KHÔNG ĐÓ THÌ ĐÂY Phóng sự-♦-
Dưới đề mục này, thường đặt ở đầu các số TBTVCN trong năm 1940, Vũ Bằng viết dưới bút danh Tiêu Liêu, đề cập đến các chuyện thời sự trong tuần trước. Các kỳ đăng tập hợp được, tôi xếp chung thành một bài lớn, nhưng có ghi xuất xứ của từng kỳ đăng báo. (CHÚ THÍCH CỦA NGƯỜI SƯU TẦM)
Thứ hai – Vì lúc này nước Pháp không thể cung cấp hộ như trước nữa, nên Đông Dương phải chịu lấy món tiền về hải lục không quân, mà riêng xứ Nam Kỳ phải trả 2 triệu 200 nghìn đồng về việc đó. Số tiền đó, kiếm đâu ra? Báo Effort bàn nên đánh thuế những anh chàng nhiều vợ.
Hay! Nhưng sao lại bất công như thế, chỉ đánh những anh nhiều vợ mà thôi? Tôi tưởng ta nên bàn với Chính phủ ở đây đánh thuế cả những ả nhiều chồng, và nếu cần thì đánh thuế cả những anh chàng chị chàng đã lớn tuổi mà không có vợ có chồng nào cả. Những hạng sau này là hạng “trốn nợ” không muốn đẻ con giúp nước.
Còn hạng đàn ông nhiều vợ, tôi tưởng không những đáng thưởng mà thôi, trái lại, lại còn nên khuyến khích là khác nữa. Vả lại, nhiều vợ, cái kiếp anh đàn ông đã khổ lắm lắm rồi, bây giờ lại đánh thuế nữa thì tội nghiệp cho họ quá!
Thứ ba và Thứ Tư − Ở Biên Hoà, Nguyễn Văn Xòn 57 tuổi, mù cả hai mắt, có một người vợ trẻ mê một chú tên là Xuông. Một hôm, Xòn đi chơi về nghe thấy tiếng Xuông với tiếng vợ mình ở trong phòng, Xòn giận quá, xông vào phòng và tóm được cả đôi gian phu dâm phụ, đâm vào hông và bụng bị thương khá nặng.
Mù cả hai mắt mà tóm được cả gian phu dâm phụ, Nguyễn Văn Xòn thực là tài. Mà xem như thế thì lắm khi có con mắt cũng chẳng làm gì cả…
Xem như chuyện anh thầy bói sáng ở Ninh Bình mới đây thì biết. Lý Đ. ở phố Phúc Sơn đương bị bệnh tình day dứt một hôm tìm đến một ông lốc cốc (chết) tử chết tiệt để xem. Ông này sáng cả đôi mắt hùng hồn phán cho con bệnh biết rằng ông ta bị ma Mường làm, nếu không chữa ngay lập tức thì còn ba hôm nữa chết. Lý Đ. không nhịn được cười và cũng không nhịn được tức, sẵn gậy của thày bói đấy, bèn giả vờ như bị ma Mường làm thực, đánh đá lung tung và hơn nữa, cứ đầu thày bói mà phang lia lịa. Sau thấy có một cuốn sách chữ Hán để đó, Lý Đ. bắt anh thày bói sáng kia phải đọc mấy chữ để xem thì té ra là… Thưa các ngài, anh thày bói sáng ấy cúi xuống lạy con bệnh và thú thực rằng mình chỉ là một anh.. hàng phở thất học từ năm lên một!
Anh thày bói sáng nọ, thoát nạn phen này, làm gì mà chẳng muốn chọc đôi con mắt cho đui để nói và làm “bách phát bách trúng” như Nguyễn Văn Xòn trong Biên Hoà.
Thứ Năm và Thứ Sáu – Hôm 22, hai quan viên là B. và T. cao hứng vào chơi nhà đào H. ở Bắc Giang và hát xong định đánh bài “tẩu mã” nhưng không được, hai vị quan viên nọ bị cô đầu xé rách áo tan tành và đành phải cởi trần trùng trục như Hứa Chử và mang một mối hận thiên thu ra về.
Bị cô đầu đánh rồi lại bị cô đầu lột áo quần, cái nghề quan viên ở đất này rõ là bị coi thường và bị “bóc lột” quá, còn chờ gì mà không họp nhau lại thành ái hữu để “củng cố” cô đầu và đối phó lại với họ những khi bị “lột”?
Thứ Bảy – Cụ Lê Chúc, quán làng Phúc Lộc thuộc phủ Diễn Châu ở Nghệ An nhờ trời phù hộ đã được 50 tuổi, nhưng vẫn chưa có cậu con trai nào để nối dõi sau này. “Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại”, ông bèn bàn với cụ bà lấy một ả hầu non đấm bóp, nhưng chết một cái cụ bà lại hay ghen, thành thử hợp ước vẫn chưa bao giờ ký cả. Tức mình, cụ Lê Chúc bèn đi ăn thịt chó cho hả giận và ở cửa hàng thịt chó, cụ gặp một cô hàng rượu thật ngon, – ngon cả người và ngon cả rượu. Cụ bèn dùng lối đại tấn công chớp loáng tán luôn và chỉ ít câu sau, ở một cái “pô-pốt” [1] kia, cụ và cô đã chung sống một cuộc đời tươi đẹp và phóm phém. Bất ngờ cụ bà biết. Và rình đúng lúc cụ ông say đương ngâm câu: “Còn giời, còn nước, còn non, Còn cô bán rượu, anh còn say sưa”, thì bà cụ xông vào hét lên ba tiếng và xé quần xé áo cụ ông trần ra như nhộng.
Vừa giận, vừa xấu, cụ Lê Chúc về nhà nhất định bắt chước luôn những anh quá khích hồi trước ở các nước, tuyệt thực để phản đối chính phủ, − cái chính phủ “ma phăm”.[2] Ba ngày liền cụ không ăn gì cả mà chính phủ vẫn không chịu nhượng bộ, cụ Lê Chúc tức quá bèn lên gác ba từng thiết lễ cúng tổ đường và cha mẹ xong, quẳng bát hương thờ tổ xuống gác và treo cổ lên xà nhà tự tử.
Tự tử? Thế mới rắc rối tơ. Muốn tránh tội bất hiếu, nên bàn với vợ lấy vợ lẽ cho mình có con. Ông già Chúc đã chẳng có con thì chớ lại chết quách nữa, thành ra bất hiếu một lần không muốn lại muốn bất hiếu hai lần. Và biết đâu đấy? chẳng bất hiếu ba lần, bất hiếu bốn lần, vì ông ta để những hai vợ ở lại trên trần thế… bồ côi bồ cút.
Chỉ nên lấy làm lạ sao ông già kia lại vớ vẩn đập bát hương thờ tổ trước khi treo cổ lên xà nhà? Người ta nghi rằng ông già Chúc không biết câu hát “Gái kia chồng chẳng nằm cùng; Tức giận đùng đùng ném…chó xuống ao”, nên mới làm một cái cử chỉ… bất hiếu thứ năm như thế! Nghĩ mà buồn!
TIÊU LIÊU
Trung Bắc tân văn chủ nhật, Hà Nội, s. 30 (22/9/1940)
Thứ hai – Vừa rồi quan Thống sứ Bắc Kỳ vừa gửi một tờ thông tư nhờ các quan đầu tỉnh để ý đến lối dùng chữ đề biển của các nhà giồng răng. Theo điều nhận thấy của ngài thì một số nhà trồng răng Khách và ta, muốn quảng cáo cho cửa hàng cửa họ, đã dùng những chữ to quá, – như chữ nha y sĩ (chirugien dentiste) chẳng hạn – để cốt bịp bọn người. Quảng cáo như vậy là nói phét. Quảng cáo như vậy là lạm dụng. Không thể được nữa, cái lối quảng cáo đó phải trừ cho tiệt hết đi.
Thứ ba – Thấy tờ thông tư như thế, nhiều người lấy làm lo cho những ông lang băm lang bổ ở đây, không giỏi chữa bệnh, nhưng giỏi làm những quảng cáo dùng toàn những chữ “đao to, búa lớn”.
Tuy vậy, ta phải nhận rằng cái lối quảng cáo đó, các ông lang ta độ này đã thấy đỡ rồi, nhưng một hạng người nói phét mới đây lại hiện ra và làm cho người ta khổ vì những thứ quảng cáo kêu vang như sấm nổ (hay một chữ cũng na ná thế). Đó là những ông văn sĩ của những nhà xuất bản “ma chơi” tự mình viết những quảng cáo ca tụng mình. Mà những quảng cáo đó như thế nào?
