14. Can trường
Khi Clary tỉnh giấc, ánh sáng đang chiếu qua những ô cửa sổ và má trái cô đột nhiên thấy nhói đau. Lăn mình sang bên, cô thấy mình ngủ gục trên vở nháp và cạnh vở chọc vào mặt. Cô cũng đánh rơi bút xuống chăn, để lại vết ố đen loang trên lớp vải. Cô rên rỉ ngồi thẳng dậy, ảo não xoa má và đi tới nhà tắm.
Nhà tắm phơi ra những dấu hiệu lồ lộ của các hoạt động tối qua, mấy chiếc khăn vấy máu nhét vào thùng rác cùng vết máu phết qua bồn rửa mặt. Rùng mình, Clary chui vào bồn tắm cùng với chai sữa tắm hương bưởi, quyết gột sạch cảm giác khó chịu còn nán lại trong người.
Sau đấy, người quấn trong chiếc áo khoác tắm của chú Luke và tấm khăn cuộn quanh mái tóc ẩm, Clary đẩy mở cửa phòng tắm thì thấy Magnus đang chờn vờn đứng bên kia cửa, một tay cầm khăn tắm và một tay đang vò mái tóc sáng lấp lánh. Hẳn anh ta đã dùng khăn làm gối, cô nghĩ, vì một bên mái tóc vuốt dựng hơi bị xẹp. “Sao con gái tắm lâu thế chứ?” pháp sư phàn nàn. “Những cô gái loài người, nữ Thợ Săn Bóng Tối, nữ pháp sư, ai cũng như ai. Tôi ngồi đợi tới già mất.”
Clary tránh sang bên cho anh ta đi qua. “Mà anh bao nhiêu tuổi rồi?” cô tò mò hỏi.
Magnus nháy mắt với cô. “Tôi sống từ thời Biển Chết chỉ là một cái hồ nhỏ xíu.”
Clary đảo mắt.
Magnus xua cô đi. “Giờ dịch mông sang bên hộ cái. Tôi cần vào đó, tóc tôi xộc xệch hết rồi.”
“Đừng dùng hết sữa tắm của tôi, đắt lắm đấy,” Clary bảo anh ta, đoạn đi thẳng vào bếp tìm vài bộ lọc và cắm máy pha cà phê hiệu Mr. Coffee. Tiếng nước sôi sùng sục quen thuộc và mùi cà phê làm dịu đi cảm giác bất an trong cô. Chỉ cần thế giới còn cà phê thì mọi chuyện đâu thể quá tệ được?
Cô trở về phòng ngủ để mặc quần áo. Mười phút sau, trong chiếc quần bò và áo len sọc xanh lam xanh lục, cô vào phòng khách đánh thức chú Luke. Chú rên rẩm ngồi dậy, tóc bù xù và mặt còn ngái ngủ.
“Chú thấy sao rồi?” Clary hỏi, đưa cho chú chiếc cốc mẻ đầy cà phê nghi ngút khói.
“Thấy đỡ hơn rồi.” Chú Luke liếc nhìn phần vải rách của chiếc áo sơ mi; rìa chỗ rách dính máu. “Maia đâu?”
“Cô ấy ngủ trong phòng chú, chú nhớ không? Chú bảo cô ấy ngủ tại đó cũng được.” Clary ngồi ghé lên tay ghế sô pha.
Luke dụi dụi đôi mắt trũng sâu. “Chú không nhớ rõ chuyện tối qua lắm,” chú thừa nhận. “Chú nhớ ra ngoài cất xe rồi sau đó thì chẳng nhớ gì nữa.”
“Có vài con quỷ nấp ở ngay bên ngoài. Chúng tấn công chú. Jace và cháu đã xử lý chúng rồi.”
“Quỷ Drevak nữa à?”
“Không.” Clary ngập ngừng. “Jace bảo chúng là quỷ Raum.”
