← Quay lại trang sách

15. Nanh rắn

Chú Luke ơi,” Clary mở lời, ngay khi cánh cửa đóng lại sau lưng nhà Lightwood. “Chúng ta sẽ làm gì đây...”

Chú Luke ôm chặt đầu như thể đang cố giữ cho đầu không bửa làm đôi. “Cà phê,” chú tuyên bố. “Chú cần cà phê.”

“Cháu đưa chú rồi mà.”

Chú buông tay thở dài. “Chú cần thêm nữa.”

Clary theo chú vào bếp. Chú ấy tự lấy thêm cà phê, rồi ngồi xuống bàn bếp và lơ đãng lùa tay qua tóc. “Tình hình tệ,” chú nói. “Quá tệ.”

“Chú nghĩ thế sao?” Clary không thể uống cà phê nổi nữa. Đầu óc cô giờ căng như dây đàn. “Chuyện gì sẽ xảy ra nếu họ đưa anh ấy tới Idris ạ?”

“Bị xét xử trước Hội đồng Clave. Họ chắc chắn sẽ tuyên án Jace có tội. Rồi đến hình phạt. Cậu ta còn trẻ, nên có thể họ chỉ tước Ấn Ký chứ không đưa ra lời nguyền.”

“Nghĩa là sao ạ?”

Chú Luke không nhìn cô. “Có nghĩa là họ sẽ tước hết Ấn Ký trên người Jace, khiến cậu ta không còn là Thợ Săn Bóng Tối nữa, rồi đá cậu ấy ra khỏi Hội đồng Clave. Jace sẽ trở thành một người thường.”

“Nhưng thế sẽ giết anh ấy mất. Chết thực đấy. Anh ấy thà chết còn hơn.”

“Cháu nghĩ chú không biết sao?” Chú Luke đã uống hết cà phê rồi ủ rũ nhìn chằm chằm vào cốc trước khi đặt xuống. “Nhưng đối với Hội đồng Clave thì chẳng liên quan gì. Họ không thể động vào Valentine, vậy nên họ sẽ trừng phạt con trai ông ta.”

“Còn cháu thì sao. Cháu cũng là con ông ấy.”

“Nhưng cháu không thuộc thế giới của họ. Jace thì có. Mà không phải là chú không mong cháu nên ẩn dật một thời gian đâu đấy nhé. Chú ước gì chúng ta có thể về lại trang trại...”

“Chúng ta không thể bỏ Jace lại với họ được!” Clary kinh hãi. “Cháu sẽ không đi đâu hết.”

“Tất nhiên là cháu không đi rồi.” Chú Luke phẩy tay bỏ qua lời phản bác. “Chú chỉ ước thế thôi, chứ chú không nghĩ chúng ta nên làm vậy. Đương nhiên lại còn chuyện Imogen sẽ làm gì khi giờ đây bà ta đã biết Valentine ở đâu. Có thể chúng ta kẹt giữa cuộc chiến rồi.”

“Cháu không quan tâm chuyện bà ta muốn giết Valentine hay không. Bà ta thích làm gì thì làm. Cháu chỉ muốn anh Jace trở về đây.”

“Có lẽ không dễ đâu cháu yêu ạ,” chú Luke nói, “khi mà trong trường hợp này, Jace thực sự đã làm những chuyện mà người ta buộc tội cho cậu ấy.”

Clary nổi giận đùng đùng. “Cái gì, chú nghĩ anh ấy giết các Tu Huynh Câm ư? Chú nghĩ...”

“Không. Chú không nghĩ cậu ta đã giết các Tu Huynh Câm. Chú nghĩ Jace đã làm chính xác điều Imogen đã nhìn thấy: Cậu ta đã đi gặp bố.”

Chợt nhớ ra gì đó, Clary hỏi. “Ý chú là gì khi chú nói là chúng ta đã làm anh ấy thất vọng chứ không phải ngược lại vậy? Nghĩa là chú không trách anh ấy sao?”

“Chú trách mà cũng không trách.” Chú Luke rất mệt mỏi. “Cậu ta ngốc nghếch quá. Valentine là người không đáng tin. Nhưng khi nhà Lightwood quay lưng với cậu ấy, họ mong cậu ta làm gì đây? Jace vẫn là một đứa trẻ, vẫn cần cha mẹ ở bên. Nếu họ không dung dưỡng cậu ta, cậu ta sẽ tìm người cần mình.”