− Đây là một tác phẩm mà dịch giả, ông Mỗ, đã không cầm được nước mắt khi chữa lại épreuves. [3]
− Đây là một cuốn truyện mà chính tác giả, ông Mỗ cũng phải nhận là hay nhất trong những tác phẩm mình đã viết…
− Cuốn văn mà ông Mỗ dịch đây là một cuốn tiểu thuyết mà chính ông Mỗ đã phải nhận là hay nhất…
… Tuồng như là ông Mỗ dùng để làm unité [4] đo sự hay dở của văn chương nước khác y như lúc nhỏ ta đã học: “Le litre est l’unité des mesures de capacité” [5] vậy.
Thứ tư – Nghề văn bằng quảng cáo hay ho được đến thế, ta cũng nên lấy làm mừng. Duy chỉ có những ông bán dầu “cù là” trên xe lửa phen này thật là tha hồ mà lo, – lo có một bọn người trong xã hội xưa nay vẫn có tiếng là có ăn học ra tranh mất cái nghề: “Dầu cù là… nào! Trong uống ngoài xoa, mua một biếu một, các người chớ có bỏ lỡ một dịp may hiếm có!”
Thứ năm – Xã Cự Linh, phủ Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh vừa xẩy ra một chuyện thày dậy võ vụt một gậy vào đầu Nguyễn Xuân Tảo tức thì người trò ấy trở vào nhà thương được ba ngày thì chết.
Nhiều người đọc kiếm hiệp nghe thấy tin này đều lấy làm hồi hộp và đã đi hỏi dò cho kỳ được cái tên thầy võ kia đã đánh cái miếng gì mà hay thế, hay hơn cái miếng “kim kê sao nguyệt hoãn” ở trong truyện kiếm hiệp và võ hiệp vẫn đăng trên các báo hàng tuần và hàng ngày nữa.
Thứ sáu – Nói đến chuyện võ hiệp và kiếm hiệp tung phép lên giời và thả ra những cái hồ lô biết bay, ta không thể quên nói đến tàu bay Nhật ở quân đội Quảng Đông hôm 23 đây, bay lượn ở trên đất Bắc Kỳ. Các máy bay ấy không định bay đến địa phận Hà Nội. Còi báo động kéo lên hai bận gần như liên tiếp nhau. Bận thứ nhất từ 12 giờ 15 đến 12 giờ 47 phút; bận thứ hai từ 12 giờ 55 đến 2 giờ kém 15 mới lại có còi báo hết. Thành phố Hà Nội, Sơn Tây, Bắc Giang, Hà Đông, Bắc Ninh đều có báo động và nhốn nháo cả lên. Mọi nhà đều đóng cửa. Nhưng có một điều rất đáng phàn nàn là ở Hà Nội và các tỉnh khác một số đông đàn bà con trẻ và cả đàn ông nữa, không biết trọng trật tự, cứ đứng nghễu nghện ra giữa đường mà cười nói om xòm, có ông lại nghếch mũi lên giời để xem “Dựt-pổn phi ký” là khác nữa. Họ không sợ? Họ không sợ mất mũi của họ, cái đó đã đành rồi, nhưng họ có biết đâu rằng họ làm như thế tức là làm hại cả đến sự trật tự chung.
Nói tóm lại, bao nhiêu việc đáng tiếc đó sở dĩ xảy ra chẳng qua là vì những người ấy không biết gì cả; họ không biết bom đạn tai hại như thế nào. Và cũng bởi họ điếc. Điếc không sợ súng!
Thứ bảy – Sáu giờ sáng hôm 24/9/40, lại có còi báo động, từ 6 giờ kém 5 đến 8 giờ rưỡi hết. Và luôn hai hôm 25 và 26/9/40 cũng lại có còi báo động nữa. Sở dĩ có còi báo động luôn như thế là vì có phi cơ Nhật Bản bay lượn ở trên thành phố Hải Phòng và đến gần Hà Nội.
Theo đúng hợp ước, quân Nhật đã tới Hải Phòng ngày thứ năm 26/9/40. Lúc báo này lên khuôn, tình thế đã yên. Sự hiểu nhầm đáng tiếc đã dàn xếp xong: những xe bò đồ đạc đem đi lánh nạn đã lại lù lù dẫn về, những ông quần soóc dắt dao găm và những bà búi tóc ngược mặc giả làm đàn ông hùng dũng tợ… chạy về quê trốn tránh đã lần lượt kéo nhau ra tỉnh để làm ăn như thường. Mà cả các cô trốn nhà đi lánh nạn với trai ở… phòng ngủ cũng đã về với bố mẹ anh em ở nhà. Đó là điều nên mừng nhất!
TIÊU LIÊU
Trung Bắc tân văn chủ nhật, Hà Nội, s. 31 (6/10/1940)
Thứ hai – Sang đến tuần lễ vừa qua tình hình trong nước ta đã yên lắm, không còn như tháng trước. Ngày 7 Octobre, các trường công đã mở cửa để đón học trò. Phố xá lại sáng sủa như thường. Cảnh buôn bán lại sầm uất. Quân lính còn lại ở Lạng Sơn đã trở về. Theo đúng hợp ước, phi cơ Nhật đã đến trường bay Gia Lâm và quân Nhật đã đóng ở Hải Phòng.
Những người bị nạn bom ở đó đã được làm lễ an táng chu tất lắm. Các quan chức Nhật nói sẽ đền tiền cho những người bị nạn bom nổ ở Hải Phòng. Hải Phòng lại sống trong một không khí yên vui ngày trước. Khắp mọi nơi, người hiếu kỳ đều muốn đến xem cái thành phố nhộn nhịp kia và những hiệu cao lâu, những cửa hàng buôn bán lại được dịp làm ăn sầm uất. Cố nhiên là có nhiều nhà lợi dụng lúc này để đầu cơ. Những bọn đầu… trộm đuôi cướp lúc này không hoành hành được mấy tý bởi vì họ đã bị liệt vào bọn “thanh tích bất hảo” và đem đi an trí một chỗ rồi. Nhưng ai đã đi qua ểai Phòng, nhất là vào hồi này, thì cũng đều phải nhận rằng bọn “chạy” hoành hành dữ quá: chúng nó ăn cắp một cách rất công nhiên đến nỗi bắt không xuể nữa.
– Đó là vì túng đói mới phải sinh ra như thế, cái đó đã đành rồi, nhưng ta không thể không nhận rằng chúng nó mà hư hỏng như thế cũng tại vì lười biếng. Cho nên ai thì không biết, chứ riêng tôi thì tôi cho cái nạn “chạy” đó, lúc này hơn cả bao giờ, ta phải trừ cho thật tiệt đi!
– Bắt bỏ tù? Vô ích!
– Cho lên nhà Trừng giới để dạy dần dần? Chưa chắc đã có kết quả đâu!
Âu bằng, từ giờ trở đi, ta cứ xin nhà chức trách thi hành một chính sách rất gắt gao mà thực tế vì tôi nghĩ rằng dù xấu đến đâu, dù đến nghiện thuốc phiện là khó bỏ nhất, mà cứ thẳng tay để trị thì đâu cũng vào đó hết.
Một nước muốn tiến không thể do dự được. Vậy kể từ bọn chạy trở đi ta phải thi hành một lối trừng trị rất gay go là vì bắt được tên ăn cắp nào lần thứ nhất thì bắt nó vén tay lên để ta tràm một chữ “cược” vào là tốt nhất. Đến lần thứ hai, nếu như nó không chừa, ta tràm hai chữ “cược” vào ngực, mà nếu nó vẫn không chừa nữa thì cái hình phạt cuối cùng lúc ấy sẽ giở ra là ta lấy ngay cái trán nó mà tràm hai chữ “cược”. Có gọi là đến chết cũng không rửa được nhục nhé!
Mà chúng ta, chúng ta, lúc ấy, dại gì mà thấy một người có ba chữ “cược” khắc toét toè loe trên trán, chúng ta lại chẳng đưa hai tay vào túi mà đề phòng quân “chạy”! … cho những đồ vật hay tiền bạc trong túi ta đừng chạy đi?
Thứ ba – Theo các báo Pháp thì năm nay có lẽ không có phần thưởng của Hàn lâm viện Goncourt tặng cho các văn sĩ Pháp.