“Quỷ Raum?” Chú Luke ngồi thẳng dậy. “Những con đó mạnh lắm. Quỷ Drevak là mấy con bọ nguy hiểm, nhưng quỷ Raum…”
“Không sao đâu chú,” Clary nói. “Chúng cháu xử lý xong chúng rồi.”
“Cháu xử lý? Hay Jace xử lý? Clary, chú không muốn cháu…”
“Không phải vậy.” Cô lắc đầu. “Chỉ là…”
“Magnus không ở đây sao? Sao anh ta không đi cùng các cháu?” chú Luke ngắt lời, rõ là đang cáu.
“Tôi đang bận chữa trị cho Maia, đó là lý do đấy,” Magnus vừa nói vừa đi vào phòng khách, mang theo hương bưởi ngào ngạt. Mái tóc của pháp sư được cuốn gọn trong khăn và anh ta mặc bộ đồ thể thao thùng thình bằng vải sa tanh xanh sọc trắng bạc. “Lòng biết ơn đâu rồi ấy nhỉ?”
“Tôi rất biết ơn.” Chú Luke nhìn như thể vừa giận vừa cố nín cười. “Chỉ là nếu có chuyện với Clary…”
“Anh sẽ chết nếu tôi đi cùng họ,” Magnus nói rồi ngồi phịch xuống ghế. “Cô bé đây và Jace xử lý lũ quỷ ổn lắm, đúng không?” Anh ta quay sang Clary.
Cô lúng túng. “Ừ thì, đấy chỉ là…”
“Chỉ là cái gì?” Là Maia, vẫn trong bộ quần áo cô ta mặc đêm qua, có khoác thêm chiếc áo vải flannel rộng thùng thình của chú Luke bên ngoài áo sơ mi. Cô ta loạng choạng đi qua phòng và thận trọng ngồi xuống ghế. “Có phải tôi ngửi thấy mùi cà phê không nhỉ?” cô ta vừa phấp phỏng hỏi vừa nhăn nhăn mũi.
Thiệt chứ, Clary thầm nghĩ, người sói mà dễ thương và hấp dẫn vậy thật chẳng công bằng gì cả; đáng ra cô ta phải to con và lông lá rậm rạp, có khi còn có lông mọc ra khỏi tai nữa ấy chứ. Và đó, Clary thầm thêm vào, chính xác là lý do vì sao mình không có bạn gái và lúc nào cũng chỉ chơi với mỗi Simon. Mình phải bình tĩnh lại mới được. Cô đứng dậy. “Cậu muốn tớ lấy cho cậu một cốc không?”
“Có.” Maia gật đầu. “Thêm sữa và đường nhé!” cô ta gọi theo khi Clary rời phòng, nhưng khi Clary từ bếp trở vào với cốc cà phê nghi ngút khói trên tay, Maia đang nhíu mày bối rối. “Tớ không nhớ nhiều về chuyện tối qua,” cô nàng nói, “nhưng có gì đấy về Simon, có gì đấy làm tớ băn khoăn…”
“Ừ thì cậu định giết cậu ấy,” Clary nói, và ngồi xuống tay ghế. “Có lẽ là điều ấy đấy.”
Maia trắng bệch, nhìn chằm chằm vào cốc cà phê. “Tớ quên mất. Giờ cậu ấy thành ma cà rồng rồi.” Cô ngước nhìn Clary. “Tớ không định làm cậu ấy bị thương. Chỉ là…”
“Ừ?” Clary nhướn mày. “Là làm sao?”
Gương mặt Maia từ từ đỏ lên. Cô đặt cốc cà phê xuống bàn.
“Cô nên nằm xuống,” Magnus khuyên nhủ. “Tôi phát hiện ra rằng làm thế sẽ đỡ lắm đấy khi cảm giác tan nát từ một hiện thực đau lòng đang ngấm vào.”
