KHI NHỮNG BÀ SƯ TỬ HÀ ĐÔNG TỨC GIẬN I. Mào đầu hay là lịch sử cái ghen
KHI NHỮNG BÀ SƯ TỬ HÀ ĐÔNG TỨC GIẬN
i. mào đầu hay là lịch sử cái ghen
ôi không muốn kể nhiều thí dụ. Bởi vì các bạn biết cả rồi. Vì vậy, hôm nay tôi chỉ xin kể hai chuyện “đủ chơi” thôi; đó là một chuyện ở Hưng Yên:
Trịnh Thị Tư 24 tuổi ở làng Nễ Châu tổng Phương Trà huyện Tiên Lữ, kết duyên cùng bác Dương Văn Khảm con trai thứ hai ông Dương Văn Viên, lý trưởng đương thứ làng Bảo Châu cùng tổng đã bốn năm nay và đã sinh hạ với nhau được một đứa con gái nhưng không nuôi được. Từ trước tới nay hai vợ chồng ăn ở với nhau vẫn thuận hoà.
Tối hôm mồng 9/4/1941 nhân trong làng có đám làm chay, hai vợ chồng bác Khảm cùng đi xem mãi đến khuya mới về. Đến sáng thì người ta thấy bác gái đã treo cổ lên cây nhãn trước nhà tự tử.
Tin bác Khảm gái tự tử bật ra làm cho dân làng đều ngạc nhiên. Cứ theo lời đồn thì nguyên tối hôm trước trong khi đứng xem bác Khảm có thả lời ong bướm với một thiếu nữ trong làng, vợ bác có ý ghen và về nhà hai vợ chồng cãi nhau kịch liệt. Bác Khảm bỏ nhà ra đi. Bác gái ở nhà phần thì quá ghen, phần thì giận chồng phụ bạc, nên bác dùng dây lưng để quyên sinh.
Chuyện thứ hai, xảy ra ở Phủ Lạng:
Bác Thổ, lái lợn ở Lạng Sơn về Bắc Giang vào phiên chợ trâu bò ngày 10 Avril. Bác về từ hôm 9 Avril mang theo cả vợ và chị vợ. Tối hôm ấy bác dắt hai người đi rong phố, sau chán bác rủ đi xem hát tuồng. Theo lời bác thuật lại thì vợ bác nói đã đi buôn bán còn đi xem làm gì cho tốn tiền. Bác lấy lẽ phải phân trần, vợ bác cũng không nghe và nói chồng nhiều câu khiếm nhã. Bác giận quá liền đánh vợ mấy cái bạt tai, không ngờ vợ bác chẳng vừa, một mạch chạy ra sông Thương tự tử. Anh chồng hoảng hốt chạy theo kêu cứu ầm ỹ, cả phố chạy ra xem đông như kiến. May lúc ấy có mấy người làm ô-tô đứng đấy đuổi giúp. Vừa tới sông Thương chị vợ toan nhảy xuống thì họ túm được. Sợ xảy ra án mạng họ kéo tới trình Sen-đầm, ông đe doạ chị vợ và giao cho anh chồng trông nom gìn giữ vợ, nếu xảy ra sự bất trắc anh chồng sẽ chịu trách nhiệm. Hẳn đêm ấy anh chồng không dám… ngủ!
Hai cái tin “nguy hiểm” đó đã làm các bạn rợn tóc gáy lên rồi, vậy mà cái đó chỉ mới là thường, cái đáng sợ là nếu các bạn được thấy hai cái tin cùng đăng cạnh nhau cùng một ngày thì mới lại càng khiếp quá. Một ngày mà ở hai nơi đã có hai vụ ghen tuông như thế thì không biết, còn những vụ ghen tuông người ta không được tai nghe mắt thấy, còn những vụ ghen tuông ở trong nước ẩn kín ở dưới mái nhà, còn nhiều biết bao nhiêu mà kể!
Ngồi nghĩ mà chơi, mỗi ngày mỗi giờ mỗi phút ở trong nước ta không lúc nào không có chuyện ghen tuông giữa những cặp vợ chồng ăn ở với nhau. Ước ao rằng những chuyện ghen tuông đó đều như gió thoảng mây bay ấy, − nói như thế cho nó đẹp lời văn một chút, − chứ, nói dại đổ xuống sông xuống ao, đám ghen tuông nào mà cũng “kết liễu một cách thảm khốc” như hai câu chuyện ở trên kia thì gia đình hạnh phúc không tài nào có được!
Vậy mà đương lúc này đây là lúc người ta chú trọng về gia đình, cái hạnh phúc gia đình là một việc tối cần, tưởng chẳng phải là một cái trò chơi. Gia đình không yên ổn, người đàn ông còn nghĩ đâu đến công chuyện ở bên ngoài; trái lại, người ta dễ sinh ra bực chí, tuyệt vọng, mà ngay những người ngoài cuộc, chưa thành gia thất, thấy thế cũng đâm ra… bở vía! Nếu những chuyện ghen tuông như thế này mà cứ xảy ra hoài, tôi e rằng người thanh niên rất có một quan niệm xấu về hôn nhân, họ sẽ vin vào đấy mà lấy làm một cớ trong trăm nghìn cớ khác để không lấy vợ.
Vì vậy cho nên, − xin nói để độc giả biết tôi không có ý khôi hài đâu, − tôi nói không… cười đấy, − vì vậy cho nên, đối với tôi, sự ghen tuông là một… vấn đề quan hệ, ta cần phải biết nguyên nhân.
Có người tất sẽ hỏi rằng: “Biết nguyên nhân để làm gì?” Thì tôi xin lè lưỡi ra, quắc mắt mà hét lên rằng: “Biết để mà… để đấy, chứ còn làm gì nữa! Hỏi vẩn vơ lắm, tôi không chịu được”.
Thực vậy, thưa các ngài, những nhà luân lý mô phạm từ xưa đến nay vẫn làm sách nữ huấn dạy đàn bà đừng có ghen tuông, tôi cho là sự ích lợi không thể có được, − nếu không muốn nói là dập gậy xuống nước, là vô ích, là vào lỗ hà ra lỗ hổng.
Tuy thế, sách nữ huấn dạy đàn bà con gái lúc nào cũng vẫn cứ là cần phải có. Duy có một điều mà ai ai cũng đều nhận thấy như tôi là tính ghen tuông của đàn bà là do tự trời sinh, chứ không phải luyện mà có được; giời phú cho người đàn bà cái tính ghen tuông cũng như phú cho khắp mọi người cái tính đói thì ăn, khát thì uống vậy. Tôi không sợ nói thế mà làm phật ý đàn bà. Họ sẽ không tức giận đâu, bởi vì nếu đàn bà tức giận vì bảo họ ghen tuông thì họ đã tức giận từ bao giờ kia rồi, họ tức giận từ khi có câu đồng dao này trong dân gian:
Ớt nào là ớt chẳng cay,
Gái nào là gái chẳng hay ghen chồng.
Vôi nào là vôi chẳng nồng,
Gái nào là gái lấy chồng chẳng ghen…
Ôi! câu đồng dao, không biết các ngài thấy thế nào chứ riêng tôi mỗi khi đọc tới thì mắt lại … rưng rưng những lệ, bởi vì theo tôi, nó ngụ một ý chua xót cho thân thế của bọn đàn ông. Tôi nghĩ đến thân thế của bao nhiêu ông chồng lấy phải vợ dữ mà đắng cay ngậm quả bồ hòn vì chẳng nhẽ mỗi lúc người ta lại dán ở cửa: “nhà này có… vợ dữ”, hay: “Trước khi vào phải coi chừng vì có… sư tử Hà đông”?
Tôi nghĩ đến bao nhiêu gia đình tan nát vì ghen tuông, những người đàn ông bị tiêu tán cả sự nghiệp vì vợ ghen, những người, lúc tôi đương viết bài này đã là người bạc mệnh, vì tính ghen tuông của đàn bà (1).
Tôi nghĩ đến những lời than thở não nùng của thi sĩ văn sĩ ta từ xưa tới nay và những lời sầu oán của thanh niên chết khiếp đi mỗi lúc nghe thấy gia đình nói đến chuyện lấy vợ đẻ con: họ sợ lấy phải vợ hay ghen, vợ dữ, vợ nguy hiểm sẽ ăn thịt mình như sư tử ăn thịt người.