“Cháu nghĩ có lẽ,” Clary nói, “có lẽ anh ấy sẽ tìm chú.”

Chú Luke trông buồn thương vô hạn. “Chú cũng nghĩ vậy, Clary ạ. Chú cũng nghĩ vậy.”

Maia có thể nghe thấy những tiếng thì thầm to nhỏ vọng ra từ bếp. Họ đã chấm dứt màn cãi vã la hét trong phòng khách. Đã tới lúc ra đi rồi. Cô gấp tờ giấy viết vội, đặt lên giường chú Luke, rồi băng qua phòng tới bên cửa sổ mà cô mất những hai mươi phút mới mở ra nổi. Không khí mát mẻ tràn vào phòng - hôm nay là một trong những ngày đầu thu với bầu trời xanh cao vời vợi trong không khí thoang thoảng mùi khói.

Cô thò đầu qua ô cửa sổ và nhìn xuống. Trước khi bị Biến đổi đây sẽ là cú nhảy khó; nhưng giờ cô nghĩ một chút cho đôi vai bị thương rồi nhảy xuống. Cô khum người đáp xuống sân sau lát bê tông nhà chú Luke. Đứng thẳng dậy, cô liếc nhìn về phía sau, nhưng không ai chạy ra mở cửa hay gọi cô quay lại.

Cô nén cơn thất vọng nhói lòng xuống. Mà có phải họ để ý gì nhiều tới cô khi cô ở trong nhà họ đâu, Maia nghĩ bụng khi lồm cồm leo qua dãy hàng rào lưới mắt cáo thật cao ngăn cách sân sau nhà chú Luke với con hẻm, vậy thì sao họ phải quan tâm khi cô bỏ đi chứ? Cô rõ là kẻ đầu thừa đuôi thẹo, như trước giờ vẫn vậy mà. Trong số họ chỉ có một người đối xử với cô như thể cô còn chút gì đó quan trọng, đó là Simon.

Nghĩ tới Simon khiến cô nhăn mặt khi cô nhảy xuống sang bên kia hàng rào và chạy khỏi hẻm, ra ngoài đại lộ Kent. Cô đã nói với Clary rằng mình không nhớ gì về chuyện đêm qua, nhưng thật ra không phải thế. Cô nhớ vẻ mặt Simon khi cô tránh khỏi cậu ấy - như thể nó đã ăn sâu vào ký ức cô. Điều kỳ lạ nhất là lúc đó, trông cậu vẫn rất người, người hơn bất cứ ai cô từng biết.

Cô sang đường để tránh băng qua ngay trước cửa nhà chú Luke. Con đường gần như hoang lạnh, những người dân vùng Brooklyn hiện đang ngủ nướng giấc ngủ sáng Chủ nhật. Cô đi về phía trạm tàu điện ngầm tại Đại lộ Bedford, đầu óc vẫn nghĩ vẩn vơ tới Simon. Trong bụng cô cứ quặn lên mỗi khi nghĩ tới cậu ấy. Bao nhiêu năm nay Simon là người đầu tiên cô muốn tin, thế mà cậu lại khiến việc tin tưởng cậu ấy thành ra không thể.

Tất nhiên, nếu mày không thể tin nổi thằng đó, sao mày lại đi gặp nó chứ? Tiếng thì thầm vang lên trong đầu cô luôn nói bằng giọng Daniel, Im đi, cô xẵng giọng. Kể cả nếu bọn em không thể làm bạn, ít nhất em cũng nợ cậu ấy một lời xin lỗi.

Ai đó phá lên cười. Tiếng cười vang vọng giữa những bức tường khu nhà máy cao cao bên trái. Trái tim cô thắt lại vì nỗi sợ đột ngột, Maia quay phắt lại, nhưng con phố sau lưng cô chẳng có ai. Chỉ có một bà lão dắt chó đi dạo trên bờ sông, nhưng Maia không nghĩ bà ta có thể hét vang tới tận tai cô được.

