NĂM
TƯƠNG LAI LÀ MỘT CHUỖI BẤT ỔN KHÓ LƯỜNG, BUỘC CON NGƯỜI HẠ MÌNH XUỐNG...
15Sẩm tối, dì Sáu mừng rơn khi ông Choỏng tươi cười co chân bước qua ngưỡng cửa. Tên là Sanh, con đầu nên nhà kêu bằng Hai Sanh, nhưng hồi nhỏ xíu theo cha tập kết năm 54 thì Sanh thành Sinh, và chữ Hai đệm đầu biến mất vì không hạp thủy thổ và văn hóa miền Bắc anh hùng. Nhưng khi giải phóng xong miền Nam thành đồng đi sau về trước, cán bộ địa phương nào về địa phương nấy thì Sinh lại tức thì trở thành Hai Sanh, và cố sửa cái giọng Hà Nội đã thành nếp trong cổ họng thời sinh viên đi học trường Đại học Kinh tế. Những năm đầu, các đồng chí xưa “nằm vùng” nắm quyền, nhưng chỉ mấy năm sau cán bộ được đào tạo chính qui từ miền Bắc hồi hương chuyển thế thượng phong. Hai Sanh là cán bộ chuyên viên cho Ban kinh tế huyện Cái Nước, thường oang oang là ở chỗ nào mà phục vụ được nhân dân là có mình, nhưng trong lòng không phục những cán bộ chính trị chỉ hồng mà không chuyên, dùng chữ “nòng cốt” như lá chắn mỗi khi gật gù vì không nắm chi hết. Rất nhanh, Hai Sanh hiểu ra chuyên là “chuyện nói dzậy mà không phải dzậy”. Đừng quên “nhất thân nhì thế”. Nhìn quanh, Hai Sanh tìm cơ hội “hy sinh để phục vụ”. Cơ hội đó thu gọn trong một cá nhân nặng 50 kí hơi xấu một chút nhưng cũng “trình độ”, là đồng chí gái Minh Thu, ái nữ của chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh, hiện công tác phụ nữ trong Mặt Trận. Dịp lễ thành hôn, ông chủ tịch khi trước là chiến hữu của cha Hai Sanh nâng ly tưởng nhớ người bạn đã chết cho Tổ quốc. Nước mắt rưng rưng, giọng nghẹn ngào, ông nói Hai Sanh không chỉ là rể mà cũng là con ông dù ông không đẻ, vì đó là con đồng chí của ông đã cống hiến đời mình cho Cách mạng.
Đêm động phòng, Minh Thu hỏi, “anh có biết thế nào là đàn bà chưa?” Dĩ nhiên, Hai Sanh gật, giọng mã thượng yêng hùng, “ôi ba cái chuyện qua đường lặt vặt ấy mà!” Minh Thu cười xòa, thủ thỉ “Nam nữ bình đẳng, như dzậy là huề, nhưng từ nay đã nên vợ nên chồng thì cấm lăng băng, nghe chưa!”. Choáng váng như bị tát tai, Hai Sanh chưa kịp phản ứng thì người vợ tân hôn thò tay xuống, nắm lấy, giọng lạnh băng, rành rọt “lộn xộn là tui cắt đó!”. Hai Sanh xỉu đi. Nhưng nỗi sợ đó được đền bù xứng đáng. Hai tháng sau, Hai Sanh được chỉ định đặc trách Kinh tế huyện Ngọc Hiến. Năm sau, khi đứa con gái đầu lòng ra đời, Hai Sanh thăng Ủy viên Phó ban Kinh tế tỉnh, trực tiếp phối hợp vận chuyển hàng hóa trên quốc lộ 1A từ huyện Ngọc Hiến xuyên qua huyện Cái Nước trên con đường về thành phố Cà Mau. Má Minh Thu nhắc: “...hai vợ chồng bay phát tài thì đừng quên ơn sanh thành nghen!”.