Biết vậy rồi, các bạn đừng cho chuyện này là tầm thường. Ta phải cần hiểu rõ về tính ghen tuông, mà nói đến tính ghen tuông, trước hết, ta phải bắt chước nhà thi sĩ tìm biết “vợ” là gì đã, “vợ chồng” là làm sao mà lại “ghen”, mà “ghen” thế nào lại có người đàn ông “đâm sợ” để lãnh một danh từ rất xấu là “đồ sợ vợ”.
Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu đã có một bài văn rất nghiêm nghị về chuyện này, xin dẫn như sau:
“Nguyên là vợ chồng lấy nhau thì có tình, tình sinh ái; ái sinh uý, uý là sợ. Vợ vẫn là một “vật” đáng sợ; nhưng sợ đó là một nhẽ chính. Còn như vợ giàu mà sợ; vợ thần thế mà sợ; vợ hũng hạn mà sợ; thời sợ đó là ba nhẽ biến. Sợ một nhẽ chính thì là ông chồng; sợ một chính một biến thời là anh chồng; sợ một chính hai biến thời xuống là thằng chồng; mà sợ cả đến ba biến thời…nguy. Nguy thời phải cấp cứu”.
Vì vậy nhà thi sĩ vì chúng bạn, vì hết thảy đàn ông có vợ, vì ai sợ đến ba biến, thảo một thiên cứu cấp như sau này (nhà thi sĩ bảo rằng nếu tụng được 100 lượt, tất có độ ách được đôi phần, chẳng biết có đúng không?). Bài văn cứu cấp sự sợ vợ như sau này, xin cứ chép nguyên văn, để ngộ bọn đàn ông ta có ai muốn chép lại… cầu phúc hay tặng bạn bè như kiểu những cái… chaînes de bonheur của Pháp:
Thằng cuội ngồi trong cung nguyệt,
Chim khôn mắc phải lưới hồng,
Là mình với ta,
Chẳng duyên thì nợ,
Cơ giời tác hợp, sợi tơ mành xe chặt lấy nhau,
Bể ái đầy vơi, nén hương nguyện cho tròn một kiếp.
Như mỗ nay,
Con nhà gia giáo,
Cũng mạch thư hương,
Mặt vuông chữ điền,
Điền vô nhất thốn.
Lưng dài vải tốn, mình lính nhưng tính quan.
Mặt nạc đóm dày, khôn nhà mà dại chợ.
Tuổi mới độ đôi chín ba mươi, dĩ lý đã rượu sớm chè trưa.
Học chưa xong tam hoàng ngũ đế chi thư, lại a tròn b méo.
Chồng con thế ấy,
Ai người dễ ưa.
Thế mà,
Nệm ủ chăn lồng, nghĩa cũ bấy lâu êm ái,
Cơm hầu canh dẫn, lòng riêng riêng những kính yêu.
Cũng mong cho một bước một hay, được như ai, ông cống ông nghè, có danh có giá,
Không ngờ lại mỗi ngày mỗi đốn,
để đến nỗi con tiều con khỉ, mang tiếng mang tai.
Năm năm lâu dài,
Một phen giận dữ.
Sự thế thế nào phải thế, bao quản mình lươ,.
Phận đành chi dám kêu oan, còn nhờ lượng bể.
Nam-vô Phật ngồi trên tam bảo, phổ cứu chúng sinh.
A-di-men lạy đức Chúa Giời, tôi là kẻ có tội.
Nhà thi sĩ “hoà máu và mực” để viết nên bài văn tế cứu cấp sự sợ vợ này có nói rằng: ai tụng bài này được một trăm lần thì cũng có độ ách được mươi phần. Độ ách! Chao ôi! cái chữ nghe sao mà bi đát thế! Tuy vậy bi đát thế nào thì bi đát, tôi tưởng bài văn cấp cứu kia cũng chẳng “ăn” gì, bởi vì nghĩ cho nó cùng ra, nếu sợ vợ mà tụng kinh giải ách được thì từ xửa từ xưa người ta đã làm rồi, chứ có đâu lịch sử lại cứ còn đầy rẫy những chuyện sợ vợ, mà câu chuyện “cái đảng sợ vợ” ở trong Tiếu lâm quảng ký cũng không thể còn có được. Nhân đây, ta nên kể lại chuyện “cái đảng sợ vợ” đó nghe chơi:
Ngày xưa ở một làng kia, từ ông thủ chỉ cho đến anh cùng đinh, ai ai cũng sợ vợ cả. Thấy thế cho là có thể “thương tổn” đến danh giá của cả làng, có một người mới họp các bậc đàn anh lại mà rằng: Bởi chưng một mình lẻ loi, cho nên “chúng nó” bắt nạt được. Giá bây giờ ta họp nhau lại thành một đảng, tổ chức có quy củ, như đũa cả nắm khó bẻ, thì chúng nó không làm gì nổi. Phải đừng có ai bỏ ai mới được! Người ấy nói xong ngâm một câu thơ rằng:
Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao
Cái trò ở nhà quê ta vẫn thế. Mới nói ra thì chẳng có ai nghe, nhưng đến lúc “gã tiên phong” kia đọc một vài câu vần vè lên thì ai nghe cũng chịu cả; mọi người đều vỗ tay hoan hô nhiệt liệt và đều cho là phải cả. Lập tức, họ họp thành một đảng gọi là Dasovo cũng như người ta mệnh danh cho hội này hội nọ những cái tên lạ như Ajimi, Cotsiva, Apha, Amikea, v.v… Dasovo cũng có một ý nghĩa: nếu lấy rời từng chữ ra thì người ta thấy ba chữ nghe rất oai, không chỉ về sự ăn uống, đánh tổ tôm như Ajimi, không có cái ý nghĩa ái hữu bịp như Cotsiva, nhưng có cái ý nghĩa này; đa = đảng, sovo = sợ vợ.
Dasovo được nhiệt liệt hoan nghênh. Một phiên nhóm bất thường đã chọn xong thư ký, thủ quỹ và làm sổ ghi tên hội viên đâu đó cả rồi, một uỷ ban được cử ra để chọn ngày lành tháng tốt tế thần. Ngày hôm tế thần đến, Dasovo không dám cử lễ ở trong làng sợ lộ chuyện, họ đem nhau ra tế lễ ở ngoài đồng xa xa, và cắt ba ông sợ vợ nhất, một ông vào mạnh bái, hai ông vào bồi tế. Xong đâu đấy cả rồi, nổi trống đốt pháo, các quan viên áo mũ vào tế. Tế được một tuần, đến lúc xướng: “Gia quỳ!” Ba ông kia cùng quỳ cả xuống. Thì ngay bấy giờ có mấy bà đi chợ về qua, thấy tế lễ linh đình, rủ nhau đến xem. Nhân viên Dasovo thấy bóng các bà, vội vàng sấp ngửa, ù té chạy cả. Duy chỉ có ba ông nọ còn đương quỳ, cho nên không chạy kịp. Bọn kia chạy chừng một quãng, ngoảnh lại trông thấy ba ông ấy vẫn cứ quỳ ở giữa chiếu mới lao xao bảo nhau rằng: “Ừ, thế chứ lại! Chúng mình cắt những tay xứng đáng cả! Thế mới là Dasovo chứ! Dasovo vạn tuế! Vạn vạn tuế Dasovo!” Bèn rủ nhau giở lại. Ai ngờ đến gần thì ba ông đã chết cứng từ bao giờ rồi!
II. Dấm chua lại tội bằng ba lửa nồng
Trở lên là câu chuyện khôi hài để chứng tỏ lòng ghen tuông của đàn bà và người ta sợ lòng ghen tuông ấy đến chết đứng như Từ Hải thì đủ biết thế nào. Nhưng dù sao, đó chỉ là một chuyện để cười thôi. Người ta lắm lúc cũng cần phải đứng đắn một tí chơi: đó là một điều cần nữa trước khi chúng tôi đem vẽ lại cho độc giả biết những cảnh ghen tuông lạ nhất xảy ra ở xã hội ta, những kết quả khốc liệt của nó để ta cùng xem nó đã làm cho bạn đàn ông râu quặp bở vía như thế nào, tuy họ cũng đã khôn khéo nghĩ ra rất nhiều cách để che mắt những bà sư tử Hà đông ấy.
Đọc Kiều vào đoạn cụ Nguyễn Du tả cái lòng ghen của Hoạn Thư, − người này đã có tên ở trong lịch sử ghen tuông: ghen như ả Hoạn; rõ là ả Hoạn Thư chưa! − để chỉ những bà ghen tuông, các bạn tất đã đọc đi đọc lại không biết bao nhiêu lần câu văn này:
Cúi đầu luồn xuống mái nhà
Dấm chua lại tội bằng ba lửa nồng.
