BẢY
KHIẾN SỐNG LÀ MỘT TỘI LỖI, NÊN CÓ DAO, MÀI DAO…
26Nghe tiếng người, Sư quay mặt nhìn ra ngoài sân chùa. Nắng trải một lớp vàng ánh trên màu xanh cây cỏ, nhẹ và mượt mà, bao dung ôm vạn vật vào lòng. Nhìn, thì ra bà Ba Thôi cùng hai đứa nhỏ đang đẩy cổng lách mình vào. Cha chúng, mới chết được hai tuần, chết lặng đi, không thực biết vì sao. Việc của Sư, là đọc kinh. Vẫn bài kinh Thủy Sám, tiễn người về nơi chẳng ai biết là chi, trừ là nơi không còn chuyện cơm áo gạo tiền, giấy tờ đăng ký hộ khẩu, chứng minh nhân dân, sổ xanh, sổ đỏ...
Bà rầm rì:
- Xin thầy cho hai đứa xuất gia, vào chùa tu tập!
Hai đứa bé tuổi chắc chừng mười hai, mười ba ngước mắt nhìn Sư, tròng mắt trắng loãng, ngơ ngác. Chúng đen đủi gầy gò, chân tay ngoằng ngoẵng như những cành cây còi mọc hoang bụi bờ, nước mũi chảy ròng ròng xuống miệng. Không đáp, Sư làm dấu cho mẹ con Ba Thôi ngồi rồi vào bếp. Lát sau, Sư bưng ra đồ ăn bà con cúng dường sáng nay, xếp lên bàn, chỉ tay vào bát đũa.
Nhìn hai đứa trẻ ăn lấy ăn để, Sư hiểu chúng đói, bụng trống chắc từ lâu. Khi Lục Cả còn, người gốc Miên cho con tới chùa, thường là ba năm, đúng truyền thống tu tập. Nhưng từ khi có chiến tranh, dân Miên tản dần đi. Đất Mũi bây giờ hầu chỉ toàn người Việt, mấy năm nay chẳng gia đình nào đưa con đến chùa. Vả lại, có thì Sư cũng không dám nhận. Sư không biết kinh Phạn, chỉ nằm lòng bài kinh Thủy Sám, và khi diện bích thì ngộ đúng một chữ là chữ Không, cái chữ chẳng cách nào giảng thành lời. Bà Ba Thôi lại xin với Sư, giọng khẩn cầu, tội nghiệp. Sư biết chắc hẳn không vì chữ Không mà bà xin cho hai đứa nhỏ vào chùa mà vì chữ Có, tối thiểu là có của bố thí cứ mỗi hai ngày Sư ôm bình bát lẳng lặng đi khất thực từ đầu đến cuối xóm. Cán bộ xã từng tới gặp, nói thẳng thừng:
- Anh Ba à, anh cũng từng học như bọn tui rằng tôn giáo là thuốc phiện . Anh xưa là cán bộ chủ chốt, nay “trên” nói anh vì bất mãn mà vô chùa là với mục đích bêu riếu Cách mạng. “Trên” sẵn sàng đề anh có lương hưu đàng hoàng, nhưng anh phải ra khỏi chùa, và không được đi ăn xin như vầy...
Sư không nói không rằng, miệng niệm nam mô.
- Tụi tui biết anh là người tốt, nên tình nghĩa với anh, chớ người khác thì tụi tui sẽ dùng bạo lực Cách mạng...
Trừng mắt lên, Sư hóa thân thành Ba Tri, người chỉ huy du kích Đất Mũi mới năm nào. Cán bộ xã khựng lại, nhìn xuống đất, không dám đối mặt chỉ huy cũ. Ba Tri nhắm mắt, nhủ thầm, nói gì cũng vô ích. Giặc ngoài đánh, không dễ nhưng có hy vọng thắng. Giặc trong, trời đất hỡi, chúng ngu dốt, đần độn nhưng chúng cũng là một phần chính mình, không lẽ lại giấu súng đạn, đào hầm bí mật, và tiếp tục cái ác nghiệp luân hồi?