Hai Sanh nghe dì Sáu kêu mình bằng cái tên chế Lềnh kêu, khoa tay: “Gọi qua bằng Sanh, chớ Choỏng thì thôi, nghen em . Kiểu mấy người Hoa nói ngọng, bắt chước làm chi”. Chữ em được phát âm khá rành mạch khiến muốn hay không, dì Sáu nghe chắc rõ. Hai Sanh nhìn, nháy mắt, giọng đĩ thõa:
- Công chuyện xong, em Sáu thưởng công cho anh chi đây?
Lần này, là chữ anh. Nói rõ như dzậy mà nó không hiểu thì, Hai Sanh nhìn bàn tay mình, tự nhủ, chỉ còn cách nói bằng bạo lực cách mạng. Nhưng dì Sáu là người cơ trí. Dì nhớ trước khi đi lên thành phố chế Lềnh lách tay vào vuốt ve bụng dì, miệng ghé tai, dặn: “Nẩy nhớ chiều ổng, lấy được cái giấy... Còn nhân đó mà có đứa con, thì cột ổng lại, phát sồi lớn lớn à!”. Dì cười, nhìn Hai Sanh, xởi lởi:
- Anh Hai ăn miếng cơm nghen... Có canh cá bông lau như bữa hổm. Kỳ này cá trứng, ăn bùi lắm. Vừa ăn vừa nhậu, có đế quốc lủi thứ xịn. Ngồi đi anh!
Chữ anh được phát âm tuy có chút ngượng ngùng nhưng cũng khá rõ. Ngôn ngữ, đúng là một nhịp cảm thông, ít là nhịp đầu. Hai Sanh kéo ghế, lại nháy mắt. Nháy, theo hắn, là nhịp hai, quan trọng không kém, lại tăng cường độ giao tiếp bằng cách tạo ra một sự đồng lõa không lời. Nhìn dì Sáu cười ỏn ẻn, Hai Sanh quên hẳn lời vợ dọa, tự mình rót một ly rượu, nâng lên ực trăm phần trăm. Dì Sáu đi ra sau, miệng nói: “Tự nhiên nghe anh Hai, em dọn cơm lên liền...” Lần này, chữ em rất rành mạch khiến Hai Sanh vỗ đùi.
16Dì Sáu bắc nồi canh lên bếp, nhóm lại mớ củi cháy dở, lui cui bày mấy cái tô, rót chén nước mắm. Cay sè vì khói bếp, dì quệt nước mắt và bỗng tủi thân mình, cố kìm nhưng vẫn ừng ực nấc lên như mắc nghẹn. Từ ngày Sáu Nhêm qua đời, đây là lần đầu dì tiếp một người đàn ông mà không có sắp nhỏ bu quanh, chộn rộn ra vô, không để một điều tiếng nào. Chẳng phải dì theo ông bà kêu thủ tiết, bởi góa bụa ở tuổi dì thì cũng có những người đi thêm bước nữa, nhưng nhìn quanh, tình thiệt, không mấy ai có vẻ hạnh phúc gì cho cam. Khi còn bé Út, dì tự nhủ, thôi thì sống với nó. Có mẹ có con, nó sẽ là cây gậy chống cho dì lúc tuổi già, rồi chị Hai, chị Tư nó giúp vô thì chắc hẳn chẳng đến độ bị bỏ đói. Sau, tụi nhỏ cũng con cái đùm đề, dì đâu sợ chi cô đơn chiếc bóng, sẽ lo cho đàn cháu chớ đâu phải chỉ ngồi ăn bám. Còn thằng Thẻo. Nó với con Tư xứng đôi vừa lứa, Tám Hớn lại là bạn chí cốt của Sáu Nhêm, hẳn môn đăng hộ đối, và dưới suối vàng chắc ai nấy an lòng theo như cách sắp xếp của dì. Nhưng đùng một cái, bé Út chết, con Hai bỏ đi nay chẳng biết ở đâu. Vốn liếng không còn, may có con Tư, và chế Lềnh hiện ra như cứu tinh. Chế chỉ đường đi nước bước cho dì, lại bày ra chuyện sang cửa tiệm, móc ngoặc với Hai Sanh. Cho dì mượn vốn làm ăn, chế cười hềnh hệch, bảo chị em mình có con Tư “đặt cọc” thì sau này chế chẳng những lấy lại vốn mà còn có lời nữa.