Chắc các bạn đã biết “lửa nồng” là gì rồi vậy. Lửa nồng nguyên ở chữ “hoả khanh” nghĩa là hầm lửa, ý nói là lầu xanh. Ở đời người đàn bà tử tế, còn có gì đáng sợ hơn lầu xanh nữa, vậy mà theo ý cụ Nguyễn Du thì lầu xanh cũng chưa sợ bằng dấm chua! Dấm chua là cái gì vậy? Chỗ này ta nên biết.
Ngày xưa, ở nước Kim, tức là Mãn Châu quốc bây giờ,[1] Hoàng đế nước ấy chuyên sủng hai cung tần nọ. Bởi vì hai cung tần đó đẹp hay bởi hai cung tần ấy khéo? Cái đó không có sách nào chép rõ. Người ta chỉ biết rằng, việc ấy làm gai mắt nhiều người và làm cho nhiều mỹ nữ trong hoàng cung tức tối và ghen ghét; nhưng tức tối ghen ghét nhất, có chăng là Tiêu hoàng hậu. Thấy vua sủng ái hai cung tần nọ, Tiêu hoàng hậu đêm quên ngủ ngày quên ăn, chỉ tìm cách báo thù thì, may thay!... một bữa nọ Kim Hoàng đế bị bệnh rất là trầm trọng. Vua bèn vời hoàng hậu lại gần long sàng mà rằng: Hậu ơi, nếu chẳng may trẫm có mệnh hệ nào thì hậu phải nghe lời trẫm nhớ cho chôn sống hai con cung tần nọ để nó hầu hạ trẫm dưới suối vàng, Hậu khá nhớ, nghe! Thế rồi vua thăng hà. Tiêu hoàng hậu nhớ lời Kim Hoàng đế trối trăng lắm lắm. Nhưng hoàng hậu vì bị con rắn ghen tuông nó hành hạ đêm ngày nên nghĩ rằng: Nếu bây giờ ta nghe lời nhà vua mà chôn sống hai con đó xuống dưới đất cùng với nhà vua, thì ở suối vàng chúng lại được nhà vua sùng ái mà biết đâu chẳng sủng ái hơn lúc còn ở trên dương thế, bởi vì không có ta ở đó. Nghĩ thế, Tiêu hoàng hậu sầu không biết bao nhiêu mà kể. Ngài nghĩ đêm nghĩ ngày và sau nghĩ ra được một kế có thể làm vui lòng… ghen của mình: cái mưu kế cũng đã thâm thiểm, sâu sắc lắm. Muốn không cho hai ả cung nhân kia được sớm hôm hầu hạ đức vua dưới suối vàng, Tiêu hoàng hậu nghĩ chỉ có cách làm cho hai con đó chết đi, nhưng chết mà không thể nào gặp được nhà vua vậy. Muốn thế, hoàng hậu đã truyền làm như thế này: Ngài sai quân lính bắt hai ả cung nhân đó lại, và − ai bảo hai ả lại được nhà vua chuyên sủng? − hoàng hậu truyền: lóc thịt họ đi. Mất thịt như thế, họ xuống âm cũng chẳng còn được nguyên vẹn nữa thì chắc chắn nhà vua sẽ chán.
Tuy vậy, cái lòng ghen tuông của hoàng hậu đã được thoả cho đâu. Bởi vì hai ả đó lại còn xương, hoàng hậu sợ xuống âm cung, họ vẫn còn có thể hoá thành người đi lại và được nhà vua chuyên sủng nữa, nên lại nghĩ thêm một chước cho mưu kia thực hoàn toàn: đó là tuốt xương hai ả cung nhân đó và đem ngâm vào dấm cho những xương ấy tiêu mòn đi, không còn lại một chút gì hết trọi. Từ đó, câu chuyện ấy được chép vào “sử xanh” và câu dấm chua được người ta nhắc tới mỗi lần nói đến tính ghen tuông của đàn bà.
Đối chọi với Tiêu hoàng hậu, sử Tàu còn có một người mà ta thường nhắc tới luôn luôn, đó là Lã Hậu.
Sử chép rằng bà Lã Hậu lấy vua Cao Tổ, lúc mới đầu được quân vương sủng ái lắm, đặt làm chánh hậu và đã trải những năm tình mộng như gấm như hoa. Chẳng ngờ về sau, nhà vua lại mặn tình với một cung phi là nàng Thích Cơ và nhạt tình với Lã Hậu; người sầu muộn đêm ngày, muốn làm hại Thích bằng đủ các cách nhưng không được, bởi vì người còn sợ Cao Tổ vì thế mà hãm hại người chăng. Người ngậm đắng nuốt cay như thế, cho đến khi Cao Tổ thăng hà, người mới có thể ra tay hành hạ cái người “đã cướp sống chồng mình”. Cách hành hạ ấy, không ai có thể tưởng tượng được: đó là bắt ả Thích Cơ khoả thân ra, và sai quân lính đánh đập nàng đủ cách. Xương, máu tan tành, Thích Cơ chết đi sống lại; tuy vậy Lã Hậu vẫn chưa vừa lòng, Lã Hậu cho quân lính lóc từng miếng thịt của Thích Cơ ra, và sau hết, chặt cả chân tay của người đàn bà khốn nạn, nhưng điều cần yếu là giữ cho Thích Cơ không chết. Thích Cơ không chết thực. Nàng cứ sống lây lứt như thế, cho đến một ngày kia, Lã Hậu truyền cho quân lính vứt nàng vào trong chuồng lợn và cho sống chung với lợn. Từ đó, Lã Hậu bèn đặt cái tên “nhân trệ” để gọi Thích Cơ, ý nói là người lợn. Ghen tuông mà hành hạ kẻ tình địch của mình đến thế, tưởng đã đến chỗ cùng cực của sự nham hiểm gian ác trên đời vậy.
Thời giờ qua đi. Cuộc đời mỗi thời đại một khác nhau nhưng tâm tính người ta thì vẫn nguyên như thế, gần như không thay đổi gì.
Bao giờ cũng thế, nếu ở đời còn những người chất phác thực thà thì cũng còn những kẻ mưu cơ gian giảo, cũng như nếu còn có đàn ông thì giời vẫn để cho có đàn bà để giúp đỡ đàn ông mà cũng để ghen tuông và làm cho họ sợ… như sợ sư tử vậy.
Tôi đã từng được các bậc đàn anh đã từng trải đời nhiều kể lại cho nghe nhiều chuyện tỏ rằng có lắm người đàn ông làm những chuyện rất phi thường, coi những sự thử thách của đời đều là trò trẻ cả, vậy mà cho đứng trước một người đàn bà thì “mờ” cả người đi. Tôi không muốn nói đến chuyện sắc đẹp đâu, tôi không muốn nói rằng “nhan sắc của đàn bà khuynh thành, khuynh quốc” đâu, mà đừng ai vội vểnh râu lên ngâm câu này: Cho hay mặt sắt cũng ngây vì tình!
Các bạn cứ để ý mà xem, lắm khi người đàn bà không cần phải đẹp lắm, tình lắm mà đàn ông cũng cứ sợ như thường. Thứ nhất, nhiều người đàn bà lại xấu nữa, mà ác hại thay, người đàn ông không có tình yêu thương gì hết, vậy mà một cái lườm, một tiếng quát, − lắm khi, trời ơi, lại chỉ cần một cái cười nửa miệng − cũng đủ làm cho anh đàn ông hết vía, run bần bật lên như cầy sấy, lắm lúc tưởng đem quả trứng và bảy nắm cơm hú vía cũng khó mà gọi hồn lại được!
Người ta kể chuyện rằng, xưa, về đời Khang Hy, nhà Thanh có một danh tướng là Niên Canh Nghiêu, trăm trận đánh trăm trận thắng, danh tiếng vang lừng trong bốn cõi, những chiến công oanh liệt không để đâu cho hết. Có thể bảo rằng anh ta là một người khát máu, coi cái chết như trò trẻ nữa. Anh ta cần phải trông thấy máu và sự chết chóc luôn luôn, bởi vậy cứ mỗi bữa cơm, anh ta phải truyền cho quân lính lựa những tên tù bị trọng tội nhất đem ra xử giảo ở trước mặt, không thế mà ăn cơm không ngon miệng. Một người gớm ghê như thế, dữ có thể đem ví với tử thần như thế, vậy mà các bạn có biết anh ta sợ nhất trần đời cái gì không? Quả như lời các bạn đã đoán trúng, Niên Canh Nghiêu chỉ sợ nhất có một người, một người chân yếu tay mềm: người đó là bà Niên Canh Nghiêu vậy. Chao ôi, nào có phải sợ thường thường thì nó cũng còn cám cảnh với trời. Đằng này không. Niên Canh Nghiêu lại sợ quá đỗi đến nỗi mỗi lần vợ anh quát lên một tiếng thì cái giáo cầm tay rơi liền ngay xuống đất. May thay trong sách lại không chép rõ rằng những khi ấy thì anh ta có “lác mắt” hay là “bở vía” không. Chắc có!