Kiểm duyệt bỏ
Vả lại, từ khi ông Rosny ainé [6] tạ thế, thì chỉ còn có 9 ông Hàn trong viện Hàn lâm Goncourt mà thôi, 9 ông này lại ở rải rác khắp nước Pháp. Ông Sacha Guitry hiện ở Paris, các ông René Benjamin, Lucien Descaves và Rosny jeune cũng ở tại những miền bị chiếm. Ông Leo Largnier thì ở tại quận Gard. Ông Léon Daudet hiện ở gần Limoges, Ông Jean Ajalbert ở Cantal, còn Ông Roland Dorgeles thì hiện ở Marseille. Ông Francis Carco, hiện ở Nice, viết rằng: “Phải có chiến tranh và những sự thay đổi như thế này thì các văn sĩ và nghệ sĩ mới nhớ nơi cố lý”. Thật là một câu nói đượm một vẻ buồn triền miên cho số phận con nhà cầm bút và ta thấy đầy một tấm lòng thương xót nhau, mến yêu nhau.
Nhưng đó là nói về văn sĩ Pháp. Còn văn sĩ ta?
Văn sĩ ta trong lúc thế giới đương trải nạn chiến tranh thảm khốc, nhờ trời vẫn được bình yên, chưa được gột rửa khối óc và biết đến “lòng thương” là thế nào nên chỉ ra công mà chiến… thuốc phiện ở những tiệm hút công khai và nói khoác nếu không phun ra những nọc căm tức và đố kỵ!
Thuốc phiện dăm ba điếu vào rồi, họ coi trời bằng vung cả, và bất cứ nói đến một kẻ có tiếng tăm nào, họ cứ dương cái mắt trắng dã, vêu cái môi thâm hay hất cái đầu bù bù mà “xổ toẹt” cả, chỉ bởi một lẽ những kẻ có tiếng ấy không vào một “cờ-lăng” [7] với họ. Họ có biết đâu làm như thế là bỉ ổi? là hèn? là thấp kém?
Cái tài của người ta, phải đâu chỉ ở chỗ quảng cáo thật trơ, mà cũng không do ở chỗ “hạ” người khác xuống. “Hạ người khác xuống thì trời lại nâng họ lên cao” câu ấy đã viết ở Sấm truyền,[8] họ đã từng ngã vào mấy trang truyện ngắn của Stephan Zweig [9] sao lại còn không biết. Cho nên dù tôi sợ chiến tranh đến thế nào đi nữa mặc dầu, tôi cũng cứ phải nhận rằng chiến tranh tuy vậy cũng đã làm ích cho văn sĩ và nghệ sĩ không phải nhỏ. Biết bao giờ cho mấy ông văn sĩ chỉ biết nằm tiệm kia mở mắt mà nhìn thấy sự thay đổi ở Âu châu?
Thứ tư – Thiếu tướng Nishiharo được cử sang Đông Dương trong khi đang giữ chức giám đốc trường đại binh bị nên không thể ở lâu được Đông Dương. Vì vậy, chính phủ Nhật đã cử nguyên soái Sumita sang đây giữ chức trưởng đoàn phái bộ Nhật. Nguyên soái Sumita là giám đốc trường trọng pháo (Ecole de l’Artillerie lourde) đã từng làm uỷ viên quân sự tại toà đại sứ Nhật ở Paris từ năm 1933 đến năm 1938.
Thứ năm – “Ông Vũ Đình Song một điền chủ giầu có nhất xã Trường Loát, phủ Nghĩa Hưng (Thái Bình) đã từng đi lính đóng cai và làm hộ phố Sầm Nứa, nay về quê làng, muốn đem tiền mua lấy chức công danh trong dân xã. Hồi tháng Mai năm nay, thấy trong tổng khuyết chân chánh tổng, ông Song quyết ra tranh cử, nhưng khi đã đầu đơn rồi thì có phó tổng Trần Hữu Chương ra tranh. Biết không đủ lực lượng đối với người tranh mình, ông Song mới nghĩ cách đem tiền ra lo chạy, thì vừa có ông Võ Văn Lý ngỏ ý muốn giúp ông. Theo lời ông Song thì ông Lý nói có quen một viên giáo sư có thế lực, có thể chạy được chức ấy. Ông Song cùng Lý đến nhà viên giáo sư ấy. Viên này bảo ông nạp bằng cấp của nhà binh phát cho và 2000$ để lo chạy. Nhận tiền rồi viên ấy bảo ông cứ về nhà đợi, đến kỳ bảo cử sẽ ra và không cần mua cử tri nữa. Ông Song mong đợi đã mòn con mắt, cho đến tháng sau, ông lại nhận được thiếp của phó tổng Trần Hữu Chương mời ăn khao, vì y đã trúng cử Chánh tổng. Ông Song bèn cùng ông Lý tới nhà viên giáo sư hỏi thì viên ấy nói một giọng lạnh lùng là Song kém với chánh tổng Chương, không thể lo được, còn số bạc hẹn hôm sau đi Hà Nội về sẽ trả. Đến kỳ hẹn, ông Song lại đến hỏi thì viên ấy nói đã giao cho ông Lý trả 1000 đồng còn 1000 đồng nữa sẽ trả sau. Ông Song có đơn kiện, nhà chức trách đương tra xét…”
Xuất 2000 đồng bạc để mua một chức chánh tổng! Xì! Rõ đã đứt ruột (ruột người và ruột… tượng) chưa?
Cái tính di truyền ham danh chuộng tước của người mình, in vào trong óc mỗi người rất sâu, cho đến ngày nay đã chung đụng với những người văn minh mãi mãi rồi mà cũng không sao rửa sạch, thật là đáng tiếc. Cho nên đọc xong cái tin trên, những người hữu tâm không thể không khỏi buồn rầu. Họ bảo: Phải chi tên Vũ Đình Song đó xuất số tiền ấy làm việc ích chung thì đáng khen biết bao nhiêu. Tiếc vì y có cái não ham chuộng hư vinh nên mới có kẻ gãi nhắm chỗ ngứa mà toan gạt, kẻ đi phỉnh vẫn là vô lương tâm mà người xuất tiền mua danh cũng đáng một bài học vậy.
Phải lắm. Phải lắm. Nhưng ông bạn hữu tâm không biết cho rằng cái lỗi đó không phải chỉ riêng của kẻ mua danh. Nếu ta cần kể tội thì ta phải kể tội cái óc dân mình trước đã, ở đình trung không có một chức tước: không sang; ở tỉnh lỵ không có tiếng quan phán quan tham: không gớm.
Sự tiến của dân tộc vì đó mà cứ thụt lùi dần bởi vì người ta không biết bổn phận là thế nào, giá trị làm người là thế nào. Họ chỉ cần có một cái tiếng thôi cũng như anh giầu hà tiện chỉ cần được kêu là giầu là đủ chứ có cần gì ăn ở cho đầy đủ bao giờ đâu?
Tôi tưởng rằng một người như Vũ Đình Song ít ra cũng còn dám bỏ tiền ra để người khác tiêu hộ, dù là hắn mắc bệnh hư danh. Chứ những kẻ chôn tiền ở thôn quê thì mới thực là những hạng người đáng cho ông bạn hữu tâm của tôi nhiếc móc om sòm vậy.
Thứ sáu − Ít lâu nay, không cần phải để ý gì cho lắm, ai ai đọc báo hàng ngày thảy đều thấy… rùng mình. Không, không phải vì một ngày Đức đem đổ 120.000 kilos bom hạng nặng xuống đảo Anh-cát- lợi đâu, nhưng rùng mình bởi chính những việc ở nước ta: ít ngày lại có một vụ đổ máu, mà không phải đổ máu thường đâu, mà lại đổ máu ghớm ghiếc, tưởng tượng như xưa nay chưa từng có.
− Ở Thái Bình, hồi 2 giờ đêm 29/9/40, một vụ giết người rất tàn bạo, kẻ bất hạnh bị chém chi chít tới 18 nhát dao khắp mặt như băm bầu, cổ bị ghì bóp sưng to.
− Giữ cháu gái không cho về với chồng con, bà phủ Huê Sài Gòn bị cháu rể chém chết. Thủ phạm đâm vợ hàng mấy chục nhát dao xong đi đến nhà hội đồng nộp mình.