Dì Sáu bưng đồ ăn bày lên bàn, ngượng ngùng không nhìn Hai Sanh, mặt đỏ ửng, tay líu quýu. “Cha cha”, Hai Sanh tự nhủ, “người đàn bà góa chồng này mà bén hơi đàn ông chắc còn hơn lửa bén rơm, cháy như bom xăng thời còn giặc”. Rót thêm một ly, Hai Sanh giúi vào tay dì, giọng cải lương:
- Uống miếng đi em, cho đời thêm tươi mà!
Dì Sáu đỡ lấy ly rượu, nhưng để xuống bàn. Hai Sanh làm mặt giận:
- Trời, em Sáu... Không uống là tui phạt, nghe hông! Phạt nặng à, nghen...
Đứng lên, Hai Sanh lại giúi ly rượu vào tay dì, vòng tay qua tay dì, nâng ly chúm môi, kêu một trăm phần trăm rồi nốc cạn. Dì Sáu cũng uống, nhưng ho sặc sụa. Hai Sanh ôm dì, giọng mùi mẫn:
- Tội nghiệp... Trời, thiệt tội nghiệp!
Ngoảnh đầu tránh hơi rượu sực vào mũi, dì khẽ gỡ tay Hai Sanh, lùi lại. Hai Sanh chồm theo, kẹp cứng lấy, miệng lắp bắp: “...ngoan đi cưng, rồi muốn chi qua cũng chiều, cũng cho mà!” Dì Sáu nghĩ đến cái giấy phép của sở Thương mại, đến tờ đơn xin chuyển hộ khẩu, đến dự định dì đổi đời từ ruộng đồng lên chợ Huyện, có cái cửa tiệm mặt tiền nhận hàng từ Cà Mau xuống bán lẻ cho dân chợ Năm Căn... Dì trườn người như muốn gỡ vòng tay Sanh, thều thào: “Thiệt không? Thiệt không?”. Hai Sanh đẩy cho dì ngã xuống mặt bộ ván, đầu vục vào ngực, miệng kêu “Thiệt mà em...”.
Dì Sáu nhắm mắt, môi mím, răng nghiến lại. Hai Sanh thọc tay xuống, tuột quần, kéo áo, miệng điệp “Thiệt, thiệt!”. Dì Sáu không chống cự, nhưng trong đầu dì tưởng đến Sáu Nhêm. Chồng dì không vội vàng hấp tấp như Hai Sanh, bởi phải dè chừng, lúc không còn nhịn được thì biết mà rút kịp, để ở trong lỡ ôm bầu sanh con thì sau biết lấy chi mà ăn. Hai Sanh thúc vào, dập dềnh, quai hàm bạnh ra như hổ mang, thở phì phì, chẳng như Sáu Nhêm xưa nhắp vô nhắp ra như du kích. Đưa tay che mặt, chân co lên, dì không cảm thấy gì ngoài sự bầm giập thể xác khô queo như một dòng nước cạn. Ao ước có một bé Út khác bỗng quay về thôi thúc. Phải, cái tuổi già có người để trông cậy vẫn ở trước mặt, nhưng không bao xa. Năm mười năm, vù như cánh những con chim biển đến mùa lại ghé Đất Mũi, bay từng đàn trắng xóa những đường chân mây tít tắp. “Phải, đừng rút, cứ thế. Trời thương, hãy cho tui một đứa con, với bất cứ ai”, dì thầm khấn. Rồi hai tay ôm cứng lấy mông Hai Sanh, dì đẩy lui kéo tới như đánh nhịp, hổn hển, van xin: “Nữa, nữa... Ra đi mà!”. Khi dòng sinh lực người đàn ông òa vỡ, dì Sáu đón lấy tựa đón lời chúc phúc, quặp chân kẹp Hai Sanh như một con cua vừa lọt rọ.