Câu chuyện cổ này làm cho tôi nhớ đến những bức ảnh trào phúng ở trên những tờ báo Anh và Pháp: một nữ phi công, vượt chín từng mây đi thám hiểm hoàn cầu, vừa ở trên máy bay đặt chân xuống đất kêu thất thanh lên, sợ quá, vì có một con chuột nhắt nó bò ở cạnh chân! Chuyện này cũng giống như chuyện ông võ sĩ chiếm giải quán quân “bốc-xờ” ở hoàn cầu, đấu trận nào cũng thắng,− dáng chừng cũng như võ sĩ mọi Joe Louis vậy, − vừa bước chân vào đến cửa thì giá cả người đi vì thấy vợ quát ầm lên trong nhà. Thế rồi, anh ta cũng cứ liều vào. Thì bà vợ cho luôn một cái… knock out − gọi thế cho oai, chứ chính thực là cái tát − và nhà võ sĩ chiếm giải quán quân thế giới đành chịu, không thể nào đỡ được vì anh ta đã bủn rủn cả tay chân từ bao giờ rồi.
III. Một đống tro ở dưới gáy và một lưỡi dao ở cuống họng ông chồng đương ngon giấc (2)
Kể lại các ngài nghe câu chuyện nhà võ sĩ bị vợ cho một quả “nốc ao” đau điếng cả người đi, xin các bạn độc giả đàn ông chớ vội “nghi lắm nhé!” mà bảo rằng kẻ này chủ ý “gây một phong trào khủng hoảng” để cho bạn đàn ông ta “ngất” đi đâu.
Tôi dọa? Tôi doạ thì tôi “ăn” gì chứ? Chẳng lẽ các ngài quá yêu đời, lại có thể đi tìm được rằng hiện giờ đàn bà ở nước ta đã có tổ chức, chuyến này định làm một công chuyện gì đây, nên đã “mua” kẻ tài hèn này, ẩy hẳn viết bài gây thanh thế cho phụ nữ để phụ nữ đánh đàn ông một trận nerfenprobe, một trận chiến tranh gân cốt như cái lối chiến tranh hiện giờ. Không, than ôi, thưa các ngài, không, đàn bà ở nước ta đâu đã phải cần dùng đến cách đó? Ở Anh, ở Mỹ, ở Nga, nghe nói như đã có nhiều người đàn bà làm tới cảnh sát thượng thư. Ở Gia-nã-đại họ lại dắt nhau đi biệt lập ở riêng một làng toàn đàn bà cả, anh đàn ông nào láng cháng đến đó sinh sự thì có dao găm súng lục. Lại có những hội đàn bà sống độc thân, những hội đàn bà chuyên đi khuyên giải những người thất vọng đừng nên tự tử. Đó, những hạng đàn bà đó, tôi thường nghe nói họ mới hay dùng báo làm cơ quan tuyên truyền, mà sở dĩ phải tuyên truyền như thế, chính là bởi họ chưa tin sức họ. Chớ đến như đàn bà ở nước ta (2) thì tôi tưởng thanh thế họ đã vững lắm lắm rồi. Tờ báo là cái gì? Xem việc ngay trước mắt thì biết đó: bao nhiêu cơ quan báo chí của phụ nữ đó, họ có cần làm gì, bởi vậy cho nên lần lượt họ cho chúng đi sang Lào hết, không thiết cho ra đời làm gì cho tốn tiền và mệt sức. Tiền ấy, sức ấy, thà để ngồi mà quạt và đem ra làm dáng cho ngây hồn bọn đàn ông: bọn đàn ông mà bị thu vía rồi thì thiên hạ ở trong tay họ, còn phải một hai gì nữa. Lúc đó, họ bảo gì mà đàn ông chẳng phải theo? Chẳng cần gì nói lôi thôi, đến cái chết là cái gì cũng sợ, vậy mà hằng ngày, ta chẳng thấy chán anh vì đàn bà mà đâm văng mạng coi nó như chơi, tự tử chết oanh oách không cần gì đời cả!
Đó là nói về hạng đàn bà cầm quyền sinh tử đàn ông; đàn ông nhiều khi chết là để “vây” với họ, chết là để tỏ “ta đây thuỷ chung với họ”, chết là sợ họ không bằng lòng cho mình sống.
Chứ đến câu chuyện tôi kể ở dưới đây thì tất các ngài cũng như tôi đều có thể quả quyết là người đàn ông chủ động không muốn chết vì đàn bà một chút nào. Trái lại, tôi lại có thể cam đoan rằng anh chàng này muốn sống là khác nữa, bởi vì anh ta sống trong trời hạnh phúc. Anh ta lấy một cô vợ dữ như một con hùm vậy.
− Lấy phải một cô vợ dữ như một con hùm mà bảo là sống trong hạnh phúc? − Các ngài tất sẽ hỏi tôi thế chứ gì. À, nếu quả vậy thì xin các ngài cứ bình tĩnh mà nghe tôi kể. Các ngài đừng lôi thôi làm đứt mất cả hứng văn của tôi đi, cũng như anh chàng nọ của tôi lắm khi cụt cả hứng vì cô vợ đó giữ anh ta tợn quá không cho anh đi đâu cả.
Ở đời, trời hay chơi những “cú” rất ác; chính những anh chồng vợ dữ giữ ở nhà tợn thì lại hay túng tắng rửng mỡ muốn đi tìm những thú vui bên ngoài nó nhử như thể một miếng mồi ngon vậy.
Vậy ông có vợ dữ như hùm của chúng ta cũng không thoát khỏi cái công lệ ấy. Con hùm cái nó hầm anh như món thỏ sốt vang, mà còn phải ví von gì nữa, anh ta chẳng là thỏ thì còn là cái quái gì? Vậy mà anh ta, − có trời hiểu làm sao? − anh ta vẫn kiếm cách bắt nhân tình với một ả nhà tơ nọ.
Đôi ta đá tạc vàng ghi,
Vàng thì Mỹ ký, đá thì tổ ong…
Đôi ta hẹn núi thề sông,
Núi trong bể cạn, sông trong bàn cờ.
Cái tính vụng trộm ấy thực là tình bỏ bu con chuột bạch, không kém gì cái tình não nuột của những ông văn sĩ trong Tê E lờ văn đoàn,[4] cực tả những cô gái ho lao mê những anh loạn óc.
Không cần phải điều tra phỏng vấn lôi thôi làm gì, người ta cũng biết rằng những lúc anh trốn con hùm đi chơi với chị ả được độ mười lăm phút nửa giờ thì anh ta sướng rơn lên: anh quên trời, quên cả người, vì vậy, một ngày xấu trời kia, một vài người trông thấy anh chị bày trò trên bộc trong dâu, nghĩa là… dắt tay nhau đi “chơi tễu” ở hồ Bảy Mẫu, họ liền về báo cho con hùm biết ngay. Con hùm ấy, chẳng may lại sống lâu quá, thành tinh ra mất rồi, nên nó lặng yên, chẳng nói với anh chàng nọ một câu gì hết.
Lo gì việc ấy mà mà lo,
Kiến trong miệng chén có bò đi đâu.
Làm cho nhìn chẳng được nhau,
Làm cho đầy đoạ cất đầu chẳng lên.
Cái đoạn văn ấy trong Kiều, cụ Nguyễn Du chủ ý tả cái ghen của Hoạn Thư, mà người đọc, cố nhiên là phải hiểu theo nghĩa bóng.
Chẳng hiểu vì ít học hay vì tính con hùm cái nọ hùng hổ không thích cái gì bóng bẩy lờ mờ, ả ta bèn gật đầu đắc chí và quyết làm theo lời của cụ Nguyễn Du đã dạy (Chao ôi! cụ Nguyễn Du nào có biết đâu rằng văn chương của cụ lại tai hại cho hậu thế như thế được!)
