đêm qua vì bị suy tim. Trước đó khi cô ở đây thì bà Menzel đã lo sợ nên không để cho cô lên lầu.”
Cô gái lặng lẽ ngồi xuống một lát. Chẳng mấy chốc những giọt nước mắt đã tuôn ra từ đôi mắt cô ấy.
“Có lẽ bà ấy đã nghe về tai nạn khủng khiếp của Adolph.”
“Có thể. Nhưng không hoàn toàn rõ ràng về chuyện xảy ra ở đây đêm qua. Bác sĩ Barstead nghĩ bà Drukker đã chết vào khoảng 10 giờ.”
“Gần như cùng thời điểm Adolph chết,” cô ấy thì thầm. “Có vẻ quá khủng khiếp… Ông Pyne đã nói với tôi về tai nạn ấy khi tôi xuống dùng bữa điểm tâm vào sáng nay, - mọi ngưởi trong khu phố đều đang nói về nó, - và ngay lập tức tôi qua tìm quý bà Mae. Nhưng bà Grete nói bà ấy đã ra ngoài rồi, và tôi không biết phải nghĩ gì nữa. Có điều gì đó rất kỳ quặc về cái chết của Adolph…”
“Ý của cô là gì, cô Dillard?” Vance đứng bên cửa sổ ngầm quan sát cô ấy.
“Tôi… không biết… mình muốn nói gì nữa,” cô ấy trả lời ngắt quãng. “Nhưng chỉ chiều hôm qua quý bà Mae có nói với tôi về Adolph và bức tường…”
“Ồ, bà ấy đã nói thế, vào lúc đó sao?” giọng nói của Vance lơ đãng hơn bình thường, nhưng mọi dây thần kinh trong cơ thể anh, theo tôi biết, đều đang tỉnh táo cảnh giác.
“Trên đường tôi tới sân quần vợt,” cô gái nói tiếp, hạ thấp giọng, “tôi đi dạo với quý bà Mae dọc theo đường xe ngựa trên sân chơi - bà ấy thường tới đó để trông chừng Adolph chơi với lũ trẻ - và chúng tôi đứng một lúc lâu dựa vào lan can bằng đá của bức tường. Một nhóm trẻ con tụ tập xung quanh Adolph: anh ấy có máy bay đồ chơi và cho chúng xem cách nó bay như thế nào. Và những đứa trẻ dường như coi anh ấy là một phần của chúng; chúng không xem anh ấy là một người lớn. Quý bà Mae đã rất hạnh phúc và tự hào về điều đó. Bà nhìn anh ấy bằng đôi mắt sáng ngời, và sau đó bà nói với tôi: ‘Belle à, chúng không sợ thằng bé vì nó bị gù. Bọn trẻ gọi thằng bé là Humpty Dumpty - đó là người bạn thân trong quyển sách kể chuyện. Humpty Dumpty tội nghiệp của ta! Tất cả là lỗi của ta vì đã để thẳng bé té khi nó còn nhỏ.’…” Giọng cô gái ấp úng, và cô ấy lấy khăn tay lau nước mắt.
“Vậy bà ấy đã đề cập với cô chuyện lũ trẻ gọi Drukker là Humpty Dumpty.” Vance chậm rãi đưa tay vào túi áo để lấy hộp thuốc lá.
Cô ấy gật đầu, và một lúc sau lại ngẩng đầu lên như thể chính bản thân cô ấy bị buộc phải đối mặt với thứ mà cô ấy sợ hãi.
“Đúng vậy! Và có gì đó rất lạ; sau một lúc thì bà ấy rùng mình và lùi ra khỏi bức tường. Tôi hỏi bà ấy có chuyện gì, và bà ấy nói trong sự hãi: ‘Giả sử, Belle à - giả sử là Adolph sẽ té từ trên bức tường này xuống - như cách mà Humpty Dumpty thật đã bị!’ Tôi hơi sợ hãi; nhưng tôi cố gắng nở một nụ cười, và bảo là bà ấy thật vớ vẩn. Mặc dù, điều đó chẳng đem lại tốt lành gì. Bà ấy lắc đầu và lạnh lùng nhìn tôi. ‘Ta không vớ vẩn,’ bà ấy nói. ‘Không phải Chim Cổ Đỏ đã bị giết bằng một cây cung và mũi tên sao, và không phải Johnny Sprig đã bị bắn bằng một khẩu súng nhỏ - ngay đây ở New York sao?”’ Cô gái nhìn chằm chằm chúng tôi đầy sự hãi. “Và nó đã xảy ra, phải không - giống như bà ấy đã biết trước?”