− Ô. Hoàng Đình Kỳ thư ký toà Khâm, Huế, cầm dao mổ bụng tự tử vì tình hay bị ai… ám sát?
− Ở Bắc Ninh: Vào nhà đè bạn xuống chọc tiết mà mồm vẫn cười và nói: “Tôi giết anh đấy!”
− Ở Hưng Yên: Một ông già 71 tuổi đang ngủ bị con giai chặt đầu xách bỏ hòm bởi vì “Để cho bố tôi sống sợ lộ thiên cơ, nên giết đi cho nó tiêu thoát”.
Tôi đan cử mấy vụ án mạng gần đây để độc giả biết chơi chứ quả thực ít lâu nay những vụ án mạng như thế thực nhiều và thực khiếp; cần nói những người lớn bị ảnh hưởng vì những tin đổ máu rùng rợn đó thế nào, chứ cứ nói riêng về đàn bà và con trẻ thì tai hại không thể nào tả hết. Thần kinh họ bị hỏng lần lần. Họ sống luôn luôn ở trong sự kinh khủng và có kẻ sẽ đâm ra sợ lẫn đồng bào mà họ tưởng là hạng uống máu người không tanh.
Nguyên do vì đâu? Mặc ai muốn nói gì thì nói chứ tôi thì tôi nhất quyết rằng: bao nhiêu những sự ghê gớm đó đều một phần lớn do chiến tranh thế giới mà ra cả. Những kẻ sát nhân sở dĩ dám làm những việc rùng mình như thế, chính là bởi tự thần kinh họ bị rối loạn. Về thời này, vả lại, những báo hàng ngày ở đây, ít lâu nay lại có cái thói là hay “trương” to những vụ ám sát dữ tợn lên quá, thành thử những kẻ hơi bất đắc chí một chút, hơi phiền lòng một chút đều muốn bắt chước những người đi trước mà làm những việc dữ tợn bằng thế hay hơn thế trước khi chịu chết.
Các ông làm báo hàng ngày ở đây tất không bằng lòng. Nhưng sự thực là vậy. Mà chứng cớ chắc chắn là việc xử tử tội nhân ở nhà pha Pháp và các thuộc địa ít lâu nay, chính chánh phủ cũng cấm không cho các báo tường thuật lại làm gì cho ghê rợn. Ngay chính những người đến xem xử tử ở nhà pha cũng không được nữa bởi vì sắc lệnh cấm xử tử ở những nơi có người đi qua lại và người ta phải xử tử những phạm nhân ở nhà pha. Thế thì không hiểu tại sao, trong khi không được tường thuật những vụ xử tử, các báo hàng ngày lại không biết thế mà cứ đem phóng đại những vụ án mạng ghê gớm mà tôi đã nói trên kia lên mặt báo làm gì cho kinh hồn?
Thứ bảy − Nói thế mà thôi, chứ trong khi độc giả vẫn còn thích những chuyện kiếm hiệp đánh nhau giết nhau thật quái ác và xem những tin vấy máu ở trên mặt báo chương, mà trong khi ấy thì tờ báo vẫn phải sống vì độc giả thì còn biết làm sao?
Chao ôi, thật là khó giải quyết, cho nên câu chuyện này ở trong Nam đã làm đầu cho một cuộc cãi lộn giữa hai bạn đồng nghiệp Pháp, Nam.
Bạn đồng nghiệp Pháp viết:
“Gần đây báo chí quốc âm, thứ nhứt các báo hàng ngày, hình như để dành những cột báo cho các vụ án mạng và cướp giật một cách dài rộng. Hết hai phần ba tờ báo đều để tán dương (!) các vụ án mạng và sự tàn ác của bọn côn đồ với những cái tít sắp chữ thật to! Cách làm quảng cáo lạ lùng, dành riêng cho hành động và cử chỉ của hạng người đáng đem ra cột trụ xử giảo, có thể gây nên ảnh hưởng rất có hại!”
Y như chúng tôi đã đoán, bạn đồng nghiệp hằng ngày ở trong Nam không bằng lòng. Và tức thì, một cây bút có tài, Nam Dân, bèn trả lời lại:
“Công việc ấy có hại hay không? đã có độc giả xem xét phẩm bình. Song chúng tôi xin phép nhận ra rằng: Một hai khi nó cũng có lợi nữa. Lợi cho thám tử đỡ phải mất công tìm tòi, nã tróc hung phạm, lợi cho công chúng đồng bào bớt được mối nguy”.
Tuy xưa nay vẫn kính phục cây bút của Nam Dân, tôi, lần này cũng không thể chịu những lời bạn nói là hoàn toàn là phải.
Nếu bạn không giận, thì tôi sẽ nói thêm rằng: Những lời bạn nói chỉ toàn là phách lối.
Không kể bạn là một người biết kính trọng nghề nghiệp làm gì, chứ thực quả một số lớn báo hàng ngày “trương lo” những vụ án mạng rùng rợn đó chỉ là vì lợi mà thôi.
“Du sang à la une” − vẩy máu trên trương nhất − chỉ là một cách thần tình để đập vào thị hiếu của độc giả, ở nước nào cũng vậy mà! Chỉ có một điều đáng phàn nàn là ở Pháp, ở Anh, ở Ý cái lối “du sang à la une” đã bị người ta chán lắm rồi thì nước ta đổ xô vào. Thành thử nghề báo hiện giờ muốn tranh cạnh nhau chỉ tranh cạnh ở chỗ “làm to chuyện” như thày phù thuỷ (chalartan) mà thôi, chứ còn những ý kiến mới lạ, những cách tài tình để dẫn đạo cho quần chúng thì người ta không để ý làm gì hết. Đó là họ không thèm nghĩ đến, cái đó đã đành rồi.
Nhưng một mình, nghĩ một mình đến tương lai báo hàng ngày ở xứ ta mà cứ mãi mãi như thế này, người ta lo một ngày những ông chủ báo sẽ đến thành phù thuỷ, mà người đọc báo sẽ thành ra lũ tà, − mà chúng tôi đã nói tới trong số báo kỳ này.
TIÊU LIÊU
Trung Bắc chủ nhật, Hà Nội, s. 32 (13/10/1940)
Thứ hai − Ở chỗ này, trong số trước, tôi đã nói tới các “báo hàng ngày phù thuỷ” vấy máu trên trương nhất để lấy độc giả cho nhiều: […] đó “ăn người” [...] Tưởng là họ giữ độc quyền “ăn” món ấy mà thôi, không ngờ vừa đây ở Camphamine,[10] bác Chính không chịu kém, cũng nhất định lấy máu để “xơi” người nữa.
Chuyện xảy ra như sau này: Bác cả Khuyên ở phố Cẩm Phả goá chồng và có 4 con, đã lâu không định “bước đi bước nữa”. Bác Chính thấy thế, không chịu, bắt bác phải theo mình. Bác cả Khuyên vẫn khăng khăng. Tức thì bác Chính chạy tới giằng con dao ở tay bác Khuyên ra rồi kề một ngón tay lên bàn thịt chặt đứt phăng ngay một đốt. Máu phun ra, bác Chính rỏ những giọt máu ở chỗ tay đứt vào một miếng thịt, tưởng bác Khuyên sẽ xiêu lòng, không ngờ bác Khuyên lại mắng cho một trận tàn tệ và đưa cái đốt tay của bác Chính lên trình hộ phố.
Thế là bác Chính vấy máu đã không ích gì cả mà lại để một tiếng cười. Bác định tranh cái độc quyền […] của các báo “hàng ngày phù thuỷ” ở đây sao được?
Thực là một bài cảnh cáo cho những ông định lấy máu ra doạ người và định xơi người về “máu”, chỉ có những “báo hàng ngày phù thuỷ” ở đây “xơi” được, chứ không phải là một món ăn chung cho mọi người, thì chớ có lăm le…
Thứ ba − … mà nhỡ! Sự thực, ai cũng biết máu nuôi sống người ta. Nhưng chắc ít người biết rõ rằng ăn được máu nhiều thì bổ lắm. Chứng cớ: người ốm, các vị bác sĩ vẫn cho uống thuốc máu bò, những ông rượu chè, muốn không hư chân huyết, vẫn pha rượu với máu dê để uống. Tuy vậy, vẫn không bổ được bằng máu người, cho nên ma-cà-rồng chỉ ròng đi hút máu người, mà ngay những ông sét-ty [11] hút máu của con nợ cũng phì nộn lắm.