Làm cho đầy đoạ cất đầu chẳng lên.
À được! Muốn cho cất đầu chẳng lên được thì chỉ có một cách. Cách ấy, chị chàng ta đem ra thi hành một đêm cuối tháng kia và các báo hằng ngày đã thuật lại như sau này:
“Nguyễn Văn Tô… lấy Bùi thị K. đã được sáu năm nay, con sống có con chết có, tưởng rằng tình nghĩa lâu dài, không ngờ những chuyện xích mích gia đình lại thường xảy ra luôn, nhiều khi láng giềng hàng xóm không ngủ được vì bà ấy “truy” ông ấy dữ quá, nhiều khi chén đĩa ban đêm đương ngủ ở trong khay cũng bị giật gáy lôi dậy và bị cho đi… la-mát hết! Xảy đêm mới đây, trong lúc mọi người đương ngủ yên tĩnh thì ở nhà Nguyễn Văn Tô bỗng có tiếng kêu “Bớ làng xóm! Ối ông già bà cả ơi!” Thoạt đầu ai cũng tưởng là ông chồng bị vợ khiền kêu “sơ-cua”, nhưng chú ý nghe mãi thì ra không phải tiếng Tô, nhưng mà lạ, sao đó lại là tiếng ông quản B. ở nhà gần đấy. Sao tiếng ông quản B. kêu cứu lại nổi lên ở nhà Nguyễn Văn Tô? Thực là một sự lạ, mọi người đều muốn biết. Bao nhiêu lời ức đoán đều “sắp măng” ở trong óc mọi người trong khi họ ba chân bốn cẳng chạy đến nhà Nguyễn Văn Tô.
− Có lẽ nào ông quản B. lại sang sinh sự với vợ chồng nhà ấy! − Hay là con mụ Bùi Thị K. khiền chồng chưa đủ chán lại hăng máu gọi bạn chồng là quản B. sang “giã” cho anh chồng nhìn thấy gương tày liếp mà chừa những thói hư tật xấu đi? − Hết thảy đều đoán lầm cả. Chạy đến, mọi người mới biết rằng bao nhiêu đầu óc họ chụm nhau lại để đoán việc xảy ra đều sai bét: cái việc xảy ra đó ở ngoài hết cả sức tưởng tượng của mọi người, cái việc đó có thể nói là một việc hãn hữu trên đời này nữa. Việc đó như sau này:
Hồi mười giờ đêm hôm đó, ông quản B. muốn hút một điếu thuốc lào. Chợ thì xa mà cả nhà một cái diêm không có, ông quản bèn nghĩ ra ngay vợ chồng ông hàng xóm. Bèn nâng tấm liếp lên, thò cổ sang và giơ một cái đóm ra: Ông ơi, cho xin cái lửa! Một ngọn đèn leo lét cháy ở trong gian nhà âm u tối. Một vệt sáng loé ra. Ông quản B. thét lên một tiếng rồi lặng đi một lát. Như thể một người nghỉ lại để “lấy gân”, một phút đồng hồ sau, gân cốt mới lại cứng như cũ, ông hét lên một tiếng nữa rồi trố mắt ra nhìn thực kỹ xem mình có nhìn lầm hay chăng. Thì không sai, trước mắt ông, như thể muốn thực hành câu thơ của Nguyễn Du: “Làm cho trông thấy nhỡn tiền”. Câu thơ nối với câu: Làm cho đày đoạ cất đầu chẳng lên, một “người” đàn bà, vâng chính là một người đàn bà, − mà người đàn bà ấy là vợ Nguyễn Văn Tô, − đương hạ một con dao xuống cổ anh chồng đương ngon giấc!
Nghe thấy tiếng kêu của ông hàng xóm mụ Bùi Thị K. bủn rủn tay chân đánh rớt con dao xuống giường. Vừa lúc ấy mọi người đổ lại, người chồng suýt thì là một cái xác không đầu cũng thức giấc, người ta khêu to bấc ngọn đèn để cho gian nhà sáng sủa thì ồ lạ! một đống tro to bằng một cái mẹt thấy lù lù ở giữa giường, ngay bên cạnh cái gối tre của Nguyễn Văn Tô… nằm gối đầu để ngủ. Tại sao lại có đống tro ấy? Một loạt dấu hỏi lại cuồn cuộn nổi lên ở trong óc khắp mọi người; người ta không hiểu ra sao cả, định tìm mụ Bùi Thị K. để hỏi thì mụ đã “cao chạy xa bay” từ bao giờ rồi.
Tôi không nhớ rõ pháp luật về sau có vớ được mụ đàn bà nanh ác có một kia không, nhưng cứ theo như sự hiểu biết của những người ở chung quanh đó thì cái đống tro kia không có gì là bí mật cả. Bùi thị K. muốn nhờ lưỡi dao để mời ông chồng “sà lù” của mụ sang bên kia thế giới. Thế thôi. Nhưng, như trên kia đã nói, mụ là một con hùm cái thành tinh, mụ tinh ranh lắm. Sợ rằng cắt cổ chồng thì sẽ có máu vấy ra giường thành dấu vết thì sau này phải tội với pháp luật chăng, mụ khôn khéo − nhưng mà cũng thiển cận thay! − mụ khôn khéo nghĩ ra một kế là để một đống tro ngay dưới gáy chồng, để lúc hạ thủ thì máu rỏ xuống đống tro không để lại vết tích cho việc tra xét sau này vậy!
Câu chuyện ầm lên và lan rộng khắp Đông Dương. Làng râu quặp đối nhau cũng như hiện giờ ở Âu châu có hai phái phản đối nhau kịch liệt, một phía bênh Anh, và một phía bênh Đức vậy. Phái râu quặp thì rằng: Ghê! Đàn bà như thế thì là yêu là ma, chứ là người sao lại thế? Mình đâm bở vía từ khi đọc cái tin “thảm khốc” kia. Thấy người “bị thế”, biết sau thế nào? − Vợ là cái nợ, thực câu nói của người xưa không sai tí nào.
Nhưng đối phương − làng ghen, cái làng của những bà sư tử Hà Đông thì lại cho thế này: Thế mới đáng đời những đồ dê! Ai bảo có vợ rồi lại còn thèm những chuyện trăng gió vật vờ “mặn tình cát luỹ nhạt tình tao khang”? − Những hạng đàn ông như thế ví có đem băm vằm làm trăm nghìn mảnh, tôi cũng không thương xót.
Thế rồi thì có bà lại dữ hơn, trợn tròn hai cái mắt lại như hai hòn bi ve liếc… tình chồng một cái… xoàng, nhưng chứa rất nhiều ý nghĩa đại khái như thế này: Đấy, cậu trông đấy! Đã biết đàn bà đến lúc mà nổi cơn ghen lên thì có thể làm những việc thế nào không? Cậu liệu lý lấy, nếu không thì… “tăng xương” cái đầu!... Bảo cho mà biết trước!
Tôi lấy làm tức giận không hiểu hết cả đầu đuôi câu chuyện ấy ra thế nào. Thú thực, có nhiều lúc nghĩ lại câu chuyện cũ, tôi vẫn băn khoăn muốn biết cái nguyên nhân nó đã xui Bùi Thị K. định tâm làm một việc không gớm tay như thế. Ghen đến như Hoạn Thư, cứ kể đã là vào bực nhất rồi. Vậy mà Hoạn Thư chỉ có thể hạ đến kế bắt Kiều làm hoa nô gảy đàn làm cho chàng Thúc chết từng khúc ruột. Bùi thị K. nỡ tâm định hạ thủ chồng chắc hẳn có một việc gì bất ngờ xảy đến làm sôi nổi lòng ghen của mụ làm cho mụ mất trí khôn đây. Tôi đoán thế và tôi muốn biết. Thì mãi đến tận hôm nay một người bạn làm ở đồn mới cho tôi được thoả ý mong muốn từ lâu. Thực cũng là một sự tình cờ mà tôi biết được cái nguyên nhân chính của vụ “để gio nóng sau gáy và đặt dao lên cuống họng chồng” của mụ Bùi thị K.
Thì ra mụ Bùi Thị K. hôm thi hành độc kế đó đã quá ghen tuông. Mụ bị một “cú-đờ-săng” dữ dội quá, lòng ghen của mụ vốn đã ghê bây giờ bị một “cú” rất đau, trong một lúc, rực lên và mụ không cần gì đời. “Ăn tiêu về nhiều, một hai cái chết không là mấy”. Mụ định giết chồng và có lẽ định chết theo chồng nữa, chỉ bởi vì hôm ấy là cuối tháng, chồng mụ lĩnh lương, đã có tội đi với “con đĩ” là đèo thêm một tội tầy đình nữa là đem cả món tiền lương bảy đồng rưỡi bạc tiêu với con đĩ trong khi vợ hau háu chờ đợi ở nhà để trang trải công nợ và mua gạo ăn bữa chiều!