Ba Tri vô vọng, chỉ lại thều thào nam mô. Không biết động lực nào khiến Ba Tri bỗng nhiên cất lời tụng kinh Thủy Sám. Lần này, kinh tụng cho những người đang còn sống.
Bà Ba Thôi hắng giọng giục con ăn cho xong, rồi nhìn Sư, vẻ chờ đợi. Sư nhắm mắt, tay lần tràng, lát sau từ tốn nói nho nhỏ:
- Bà à - Sư trầm giọng - mấy đứa nhỏ khi đói cứ tới ăn, ở chùa có gì ăn nấy... Nhưng tui chẳng thể để tụi nó ở đây, xã đã cấm người lạ.
Bà Ba Thôi khóc tức tưởi nhưng không nói gì thêm.
27Mở cửa, Tư vào nhà, nước mắt rưng rưng. Giờ này, chắc Thẻo đang trên bờ vuông tôm. Tư nhìn quanh, lòng trống tênh, lẳng lặng dựa vào vách. Tay đưa lên vuốt mớ tóc nay đã cắt kiểu, ngắn, lởm chởm như chó liếm, nó tự hỏi chẳng biết Thẻo sẽ nghĩ sao. Hai ngày xe khiến Tư oải người, mắt khép, ngả mình xuống nằm. Nhớ đến Sương, Tư thầm cảm ơn. Khi xây xẩm mặt mày rồi ngã vật ra ở Cần Thơ, Sương líu quýu vực Tư lên. Mấy đứa con gái ứng viên dịch vụ “sáng coi chiều cưới” bu lại, nhưng Sương ngăn, nói: “Chắc trúng gió. Lui ra cho nó thở, bu vào ngột thấy mồ!”. Khi ấy, Tư chợt nghĩ đến bức thư bạn nó là Thúy gởi mà nó chưa trả lời. Nó nói vào tai Sương:
- Chị... em đâu có muốn dzậy, tưởng đi xin việc làm với mấy hãng ngoại chớ đâu có dè nó bắt mình lấy chồng!
Sương mím môi, thầm thì:
- Mình ký đăng ký kết hôn, rồi nếu đại gia nào ký dzô, là “trúng mánh”, coi như thành vợ người ta rồi...
Im lặng một lát, Sương hỏi:
- Dám chạy không?
Tư đáp liều:
- Chạy thì em dám, nhưng hổng có đồng nào trong túi, tiền đâu đi xe?
Sương mở bóp, giúi vào tay Tư, nói nhỏ:
- Làm bộ ra mua dầu nóng, bắt xe ôm lên bến xe đò về Cà Mau. Coi lại coi có đủ giấy tờ đi đường đã...
Tư đưa cho Sương thẻ Chứng minh nhân dân, nhìn Sương gục gặc, mừng rơn. Nó cám ơn, nhưng Sương gạt:
- Giúp bồ, nhưng tui cũng có cái lợi là bớt một đối thủ... Tui thì chỉ mong đi, giá nào cũng trả!
Nhìn Tư, Sương nháy mắt:
- Có người yêu dưới quê hả?
Tư gật đầu, bẽn lẽn. Sương dặn dò đường đi nước bước, rồi ra cổng sau thúc vào lưng Tư. Lính quýnh nói với nhân viên bảo vệ, Tư ra đường, đi khuất rồi cứ vậy chạy thục mạng.