Dù vậy cô vẫn rảo bước nhanh hơn. Cô có thể đi nhanh hơn con người, chưa thèm nói tới là chạy nhanh hơn họ. Kể cả với tình trạng hiện giờ, với cánh tay đau như bị ai đập búa vào vai, cô cũng không việc gì phải sợ một tên hiếp dâm hay biến thái nào hết. Có hai thằng nhãi mang dao đã từng cố chộp lấy cô khi cô đi dạo tại Công Viên Trung Tâm vào đêm sau đêm đầu tiên tới thành phố, và chỉ nhờ có Bat mới ngăn được cô không giết sạch hai tên ấy.

Sao giờ cô lại hoảng lên vậy?

Cô liếc về sau. Bà lão đã biến đâu mất; đường Kent không có lấy một bóng người. Nhà máy đường Domino bị bỏ hoang nhiều năm nay đang lừng lững ngay phía trước. Đột nhiên bị thúc giục bởi ý muốn tránh khỏi đường lớn, cô chui vào con hẻm nhỏ bên cạnh.

Cô thấy mình đang ở trong một khoảng hẹp giữa hai tòa nhà, ứ đầy rác, chai lọ vất đi, thiên đường của lũ chuột đang tháo chạy tán loạn. Mái nhà cao cao phía trên che khuất ánh mặt trời và khiến cô có cảm giác như mình vừa chui vào một đường hầm. Những bức tường bằng gạch, có những ô cửa sổ hẹp bẩn thỉu, rất nhiều trong số đó đã bị mấy kẻ phá hoại đập nát. Qua đó cô thấy sàn nhà máy bỏ hoang và từng hàng từng hàng nồi chưng cất, lò nấu và thùng chứa. Không khí thoang thoảng mùi đường cháy. Cô tựa người vào tường, để nhịp tim ổn định lại. Cô gần trấn tĩnh được mình thì một giọng nói quen thuộc không ngờ từ bóng tối vang lên:

“Maia à?”

Cô quay phắt lại. Hắn đứng trước lối vào hẻm, dưới ánh nắng từ đằng sau hắt tới, mái tóc hắn trông như một vầng hào quang bao quanh khuôn mặt đẹp đẽ. Đôi mắt đen với hàng lông mi dài tò mò nhìn cô. Hắn ta mặc quần bò và dù tiết trời khá lạnh, hắn vẫn chỉ vận áo phông ngắn tay. Hẵn vẫn hệt như hồi mười lăm tuổi.

“Daniel,” cô thều thào.

Hắn tiến tới chỗ cô, không một tiếng động. “Lâu lắm mới gặp lại mày đấy, em gái.”

Cô muốn chạy, nhưng chân nhũn như một bịch nước. Cô tựa lưng vào tường mà chỉ ước được chìm luôn vào đó. “Nhưng - anh chết rồi mà.”

“Và mày không khóc tại đám tang của tao, đúng không Maia? Không nhỏ lấy một giọt nước mắt cho anh mình?”

“Anh là một con quái vật,” cô thì thào. “Anh đã cố giết em...”

“Cũng chưa cố hết sức.” Hắn đang cầm một vật sắc và dài dài trong tay, tỏa sáng như ngọn lửa bạc trong bóng tối. Maia không biết nó là gì; sợ hãi làm cô mờ mắt. Cô ngồi bệt xuống khi anh trai tiến tới. Giờ đôi chân đâu thể nào trụ vững nữa.

Daniel quỳ xuống bên cô. Giờ cô đã thấy hắn cầm gì trong tay: một mảnh gương vỡ rìa lởm chởm sắc nhọn lấy từ ô cửa sổ vỡ. Nỗi sợ hãi như một cơn sóng dâng trào trong cô, nhưng cô không sợ thứ vũ khí Daniel nắm trong tay, mà là cái ánh mắt vô hồn của hắn. Cô có thể nhìn vào hai mắt ấy, nhìn xuyên qua chúng mà chỉ thấy có bóng tối trong đó mà thôi. “Mày có nhớ,” hắn nói, “khi tao nói sẽ cắt lưỡi mày trước khi mày kịp mách bố mẹ không?”