VI. À, mày chạy có phải không? Tùm! ta tự tử cho mày biết!
Cái ông này thì khác hẳn. Ở Sài Gòn, ai cũng biết rằng ông là một người có tiền nhiều. Sự thực, trước đây mươi mười hai năm thì ông chỉ là một tay thư ký quèn ở trong một tư sở nọ, ông giật gấu vá vai mới có thể “sống được một cách chật vật”, rồi chẳng hiểu có bao giờ ông có ý tưởng tự tử chết rồi đời hay không chứ cứ riêng người ngoài nhìn cảnh nhà ông thì thực là chán hơn cơm nếp nát, ông chẳng tự tử thì rồi ông cũng chết vì buồn, nếu một ngày tối trời kia ông không gặp bà vợ tương lai của ông ở góc phố De la Somme.
Bà vợ ấy, sự thực không có vốn, nhưng có tài buôn bán thạo. Vợ chồng lấy nhau chẳng mấy lúc phất to. Thế rồi lại gặp nay cơ hội tốt này mai cơ hội tốt khác, chẳng mấy năm ông bà đã bốc lên giầu có, chễm chệ lên làm ông chủ bà chủ một nhà buôn lớn lấy chữ tín làm đầu và cho chữ đức làm quý nhất. Bởi vậy, ta có thể nói rằng ông chủ hiệu của ta bị vợ ghen không phải vì tiêu mất tiền lương tháng, lấy bảy tám đồng rưỡi bạc để đi chơi với gái. Không, ông chủ hiệu nơi đây tiêu nhiều và có lẽ nhiều quá độ nữa với những ả làng chơi ấy, − tôi cứ đoán phỏng thế cho nó vui câu chuyện, − mà chưa bao giờ bị cứa cổ hết. Đó là bởi vì tại ông khôn, ông biết chiều ý bà vợ rất dữ dội của ông. Mà bảo sao ông không chiều cho được? Bao nhiêu cơ nghiệp tự tay bà gây nên cả, ông không phải chiều bà mà thôi nhưng lại còn sợ nữa, sợ vì bà là thống soái trong gia đình. Thống soái đây có nghĩa một người lớn nhất. Mà bà chủ hiệu của chúng ta lớn theo cả nghĩa đen, mà không những lớn mà thôi, bà lại còn béo, còn to, còn cao nữa, thế mới kinh người chớ. Tuy thế ông chủ hiệu của ta cũng kinh sợ từng lúc thôi: ông chỉ sợ khi nào bà có mặt, còn những khi bà không có mặt thì ông lại du lắm, coi trời bằng vung vậy. Nghĩa là ông dám coi cái nhà hát là cái nhà hát cô đầu, ông rủ bè bạn đi nghe và gõ như những người tự do nhất trần đời. Vậy, đêm ấy, không hiểu trong lúc bà đi đâu, ông chủ hiệu khả kính của chúng ta cùng vài người nữa hối tài xế đánh một cái xe rất choáng đến chơi xóm cô đầu Phú Nhuận. À quên, tôi quên không nói với các ngài rằng ông chủ hiệu của chúng ta là người Bắc vào làm ăn lâu năm ở Nam Kỳ. Cái hồn Bắc Kỳ lúc nào như cũng lưởng vưởng ở trong đầu óc ông, ông nhớ hết, nhất là cái giọng hát cô đầu thì lại càng gợi nhiều cảm tưởng nhớ nhung buồn bã cho ông lắm, thực chẳng khác ngày xưa quân lính của nước… nước gì tôi quên mất rồi… nghe thấy tiếng địch ở trên đỉnh núi của Trương Lương mà tự nhiên thấy động lòng cố quốc tha hương vậy. Hay! hay! Chị Cúc ca nghe một bài Tỳ bà hành nghe chơi nào. Trời lúc ấy đã khuya. Cuộc vui hồ tàn. Xem trong đi hát có phần lả lơi. Ông chủ hiệu buôn kia vừa cười cười nói nói đòi nghe bài Gửi thư rồi sang bản Tỳ bà:
Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn lau hiu hắt khí thu mờ.
Lưng trời nhạn liệng dòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Thì… thì… đương lúc cô đầu hát đương “lấy gân môi” để ngân chữ đùn, mây đùn thì, đùng một cái, cửa nhà hát mở toang, ba bà liễu yếu giá đem cho vào cân thì đổ đồng cũng được ngót bốn trăm già ba trăm cân, ở đâu đã vác cái mặt to hùm hụp đi vào, sáu cái tay khoành ở trên sáu cái háng, đứng án ngữ ngay lấy nhà hát, không để cho ai thoát được. Trời hỡi! cái gì mà lạ vậy! Cái giống đàn bà mà ta vẫn thấy tả ở trong truyện Thuỷ Hử mở quán ăn rồi bắt khách hàng mổ thịt để làm nhân “tài-páo”, “tỉm-sắm-páo”, có phải là ba người này đó không? Quan viên và cô đầu không ai bảo ai mà cùng một lúc thấy rợn cả tóc gáy lên. Thì ra ba bà kia, chưa thi hành một thứ gì cả đã làm chùn ngay gân đối phương rồi. Sao lại không gọi thêm rằng đó là một cuộc chiến tranh chớp nhoáng bởi vì sáu con mắt của ba bà cứ đảo lia đảo lịa lên và tiết ra một ánh sáng nhanh như chớp nhoáng những bữa mưa rào vậy? À, không xong mất rồi…Cái tư tưởng đó vòng một tua cái óc của ông chủ hiệu, ông chủ hiệu của ta biết ngay rằng một cuộc đổ bộ ghê gớm đã xảy ra. Ba bà kia, bạn của vợ mình, chỉ mới là những quân cảm tử nhảy dù đến trước để dọn đường đất và để làm bổn phận do thám của đội quân thứ năm chứ đội quân chính thì chưa đến.
Ông chủ hiệu như Hạ Hầu Đôn ngày trước, đứng trước cảnh gay go ấy vỗ trán, vơ lấy đôi giày tây dận vội vào kêu lên rằng: Chân cha, cẳng mẹ, ta chớ nên bỏ phí! Tức thì ông “xỏ chân lên mang tai” chạy mất, nhưng không được; ba bà béo, vững như một dải Vạn lý trường thành đời nào lại để cho ông ra được? Một bà, uốn cái lưỡi đỏ ở trong miệng nói rằng: − Hổng xong mà! Hổng xong mà! anh phải đợi cho chúng tôi mầng công chuyện từ từ chớ, chỉ sắp tới đó mà. − Ba bà kia thì ra chỉ là những bà đi đánh ghen hộ mà thôi. Ghen hộ mà đã khiếp thế, các bạn đã có thể dự đoán rằng chính người bị thương tổn danh dự thực, người bị lừa dối thực thì nộ khí xung thiên đến bực nào.
Thôi đã cướp sống chồng min đi rồi.
Có vào lúc này, người ta mới thấy tất cả cái hay của Tiên Điền tiên sinh; người ta thấy người đàn bà ghen tuông không nói nhưng rít lên như một cái còi của trọng tài đá bóng. Bà chủ hiệu, hai cái răng nanh đi trước hai cái mắt đi trước, hai bàn tay đi trước còn có điến bộ đi sau rốt, vừa vào trông thấy chồng ở đấy đã gầm lên một tiếng như giời long đất chuyển. Mặt người nào cũng tái đi, cô đầu chết giun chết dế, không một người nào dám ho, người ta có cảm tưởng đứng trước một cảnh hoạt tượng trong các tấn tuồng cải lương Nam Kỳ. Thế nhưng dù sao cảnh hoạt tượng cũng phải kết liễu để diễn tấn tuồng chính mà mọi người mong đợi. Bà chủ hiệu không giáo đầu hay nói lối. Bà làm ngay một bài “Khổng Minh toạ lầu”
Bớ đứa thất phu, vào làm chi đây?
Bớ đứa thất phu, vào làm chi đây?
Trời hỡi trời, hổng xé hổng xong.