Đó là mới nói về xác thịt. Chứ những “nhà báo phù thuỷ” hàng ngày ăn nhiều máu người, lại có một cái lợi khác rõ ràng hơn: tinh thần họ minh mẫn, trí khôn họ sáng láng, họ dịch những tin Arip, Havas,[12] những tin sở cẩm một cách thần tình lắm, những nhà báo bình thường không thể theo sao cho kịp.
Này nhớ: “L’avion appareilla”, tôi đố các ngài họ dịch là gì? − Cái tàu bay đỗ xuống! “On a volé 12 plateaux de bois” phải dịch là “Người ta ăn cắp 12 cái mâm bằng gỗ” chứ đừng có dịch là “Người ta ăn cắp 12 phiến gỗ” mà họ cười cho thì… khổ!
Lắm lúc ngồi mà nghĩ kỹ thì cái ông nào đó muốn nói với bạn bè: “Các bác xơi cơm tự do đi chứ! Người nhà cả đây mà” − mà diễn ra là: “Oh! c’est la maison” cũng chưa phải hẳn là người không thông minh. Mà ông nghị nọ muốn tỏ là vợ mình đi đâu không biết mà nói rằng: “Ma femme est partie sans laisser d’adresse” − cũng không phải là người xoàng đâu.
Thứ tư − Chỉ có anh Trần Văn Đọc ở tổng Phương Tra (Hưng Yên) xoàng thôi bởi vì anh này thù vặt.
Nguyên anh ta chẳng biết xích mích với Trần Văn Cổng chuyện gì, anh ta lừa lúc Cổng ngủ trưa, lại không mặc quần, anh ta bèn cầm dao lại… xẻo phắt cái ngọc hành của bạn. May con dao ấy lại cùn, nên Cổng chưa mất hẳn. Cổng đã lập tức được chở đi nhà thương buộc thuốc, và ở trên giường bệnh thể nào chẳng phải nói một mình rằng: “Thì, mình cãi nhau với nó bằng miệng thì nó có thù nó vả vào miệng mình mới phải, chứ thằng đồ tồi sao lại tự nhiên phạt “cái kia” của mình mà rắp tâm định thiến cụt nó đi? Oan uổng cho nó thật!”
Thật chẳng khác gì chuyện lý trưởng xã Tược Cước (Hưng Yên) tên là Nguyễn Văn Thách bị dân tiêu lạm tiền công mà lại đi rong làng và ra tận đình gọi tên thần hoàng làng ra chửi!
Rõ thực Quít làm Cam chịu. Ông thần hoàng làng có tội gì? Lý trưởng Thách thực đáng phải bãi chức quá vì tội “danh không chính, hành không thuận”. Hay lại vì tên y là Thách, y muốn làm quấy thế để khách dân làng Tược Cước có làm gì nổi y không? Nếu thế thì thực y dại lắm.
Thứ năm −… dại cũng như cậu Trần Văn Nghi ở phủ Hoài Đức (Hà Đông) vậy.
Đêm hôm mới đây, nhà Ô. Thất người làng Thôn (phủ Hoài) có lập đàn làm chay và đón bác Bất người làng đến cúng. Cậu Trần Văn Nghi đến xem và chẳng biết trong khi cướp của bố thí ra sao, cậu Nghi bị bác Bất cầm gậy tầm xích đâm thủng bụng, máu chảy ra rất nhiều.
Đồ cúng là để cúng thánh, thánh không ăn thì đã có bác Bất ngồi rình ở đó từ chập tối ăn… hộ vì bác Bất cũng là một chúng sinh, cũng cần ăn cần uống, thế mà sao cậu Nghi lại dại dột xông vào cướp mất mấy nắm bỏng mấy cái kẹo bột của bác ta?
Bác Bất không phải là thèm ăn háu uống như con Mực con Vàng đâu, nhưng bác giữ thế là giữ cho thánh đấy, để thánh phù hộ bác đừng…chết đói. Thế là phải chứ làm sao mà bố mẹ cậu Nghi lại còn thưa kiện bác? Ừ, chắc pháp luật sẽ kết tội bác thực nặng đấy, nhưng cần gì? Bác cứ được thánh thương là đủ. Ăn ở như thế, bác Bất chắc chắn sẽ được thánh phù hộ đến mấy đời… và chắc sẽ được người nhà cậu Nghi đời đời nhắc đến tên luôn, và cầu phật cầu thánh cho sống mãi chứ đừng lăn quay ra chết!
Thứ sáu − Nói đến chuyện chết sống lại nhớ đến chuyện “sống lâu lên lão làng” ở trong Nam Kỳ.
Tại làng Long Thới quận Tiểu Cần hạt Trà Vinh, hồi 8 giờ rưỡi sáng thứ bẩy vừa rồi, các vị hương chức làng họp đủ mặt để nghênh tiếp M. Bohn, chánh chủ tỉnh Trà Vinh, thay mặt chánh phủ Đông Pháp, ân tứ khuê bài danh dự cho ông Nguyễn Nhiêu Thăng thọ được 128 tuổi.
Mặc dầu các bạn đồng nghiệp trong Nam đã đến phỏng vấn ông già và thuật lại rằng ông vẫn khoẻ mạnh như thường, tôi cũng không chịu nhận rằng ông già kia đã sướng. Đã đành rằng một người bị trời bỏ quên chưa “ăn gỏi’ mà được […] khuê bài danh dự thì cũng sướng đời thực đấy, nhưng cứ nghĩ đến cái tuổi 128 thì riêng tôi, tôi cũng đã “sốt ruột” rồi.
Ở đời, người ta chỉ có bốn cái sướng mà chỉ những người trẻ trung khoẻ mạnh mới được tận hưởng mà thôi. Giời cho thọ được đến độ bảy mươi, những cái đó kém cả: ăn kém, ngủ kém, […] tiêu hoá kém, thế mà ông già Thăng lại sống đến 128 tuổi thì còn được hưởng cái gì, nếu không là chỉ ngồi lù lù một chỗ để thèm hay để trông người khác hưởng? Ấy là tôi chưa kể ở lắm gia đình có những con cháu thấy ông bà sống độ sáu bẩy mươi đã kêu: “Sống mãi! Sống sốt cả ruột lên” và cầu chúc cho chóng chết là khác nữa.
Tôi không biết rõ những cảm tưởng của ông già sống 128 năm kia về những cuộc dâu bể ở đất nước này ra thế nào và những ý nghĩ của ông về cuộc đời này ra sao, chứ tôi thì thấy cái cuộc đời cứ một mực kéo dài mãi ra thế nó nhàm quá lắm.
Cứ một cái “chán” là cũng đã làm cho ta không “hả” rồi. Huống chi họ lại cứ phải trông thấy những con cháu ở chung quanh, đứa mất đi, đứa còn lại, đứa mới đẻ, đứa đi xa, mà ta thì ta cứ sống bình tĩnh như không chuyện gì xảy ra hết trọi!
Thứ bảy − Bình tĩnh mãi được thế nào được? Ở đời, xưa nay vẫn thế, bao giờ cũng có luật thừa trừ: ác lắm thì khổ nhiều, hôm nay khổ thì mai sướng, mà hôm nay bình tĩnh tất mai thế nào cũng xảy ra chuyện làm phiền lòng mình chơi.
Như mới đây, câu chuyện hai anh em Mạc Công Bình và Mạc Công Tĩnh ở huyện Kim Động, Hưng Yên vậy.
Y như tôi nói ở trên kia, hai anh em Bình, Tĩnh sống với nhau một cuộc đời thực bình tĩnh. Bình tĩnh mãi, giời nào mà có để cho yên, nên sáng hôm 4 Octobre, Bình, Tĩnh mất bình tĩnh ngay: họ cãi nhau rầm lên một trận, Bình túm tóc Tĩnh xoắn lại, Tĩnh cắn bả vai Bình… Thế rồi thì một buổi sáng kia người ta thấy Mạc Công Bình thắt cổ lủng lẳng ở trên xà nhà.
Ôi chao! thế mà bình tĩnh…Bố mẹ đặt cho hai con cái tên Bình và cái tên Tĩnh, chắc tưởng cuộc đời bình tĩnh lắm đây, biết đâu lại có ngày nay, đã chẳng bình tĩnh lại còn sinh ra giết tróc.
Cho mới biết, ở đời này, lém lắm chẳng làm gì, mà sinh con, nuôi con, đặt tên cho con những tên hay quá cũng chẳng làm gì nốt.