Sau giây phút hoan lạc thần tiên chắp nối những giấc mộng khác nhau là thời gian của những âu lo và nhu cầu thực tiễn. Nhìn qua giấy tờ dì Sáu đưa vào tay, Hai Sanh uể oải:
- Được rồi em, để đó anh tính, chuyện đâu còn có đó!
Dì Sáu ngắt, giọng thôi thúc:
- Nhưng bao giờ, anh? Tin anh thì tin rồi, nhưng anh đâu chỉ một mình, còn người này người kia ở cơ quan chớ!
Hai Sanh đứng phắt dậy, kéo quần, nghiêm giọng:
- Thiệt em Sáu hổng có lãnh hội đường lối... Anh là lãnh đạo cơ quan, trên biểu dưới không nghe thì sao mà bảo đảm cơ chế được!
Nói vừa dứt lời, Hai Sanh lại rót rượu vào ly, nốc cạn rồi rầu rầu:
- Anh có chút chuyện riêng muốn tâm tình với Sáu...
Không đợi dì đáp, Hai Sanh kể liền một mạch chuyện gia đình, rằng mình phải sống với vợ vì chữ nghĩa truyền thống, vì mình là cán bộ lãnh đạo không thể để điều tiếng, và vì thương hai đứa con còn thơ. Giọng ngùi ngùi, Hai Sanh kết:
- Nên thương em thiệt lòng mà anh đành chịu, nhớ thì anh kín đáo ráng xuống đây thăm em, kiếm chuyện công tác này nọ ở một hai ngày... Em thông cảm cho nghen!
17Đây là lần thứ ba. Nghe Tư khẩn khoản, chế Lềnh xẵng:
- Nói hoài mà hổng nghe. Sẳm biểu thẻ Chứng minh nhân dân của con sẳm đã đưa cho bên công an đăng ký đặng đi làm. Không có thẻ, đi là bị bắt lại, làm sao con về Đất Mũi...
Thấy Tư ấm ức quay mặt giấu nước mắt ứa ra, sẳm hạ giọng:
- Lần sẳm gặp má con dưới chợ, bả biểu mấy bữa tới giấy tờ xong xuôi là thế nào cũng lên thăm con đó!
Đây cũng là lần thứ ba sẳm nói vậy. Tư lủi thủi ra sau nhà, bâng quơ nhìn lên lùm cây còn vương chút nắng chiều le lói. Ở thành phố, không có cây mắm xanh um tưởng mỏng mảnh nhưng sao mà sức sống mạnh mẽ dai dẳng chẳng một ai ngờ. Không có những rặng đước thẳng mình rướn lên, trái toòng teng đâm thẳng xuống như muốn trở về lòng đất. Ở thành phố, không nhìn thấy biển, không nghe tiếng nước bập bềnh. Chỉ có tiếng xe. Tiếng người. Tiếng phát ra từ những chiếc loa rậm rật đủ loại những bài ca người ta hò hét trong những quán karaoké mới mọc lên như dấu vết sần sùi một thời mới, thời văn minh hội nhập, thời phá rào đổi mới. Tư biết, thời này chỉ tạm cưu mang những kẻ từ nương rẫy đi kiếm sống, ngây ngô theo đòi thành thị, nhưng khi có chút tư riêng thì vẫn còn lưu luyến cái thuở người miệt ruộng ăn ở chân thành, không hoa lá cành, có sao nói vậy. Vẫn nhớ con gió cao tít đưa đám mây hiền hòa ra biển. Con sóng đẩy thuyền ra khơi. Những đám rau muống biển hoa tím ngắt dập dềnh trên cửa những kinh rạch tựa gắn bó với đất liền chẳng muốn chia xa.