Đột nhiên mắt Maia ầng ậc nước. Clary sợ hãi nhìn Magnus - anh ta có vẻ cũng choáng - rồi lại nhìn chú Luke. “Làm gì đi chú,” cô rít lên nho nhỏ với chú. Có thể Magnus là pháp sư đại tài có khả năng chữa lành những vết thương chí tử chỉ với một ngọn lửa xanh, nhưng giữa hai người thì chú Luke mới là lựa chọn hàng đầu trong việc giải quyết rắc rối của các cô gái tuổi teen đang trong cơn khóc lóc thảm thiết.
Chú Luke bắt đầu đá chăn ngồi dậy, nhưng trước khi chú kịp đứng lên, cánh cửa trước bật mở và Jace bước vào, theo sau là Alec cầm theo một chiếc hộp trắng. Magnus vội vàng kéo khăn khỏi tóc và vứt ra sau ghế. Không có gel và kim tuyến, mái tóc vị pháp sư sậm màu thẳng tuột, dài gần xuống vai.
Ánh mắt Clary ngay lập tức hướng tới Jace, như một thói quen; cô không thể ngăn bản thân, nhưng may mà những người khác dường như không để ý. Jace có vẻ bị kích động, mệt mỏi và căng thẳng, cũng như là kiệt sức, hai mống mắt thâm quầng. Ánh mắt anh chỉ thoáng liếc qua cô nhưng không biểu lộ bất kỳ một loại cảm xúc nào rồi dừng lại nơi Maia, vẫn đang khóc lóc trong câm lặng và hình như không nhận ra sự hiện diện của hai người mới. “Có vẻ ai nấy đều vui vẻ nhỉ,” anh nhận xét, “Giữ vững tinh thần chăng?”
Maia dụi mắt. “Bực quá,” cô làu bàu. “Tôi ghét khóc trước mặt các Thợ Săn Bóng Tối.”
“Vậy vào phòng khác mà khóc,” Jace nói, giọng không chút ấm áp nào. “Chúng tôi cũng đâu cần cô ngồi đó dỗi hờn trong khi chúng tôi nói chuyện, nhỉ?”
“Jace,” chú Luke cảnh cáo, nhưng Maia đã đứng dậy, quày quả ra khỏi phòng qua lối cửa bếp.
Clary quay qua Jace. “Nói chuyện hả? Mọi người đâu có nói gì đâu.”
“Nhưng giờ sẽ nói,” Jace nói và ngồi phịch xuống ghế đàn dương cầm mà duỗi thẳng chân. “Magnus đang muốn hét vào mặt anh này, có đúng không thưa ngài Magnus?”
“Đúng,” Magnus đáp, chỉ ngừng lườm nguýt Alec một thoáng để cau mày với Jace. “Cậu ở chỗ quái nào thế? Tôi nghĩ tôi đã nói rõ rằng cậu phải ở trong nhà cơ mà.”
“Tôi nghĩ anh ấy không có quyền lựa chọn,” Clary nói. “Tôi nghĩ Jace phải ở nơi nào có anh. Anh biết đó, do phép thuật thôi.”
“Thường là vậy thật,” Magnus gắt gỏng, “nhưng đêm qua, sau mọi chuyện tôi đã làm, phép thuật của tôi bị… suy yếu.”
“Suy yếu ư?”
“Đúng.” Magnus có vẻ tức giận hơn bao giờ hết. “Kể cả Đại Pháp Sư khu Brooklyn đi nữa thì cũng không có được nguồn lực vô hạn đâu. Tôi cũng chỉ là người. Ừm,” anh ta sửa lại, “đúng ra là nửa người.”
“Nhưng anh phải biết rằng nguồn năng lượng của mình bị suy yếu chứ,” chú Luke tàn nhẫn nói, “phải không?”
“Đúng, và tôi đã bắt thằng khỉ kia thề phải ở trong nhà rồi,” Magnus quắc mắt lên với Jace. “Giờ tôi biết lời hứa danh dự của Thợ Săn Bóng Tối có giá trị quá nhỉ.”