Cô sợ tới cứng người, chỉ dám giương mắt nhìn Daniel. Cô đã cảm thấy kính cắt vào da, vị máu trong miệng. Cô ước sao mình đã chết, thực sự chết, bất cứ điều gì cũng dễ chịu hơn nỗi kinh hoàng khiếp sợ này...

“Đủ rồi, Agramon.” Một giọng đàn ông đi vào tiềm thức đang mù mịt của cô. Không phải giọng Daniel - giọng nói này nhẹ nhàng, có văn hóa, là giọng người không lẫn vào đâu được. Nó làm cô nghĩ tới một người - nhưng ai nhỉ?

“Tuân lệnh, thưa chủ nhân Valentine.” Daniel thở hắt ra, kiểu thở dài thất vọng - rồi mặt hắn bắt đầu mờ nhạt và vỡ tan. Trong một thoáng hắn biến mất, mang theo cảm giác tê liệt, sợ hãi tới tận xương tủy suýt lấy mạng cô. Maia điên cuồng hít thở.

“Tốt. Con bé vẫn còn thở.” Giọng ông ta lại vang lên, khá tức giận. “Thật sao Agramon? Chỉ vài phút nữa là nó lăn đùng ra chết rồi.”

Maia nhìn lên. Gã đó - Valentine - đang đứng trước mặt cô, người cao ráo, mặc toàn đồ đen, thậm chí đôi găng trên tay lẫn đôi bốt đế dày dưới chân cũng đen. Ông ta dùng mũi giày nâng cằm cô lên. Giọng ông ta khi nói nghe thật lạnh nhạt lấy lệ. “Cô bao tuổi?”

Gương mặt đang nhìn xuống cô hèm hẹp, góc cạnh, trắng bệch, mắt thật đen và tóc thật trắng làm cô liên tưởng tới một bức ảnh âm bản. Ở bên trái cổ, ngay trên cổ áo gã, là một Ấn Ký hình xoáy ốc.

“Ông là Valentine ư?” cô thì thào. “Nhưng tôi nghĩ ông...”

Giờ gót giày giẫm xuống tay cô, khiến cơn đau chạy dọc lên tận cánh tay. Cô hét lên.

“Ta hỏi cô,” ông ta nói. “Cô bao tuổi rồi?”

“Tôi bao tuổi á?” Cơn đau trên tay cộng thêm mùi rác hôi rình xung quanh khiến bụng dạ cô nôn nao. “Tiên sư bố ông.”

Một luồng sáng đột nhiên xuất hiện trên tay Valentine; ông ta vụt xuống mặt cô quá nhanh khiến cô không kịp tránh. Má cô nhói đau; cô giơ tay ôm mặt và cảm thấy máu nóng nhơm nhớp trên đầu ngón tay.

“Giờ,” Valentine nói, vẫn bằng cái giọng học thức và chuẩn mực như trước. “Cô bao tuổi?”

“Mười lăm. Tôi mười lăm.”

Cô cảm thấy thì đúng hơn là nhìn thấy nụ cười trên môi Valentine. “Hoàn hảo.”

Ngay khi trở lại Học Viện, Điều Tra Viên đã tách Jace khỏi nhà Lightwood và áp giải cậu lên phòng tập. Nhìn thấy hình mình trong những tấm gương dài dọc trên tường, anh đờ người vì choáng. Nhiều ngày nay anh đã không ngắm mình trong gương, và đêm qua quả thực là tệ hại. Mắt anh trũng đen, áo dính máu khô và bùn đất bẩn thỉu từ dòng sông Đông. Mặt anh trông hóp lại và khắc khổ.

“Đang ngắm mình ư?” giọng Điều Tra Viên cắt ngang cơn mơ màng. “Trông cậu sẽ không còn điển trai sau khi Hội đồng Clave xong chuyện với cậu đâu.”

“Chính bà mới bị ám ảnh về vẻ bề ngoài của tôi thì có.” Jace quay đi khỏi gương với đôi chút nhẹ nhõm. “Có phải tất cả chuyện này là vì bà bị tôi quyến rũ chăng?”

“Đừng tưởng bở.” Điều Tra Viên rút bốn mảnh kim loại dài từ trong cái túi xám đeo nơi thắt lưng. Con dao thiên thần. “Cậu chỉ đáng tuổi con ta.”