Ông đẻ con và mong cho nó hiền? Nó sau này ác hơn hết cả mọi người. Nhiều khi tên là Hiếu mà bất hiếu vô cùng, người tên là Thọ thì chết yểu, mà chúng ta chẳng đã thất vọng chán ra rồi đấy ư?
Những bà Nguyễn Thị Tuyết Minh, những bà Hồng Ngọc, những cô Tạ Thị Ngà Hương phần nhiều chính lại có những cái sắc và cái đức trái hẳn với cái tên của họ.
Tôi chịu ông nào đấy đã nói được câu “Cái áo không làm thành thày tu” đấy nhé!
Chủ nhật − Câu nói này, ít lâu nay, người ta nghe thấy nói tới luôn trong Thanh Hoá, sau khi xảy ra việc lôi thôi cái vé độc đắc giữa người có vé là ông Trần Văn Lạng với ông huyện Thạch Thành rất yêu quý của chúng ta.
Chính người trúng số là Lãng thế mà tấm vé ấy lại bị thừa Cầu đánh tráo mất, may nhờ quan trên minh xét mới khám thấy ở nhà riêng ông huyện Nguyễn Văn Hiền huyện Thạch Thành, do người cậu ông là Tôn Thất Linh phải chịu phép tòi tấm vé ấy ra.
Dư luận tỉnh Thanh rất xôn xao về vụ này; người ta cho rằng người thủ mưu đánh tráo tấm vé này có lẽ chính là ông huyện Thạch Thành, vì theo lời M. lý Lãng nói thì ngay khi được tin báo trúng số 10 vạn, ông huyện Thạch Thành có bảo phải chia đôi cho ông một nửa; M. lý Lãng xin “vi thiềng” 1 vạn biếu quan nhưng quan không nghe. Đến khi vé bị đánh tráo rồi, ông huyện lại gọi đến doạ rằng nếu không trúng số 10 vạn mà nhận chằng thì sẽ bị tù là khác!
Đó là dư luận.
Riêng tôi thì tôi cho đó chỉ là một chuyện vu cáo một người trung thực là ông huyện Nguyễn Văn Hiền mà thôi. Chẳng qua là người thấy ông huyện Hiền hiền quá nên người ta muốn bắt nạt, gắp lửa bỏ bàn tay vậy.
Kiểm duyệt bỏ
Ông không những muốn trừ cho tiệt những quân đó đi mà thôi, ông lại còn muốn giữ gìn cho ông lý Lãng khỏi sa vào tay những quân khốn nạn đó nên ông mới cất hộ tấm vé số tại nhà riêng của ông ta để cho quân cướp trắng mắt ra, có lập trăm mưu nghìn kế ra chăng nữa cũng không xơ múi gì.
Theo như dư luận, ông huyện Thạch Thành có bảo ông Lãng đưa 5 vạn cho ông. À đã thế thì được! Đã khoẻ nói thế thì phen này ông kiện ông Lãng về danh giá và xin bồi thường 5 vạn cho mà xem! Để coi trước sau 5 vạn ấy có thoát khỏi tay ông không nào. Chỉ phiền một cái là ở đây lại còn có công lý nên ông huyện Hiền còn phải nghĩ ngợi xem sao đã!
Trong khi ấy thì có tin ông lý Lãng đã đi lĩnh 10 vạn bạc kia rồi… Trời hại con người ta thực!
TIÊU LIÊU
Trung Bắc chủ nhật, Hà Nội, s. 33 (20/10/1940)
Thứ hai − Cái tình mẫu tử, bất cứ ở xứ nào cũng được người ta truyền tụng và cho là đẹp nhất. Còn có ai thương con bằng mẹ? Thế mà…
Vừa rồi đây, báo Điện tín trong Nam mới thuật lại rằng tại trường đua ngựa ở Chợ Lớn, một đứa trẻ bị lạc đi bơ vơ khóc mếu. Hỏi nó thì mới biết rằng nó đi lên trường đua với má nó, nhưng vì má nó ham mê ăn thua nên bỏ nó đi lạc như vậy, không biết ở đâu mà tìm.
Một bạn đồng nghiệp trong Nam phê bình tin này đã dùng hết lời nặng nhẹ để sỉ vả người mẹ máu mê kia.
Cái máu mê của một số đàn bà ở trường đua nó bốc lên ngùn ngụt tới độ nào, ta hãy khoan nói vội, đợi đến khi nào T.B.C.N. ra số đặc biệt “Cá ngựa với đàn bà” sẽ biết. Nhưng hiện giờ thì ta, ta có thể biết rõ rằng ông bạn đồng nghiệp của tôi ở trong Nam nóng nảy quá, vì ông không biết rằng từ xưa đến nay những chuyện để lạc con như thế vì chuyện thua được cờ bạc chỉ là chuyện thường mà thôi.
Biết bao nhiêu người đàn bà từ trước đến nay vì ham mê cờ bạc quá, không những để lạc con, lại để lạc ngay chính mình họ… vào những con đường mà ta có thể gọi một cách hơi xược là những con đương không đẹp đẽ? Những người đàn bà này đã bỏ quên nhiều thứ quý báu hơn nhiều, họ bỏ quên những cái liền ngay người họ còn chẳng ngại huống chi là đứa con.
Xin đừng nói nặng người đàn bà nọ ở trường đua Chợ Lớn làm gì, tội nghiệp!
Thứ ba − Có tội nghiệp, ta chỉ nên tội nghiệp cho những kẻ đã chết rồi mà thôi, bởi những người đã chết là những người vắng mặt, mà bao giờ những người vắng mặt cũng là những người mang lỗi.
Mới đây, ở trong Nam, một tờ báo do một bạn thanh niên ở Bắc vào chủ trương có đăng dùm quảng cáo ở các báo hàng ngày tên những người phụ bút. Cái đó không hề gì cả, nhưng chỉ quái lạ là sao, ở trong những người phụ bút giúp việc cho tờ báo đó lại có một người đã chết!
− Ai?
− Vũ Trọng Phụng!
Nói giấu vong linh ông Phụng, tôi không hiểu làm sao ông đã mất rồi, nay mai đã đến ngày giỗ đầu rồi, mà người ta vẫn cứ để tên ông lên báo làm mối lợi cho người ta. Bộ người ta cho là ở Sài Gòn, độc giả không biết ông Vũ Trọng Phụng đã mất rồi sao chớ?
Lừa độc giả, cái đó độc giả sẽ bảo cho kẻ đi lừa sau, nhưng lừa một người đã chết rồi, ai cãi được?
Ở chốn suối vàng, ông Phụng nếu biết tin này, chắc phải tức giận tràn hông, mà nếu quả ông nói được, tất ông phải lấy ngón tay trỏ gí vào mặt kẻ lợi dụng tên ông mà rằng:
− Anh em thực không để cho tôi yên một chút nào. Muốn bịp bợm gì thì bịp bợm, nhưng tôi đã chết rồi thì thôi, đừng có lôi tôi vào với các anh. Tôi thực không hiểu các anh là người hay những con kền kền? Nếu thực là người thì ai lại đi nỡ “kiếm tiền” bên những xác chết, thây ma như vậy?
Thứ tư − Đó là câu chuyện tiền. Tiền bao giờ cũng đi đôi với tình. Vậy tôi xin kể một câu chuyện tình nghe chơi. Tối 16 Octobre, bác Vũ Viết Tư ngụ ở hộ Nam Xuyên nhặt được ở nền nhà một bức thư nặc danh nói xấu và doạ giết bác nếu bác nhất định cưới cô Trần Thị Vượng. Dưới bức thư có vẽ một con dao găm đâm thủng một trái tim và một cái sọ người.
Cái sọ người ấy nghĩa gì? Ý hắn để làm cho Tư sợ, nhưng bác Tư sợ hay không, không biết, ta hãy biết cử chỉ của người viết thư nặc danh nọ đáng làm ta sợ vô cùng vậy! Không phải sợ hắn ta dám giết người, nhưng sợ là sợ hắn ta đã nghĩ ra một việc vô lý như thế để doạ người và nhất là sợ cho những người nói xấu có những cái lưỡi sao mà kinh thế!
Vừa rồi, có một anh tù người Thổ-nhĩ-kỳ, bị đày ra ở đảo Imrali, tự lấy dao cắt quách lưỡi mình. Và trước khi “hành hình” cái lưỡi ấy, anh đã viết cho người bạn anh mấy dòng chữ rằng: “Tôi đã nói xấu anh, tôi có lỗi, vậy tôi xin tự phạt lấy tôi”.