Không biết giờ này Thẻo đã nghỉ tay về nhà hay vẫn còn trên bờ vuông tôm, nơi Thẻo đặt hết hy vọng vào một cuộc đổi đời. Bữa trước ngày đi lên chợ với mẹ và chế Lềnh, Tư ra kiếm Thẻo báo. Thẻo buồn, người lặng đi, nhưng cố cười, cái cười mếu máo. Lát sau, Thẻo chỉ tay xuống, giọng quả quyết, “Chỉ mấy tháng nữa là thu hoạch lứa tôm đầu, tới chừng đó em khỏi cần đi đâu nữa!”. Tư vào nhà. Lẩm nhẩm, Tư tính vậy là đã gần hai tháng nó xa Đất Mũi và chẳng có tin tức gì của Thẻo. Nó quyết định viết thư cho Thẻo. Nhưng viết chi? Tư chưa từng viết thư cho ai, cắn bút suy nghĩ thật lung, và bắt đầu bằng: Tư nè anh! Nhưng rồi khựng lại, Tư chẳng biết viết tiếp cái gì. A, thì nói lên cái đang làm mình xốn xang. Tư nắn nót: Muốn về xóm Mũi mình mà không được, anh Thẻo à! Nghe nói má sắp lên Cà Mau, anh có nhắn chi không? Tư nhắm mắt, hình dung ra tôm nhảy lóc nhóc trong vuông nước, và tiếng Thẻo reo mừng. Nó tiếp: Em chờ tin nuôi tôm, cầu Trời Phật thương mình cho mọi điều suôn sẻ. Nước mắt lưng tròng, Tư viết thêm: Anh có thích cái áo em mua cho anh không? Áo sơ-mi trắng là để mặc khi cưới hỏi đó... Tư buông bút. Nấc lên rồi không còn nhịn được, nó ôm mặt khóc vùi, quên kể chuyện nay nó đã cắt mớ tóc dài và cũng son phấn như đào cải lương để khi gặp lại Thẻo khỏi ngỡ ngàng.
18Thuấn nhìn vuông tôm, đáy cào sình phơi nắng nay mặt nứt nẻ vết chân chim, vỗ vai Thẻo:
- Đợi thêm hai ba bữa, rồi rắc vôi xuống. Sau thì cho nước lợ vô, ngập chừng hai thước, rồi phải tẩy nước bằng Clo, nhìn trong vắt thấy đáy mới được cấy tảo.
- Cấy bao lâu, chú?
Mở cuốn sổ tay, Thuấn chăm chú đọc, giảng giải:
- Tảo cũng như rêu, khi nước xanh um thì thả tôm giống. Tôm ăn tảo, cộng thêm bột thực phẩm... Cấy bao lâu hả, chắc chừng một tháng!
Là cán bộ thủy sản phụ trách xóm Mũi, Thuấn đảm nhiệm khoảng ba mươi vuông tôm, đào rải rác đó đây để thử xem đất nơi nào phù hợp cho khâu canh tác mới mẻ này. Giọng lạc quan, Thuấn động viên mọi người:
- Cái khâu kỹ thuật, tụi tui được đào tạo ở Đại học Cần Thơ, bà con khỏi lo. Giá tôm mỗi kí-lô trên thị trường quốc tế là mười một đô, vốn qui hoạch phân phối cỡ ba đô, dân trả cho Nhà Nước bốn đô phí tôm giống, tảo, Clo và bột thực phẩm, đút túi như dzậy được bốn đô. Một vuông tôm gần 5000 mét vuông thì thu hoạch ít cũng ba tấn một vụ, chỉ vài năm là dân mình giàu như bọn Mỹ. Trước mắt, cực một chút, sau mới giàu, bà con hãy phấn đấu để dân giàu nước mạnh nghe...