“Anh cần phải biết cách buộc tôi giữ lời hứa,” Jace không hề nao núng. “Chỉ có thề trước Thiên Thần mới có ý nghĩa.”
“Đúng vậy,” Alec nói. Đây là lời nói đầu tiên kể từ khi hai người họ đặt chân vào nhà.
“Tất nhiên là đúng.” Jace cầm cốc cà phê chưa động tới của Maia và nhấp một ngụm. Anh nhăn mặt. “Có đường.”
“Vậy cậu ở đâu cả đêm qua hả?” Magnus hỏi, giọng chua loét. “Cùng Alec hả?”
“Tôi không ngủ được, thế là tôi đi dạo,” Jace đáp. “Khi trở lại, tôi đụng phải cái thằng khỉ mặt buồn thiu đang ngồi mơ màng trước hiên nhà này.” Anh chỉ Alec.
Mặt Magnus sáng rực. “Cậu ở đây cả đêm qua à?” anh ta hỏi Alec.
“Không,” Alec đáp. “Tôi về nhà rồi trở lại. Tôi mặc đồ khác rồi, thấy không? Nhìn đi.”
Mọi người đều nhìn. Alec mặc áo len tối màu và quần bò, y như ngày hôm qua. Clary quyết định không nói gì để anh ta đỡ ngượng. “Trong hộp có gì thế?” cô hỏi.
“À.” Alec nhìn vào hộp như thể đã quên mất. “Có gì đâu, bánh vòng ấy mà.” Anh ta mở hộp rồi đặt xuống bàn. “Mọi người muốn ăn không?”
Hóa ra, mọi người đều muốn. Jace muốn những hai cái. Sau khi ăn hết chiếc bánh phủ kem Boston mà Clary đưa, chú Luke dường như có thêm chút sinh khí; chú đá chăn ra và ngồi tựa lưng vào ghế. “Có một chuyện chú không hiểu được,” chú nói.
“Chỉ có một thôi sao? Chú tiến bộ hơn tất cả bọn cháu rồi,” Jace nói.
“Hai đứa đi ra ngoài tìm chú khi không thấy chú trở về,” chú Luke nói, nhìn cả Clary lẫn Jace.
“Ba người ạ,” Clary nói, “Simon đi cùng nữa.”
Chú Luke có vẻ bị đau. “Được. Ba người bọn cháu. Và có hai con quỷ, nhưng Clary nói các cháu không giết con nào. Vậy là sao?”
“Cháu đáng ra đã giết được một con, nhưng nó trốn mất,” Jace nói. “Nếu không thì…”
“Nhưng sao nó phải bỏ chạy?” Alec hỏi vặn. “Hai con quỷ, ba người các cậu - nó thấy bị áp đảo à?”
“Tôi không có ý xúc phạm những người liên quan, nhưng chỉ có một trong số ba người có khả năng chiến đấu, và đó là Jace,” Magnus nói. “Một Thợ Săn Bóng Tối chưa qua đào tạo và một ma cà rồng chết nhát…”
“Em nghĩ chắc là do em,” Clary nói. “Em nghĩ có lẽ em đã dọa nó chạy mất.”
Magnus chớp mắt. “Không phải tôi vừa nói…”
“Em không có ý nói em dọa chúng chạy vì chính em cũng sợ chết đi được. Em nghĩ là vì thứ này.” Cô giơ tay, để họ nhìn thấy Ấn Ký trên mặt trong cánh tay.
Mọi người đột nhiên im lặng. Jace nhìn cô một lúc rồi nhìn đi chỗ khác; Alec chớp chớp mắt, còn chú Luke có vẻ kinh ngạc. “Chú chưa từng thấy Ấn Ký này,” cuối cùng chú nói. “Có ai thấy Ấn Ký này chưa?”
“Chưa,” Magnus nói. “Nhưng tôi không thích nó.”