Cái anh chàng viết thư nặc danh cho bác Vũ Viết Tư giống anh tù nọ vô cùng. Giống về chỗ nói xấu nhưng phải một cái khác chút xíu là đáng lẽ anh ta tự phạt lấy mình, “hành hình” cái lưỡi anh ta thì phải, đàng này anh ta lại doạ “hành hình” người khác thì mới kỳ cục chớ!
Cái bộ như thế, ai là người sợ? Người ta có sợ là sợ cho anh chàng nặc danh nào đó rồi lại chịu theo số phận với ba anh Chè, Hưng, Hải ở Thái Bình mà thôi.
Câu chuyện ba anh chàng này xảy ra như sau này:
Ông giáo Vũ Ngọc Chiểu dạy học ở trường làng Hưng Nhân, huyện Hưng Nhân. Mới đây có kẻ thù dán giấy nhảm vào trường ông dạy học rồi đi báo quan. Nhưng nhà chuyên trách xét ra, ông bị kẻ nào định tâm hại ông, nên đã mở cuộc điều tra. Trước đây, ông giáo Chiểu có bị ba người làng Hưng Nhân là Hải, Chè, Hưng sinh chuyện lôi thôi và đã kiện nhau. Vậy có lẽ nhân cớ đó mà họ đặt ra chuyện này. Có thực hay không chuyện ấy? Ta phải đợi quan trên xét xử. Nhưng ngay tự giờ ta có thể cứ quả quyết nói rằng nếu quả ba tên Chè, Hưng, Hải vu cáo cho ông giáo Chiểu thì không khi nào họ lại thèm bắt chước anh tù ở Thổ-nhĩ-kỳ mà cắt quách cái lưỡi đi đâu.
Bởi vì nếu họ cắt lưỡi họ thì sau này ở tù ra họ còn lấy cái gì để nói xấu những người khác nữa?
Thứ năm − Nói đến chuyện lưỡi, tôi lại nhớ đến một ông đứng ở mặt xã hội mãi đâm chán, một hôm nhảy sang phái chính trị nghịch với phái xã hội để làm báo.
Ông này thay đổi chính kiến vì cơm ăn áo mặc, cái đó mặc kệ ông ta, không ai cần can thiệp. Tức một cái là ông ta có chí lớn thay đổi chính kiến của mình rồi chưa đủ, lại thay đổi cả chính kiến của cổ nhân.
Chuyện cái lưỡi mà bảo là của Ésope? Không thể được. Ông bắt Socrate phải nhận là chuyện ấy của mình. Ông làm tình làm tội cổ nhân khổ sở nên thành ra một bạn đồng nghiệp ở đây, trong hai cột báo, đã phải nói ròng về chuyện lưỡi.
Lưỡi! Lưỡi! Ai còn lạ gì nó nữa. Không xương, nó vẫn lắt léo tự xưa mà… Tôi đã nói tới cái bọn người nằm ở tiệm đưa đẩy ngọn lưỡi để vu cáo những người vắng mặt. Cái bọn ấy, cứ kể về phương diện vô sỉ tưởng đã nhất đời rồi, không ngờ vừa đây ở trong Vinh một bọn người lại đưa đẩy ngọn lưỡi vu cáo để làm cho chết người và chiếm mất cái giải quán quân của họ.
Ông Nguyễn Bá Xý ở Đô Lương cho con gái là Phượng Thuý lấy cậu Châm làm việc ở Sài Gòn. Trước khi phải đi xa, Châm dặn vợ ở nhà phải gìn vàng giữ ngọc cho hay, bất ngờ tuần lễ vừa rồi, bỗng nhiên, Phượng Thuý tiếp được ba cái thơ của chồng ở Sài Gòn gửi về thoá mạ cô bởi vì có người vào nói cho chàng biết là hình như cô có ngoại tình ở Bắc.
Thấy mình bị vu oan một cách vô lý, cô Phượng Thuý ra sông Rang trẫm mình và hai hôm sau đó xác cô nổi lềnh bềnh trên mặt nước.
Ghê chưa, độc giả! là cái lưỡi người ta? Tôi tưởng ta chẳng nên đợi cho những người vu cáo tự xử như người tù Thổ-nhĩ-kỳ mà lắm lúc chúng ta, ta cần phải cắt lưỡi những anh “lưỡi rắn”, “lưỡi dài” hay nói láo đi cho rảnh…
Thứ sáu − Nói thế để mà chơi thôi, chứ sự thực xẻo thế nào được lưỡi của họ. Những người vu cáo đó bao giờ cũng vẫn nhơn nhơn sống cũng như những bà mụ tội lỗi tầy trời vẫn “làm những thiên thần” (faisenses d’anges) mà vẫn sống nhăn răng ra vậy.
Theo bạn đồng nghiệp Dân Hiệp thì toà tiểu hình Sài Gòn vừa rồi có xử một vụ phá thai: Anh Học hồ nghi đứa con trong bụng vợ là Thị Nhị, không phải là con anh ta, nên bắt thị uống thuốc phá thai. Rủi lối xóm biết, nên việc này ra toà. Toà làm án hai vợ chồng ấy mỗi người sáu tháng tù treo và khuyên họ lại ăn ở với nhau như cũ.
Người bạn tôi kết luận rằng: Thật thì tôi không tài và không dám bình phẩm cách xử đoán của các quan thẩm phán, nhưng lấy theo lý luận mà xét thì cái án đó còn nhẹ quá. Một đứa trộm cướp vì miếng ăn đành đang tay giết người thì đành kết án nặng nề. Chớ còn hai vợ chồng anh Học đã giết con ruột mình, mà không viện được lẽ gì cứng cát để chữa mình, sao thưởng họ có sáu tháng tù án treo?
Đáng lẽ cho hai vợ chồng anh đó đi hứng gió Côn Lôn vài năm mới phải. Rồi kỳ hẹn cho họ, nếu trong ba năm nữa mà không có đứa con khác thì sẽ bị tăng án lên gấp hai.
Mà người nào bán thuốc phá thai cho anh Học cũng đáng lãnh thẻ để mà ở nhà đá và mặc áo xanh. Vì người đó là đồng loã.
Thứ bảy − Nói đến chuyện án, toà, ta không thể không nhớ tới câu chuyện nàng dâu, bố chồng mới xảy ra ở Quảng Nam.
Ông già Bùi K. ở ấp C. T. 65 tuổi, có con trai lấy thị T. và có hai con. Hôm vừa rồi, thị D., con gái ông K. và thị T. con dâu ông K. có chuyện bất bình, cãi nhau inh ỏi. Dân làng kéo đến xem tới nghìn người. Trước hết mấy hương hào cho gọi thị T. lên hỏi trước, thì thị khai là có một cái nồi bị em chồng là thị D. làm hỏng nên hai bên xô xát. Nhưng sau không biết thị T. nghĩ thế nào lại khai: bố chồng thị hàng ngày thường chòng ghẹo thị và những ngày chồng thị đi vắng, ông K còn toan hãm hiếp thị.
Hương chức xô lại đánh ông già 4 đêm tàn nhẫn, khiến cho ông không ngồi dậy được, kết cục ông ta phải bán hết cả đồ đạc trong nhà để đút lót và làm tờ thú mới xong.
Theo dư luận, thì có lẽ thị T. vì ghét bố chồng nên vu oan nên những chuyện tầy trời như thế. Câu chuyện phải trái ngay gian chưa biết thế nào, nhưng nếu quả như dư luận, bà nàng dâu nọ vu oan cho bố chồng thực, thì ta lại càng thêm sợ cho cái lưỡi người ta nhiều lắm.
Ít lâu nay, người ta thường khởi xướng lên cái thuyết nàng dâu bị bố mẹ chồng hành hạ và tỏ ý thương xót những người nàng dâu nhiều lắm, và cố tìm một cách giải quyết có lợi cho những người nàng dâu ấy. Hay là vì cái thuyết ấy giải quyết xong rồi nên những người nàng dâu bây giờ đã được phần trên, nên trả thù lại bố mẹ chồng, và trước khi trả thù mẹ hãy trả thù bố chồng trước đã?