Tư ngồi lên, lôi từ gầm giường một cái túi, lục rồi lôi ra bức thư của Thúy:
“...Tư ơi, thế là tao về nhà chồng. Ở tít tắp Quảng Tây bên Trung Quốc vĩ đại, phải đi xe hỏa, rồi sau đi xe bò mới về tới nhà ông ấy. Tiền hồi môn đầu nậu trao cho nhà tao chỉ vài trăm nhân dân tệ, nhưng hứa là sẽ bồi hoàn đủ số để bu tao xây nhà. Ngôn ngữ khác nhau, nhờ thông dịch ở Hà Nội tao mới biết ông ta năm nay bốn mươi, chưa bao giờ vợ con, hiện sống với bố và một thằng cháu, công việc thì đồng áng như bên mình. Nhưng thật là lạ, khi tao đến nơi mới biết làng ông ta gần như chỉ có một họ, là họ Tăng. Và chẳng bao giờ thấy đàn bà. Tao nghe kể dưới thời Mao chỉ để mỗi gia đình đẻ đúng một con, nên cứ con gái là bóp mũi cho chết. Vì trai thừa gái thiếu, ba người đàn ông trong nhà phải thay phiên canh tao, sợ người ngoài hãm hiếp. Kinh lắm mày ạ! Bọn đàn ông lảng vảng quanh nhà, mắt nhìn muốn ăn tươi mình, đi ra ngoài đồng làm lụng cũng cứ phải mắt trước mắt sau. Nhưng Tư ơi, mày khó mà tưởng tượng ra đâu. Người đầu tiên hãm hiếp tao là bố chồng, năm nay chắc trên sáu mươi. Kẻ đồng lõa là thằng cháu, mới mười bảy. Nó xoạc cẳng tao ra, giữ chặt cho ông nó làm cái việc súc vật ấy. Tối về, thấy tao mặt mày thâm tím, hiểu liền. Chồng tao có lớn tiếng với bố, nhưng nghe ông ta sụt sịt khóc lóc, nó cũng thôi. Và từ đó, cả thằng cháu cũng được phép vào giường tao nằm, chống thì nó đánh... Thế là tao một lúc có ba thằng làm chồng, và nói thật, tao chỉ muốn chết... Sống thế này là sống nhục. Chịu sống nhục là sống tội lỗi. Nhưng tao chưa chết ngay được. Tao chỉ còn một mong ước, là mong sao cho thầy bu tao xây được căn nhà gạch, báo hiếu cha mẹ... Rồi đường tao tao đi, con đường độc đạo, dẫu tao có phải xuống âm phủ chắc Diêm vương cũng động lòng tha ném vào vạc dầu chăng...”
Đưa tay lên quệt nước mắt ướt nhòa mặt mũi, Tư thầm khấn cha “Ba phò hộ con, cho con khỏi mắc cái vòng tội nghiệt như con Thúy, nghe ba”. Nó đứng lên, đẩy cửa rồi dọc theo hẻm dẫn tới nhà con Thúy. Đã lâu, nó chắc thế nào nhà cũng đã là nhà gạch, và như vậy nó có thể viết thư báo bạn. Nhưng nó sững sờ. Căn nhà vẫn là nhà lá, vách đất, cột kèo lổn nhổn oằn ra như chỉ chực đổ. Lặng người, nó bưng mặt khóc vùi.
Mẹ của Thúy đi đâu về thì thấy Tư đang ngồi xệp ôm mặt.
- Có chuyện gì mà khóc đấy Tư? - bà ta hỏi.
- Dạ, cháu nhớ con Thúy... Bác có tin của nó không?
- Có chứ... Nó viết thư về luôn. Nay vợ chồng nó lên tỉnh, sắp sửa mở một cái cửa hàng xuất nhập khẩu với Hải Phòng. Bên Trung Quốc người ta làm ăn tốt lắm, con Thúy dư giả, sang năm hẹn về chơi, cháu ạ...
Tư định hỏi chuyện xây nhà gạch, nhưng bất nhẫn, không nói gì. Và nó tự nhủ nó cũng sẽ không bao giờ viết thư trả lời bạn nó, con Thúy, nếu nó không định nói trá ra là nhà Thúy nay hai tầng, ba gian, và chất đầy hàng ảo.