“Stephen.” Jace nhớ ra những gì chú Luke nói ra tại nhà khi nãy. “Đó là tên cậu ta sao?”

Điều Tra Viên quay ngoắt lại nhìn. Những con dao trong tay bà ta run lên giận dữ. “Mi đừng bao giờ gọi tên con trai ta.”

Trong phút chốc Jace tự hỏi bà ta có thực sự muốn giết mình không. Anh không nói gì trong khi đợi bà ta bình tĩnh lại. Không thèm nhìn tới anh, bà ta dùng dao chỉ. “Làm ơn đứng ra giữa phòng.”

Jace nghe theo. Dù cố không nhìn vào gương, anh vẫn thấy hình ảnh phản chiếu của mình - và của Điều Tra Viên - qua khóe mắt, những tấm gương phản chiếu hình ảnh của nhau cho tới khi có hằng hà sa số Điều Tra Viên đang đứng đó, đe dọa hằng ha sa số Jace.

Anh nhìn xuống đôi tay bị trói. Cổ tay và vai anh đã chuyển từ ê ẩm sang nhức nhối, nhưng anh cố không nhăn mặt trong lúc Điều Tra Viên cầm một con dao, gọi tên nó là Jophiel, rồi cắm ngập nó xuống sàn gỗ ngay chân mình. Anh chờ đợi, nhưng chẳng có gì xảy ra.

“Bùm?” cuối cùng anh thốt lên. “Sẽ có gì xảy ra ở đây sao?”

“Im miệng.” Giọng Điều Tra Viên nghiêm khắc. “Và đứng im đó.”

Jace đứng quan sát với sự tò mò càng ngày càng lớn trong khi bà ta đi sang bên kia, gọi tên con dao thứ hai Harahel, rồi lại cắm phập nó xuống sàn.

Tới lưỡi thứ ba - Sandalphon - anh hiểu ra bà ta đang làm gì. Con dao thứ nhất được cắm xuống sàn ngay hướng nam của anh, lưỡi dao tiếp theo hướng đông, và tiếp theo là hướng bắc. Bà ta đang tạo ra một cái la bàn. Anh cố nhớ xem trò này có nghĩa gì, nhưng chẳng nhớ ra được gì sất. Đây chắc chắn là một nghi thức của Hội đồng Clave, ngoài những điều anh được dạy. Khi bà ta nắm lấy con dao cuối cùng, Taharial, thì hai lòng bàn tay anh đã mướt mồ hôi, đã trầy xước cả ở nơi chúng chà vào nhau.

Điều Tra Viên đứng thẳng dậy, có vẻ hài lòng với tác phẩm của mình. “Đó.”

“Đó gì?” Jace hỏi nhưng bà ta giơ tay ngăn lại.

“Chưa xong đâu, Jonathan. Còn một chuyện cần làm nữa.” Bà ta tiến tới lưỡi dao ở hướng nam và quỳ xuống trước nó. Với một cử động nhanh gọn, bà ta rút thanh stele và vẽ một chữ rune tối đen duy nhất dưới lưỡi dao. Khi bà ta đứng dậy, một tiếng động ngọt sắc lanh lảnh vang lên trong phòng, như tiếng một quả chuông tinh tế gióng lên. Ánh sáng đồng loạt phát ra từ bốn con dao thiên thần, quá chói khiến Jace phải quay mặt đi, nhắm hờ mắt lại. Một lúc sau, anh quay mặt lại và thấy mình đang đứng trong một cái lồng mà bốn vách trông như thể được dệt từ những sợi dây ánh sáng. Chúng không đứng im tại chỗ mà chuyển động như những tấm màn mưa phát quang.

Điều Tra Viên giờ chỉ còn là một cái bóng mờ mờ đằng sau bức tường phát sáng. Khi Jace gọi bà ta, cả giọng anh cũng rung động, o o, như thể anh đang gọi bà ta qua màn nước. “Cái gì đây? Bà đã làm gì vậy?”

Bà ta cười.

Jace giận dữ tiến tới một bước, rồi bước nữa; vai anh chạm phải tấm màn sáng. Như thể anh vừa chạm vào hàng rào điện, cú sốc điện rần rật qua anh như một cú đấm, làm anh ngã bổ chửng. Anh ngã phịch xuống, không thể dùng tay bấu víu vào đâu được.