“Đúng, nó đã xảy ra,” Vance gật đầu. “Nhưng chúng ta không được làm cho nó trở nên thần bí. Trí tưởng tượng của bà Drukker là không bình thường. Tất cả những cách thức phỏng đoán điên cuồng đang thông qua bà ấy tra tấn tâm trí bà ấy; và với hai cái chết liên quan đến Mẹ Ngỗng quá sống động trong trí nhớ bà ấy, cũng không có gì lạ khi bà ấy liên tưởng đến biệt hiệu mà lũ trẻ đặt cho con trai bà ấy vào một thảm kịch suy đoán cùng loại như thế. Việc anh ta thực sự bị giết bằng cách thức mà bà ấy đã lo sự không gì khác hơn là một sự trùng hợp…”
Anh dừng lại và hút thuốc một hơi thật sâu.
“Này, cô Dillard,” anh hỏi một cách lơ đãng, “cô có tình cờ kể lại cuộc đối thoại với bà Drukker cho bất kỳ ai vào hôm qua không?”
Cô ấy nhìn anh với sự ngạc nhiên trước khi trả lời.
“Tôi đã kể ra trong bữa cơm tối hôm qua. Nó làm tôi lo lắng cả buổi chiều, và - không biết làm sao - tôi không muốn giữ nó cho riêng mình.”
“Có ai bình luận về nó không?”
“Bác tôi nói tôi không nên dành quá nhiều thời gian với quý bà Mae - bà ấy ốm yếu và đầy bệnh tật. Bác ấy nói tình cảnh này rất đau buồn, nhưng điều đó là không cần thiết đối với tôi trong việc san sẻ nỗi đau của quý bà Mae. Ông Pardee đồng ý với bác tôi. Ông ấy rất thông cảm, và nói không phải cái gì cũng có thể giúp ích cho trạng thái tinh thần của quý bà Mae.”
“Còn anh Arnesson?”
“Ồ, Sigurd chẳng bao giờ nghiêm túc về chuyện gì cả, - đôi khi tôi ghét thái độ của anh ấy. Anh ấy cười phá lên như thể đó là một trò đùa; và tất cả những gì anh ấy nói là: ‘Đó sẽ là một sự xấu hổ nếu Adolph ngã nhào xuống trước khi anh ta giải quyết xong vấn đề lượng tử mới.’”
“Nhân tiện, anh Arnesson bây giờ có ở nhà chứ?” Vance hỏi. “Chúng tôi muốn hỏi anh ta về sự sắp xếp cần thiết có liên quan đến gia đình Drukker.”
“Anh ấy đến trường đại học vào sáng sớm nay; nhưng anh ấy sẽ trở về trước bữa trưa. Anh ấy sẽ lo mọi việc, tôi chắc chắn như thế. Quý bà Mae và Adolph chỉ có chúng tôi là những người bạn. Tôi sẽ chịu trách nhiệm trong thời gian chờ đợi và phụ bà Grete sắp xếp những việc trong nhà.”
Vài phút sau chúng tôi để cô ấy ở đó và đi gặp riêng giáo sư Dillard.
Chú Thích:
[*] Hennessey từng theo dõi bác sĩ Drumm trong biệt thự nhà Greene từ Narcoss Flats, trong vụ án mạng Greene. Snitkin cũng từng tham gia vào cuộc điều tra Greene, và đóng một vai trò nhỏ trong cả hai vụ Benson và Chim Hoàng Yến. Emery nhanh nhẹn là thám tử đã tìm ra điếu thuốc bị dập tắt từ bên dưới đống gỗ cháy trong phòng khách của Alvin Benson.
[*] Tiếng Latin: Hãy lạc quan lên.
[*] Nữ thần mê cung trong thần thoại Hy Lạp.
[*] Crete: một đảo của Hy Lạp. Theo thần thoại đây là nơi vua Minos, cha của nữ thần mê cung Ariadne, cai trị.