28Tư ra ngồi bờ nước cạnh nhà, nhìn bóng mình, người chựng lại. Không, đây không phải là con Tư xóm Mũi, con nhỏ nhà quê đâu có phấn son, đâu bao giờ tô môi kẻ mắt. Nó tiếc mái tóc dài nay cắt ngắn cũn cỡn, chắc hẳn phải nói, “anh Thẻo à, tóc ngắn rồi dài, lo chi. Cái quan trọng là em về được với Thẻo”. Hai tay vốc nước, Tư hắt vào mặt, rửa cho sạch hết vết thị thành, khoan khoái hưởng cái trong lành đồng quê gió nội.
Tới trưa, không thấy Thẻo về. Tư bước lên đê, ra vuông tôm nơi Thẻo canh tác. Nắng chói, Tư kéo nón sụp xuống che mắt, cất tiếng gọi Thẻo. Nhưng chỉ có tiếng gió xào xạc. Chung quanh những vuông tôm xếp dài dài, không một bóng người. Chồm lên đầu con đê, Tư nhìn xuống. Kỳ chưa, những vuông tôm nay cạn nước, tảo trồng dưới đáy khi xưa xanh ngắt nay vàng úa, và xác những con tôm khô đét vương vãi khắp nơi. Tư nhào xuống, tay lượm một con. Mùi tôm chết trương phà ra thúi rình. Nước mắt trào ra, những ước mơ của Tư trôi tuồn tuột như lũ, cuốn theo hình ảnh khuôn mặt Thẻo nhăn nhó thảm thương.
Gào tên Thẻo, Tư cắm cổ chạy. Phải hỏi. Tại sao như vầy? Tại sao?
Tư chạy lên chùa, nơi khi xưa hễ rảnh là Thẻo vào trò chuyện với Sư. Sư ngồi dưới cây trám Sư gọi là cây Bồ Đề xóm Mũi. Thấy Tư đầm đìa nước mắt, Sư ngạc nhiên nhưng không nói gì. Tư hỏi Thẻo, Sư nói chắc Thẻo đi lên Cà Mau tìm Tư.
- Thầy ơi, sao tôm chết hết dzậy? - Tư cuống quýt.
Nén tiếng thở dài, Sư thuật chuyện tôm bị vi-rút, và nói câu Sư từng nói với Thẻo, là thua keo này ta bày keo khác, cứ sống thì rồi còn cơ hội, lo chi. Phá lệ, Sư kể Thẻo đã xin cưới Tư, nhưng dì Sáu nói Tư nay đã bồ bịch ở thành phố, chuyện đúng sai ra sao. Trợn mắt ngạc nhiên, Tư đáp:
- Làm chi có chuyện đó. Má con đặt điều gì mà kỳ dzậy! Má con cũng kêu anh Thẻo nay rượu chè say xỉn, con nhờ má cầm thư con biên cho ảnh khuyên can mà ảnh hổng trả lời!
Sư chặc lưỡi. Kinh nghiệm đời dày dạn khiến Sư cảm thấy không ổn, hỏi trên thành phố Tư sinh hoạt ra sao. Nghe Tư thuật chuyện dì Sáu hợp đồng sang cửa tiệm làm ăn với chế Lềnh, chuyện Tư học tiếng Anh, ăn mặc thời trang cho hiện đại, rồi chuyến đi Cần Thơ với dịch vụ “sáng coi chiều cưới” và cuộc đào tẩu Tư vừa trải qua, Sư nhăn mặt, gặng:
- Mấy cái giấy đăng ký con ký tên vô, có nhớ giấy viết chi không?
- Dà, chị Sương, người cứu con, kêu đó là giấy đăng ký kết hôn và đăng ký xuất cảnh, thưa thầy. Chị nói, nếu ông Đài Loan nào đó ký vô là coi như lấy nhau rồi!