“Em cũng không biết nó là gì, và nó có ý nghĩa gì,” Clary nói và hạ tay xuống. “Nhưng nó không từ Sách Xám mà ra.”
“Tất cả các chữ rune đều từ cuốn Sách Xám.” Jace đoán chắc.
“Không phải cái này,” Clary nói. “Em thấy nó trong mơ.”
“Trong mơ á?” Jace tức giận như thể cô đang chủ đích thóa mạ anh. “Em đang chơi trò gì đây, Clary?”
“Em không đùa gì hết. Anh không nhớ khi chúng ta ở Triều Đình Seelie…”
Jace trông như thể vừa bị cô đánh. Clary nói tiếp, liến thoắng, trước khi anh kịp mở lời:
“… và Nữ Hoàng Seelie bảo rằng chúng ta là những vật thí nghiệm à? Rằng Valentine đã làm - đã làm vài điều với chúng ta, khiến chúng ta khác biệt, đặc biệt ấy? Bà ta nói em mang món quà của từ ngữ không thể nói lên, và của anh là món quà của chính Thiên Thần.”
“Đó là chuyện tào lao của thần tiên.”
“Thần tiên không nói dối, Jace ạ. Những từ không thể nói ra - bà ta muốn nói tới những chữ rune đấy. Mỗi từ có một ý nghĩa khác, nhưng chúng là phải được viết ra, chứ không phải nói ra.” Cô nói tiếp, lờ tịt vẻ nghi ngờ trên mặt anh. “Nhớ lúc anh hỏi làm sao mà em vào được xà lim tại Thành phố Câm Lặng không? Em nói em chỉ dùng chữ rune Mở thông thường…”
“Em chỉ cần làm thế sao?” Alec sửng sốt. “Anh tới đó ngay sau và anh thấy cảnh cửa như bị giật tung khỏi bản lề vậy.”
“Và chữ rune của em không chỉ mở cửa,” Clary. “Nó mở cả mọi thứ trong xà lim, tháo tung cùm của Jace.” Cô hít một hơi. “Em nghĩ Nữ Hoàng muốn nói em có thể vẽ ra những chữ rune mang quyền năng hơn những chữ rune thông thường. Và thậm chí tạo ra những con chữ mới.”
Jace lắc đầu. “Không ai có thể tạo ra những chữ rune mới…”
“Có thể con bé làm được, Jace.” Alec có vẻ ngẫm ngợi. “Quả thật, chúng ta chưa ai từng thấy chữ rune trên tay cô ấy.”
“Alec nói phải đấy,” chú Luke nói. “Clary, sao cháu không đi lấy tập phác thảo tới đây nhỉ?”
Cô ngạc nhiên nhìn chú. Đôi mắt xanh xám của chú hơi trũng sâu, hiện rõ sự mệt mỏi, nhưng sự kiên định trong đó vẫn y nguyên như hồi cô sáu tuổi, khi chú hứa nếu cô chịu trèo qua khu đu tay trong công viên Prospect, chú sẽ luôn đứng dưới sẵn sàng đỡ lấy cô nếu cô có ngã. Và chú luôn giữ lời.
“Okay,” cô nói. “Cháu quay lại ngay.”
Để vào phòng ngủ, Clary phải đi qua nhà bếp, nơi Maia đang ngồi trên chiếc ghế kéo đến cạnh quầy bếp, trông rất thảm thương, “Clary à,” cô nói và nhảy khỏi ghế. “Tớ nói chuyện với cậu một lát được không?”
“Tớ đang định lên phòng lấy đồ…”
“Nghe này, tớ xin lỗi vì chuyện với Simon. Lúc đó tớ đang mê sảng.”
“Ồ vậy ư? Thế còn ba cái lời rằng người sói có sứ mệnh ghét ma cà rồng là sao ấy nhỉ?”