Trời hỡi trời, hổng giết hổng xong
Với lại cái đồ đỉ chó
Biết tay ta phen này…,
thế rồi từ Khổng Minh chỉ chớp mắt bà đã sang bài “Tạ” và “Bắc mang tấn cống” nghĩa là bà giở tấn ra tấn hết, bạ ai cũng tấn, mà những cái tấn đều nặng như tạ cả.
Cái trận Đức đánh Hi Lạp vừa rồi chẳng biết dữ đến thế nào chứ cứ riêng ý tôi tưởng thì dữ như vụ bốn bà béo quay lại đánh ông chủ hiệu và cô đầu này là cùng vậy. Không thể nói vào đâu được!
Ai cũng tưởng rằng rồi đây cả bọn cô đầu và quan viên sẽ bị thua một mảnh giáp không còn, ở trong nhà hát sẽ không còn một người nào, cũng như ở trên lục địa sẽ không còn một tên đàn anh nào. Chẳng ngờ phía địch họ cũng ghê gớm lắm: cô đầu trèo trốn được gần hết, chỉ duy có ông chủ hiệu là thúc thủ bí tắc mà thôi. Ông tính ngay đến chuyện “xuống tàu” như quân Anh để trốn nhưng không được. Bốn mụ đàn bà quày lại như một cái thiên la địa vọng. Biết rằng ở cũng chết, nhưng cái chết chạy thì còn có vẻ hùng hơn, ông đành nghiến môi nhắm mắt đánh lối “cánh quạt… nan”, liều sống liều chết thúc vòng vây lấy một đường để trốn: ông ẩy ngã vợ ông ra mặt đất đánh “sầm” một cái như trời rung đất chuyển, thế rồi liền sống liều chết chạy đi. Cái xe ô-tô của ông đã đợi sẵn đấy rồi, ông hối tài xế nhanh tay mở máy “Chạy, chạy mau, mầy… không có ông nội chết thì mầy sẽ chết trước ông nội mầy đa!” Và cái xe mở máy kêu sình sịch. Bốn bánh bắt đầu quay. Bà vợ vừa bị ngã đánh sầm trên mặt đất chẳng lẽ lại chịu thua đứa thất phu, nhảy ba bước ra chỗ cái xe hơi mở máy giữ ngay lấy xe lại và, y như một nhân viên ban xiếc nào đó, bà nghiến răng nghiến lợi lấy gân bám chặt lấy cái ô-tô khốn nạn nhất định không cho chạy. Trên xe, ông chồng cứ ra hiệu bảo tài xế cứ cho xe chạy bừa đi. − Ối trời! ối cha ôi, ối mẹ ôi, thằng Tín kia mày đành tâm hại ta cho ta chết đó sao. Nếu mà mày muốn thế, mày cứ cho xe hơi chạy ta sẽ chết phứt cho mày coi đa, xuống âm cung ta sẽ kiện mày cho mày chết mày khổ mấy đời, mầy đi, nghe! − Ối! nói lếu mà! cái lối đàn bà hư vẫn thế, nó doạ ta thử xem ta có nhát gan đó mà thôi, ai còn lạ mà để ý cho mất thì giờ vô ích. Cũng như trăm nghìn những người trẻ tuổi chơi bời khác, ông chưa hiểu cho những lời của mụ vợ chỉ là lời đi doạ hão, cứ thúc tài xế vặn bừa đi. Một người đàn bà không giữ xe lại được, hai người đàn bà không giữ xe lại được; thế rồi tất cả bốn người đều không giữ xe lại được, đành bỏ đấy cho: Một xe trong cõi hồng trần thẳng dong. Tuy vậy, ông chủ hiệu của chúng ta cũng không hẳn là một người nhẫn tâm. Xe chạy được một quãng rồi, ông cũng đoái tình quay lại nhìn xem sự tình ra thế nào thì trời ơi, trong đám bụi hồng, con sư tử cái của ông nhất định không chịu kém cứ ra sức đuổi cái xe tám ngựa.
Sư tử đuổi ngựa, hà, cái trò chơi ngoạn mục đa. Dáng chừng con sư tử ấy là con sư tử ốm nên mỗi lúc sức nó yếu dần đi, nó không chạy được nữa, nó nhe nanh giơ vuốt gầm lên vang cả phố: − À, mày nhất định chạy có phải không? Ta quyết chết cho rồi đời, mi sẽ ân hận mãi, đồ bạc bẽo! − Đến đây, bắt đầu đến đoạn bi đát nhất của tấn kịch ghen này. Cái mà người ta tưởng là lời đe doạ, bà sư tử cái của chúng ta đem thực hành ngay tại trời. Tòm! một người gieo mình từ trên bờ nhảy xuống dòng sông. Cái xe ô tô quành lại. Ông chủ hiệu thuê người vớt xác. Bà sư tử không chết. Người chết hôm đó, vâng, thưa các ngài đoán đúng, không phải là bà, nhưng chính là ông chồng khốn nạn của chúng ta, chết điêu chết đứng, chết khổ chết sở, chết đi sống lại ở dưới móng con ác thú khi tức giận, khi đã ghen tuông đến cực điểm.
Thôi, cứ nhắc đến mà rùng mình, còn can đảm đâu mà ngồi tả được cái cảnh sát nhân vô đao kiếm đó.
V. Người phu hồ trên cột đèn hay là: Ối bác! Ối bác!
Trong bốn kỳ vừa qua, các bạn đã thấy lòng ghen tuông của đàn bà nó làm cho họ dữ dội như thế nào rồi. Nhưng các bạn tất chưa biết rằng cái lòng ghen tuông ghê gớm ấy lại làm cho họ trở nên những tài tử làm… xiếc rất cừ; thiết tưởng đàn ông ta, những người có võ tàu võ tây lơ mơ cũng chưa chắc đã làm nổi, hay nói là chưa chắc dám làm nổi thì đúng hơn. Xem vậy, cái tính ghen tuông cũng lắm khi tốt lắm, nhất là trong nhiều vụ ghen tuông người ta lại còn thấy rằng người đàn bà không cần làm dáng, không cần dùng những cái phù phiếm là những cái mà đàn ông ta rất ghét. Chắc bạn đàn ông chúng ta sẽ đứng cả về phía tôi mà nhận rằng cái tính làm dáng của đàn bà làm cho ta tốn tiền mà khó chịu vô cùng vậy. Những nhà vẽ tranh ảnh và viết truyện hoạt kê trào phúng không biết đã viết bao nhiêu chuyện về vấn đề này: nhiều khi ta muốn rủ họ đi chơi mà đợi họ đánh xong cái mặt phấn, bôi môi, kẻ lông mày và soi gương, ta cũng mất bao nhiêu thời giờ rồi, người kiên nhẫn đến đâu cũng phải tức giận mà kêu trời la đất. Bây giờ, ta ví dụ giữa lúc họ đang trang điểm như thế, ta làm cái bộ mặt rất hoảng hốt vào “khấp cáo” rằng: “Thưa bà, chồng bà vừa chết trong một cái nạn ô tô!” Họ có lẽ cứ trang điểm cho xong đã rồi muốn ra thế nào thì ra. Chớ nếu ta vào, lác mắt, ta nói với một vẻ quan trọng: “Bà đừng sợ, bà ơi! Tôi vừa gặp ông nhà ta đi hát.” Thì ta sẽ ngạc nhiên mà thấy rằng “bà ta” sẽ “mo phú” cả điểm trang, “xà-lù” hết son phấn cứ thế mà chạy như một người ma bắt để đi… bắt chồng.
Ấy, chính bà Phán T… ở H.K. đã sống trong một cảnh y như thế. Những người đi đường thấy bà chạy ra đường, nhẩy lên xe không mà cả đã tưởng rằng bà vừa nhận được tin cướp vào xẻo mũi con mình hay vừa biết rằng đức ông chồng lên bệnh động kinh ở sở. Người cùng phố lắng nghe tin tức. Hơn một tuần sau, một cảnh tượng như thế lại xảy ra nhưng cũng chẳng may hơn lần đầu, ông chồng bà lại đi hát xóm khác, bà đến Vạn Thái dò gần đến sáng mà cũng không bắt được quả tang “anh già”. Trái lại, bà lại gặp được bao nhiêu lời chế riễu, bao nhiêu tiếng cười khinh bạc của bọn cô đầu là khác.