Cười nhạt, Sư thình lình đập tay xuống bàn khiến ly nước Tư uống bắn lên rồi rơi xuống đất. Giựt mình, Tư nhìn Sư. Lần đầu Tư thấy lửa trong mắt một kẻ tu hành, kẻ đã tưởng mình ngộ được chữ Không. Sư lẩm bẩm điều gì đó Tư nghe không ra nhưng chẳng dám hỏi, tủi thân bưng mặt ấm ức. Sư nói Tư cứ yên tâm, thế nào Thẻo cũng về, vì đi tìm Tư ở Cà Mau với cái địa chỉ “Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam - Độc Lập Tự Do Hạnh Phúc...” trong khi Tư bị rao bán cho người Đài Loan ở Cần Thơ là chuyện chỉ có thể có đoạn kết ở xóm Mũi.
29Tiếng gà gáy sáng râm ran. Bừng tỉnh, Tư quơ chăn, nán nằm lại. Trời còn tối, sương đêm mập mờ trải một màu sữa đục trên nền đất ẩm. Tranh sáng, tranh tối, Tư nhủ, cứ như đời mình mấy tháng xa nhà. Bỗng nhiên, nó nhớ bé Út. Hình ảnh em nó tay ôm con vịt Tơ vào lòng, nhất định không buông, trở lại ám ảnh. Biết đâu Út lại chẳng chết vì lây lan vi-rút gia cầm? Hay là khi mất gì đó thiêng liêng gắn bó, người ta như mất chính mình, chẳng còn muốn sống làm chi? Không có Thẻo, liệu Tư có như bé Út mất con Tơ? Tư ngẫm lại chuyện Sư kể. Cái áo sơ-mi. Má đặt điều, biểu Thẻo Tư đàn đúm bồ bịch, rồi kêu Tư nay Thẻo nhậu nhẹt chơi bời. Và không đả động một tiếng đến chuyện Thẻo xin cưới Tư! Vay mượn chế Lềnh tính kế làm ăn, rõ ràng là cuộc gả bán Tư cho người Đài Loan được hai người sắp đặt mà Tư không hay, cứ tưởng mình đi xin việc làm cho cơ sở hãng người nước ngoài ở đâu đó trong miền Nam chớ đâu có dè. Tư bụm mặt, nức lên, buột miệng: “...Má tính bán con đi hà má!”. Nhớ khi mình phải há miệng cho đại gia Tseng, ghế số 3, kiểm tra răng lợi như người ta mua trâu bò, Tư chỉ muốn đập phá bất cứ một cái gì. Nhà trống tênh, Tư tự nhủ, chỉ có cái mặt mình để đập để phá. Nó dang tay thẳng cánh tát vào má, kêu thất thanh “Trời thần ôi, tui là cái gì? Sao bắt tội tui cực nhục còn hơn con chó như vầy?”.
Chao ơi, giá có Thẻo ở bên. Tư lục lọi, lôi từ rương cái áo sơ-mi trắng mình mua tặng Thẻo. Áo mới tinh, chắc Thẻo chưa dám mặc, dẫu một lần. Tư nhìn ra cửa, thì thầm, “anh đi đâu, sao chưa thấy về nè, anh Thẻo!”. Rồi Tư bung cửa chạy lên đê viền những vuông tôm xóm Mũi. Vuông nào như vuông nấy, tảo cháy vàng úa, mùi tôm chết sình bốc lên hành hạ khứu giác. Nó chạy. Cứ thế, quanh những vuông tôm nay nhìn như những lỗ huyệt khổng lồ chôn sâu hy vọng của người xóm Mũi, cái hy vọng thoát nghèo, thoát đói, Tư chạy cho đến khi kiệt lực ngã xuống gốc một cái cây cằn cọc, nước mắt lã chã, đầu tóc rũ rượi, thiếp đi như có ai đó giáng búa vào đầu.
Khi Tư mở mắt, bốn bề vẫn vắng lặng. Mặt trời thập thò đầu tán rặng đước, xa xa bóng dăm con cò co chân đứng, và chẳng biết từ đâu, ai đó cất tiếng hò:
Hò ơi...