Maia thở dài buồn bã. “Đúng thế thật, nhưng... tớ nghĩ mình không cần thúc đẩy quá trình ấy nhanh hơn làm gì.”
“Đừng giải thích với tớ; giải thích với Simon ấy.”
Maia lại đỏ mặt, hai má đỏ lựng lên. “Tớ không nghĩ cậu ấy còn muốn nói chuyện với tớ.”
“Có thể vẫn đấy. Cậu ấy vốn là người vị tha mà.”
Maia nhìn cô kỹ hơn. “Tớ không có ý tò mò, nhưng hai cậu đang hẹn hò à?”
Clary thấy chính mình cũng đỏ mặt và may mặt cô có tàn nhang mới che đậy được đôi chút. “Sao cậu muốn biết?”
Maia nhún vai. “Lần đầu tiên tớ gặp cậu ấy, cậu ấy nói cậu là bạn thân, nhưng lần thứ hai lại gọi là bạn gái. Tớ không biết liệu đấy có phải là kiểu quan hệ lúc này lúc khác không.”
“Ừ thì thế. Trước tiên bọn tớ là bạn thân. Đó là một câu chuyện dài.”
“Tớ hiểu.” Má Maia hết đỏ và nụ cười khẩy thường lệ trở về với khuôn mặt. “Ừm, cậu may mắn đấy. Kể cả giờ cậu ấy có là ma cà rồng. Là một Thợ Săn Bóng Tối, cậu chắc là quá quen với những chuyện kỳ lạ rồi, vì thế tớ nghĩ sự thay đổi của Simon không làm cậu nao núng.”
“Có chứ,” Clary nói, gay gắt hơn dự định. “Tớ không phải Jace.”
Nụ cười khẩy đậm nét hơn. “Không ai có thể là Jace. Và tớ có cảm giác anh ta cũng thừa biết.”
“Ý cậu là sao?”
“Ồ, cậu biết đấy. Jace làm tớ nghĩ tới cậu bạn trai cũ. Có vài gã nhìn cậu như thể họ muốn lên giường với cậu. Jace nhìn cậu như thể hai người đã lên giường với nhau, mặn nồng lắm, nhưng giờ hai người chỉ là bạn - dù cho cậu muốn nhiều hơn. Anh ta thừa sức khiến con gái phát cuồng. Cậu hiểu tớ nói gì không?”
Có chứ, Clary thầm nghĩ. “Không,” cô đáp.
“Tớ đoán là không, vì cậu là em gái anh ta. Cậu nhớ lấy lời tớ nhé.”
“Tớ phải đi đây.” Clary sắp đi khỏi bếp thì bỗng nghĩ ra điều gì nên quay ngoắt lại. “Chuyện gì xảy ra với anh ta?”
“Anh nào?” Maia chớp chớp mắt.
“Anh bạn trai cũ ấy. Người khiến cậu nhớ tới Jace ấy.”
“À,” Maia nói. “Anh ta là kẻ đã biến tớ thành người sói.”
“À, cháu mang vở đến rồi đây,” Clary nói, trở về phòng khách với cuốn tập và hộp bút chì Prismacolor. Cô kéo theo chiếc ghế ít được dùng ở phòng ăn tới - chú Luke luôn ăn ngay trong nhà bếp hay phòng làm việc, nên bàn ăn toàn là hóa đơn và giấy tờ cũ - rồi ngồi xuống, đặt cuốn tập trước mặt. Cô cảm thấy như mình đang làm bài thi vào trường nghệ thuật. Vẽ quả táo này. “Mọi người muốn em làm gì?”
“Thế em nghĩ là gì?” Jace đang ngồi trên ghế dương cầm, vai nhô về phía trước, hình như cả đêm qua anh thức trắng. Alec đang dựa người vào cây đàn, có lẽ đấy là tư thế tránh xa Magnus hết sức cho phép.