Điều Tra Viên lại cười lớn. “Nếu cậu cố đi xuyên qua tấm màn này, cậu sẽ nhận được nhiều hơn là một cú sốc điện đấy. Hội đồng Clave gọi hình phạt đặc biệt này là Vòng Malachi. Những bức tường này sẽ không thể nào bị phá vỡ một khi những con dao thiên thần còn ở nguyên vị trí. Ta sẽ không làm thế đâu,” bà ta nói thêm, khi Jace quỳ xuống, tiến về phía lưỡi dao gần nhất. “Chạm vào con dao và cậu sẽ chết.”

“Nhưng bà chạm được,” anh nói, không thể giấu sự hằn học trong giọng mình.

“Có thể, nhưng ta sẽ không làm.”

“Nhưng còn thức ăn? Nước uống?”

“Lúc nào cần chúng tôi sẽ mang tới, Jonathan.”

Anh đứng dậy. Qua bức tường mờ ảo, anh vẫn thấy bà ta quay lưng định bỏ đi. “Nhưng tay tôi...” Anh nhìn xuống cổ tay bị trói. Miếng kim loại cháy rực đang ăn vào da thịt anh như một thứ axit. Máu ứa ra quanh chiếc cùm dữ tợn đó.

“Cậu lẽ ra phải nghĩ tới việc này trước khi đi gặp Valentine chứ?”

“Bà làm thế này cũng không thể làm tôi sợ Hội đồng Clave được. Họ không thể tệ hơn bà.”

“À, cậu sẽ không tới gặp Hội đồng đâu,” Điều Tra Viên nói. Sự điềm tĩnh kỳ lạ trong giọng nói bà ta là thứ Jace không ưa chút nào.

“Ý bà là sao, tôi không tới gặp Hội đồng à? Tôi nghĩ bà đã nói mai sẽ đưa tôi tới Idris cơ mà?”

“Không. Ta dự định đưa cậu trở về với bố cậu.”

Choáng váng nghe lấy lời bà ta làm Jace lại ngã phịch xuống. “Bố tôi ư?”

“Bố cậu. Ta định sẽ dùng cậu để đổi lấy các Bảo Bối Thiên Thần.”

Jace trố mắt nhìn bà ta. “Bà đùa chắc.”

“Không hề. Thế này lại đơn giản hơn xét xử. Dĩ nhiên cậu chắc chắn bị khai trừ khỏi Hội đồng Clave rồi,” bà ta nói thêm, như thể vừa nghĩ ra, “nhưng hẳn không nói cậu cũng biết rồi nhỉ.”

Jace đang lắc đầu. “Bà bắt nhầm người rồi. Tôi mong bà nhận ra.”

Vẻ bực bội loáng qua mặt Điều Tra Viên. “Ta nghĩ chúng ta miễn cái trò vờ là người vô tội của cậu rồi chứ, Jonathan?”

“Tôi không nói tới tôi. Tôi nói tới bố tôi cơ.”

Kể từ lần đầu gặp mặt, đây là lần duy nhất anh thấy bà ta lộ vẻ bối rối. “Tôi không hiểu ý cậu.”

“Bố tôi sẽ không bao giờ trao đổi các Bảo Bối lấy tôi cả.” Lời anh có vẻ chua chát nhưng giọng nói thì không. Đó là sự thật hiển nhiên. “Ông ta sẽ mặc kệ bà giết tôi trước mặt ông ta, chứ không chịu giao Thanh Kiếm hay Chén Thánh ra đâu.”

Điều Tra Viên lắc đầu. “Cậu không hiểu rồi,” bà ta nói, trong giọng đượm nét oán thán. “Trẻ con không bao giờ hiểu. Tình yêu cha mẹ dành cho con cái, nó không giống bất cứ gì khác. Không tình yêu nào bền bỉ đến vậy. Không người bố nào - kể cả Valentine - lại hy sinh con trai mình chỉ vì một mảnh kim loại, dù nó chứa quyền năng lớn tới đâu.”

“Bà không hiểu bố tôi. Ông ấy sẽ cười vào mặt bà và cho bà tiền để đưa xác tôi về Idris.”