Với Thẻo, Thuấn nói riêng:
- Thành phần lý lịch em tốt. Ba em xưa là dân Cách mạng nên huyện mới đề đạt em phụ trách một thí điểm. Vuông tôm này sẽ là cơ sở của em, ráng làm cho ngon, đừng phụ lòng lãnh đạo nghen!
Thẻo cảm động, không biết nói chi nên lập lại khẩu hiệu quyết tâm, “Nơi nào cần, thanh niên có. Nơi nào khó, có thanh niên”. Thuấn ôm vai Thẻo, rưng rưng:
- Qua biết em là người tốt, mà người tốt tất việc tốt!
Vuông tôm 5000 mét vuông chỉ một tay Thẻo cào sình rồi gánh lên bờ, sau người làm ruộng mang xe đến chở đi đắp nương ở những chỗ đất trũng. Cào sình thôi, mất bốn tháng ròng. Ngày ngày cán bộ Thuấn nói, sau chỉ một vụ tôm ta có đủ vốn ta sẽ mua máy về cào, mua xe về chở, đúng như Chủ tịch tỉnh tuyên bố, “Xã hội Chủ nghĩa là cơ giới hóa nông nghiệp”. Vuốt mồ hôi nhẫy nhụa, ban ngày Thẻo nhắm mắt là mơ thấy máy kéo, máy cào, máy bơm. Chỉ đến tối, Thẻo mới có những giấc mơ khác, thường là có Tư ở bên, chưa công nghiệp hóa đến mức ngửi thấy mùi xăng dầu.
Tối hôm nghe Thuấn nói về viễn tượng một cuộc sống mới nhờ tiền bán tôm kiếm được trên thị trường quốc tế, Thẻo lên chùa. Cứ mỗi khi vui hay buồn, nó có thói quen tìm Sư, đôi khi ngồi cạnh mà chẳng nói quá nửa câu. Sân chùa, dưới những tàn cây rủ bóng chập chờn dưới ánh trăng lưỡi liềm, nó tính nhẩm rồi thốt:
- Sư à, con tính mỗi vụ tôm là thu được bảy, tám ngàn đô. Sư biểu dzậy là bao nhiêu tiền mình?
- Ai biểu bảy, tám ngàn đô? - Sư ngạc nhiên.
Thẻo kể lại tỉ mỉ lời Thuấn cho Sư nghe. Sư im lặng. Không thấy Sư nói gì, Thẻo lấy bức thư Tư gởi ra đọc. Lần này chắc đọc đến hàng chục lần nên Thẻo đã thuộc lòng, bật cười nghe Sư biểu lấy đèn soi, buột miệng:
- Xây được cái nhà đã rồi mới làm đám cưới...
Sư phá lệ không chen vào chuyện đời, hỏi:
- Ai cưới ai?
Thẻo đỏ mặt, nói về dự định lấy Tư làm vợ. Sư biết Tư hiện ở trên Cà Mau, chỉ nói:
- Xin với dì Sáu mày ngay. Rồi ráng đón con Tư về dưới quê, càng sớm càng hay. Thành phố không phải là chỗ của tụi bay... Nam mô A di đà Phật!
19Dì Sáu bước vào, nhìn Tư lạ lẫm một thoáng. Ôm chầm lấy con, dì trầm trồ:
- Trời, con đổi quá, đi đường má gặp mà không để ý là nhìn không ra đâu cà! Đẩy Tư lùi một bước, dì ngắm, giọng kiêu hãnh “...thiệt đẹp, nhìn như minh tinh màn bạc. Má hồi trẻ nhìn giống hệt con, nhưng xưa mình dân ruộng đâu có son phấn chi như thời nay!”
Chế Lềnh sau nhà bước lên, cười ha hả:
- Sao... Sáu coi nhỏ Tư như dzầy, được chưa? Gốc làm ruộng muốn tẩy cho sạch thì phải đợi da bớt sạm nắng, lúc đó khỏi thoa phấn!