Ví dầu...
Ví dầu con nước xuôi dòng
Sao anh bơi ngược
bơi vòng, rồi bơi xa... ớ ơ
30Thất thểu lê bước, Thẻo đến đầu xóm, chỉ mong về nhà ngả người xuống nằm ngủ. Bốn bữa rày, lơ bơ trên Cà Mau sáng tới tối, đi lòng vòng mọi nơi, mọi chốn tìm cái địa chỉ ghi “Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam”, với lòng tin vào cơ may Trời không phụ người tử tế, cho Thẻo bắt gặp được Tư, hay dì Sáu, hay chế Lềnh. Nhưng ông Trời phụ hay Thẻo không là người tử tế? Chỉ biết cuối cùng thì nhân viên công quyền phát hiện Thẻo là đối tượng đáng ngờ và yêu cầu Thẻo trở về sinh hoạt ở địa phương mình cư trú.
Đẩy cửa nhà, Thẻo ngờ ngợ có điều chi là lạ. Nhìn quanh, không có chi. Nhưng một thứ mùi ngai ngái thoáng qua, chập chờn gây gây phảng phất. Thôi đúng, mùi Tư, Thẻo mừng rỡ, bậm môi. Vào giường Tư nằm, Thẻo áp mũi xuống hít hà. Tư đâu? Cất tiếng gọi, Thẻo vùng dậy, chạy ra ngoài nhìn tứ bề. Thẻo lắng tai, mắt không thấy nhưng nếu Tư hò, chắc chắn nghe được thì nó gần đây thôi. Nhưng vẫn chỉ tiếng gió trong những vạt đước mút mắt. Xa xa, tiếng chó sủa. Thẻo cắm cúi đi lên chùa, biết đâu, biết đâu... Sư vẫn đó, và chẳng đợi Thẻo hỏi, Sư thuật chuyện Tư đào thoát khỏi cái dịch vụ “sáng coi chiều cưới”, trốn từ Cần Thơ về xóm Mũi, và chắc lẩn quẩn đợi Thẻo từ bữa qua. Thẻo trố mắt nhìn Sư, không tưởng tượng nổi và chẳng hiểu khi Sư dặn “... Hai đứa bay còn phải đối phó!” nghĩa là sao. Nó đơn giản cho rằng khi Tư đã về được xóm Mũi thì Tư sẽ an toàn, chẳng một ai bắt được Tư phải ra đi, và nếu Tư đồng lòng thì hai đứa xin Sư đứng ra se duyên, chắc bà con chòm xóm cũng sẽ vui vẻ vun vào, người xóm Mũi mình cứ khác họ là có thể lấy nhau đúng như lề lối ông bà dặn lại con cháu.
Chợt từ cuối đất vẳng lại:
Ầu ơ ớ ơ...
Sóng đưa, sóng đưa (mà) hoa súng trôi xuôi
Sóng đưa xa lắc... mặc tui giữa dòng...
Ầu ơ ớ ơ...
Ầu ơ, ví dầu...
31Dì Sáu không biết chống chế ra sao, giọng xẵng, bạnh miệng:
- Con dại, cái mang... Tui chịu chớ biết nói chi với chế bây giờ...