“Jace, đủ rồi.” Chú Luke ngồi thẳng lưng có vẻ như đó là cả một cố gắng. “Cháu nói cháu có thể vẽ ra chữ rune mới đúng không, Clary?”
“Cháu nói cháu nghĩ là thế.”
“Thế à, chú muốn cháu thử xem.”
“Ngay đây á?”
Chú Luke cười khẽ. “Trừ khi cháu có ý tưởng khác trong đầu chăng?”
Clary mở sang trang trống rồi nhìn chăm chăm xuống. Chưa bao giờ một trang giấy lại trông trống rỗng như thế với cô. Cô có thể cảm nhận sự im lặng trong phòng, mọi người đều quan sát cô: Magnus với sự tò mò đè nén cố hữu; Alec quá bận rộn với những rắc rối của mình nên chẳng quan tâm gì tới chuyện của cô hết; chú Luke đang chờ đợi hy vọng; và Jace với khuôn mặt lạnh lẽo, không biểu lộ cảm xúc, khiến người khác phải e dè. Cô nhớ tới lúc anh nói giá mà anh có thể ghét cô và tự hỏi mình, biết đâu có một ngày anh sẽ thành công.
Cô ném bút chì xuống. “Cháu không thể làm vì được ra lệnh. Khi không có một ý tưởng nào hết.”
“Ý tưởng thế nào?” chú Luke hỏi.
“Ý cháu là, cháu không biết hiện đã có những chữ rune nào rồi. Cháu cần biết ý nghĩa, biết một từ, trước khi vẽ chữ rune biểu thị nó.”
“Bọn anh cũng khó nhớ tất cả các chữ rune...” Alec cất lời, nhưng Jace, ngạc nhiên thay, lại cắt ngang lời Alec.
“Thế còn,” anh lặng lẽ nói, “Can Trường thì sao nhỉ?”
“Can Trường?” cô nhắc lại.
“Có những chữ rune cho dũng cảm,” Jace nói. “Nhưng chẳng có chữ nào để xóa đi nỗi sợ. Nhưng nếu em, như em nói, có thể tạo ra chữ rune mới...” Anh liếc nhìn quanh, nhận ra sự ngạc nhiên trên nét mặt Alec và chú Luke. “Nghe này, chỉ là cháu nhớ không có chữ đó, thế thôi. Vả lại nó có vẻ vô hại thôi mà.”
Clary nhìn sang chú Luke, chú nhún vai. “Được,” chú nói.
Clary lấy bút chì màu xám sậm ra khỏi hộp rồi đặt đầu bút xuống mặt giấy. Cô nghĩ tới những hình dáng, những đường kẻ, nét lượn; cô nghĩ tới những biểu tượng trong Sách Xám, cổ điển và hoàn hảo, những biểu tượng cho một thứ ngôn ngữ quá hoàn hảo, không thể nói thành lời. Một giọng nói khẽ khàng vang lên trong đầu cô: Cô là ai, mà dám nghĩ có thể nói lên ngôn ngữ của thiên đường?
Chiếc bút di chuyển. Clary hầu như chắc chắn là mình không dịch chuyển bút, nhưng nó cứ trượt trên mặt giấy, vẽ một đường duy nhất. Cô thấy tim mình hụt nhịp. Cô nghĩ tới mẹ, ngồi mơ màng trước khung tranh, vẽ tạo ra thế giới của riêng mình bằng mực và dầu vẽ. Cô nghĩ, Tôi là ai ư? Tôi là con gái Jocelyn Fray. Chiếc bút lại di chuyển, và lần này cô thấy mình nín thở, nghe mình đang thì thào. “Can Trường. Can Trường.” Chiếc bút nảy lên, và lần này cô điều khiển nó chứ không phải nó điều khiển cô. Khi viết xong, cô đặt bút xuống và đắn đo nghiền ngẫm tác phẩm một lúc lâu.