“Đừng vô lý...”

“Bà nói đúng,” Jace nói. “Nghĩ tới chuyện đó, có khi ông ấy sẽ bắt bà tự bỏ tiền túi trả phí vận chuyển ấy chứ.”

“Ta thấy cậu vẫn là con trai Valentine. Cậu không muốn hắn mất các Bảo Bối - vì làm vậy đồng nghĩa với việc bản thân cậu mất đi quyền năng. Cậu không muốn sống như đứa con của một kẻ tội phạm bị xã hội khinh rẻ, vì thế cậu sẽ nói mọi lời hòng xoay chuyển ý định của ta. Nhưng cậu không lừa được ta rồi.”

“Bà nghe này.” Tim Jace đập thình thịch, nhưng anh cố giữ giọng nói thật bình tĩnh. Bà ta phải tin cậu. “Tôi biết bà ghét tôi. Tôi biết bà nghĩ tôi cũng chỉ là một kẻ bịp bợm như bố tôi. Nhưng giờ tôi đang nói thật với bà đấy. Bố tôi tin tưởng tuyệt đối vào điều ông ta đang làm. Bà nghĩ ông ta là đồ quỷ dữ. Nhưng ông ta nghĩ ông ta là lẽ phải. Ông ta nghĩ ông ta đang làm việc của Đức Chúa Trời. Ông ta sẽ không từ bỏ tất cả vì tôi. Bà theo dấu tôi khi tôi tới đó, bà phải nghe thấy điều ông ta nói...”

“Ta thấy cậu nói chuyện với hắn,” Điều Tra Viên nói. “Ta không nghe thấy gì.”

Jace thầm chửi thề. “Nghe này, tôi sẽ thề bất cứ lời nào bà muốn để chứng minh rằng tôi không nói dối. Valentine đang dùng Thanh Kiếm và Chén Thánh để triệu hồi và kiểm soát lũ quỷ. Bà càng tốn nhiều thời gian với tôi, ông ta càng có thêm thời gian xây dựng lực lượng. Đến lúc bà nhận ra ông ta không chịu trao đổi, thì bà sẽ không còn cơ hội đánh bại ông ta...”

Điều Tra Viên kêu lên vẻ chán ghét và quay lưng bỏ đi. “Ta chán nghe mấy lời dối trá của cậu lắm rồi.”

Jace ngừng thở vì không tin khi bà ta quay lưng bước ra khỏi cửa.

“Làm ơn đi!” anh hét lên.

Bà ta dừng lại trước cửa và quay lại nhìn anh. Jace chỉ thấy khuôn mặt góc cạnh của bà ta chìm trong bóng tối với cái cằm nhọn và phần thái dương hõm lại. Bộ đồ xám hòa cùng màu với bóng tối khiến bà ta như thể một cái đầu không thân thể dật dờ trong không trung. “Đừng nghĩ rằng,” bà ta nói, “việc ta trả cậu về với bố cậu là điều ta muốn làm. Valentine Morgenstern không đáng được như vậy.”

“Thế ông ấy đáng gì nào?”

“Ôm xác con trong tay. Thấy xác con mình mà bất lực, vì biết rằng không một phép thuật, một câu thần chú hay một phi vụ giao dịch với sa tăng có thể mang con mình trở lại...” Bà ta nghẹn lời. “Hắn phải biết,” bà ta nói như một tiếng thì thầm, đoạn đẩy cửa, những móng tay bấu vào tấm gỗ. Cánh cửa đóng cạnh sau lưng, để lại mình Jace, cổ tay bỏng rát, bối rối nhìn theo.

Clary nhíu mày dập điện thoại. “Không nhấc máy.”

“Cháu đang gọi ai đấy?” Chú Luke đã uống đến cốc cà phê thứ năm và Clary bắt đầu thấy lo lắng. Chắc hẳn là có chuyện ngộ độc cà phê chứ nhỉ? Chú chưa có biểu hiện gì bất thường, nhưng để cho chắc ăn, cô lén lút rút điện máy pha cà phê ra khi trên đường quay trở lại bàn. “Simon à?”