Gậm một mối căm hờn, bà Phán T. nhất quyết phải bắt cho được chồng một đêm nào đó ở giữa làng sênh phách đàn ca. Bà bèn thuê nặc nô đi làm “đội quân thứ năm” và cũng đã chịu bỏ tiền ra lắm nhưng trong nửa tháng trời, vẫn không có “tin tức” gì lạ cả, bà phát ốm và đành phải nằm nhà uống thuốc bổ của ông lang Bầu Hàng Guốc. Thấy vợ ốm phải nằm như thế, ông Phán T. của chúng ta đã mở cờ trong bụng, thôi thì đêm nay phải đi họp hội đồng lại đêm mai phải đi làm đêm “bởi vì độ này nhà nước bận việc luôn”. Ông “hả” lắm và ông làm ra dáng vội lắm, cứ bảy tám giờ tối thì hớt hơ hớt hoảng thắt cái ca-vát “hộp” đi ra chỗ chờ xe điện, ở đó đã có “chư hiền” ngồi đợi để cùng đưa nhau đến sở Khâm Thiên hay Vạn Thái làm đêm thực, làm một chầu “rất bớp”! Một chầu yên ổn, ba bốn chầu yên ổn. Ông Phán T. của chúng ta đã tưởng rằng cứ yên ổn như thế mà đi làm đêm mãi, − hay ít ra cũng được như vậy cho đến khi bà khỏi bệnh, − thì một đêm kia một câu chuyện như sét đánh xảy ra. Người quân tử của chúng ta ông Phán T. không phòng thân đã bị một sự lầm lỗi lớn. Thì ra cái bệnh của bà phán chỉ là một thứ bệnh tưởng mà thôi, một kế để lừa chồng cũng như ngày xưa Khổng Minh bỏ thành lừa Tư Mã Ý.
Tư Mã Ý thấy có một tên quân quét rác ở trên mặt thành, sợ quá, quay ngựa chạy. Vợ ông Phán T. thì để cho chồng mắc mưu rồi một đêm kia bà chạy theo sau ông dò và một khi đã biết đích rằng chư hiền họp nhau ở nhà chờ xe điện Bờ Hồ rồi, các ngài có biết bà làm gì không? Chắc không ai tưởng tượng được.
Bà vào ngay ngõ Gia Ngư trút phăng bộ quần áo lụa ra bọc vào một bọc và đem gửi một nhà quen gần đấy.
− Ồ! bịa! thế thì bà Phán của chúng ta lúc đó lấy cái gì để che… thân?
Cái đó ta cũng nên nói rõ kẻo không có nhiều ngài lại nghi, mà sự nghi ngờ, ai mà chẳng biết, nó làm hại đầu óc ta nhiều lúc lại dữ hơn sự thực. Vâng, quả thế, bà Phán có cái để che thân thực. Nhưng không phải bộ cánh tân thời như mọi ngày đâu; bà đã mặc sẵn ở trong người một bộ áo vải nâu bẩn, và thắt lưng tím; bà không phải là một bà phán nữa nhưng là một chị phu hồ, mà bà lại không quên làm cho có vẻ “đầu bù tóc rối” để cho giống cái vai tuồng mình muốn đóng.
Này, bây giờ tôi đố các ngài dám tiến lại trước mặt bà mà hỏi bà có phải là vợ ông phán T. không? Bà sẽ trợn mắt, vứt ngài ra chỗ khác mà làm ra dáng chưa từng nghe thấy nói đến ông phán T. bao giờ. Bà cứ việc cắm cúi đi theo bọn ông T. nhưng bà có ý đi xa và thỉnh thoảng lại lẩn vào trong đám tối: họ đi xe thì bà đi xe, họ đi bộ thì bà đi bộ, cứ như thế cho đến đầu ngã tư.
Một buổi tối kia bà đi theo rõi ông phán đến ngã tư thì mất hút. Bà giận không biết để đâu cho hết, bà bèn hỏi thăm đủ hết cả các nhà cô đầu xem nhà nào có hát và bà có ý đi sang bên kia đường để nhìn lên trên gác.
Còn ai để ý đến một chị phu hồ nữa? Bà rất tự do làm cái sứ mệnh của bà. Bà đi như thế đã bao nhiêu lần ở hai dãy Khâm Thiên? Có lẽ bà cũng không biết nữa. Nhưng hoàng thiên không bao giờ phụ kiên tâm nhân; sau rốt bà cũng tìm được nhà mà bà chắc như cua gạch là chồng bà hát ở trên gác với những người bạn “giời đánh”, những người bạn “rủ rê chồng bà đi chơi bời hát xướng để giết chồng bà” vậy. Tức thì, thu can đảm vào hai tay nắm lại và hà hơi vào hai cái nắm tay ấy như những người có võ tàu sắp đi một bài quyền, ôi các bà liễu yếu đào tơ ôi! ôi đức mẹ của tôi ơi, bà đi gần lại cái cột đèn và dẻo như kẹo kéo… “kẹo kéo ê!” bà trèo thoăn thoắt lên cột đèn.
Bà điên? Bà ghen đến nỗi phát điên lên? Hay bà định tâm tự tử, trèo lên cột đèn để nắm lấy giây điện cho điện giật chết phứt đi cho rồi đời? Không, không, không. Bà phán T. đời nào lại chịu thế. Bà đánh một cái đòn ghen mốt mới đấy, bà tấn công theo một cái chiến thuật mới mà ta chỉ thấy ở trong cuộc Âu chiến mới. Bây giờ, tôi xin phép ví von một chút chơi. Cái nhà hát mà bà phán T. “xét rằng” chồng bà hát ở đấy, “thực có” như một cái hải đảo như Anh quốc vậy. Mà bà phán T. là một nước muốn cất quân xâm lấn.
Nếu đánh bằng tàu ngầm, tàu chiến hay là đóng bè vào xâm lấn một cách đường hoàng thì khó mà vào lọt được, bởi vì ở cửa, quân lính của hải đảo đã phòng thủ chắc chắn rồi. Chưa tới, họ đã bắn ra liền, chết người hại của vô ích mà công việc tấn công kết cục một cách đau đớn, hại đến thanh danh người đổ bộ là khác nữa. Vì vậy, phải nghĩ một cách khác mà cách khác đó còn gì hay hơn là làm cái lối bất thình lình nhảy dù xuống như cái lối một vạn hai nghìn quân Đức nhảy xuống đảo Crète vài hôm nay?
Cái việc leo cột đèn của bà phán T. chính là rập theo cái kiểu quân nhảy dù Đức vậy. Bà không tiến vào cửa chính nhưng theo “đường trời” mà đổ bộ xuống tự trên cao, bà leo cột đèn và, may cái nhà hát vừa nói trên kia lại ở sát ngay cột đèn ấy, bà bèn chuyền cột đèn và leo sang ban công nhà bên cạnh rồi từ ban công nhà bên cạnh, bà bèn xông sang ban công chính nhà chồng bà hát. Bà nằm phủ phục xuống ở cửa gác trông ra đường chờ một cơ hội thuận tiện, “bắt được tay ray được trán” thì xông vào và giết cho chết quân bạc tình kia đi. Chúng ta, chúng ta từ thuở giời cho nhớn khôn lên đến nay, chúng ta thể nào chẳng ít ra cũng vào nhà hát cô đầu một lần rồi.
Duy có các bà thì chắc chưa được biết lắm vậy, thiết tưởng kẻ này cũng nên nói một câu về cách tổ chức và cách bày biện ở những nhà hát, − riêng về một số đông nhà hát ở Khâm Thiên, trên gác, ra thế nào.
Có thể nói rằng trong 100 nhà thì 90 nhà, gác giống nhau. Vừa ở thang lên, một cái tủ chè; sát tủ chè là một cái sập hay một bộ giường ghế ngựa. Trên ghế ngựa, một bộ bàn đèn để ta “hấp sổ điểu”; đoạn, đến một cái bàn; bên cạnh cái bàn là một cái phản làm chỗ cho người cô đầu ngồi hát; thế rồi thì đến cái cửa trông ra ban công nhìn xuống đường.
Nói cho đúng mà không sợ ông Phán T. cải chính thì lạy trời lạy Phật ông phán đêm ấy quả có hát ở gác nhà ấy thực. Nhưng trong lúc bà phán bò xuống đất ban công ngồi rình ở sau cái màn thì ông phán của chúng ta lại không có mặt ở chỗ khay đèn mà cũng chẳng ở chỗ bàn uống nước.
− Hay là ông đương nghe hát?
Không, ông đương ở cái phòng cạnh gian đó và đương nói chuyện với nhân tình “kết lắm”. Ở gian ngoài, bà phán chỉ thấy có ba người: Ông B. vô tuyến điện, ông X. Pốt và ông K. Lồi, toàn nh