TIÊU LIÊU
Trung Bắc chủ nhật, Hà Nội, s. 34 (27/10/1940)
Thứ hai − Người ta đồn rằng ở đây có một ông văn sĩ không ưa “đi mây về gió” nhưng lại thích gió, nên lúc nào cũng vẽ ở trên bài mình một cái thuyền và đề chữ “gió đã lên”.
“Gió đã lên, cố mà sống cho nguy hiểm”, đó là câu nói của cổ nhân. “Sống cho nguy hiểm” chẳng biết có ích gì không, chứ tôi thì tôi thấy “gió đã lên” nguy hiểm đã hẳn rồi. Chứng cớ là vừa mới có gió hanh lên một cái thì những vụ hoả tai đã thấy xảy ra luôn. Trong một ngày 26, hai đám cháy: một đám ở chợ Vị Hoàng (Nam Định) thiêu mất 30 gian nhà ra tro, thiệt hại hơn 1.000 đồng. Một đám ở sau ga Hàng Cỏ Hà Nội (có ảnh ở ngoài bìa),[13] thiêu mất ngót 200 nóc nhà. Thiệt hại hơn 20.000 đồng. Hình như có mấy đứa trẻ bị thiệt mạng trong vụ này.
Nguyên do? Cũng như hầu hết các vụ hoả hoạn ở đây, nguyên do chỉ tại người ta bất cẩn. Mùa này là mùa hanh, cái gì cũng khô lại, kể cả người ta nữa. Người ta đứng gần lửa, lắm lúc cũng có thể bén lửa mà cháy, huống chi là rơm và gỗ… Thế mà người ta có lấy làm quan hệ tí nào đâu, người ta cứ coi thường nên người ta đã từng thấy cái cảnh của bao nhiêu năm trời làm lụng bị thần hoả ra tay tiêu huỷ. Thật là thảm đạm. Ngọn gió hanh và tính bất cẩn, thủ phạm những vụ hoả hoạn, đã làm hại bao nhiêu gia đình, thế mà cứ mỗi mùa gió hanh đến với ta, ta vẫn phải lấy làm lạ sao người ta vẫn không cẩn thận hơn một chút nào, mà các ông văn sĩ sầu thu vẫn không chịu bớt ca tụng gió hanh đi và đáng lẽ viết “Gió đã lên, cố mà sống cho nguy hiểm”, sao họ không chịu đổi ra thế này mà in thật lớn trên mặt báo: “Gió đã lên, ngọn lửa nguy hiểm lắm, cố mà giữ nhà cho… cẩn thận”!
Thứ ba − Giữ nhà cho cẩn thận là để cho khỏi cháy, chứ đừng tưởng là để cho khỏi mất cắp mất trộm đâu. Sự thực, ta phải nhận rằng từ khi trong nước xảy ra những chuyện lôi thôi, chánh phủ cho bắt những người “thanh tích bất hảo” đi chỗ khác thì những vụ cướp trộm cũng có đỡ đi chút ít. Duy có những vụ ăn cắp vặt thì vẫn thấy luôn luôn. Các báo hàng ngày ở đây vừa đăng một chuyện ăn cắp vặt ở Hàng Bồ: một mụ trạc 40 vào nhà nọ đưa một đồng bạc giấy mua hàng. Trong khi cô bé bán hàng mở ngăn rút để lấy tiền trả lại thì khách cứ nói huyên thiên: “Cô ạ, vừa đây, tôi cũng mở tủ như thế này này, rồi chẳng hiểu để rơi ra đất bao nhiêu giấy bạc và kẻ gian nhặt được”. Miệng thì nói, nhưng hai tay khách lại mó vào ngăn kéo của nhà hàng. Ăn cơm xong, bà chủ hàng ra điểm lại tiền, thì thấy mất 260 đồng.
Bốn tờ báo hàng ngày đăng tin ấy hầu hết đều phóng đại lên với cái đầu đề đại để như thế này: “Người đàn bà ấy đã dùng thôi miên thuật hay là bùa yêu?”
Khiếp chửa! Bí mật chửa? Nhưng chết một cái, sự bí mật ấy lại ở ngay bài tường thuật của các báo ấy mà các ngài không biết.
Mụ đàn bà ấy, tôi biết rõ lắm, không có gì là bí mật cũng như cái lối ăn cắp của mụ ta. Mụ ta giả vờ vào mua hàng. Lòng bàn tay mụ có dính hồ. Lúc người bán hàng mở ngăn rút để trả lại tiền, mụ sờ vào ngăn rút và khi nói “tôi để rơi ra đất bao nhiêu giấy bạc” thì mụ cầm giấy bạc ở trong ngăn kéo và vò lại: thể nào giấy bạc cũng dính vào lòng bàn tay mụ. Mụ cố làm tối tăm mặt mũi người ta và lấy tiền trong lúc người ta không ngờ nhất. Đoạn, mụ giả tảng xin một chén nước uống và thắt lại thắt lưng: chính lúc ấy mụ bỏ tiền vào túi, nhưng không lúc nào miệng mụ ngớt chửi rủa những quân ăn cắp!
Ấy, chuyện chỉ có thế, chứ mụ có bùa yêu hay thôi miên thuật gì đâu. Hoạ chỉ có các ông phóng viên phóng đại chuyện ra; có thuật… cái thuật nói phét, cái thuật làm to chuyện.
Thứ Tư − … Làm cho tôi lại nhớ đến một câu chuyện cổ nói về bốn ông ngồi nói phét với bà con. Một ông nói:
− Tôi, tôi đã trông thấy một con cá to lắm, to đến nỗi người ta phải làm một cái đó dài năm thước thì mới bắt được nó vào trong.
− Thế đã lấy gì làm lạ. Con cá mà tôi đánh được chui vào cái đó 5 thước không vừa, đến nỗi nó phải gấp đôi người lại.
Ông thứ ba nói khoác ghê hơn:
− Thế đã to. Nhưng con cá tôi trông thấy thì gấp đôi người lại ở trong đó không đủ, nó phải xoáy trôn ốc lại!
Đến lượt ông thứ tư. Ông thứ tư không nói gì. Mọi người hỏi làm sao? Ông nói:
− Tôi không nói vì con cá của tôi to quá, không biết thế nào mà nói. Lúc vớt được cá lên tôi không thấy cái đó đâu, thì ra con cá của tôi nó đã nuốt cái đó vào trong bụng.
Đó là chuyện đời xưa. Đời nay, một tờ báo hàng ngày ở đây vừa mới đăng tin rằng:
“Dân chài lưới ở Camphamine [14] đánh được một con cá song to gần bằng con ngựa! Họ phải chọc thủng hai mép, tròng thừng to vào, như xỏ mũi trâu”.
Khiếp, nói mà kinh. Một con cá song to bằng con trâu, con ngựa thì có lẽ dân chài đánh được nó phải có một cái lưới to ít ra là bằng cả một cái đồn Camphamine, mà cái sanh để luộc cá phải to bằng một trăm lần cái sanh luộc bắp cải trong truyện cổ.
Chắc ông phóng viên nào đó viết cái tin con cá song không phải là một trong số bốn ông nói phét trên kia!
Một người bảo tôi rằng:
− Hay là ông phóng viên nọ lầm chăng? Chứ cá song đời nào lại to thế được? Hay là cá nhà táng vậy?
Tôi cười mà bảo bạn rằng:
− Ông bảo cá nhà táng chứ không phải cá song! Xì! Không phải! Ông phóng viên kia nói đúng. Cá song thực đấy, bởi vì cá song ăn được, chứ cá nhà táng thì để táng ai vào mồm nó cho xuể, trừ những người nói phét ra?
Thứ năm − Nói đến chuyện nói phét, tôi lấy làm buồn rầu mà lại phải hỏi một câu sáo vô cùng: “Bao giờ nhà nước mới dán một thứ tem vào miệng những anh nói phét để đánh thuế lấy tiền giúp nước trong những giờ khó khăn như giờ này?” Nói thế để đùa chơi, chứ thực dán tem vào miệng thế nào cho xuể được những anh nói phét.
Cũng như những người đồn tin nhảm, những anh nói phét ở đâu cũng có nhan nhản ra: họ làm ra dáng cái gì họ cũng thông thạo, họ làm ra dáng cái gì cũng biết, kỳ thực họ chẳng biết cóc khô gì cả.
Như mới đây ở Nam thành, chiều 18 Octobre, ngót 200 học trò và nhiều thợ nhà máy đã trốn giồng đậu [15] chỉ vì một b?