Ôm lấy mẹ, Tư gọi “Má, má...” rồi bật khóc. Không hiểu sao, có mẹ ở bên mà Tư thấy mình bơ vơ. Hiểu lờ mờ mình không còn là con Tư xóm Mũi, nỗi tủi phận dâng lên, và bỗng nhiên Tư bực bội nhìn chế Lềnh, gằn:
- Mắc gì phải tẩy gốc ruộng, thoa son trát phấn thì sạch sẽ nỗi gì?
Chế làm lơ không đáp, kéo cho dì Sáu ngồi, hềnh hệch:
- Ngổ biết rồi, ông Choỏng cho hay giấy phép có rồi, phải không?
Nhìn dì gật đầu, chế tiếp:
- Ổng biết hai người mình hợp đồng buôn bán, ổng kêu phải “vô nước” thêm, khen nẩy biết điều, làm ăn chắc hẩu a!
Dì Sáu mỉm cười. Dĩ nhiên dì biết điều, để Hai Sanh kêu cực kỳ đôi ba lần rồi ngáy phì phò, từ đó đến nay đã bốn năm đêm cán bộ tỉnh công tác ở huyện, ngủ hoang nên không lo lời vợ dọa lăng nhăng là cắt cái đó. Hết tháng, dì chỉ mong một điều, là mình tắt kinh, và thế là được đứa con đơm hoa kết nhị trong bụng. Dị nghị, dì bất cần. Là vợ bé ư, có sao. Và làm ăn mà có ông Phó ban Kinh tế tỉnh đỡ đầu thì còn sợ gì!
Đợi Tư đi học tiếng Anh, chế Lềnh và dì Sáu kiểm điểm công việc. Dự án đã đi được ba phần tư đường, chi phí không phải ít. Chế tính tiền Tư học Anh văn, học trang điểm thẩm mỹ với Nguyệt Hoa, tiền quần áo hiện đại, tàu xe... và kết luận đầu tư vào Tư nay lên 320 đô Mỹ. Thấy dì Sáu tái mặt, chế thủng thẳng nhưng quả quyết: “Nếu dự án ở chặng cuối thành công thì tiền lời tất cả sẽ khoảng một ngàn ba trăm đô cho Sáu, thừa sức trang trải cả cái tiệm sẽ sang ở chợ Năm Căn!”. Phần chế, thù lao dịch vụ này lên năm trăm đô, chế sẽ đóng góp vào hợp đồng với dì Sáu, có tiền mua hàng Trung Quốc đang như nước tuồn qua biên giới Miên-Việt.
Khi Tư đi học về, dì Sáu âu yếm:
- Nói cho má nghe một câu tiếng Anh coi!
Tư ban đầu từ chối, nhưng bị ép, líu ríu nói trong cổ họng:
- Ai em hăng-gri, Ai oăn tu ít!
- Nghĩa là sao, Tư? - dì Sáu hỏi.
- Là tui đói. Tui muốn ăn!
Chế Lềnh xen vào:
- Thế người ta cho nẩy ăn, nẩy nói chi?
Tư lí nhí:
- Thanh kìu, nghĩa là cám ơn!
- Nhưng nếu người ta không cho?
- Thì kêu Bờ-li-dơ, bờ li-dơ [1] !
Dì Sáu nói với Tư ngoài đói còn khát, khát cũng chết. Và ăn uống xong thì ai cũng có nhu cầu đại, tiểu tiện. Vậy Tư phải học những câu thích hợp để sử dụng tùy trường hợp, với mục đích sống còn. Trừng mắt nhìn vào khoảng không, dì nói, như nói một mình:
- Sống còn, nghe chưa... Còn lại, tính sau! Phải sống còn trước đã!
Chế Lềnh vỗ tay:
- Nẩy nói trúng lắm đa... Cực kỳ!
Hai chữ cực kỳ chế Lềnh học từ dì Sáu, cũng rất nhanh, chỉ sau một lần thủ vai làm chồng, nghe dì rên rỉ.
[1] Please, please!: Làm ơn, làm ơn!