“Không. Cháu cảm thấy đánh thức cậu ấy giữa ngày cứ kỳ kỳ làm sao ấy, dù cậu ấy bảo miễn không phải thấy ánh sáng thì cậu ấy chẳng thấy phiền gì.”

“Vậy...”

“Cháu đang gọi Isabelle. Cháu muốn biết chuyện gì đang xảy ra cho Jace.”

“Con bé không trả lời à?”

“Không.” Bụng Clary réo lên. Cô tới tủ lạnh, lấy một hộp sữa chua vị đào, máy móc ăn mà chẳng cảm thấy vị gì. Ăn được chừng nửa hộp thì cô chợt nhớ ra một chuyện. “Maia,” cô kêu lên. “Chúng ta nên xem bạn ấy thế nào rồi.” Cô đặt hộp sữa chua xuống. “Cháu đi cho.”

“Không, chú là sói đầu đàn. Con bé tin chú. Chú có thể làm nó bình tĩnh nếu nó buồn,” chú Luke nói. “Chú sẽ trở lại ngay.”

“Đừng nói câu đó,” Clary van nài. “Cháu ghét mọi người dùng câu đó.”

Chú cười nhăn nhở với cô rồi đi vào hành lang. Vài phút sau chú quay lại, mặt sững sờ. “Con bé đi mất rồi.”

“Đi mất? Sao bạn ấy đi được?”

“Ý chú là con bé đã lẻn ra khỏi nhà. Nó bỏ lại cái này.” Chú ném một mảnh giấy được gấp lại lên bàn. Clary cầm lên và đọc mấy câu viết vội mà nhăn mặt:

Xin lỗi vì tất cả. Cháu đi sửa sai lầm đây. Cảm ơn vì những điều mọi người làm. Maia.

“Đi sửa chữa sai lầm? Nghĩa là sao đây?”

Chú Luke thở dài. “Chú mong là cháu biết chứ.”

“Chú đang lo à?”

“Quỷ Raum là lũ chó tha mồi,” chú Luke nói. “Chúng tìm và mang mồi về cho bất cứ kẻ nào triệu hồi chúng. Có thể con quỷ đó vẫn đang tìm con bé.”

“Ồ,” Clary líu ríu nói. “Ừm, cháu đoán ý bạn ấy có lẽ là tới gặp Simon.”

Chú Luke trông ngạc nhiên. “Sao con bé biết Simon ở đâu?”

“Cháu không biết,” Clary thừa nhận. “Họ có vẻ khá thân. Có thể bạn ấy biết nhà.” Cô cho tay vào túi lấy điện thoại. “Để cháu gọi cho Simon.”

“Chú nghĩ gọi cho thằng bé làm cháu thấy kỳ kỳ chứ nhỉ.”

“Không kỳ bằng mọi chuyện đang xảy ra quanh đây.” Cô mở danh bạ tìm số Simon. Chuông đổ ba hồi trước khi cậu nhấc máy, giọng hãy còn ngái ngủ. “A lô?”

“Mình đây.” Cô quay lưng lại chú Luke khi nói, theo thói quen hơn là muốn không để chú nghe điện thoại.

“Cậu phải biết giờ mình sống về đêm chứ,” Simon than vãn. Cô nghe thấy tiếng cậu lăn mình trên giường. “Nghĩa là mình sẽ ngủ cả ngày đấy.”

“Cậu có nhà không?”

“Có, chứ còn ở đâu được nữa?” Giọng cậu đã tỉnh táo hơn, cơn buồn ngủ đã biến mất. “Sao thế, Clary, có chuyện gì sao?”

“Maia bỏ đi rồi. Cô ấy để lại tờ giấy nói sẽ tới nhà cậu.”

Simon bối rối. “À không đâu. Hoặc nếu có, thì giờ cô ấy cũng chưa tới đây.”

“Ngoài cậu ra không còn ai ở nhà à?”

“Không, mẹ mình đi làm còn chị Rebecca đi học rồi. Sao cậu lại nghĩ Maia sẽ tới đây?”

“Thôi, cậu cứ gọi nếu cô ấy đến nhé...”

Simon chen ngang. “Clary.” Giọng cậu nghe chừng khẩn trương, “Đợi chút. Hình như có ai định đột nhập vào nhà mình.”