Chữ Can Trường vừa vẽ xong là tập hợp những đường nét uốn lượn mạnh mẽ: một chữ rune kiêu hãnh và có nét động như một con đại bàng. Cô xé giấy ra và giơ cho những người khác xem. “Đây,” cô nói, và nhận lấy vẻ bàng hoàng trên nét mặt chú Luke - vậy ra lúc trước chú cũng không tin cô - cùng một thoáng mắt mở to từ Jace.
“Đẹp,” Alec nói.
Jace đứng dậy và đi ngang phòng, giật tờ giấy khỏi tay cô. “Nhưng nó có tác dụng không.”
Clary tự hỏi anh có ý hỏi thật hay chỉ chọc ngoáy cô. “Ý anh là sao?”
“Ý anh là, làm sao chúng ta biết nó có tác dụng hay không? Giờ nó chỉ là một hình vẽ - mà em không thể lấy đi sự sợ hãi khỏi một trang giấy, vì giấy thì có sợ gì đâu chứ. Chúng ta phải thí nghiệm lên một người trong bọn để biết nó có phải là chữ rune thật sự hay không.”
“Chú không nghĩ đó là ý hay đâu,” chú Luke nói.
“Là một ý tưởng tuyệt vời đấy chứ ạ.” Jace thả tờ giấy xuống bàn, và bắt đầu cởi áo. “Tôi có thanh stele ở đây. Ai vẽ hộ tôi không?”
“Một lựa chọn đáng hối hận đấy,” Magnus lẩm bẩm.
Chú Luke đứng dậy. “Không,” chú nói. “Jace, cháu luôn hành động như chưa từng biết tới từ ‘sợ’. Chú không biết làm sao mà chúng ta có thể nhận ra sự khác biệt giả như chữ rune kia có tác dụng với cháu đi nữa.”
Alec cố nén âm thanh khùng khục nghe như tiếng cười phá lên. Jace thì chỉ nở một nụ cười không lấy gì làm thân thiện. “Cháu biết tới từ ‘sợ’ chứ,” anh nói. “Nhưng cháu chọn cách tin rằng, nó không làm gì được cháu.”
“Đó chính là vấn đề,” chú Luke nói.
“Vậy sao không thử nên chú nhỉ?” Clary nói, nhưng chú Luke lắc đầu.
“Cháu không thể vẽ Ấn Ký lên một người thuộc Thế giới Ngầm, Clary, vì nó không gây ảnh hưởng gì lắm. Căn bệnh ma quỷ biến người thành sói ngăn không cho Ấn Ký phát huy tác dụng.”
“Vậy...”
“Thử trên anh này,” Alec bất ngờ nên tiếng. “Anh cũng cần chút xíu can trường đây.” Anh ta cởi áo khoác, ném lên ghế đàn dương cầm, băng qua phòng tới đứng trước mặt Jace. “Đây. Vẽ lên tay tớ đi.”
Jace liếc nhìn Clary. “Trừ phi em nghĩ em nên vẽ vậy?”
Cô lắc đầu. “Không. Anh chắc chắn giỏi vẽ Ấn Ký ứng dụng hơn là em mà.”
Jace nhún vai. “Xắn ống tay áo lên nào, Alec.”
Alec ngoan ngoãn xắn ống tay áo. Trên tay Alec đã có sẵn một Ấn Ký vĩnh viễn, một cuộn những đường kẻ hoa mỹ, có nghĩa là sẽ mang đến cho anh sự cân bằng hoàn hảo. Mọi người, kể cả Magnus, đều nhoài người lên khi Jace nắn nót vẽ chữ Can Trường lên tay Alec, ngay dưới Ấn Ký đã có. Alec nhăn mặt khi thanh stele tạo nên nét chữ bỏng giẫy trên tay. Khi Jace vẽ xong, anh nhét thanh stele vào túi và đứng ngắm nghía tác phẩm của mình một lúc. “Ừ, dù gì trông nó cũng đẹp nhỉ,” anh tuyên bố. “Dù có tác dụng hay không...”