Quay mặt vô trong xe tránh gió thốc vào, chế Lềnh mím môi:
- Thiệt là tiếc... Ông Tseng muốn cưới con Tư là một trong hai chủ hãng chớ đâu chỉ làm công. Ổng giận lắm đó! Không thấy con Tư khi ký giấy đăng ký, ổng hăm đòi lại tiền đặt cọc nhà “lái”... Nói cho Sáu hay, ba đại gia đến coi mặt là ba người đàng hoàng, có tiền, nhà cửa, công việc đề huề. Trong số 18 đứa con gái thì con Tư được ông Tseng chọn, là phước cho nó! Nhà “lái” đề nghị với ổng chọn nhỏ khác, nhưng ổng hổng chịu, cứ đòi con Tư, dzậy là lại phước lần thứ hai cho nó... Làm chi thì làm, ông Tseng muốn giấy tờ gấp gáp để ổng cùng con Tư lên Sài Gòn làm giấy với Văn Phòng Đài Bắc xin nhập cảnh! Nhà “lái” kêu chưa bao giờ có người may mắn thuận lợi như con Tư mà bỏ đi, hổng ai biết đi đâu... Nói cho Sáu hay, đưa được Tư vô dịch vụ với “lái” này là chồng thêm trăm đô. Đợi khi làm mấy cái giấy đăng ký xong, đại gia Tseng sẽ đưa một ngàn đô, và khi có xuất cảnh, chồng tiếp một ngàn đô...
Vỗ nhè nhẹ vào tay chế Lềnh, dì Sáu hạ giọng, ngọt ngào:
- Em cũng biết dzậy... Cái việc thuận lợi là nhờ chế nhiều nhiều. Về xóm Mũi, em bắt con nhỏ đi lên Cần Thơ liền, chớ không thì mất chữ tín, heng chế! Người Tầu trọng chữ tín mà, em biết!
Chế Lềnh đăm chiêu:
- Tui đã nói với Sáu là coi chừng vụ thằng Thẻo. Lỡ mà con Tư thương nó, kẹt thì phải tính chi tiền cho thằng Thẻo bỏ con Tư đi. Cứ nói cho nó hai trăm đô, chắc là xong đó Sáu!
Kể cho chế nghe chuyện Thẻo xin cưới Tư, dì Sáu chép miệng, dì đã đặt điều để làm nản lòng Thẻo, nhìn mặt nó dài ra méo mó thảm thương mà không khỏi tội nghiệp. Chế Lềnh ngắt:
- Tội nghiệp chi mất công, tụi nó trẻ mau quên lắm. Hổng như thời tụi mình đâu!
Xuống bến xe chợ Năm Căn, hai người thuê xe lôi về xóm Mũi. Chuyện trò với ông lái xe, dì Sáu mới biết tôm bị vi-rút chết rầm rập khắp Đất Mũi. Cái viễn tượng Cà Mau trù phú với những vuông tôm dài dài ven nước lợ phải đợi vụ sau, với một đội ngũ chuyên viên hải sản vừa tuyên bố đã tìm được cách khắc phục bệnh bụng tôm nổi đốm trắng, lại gầy hy vọng. Và tin thị trường Nhật mở cửa cho tôm đông lạnh Việt Nam vì chất lượng, theo báo Nhân Dân, xếp hạng đầu trên thế giới, khiến nơi nào dọc theo mảnh đất cong hình chữ S cũng rộ lên phong trào nuôi tôm nước lợ.
Chế Lềnh và dì Sáu đi tới trụ sở Công an xã. Đã quen “làm việc” nhiều lần, chế chìa giấy đăng ký kết hôn nay có chữ ký của ông Tseng, đon đả:
- Nè, giấy tờ ký kết hai bên đàng hoàng. Nhỏ Tư bỏ đi là xé hợp đồng quốc tế. Nhưng Tư nó dại, mình người lớn phải giúp nó suy nghĩ đứng đắn, mong các đồng chí giúp giùm...
Nói đến đó, chế mủm mỉm cười, tay lót dưới giấy đăng ký một cái phong bì, hạ giọng thì thào. Chế Lềnh giải thích sự vụ và đặt yêu cầu mong nhân viên công quyền giúp đỡ. Ông Trưởng công an xã gật gật, liếc nhìn giấy, ngó nghiêng ngó ngửa rồi chộp cái phong bì như một nhà ảo thuật.
Về thẳng nhà, dì Sáu làm mặt nghiêm, hằm hằm ăn tươi nuốt sống. Bàn bạc phân công với chế Lềnh, dì phải dùng quyền uy sinh thành, để chế ngon ngọt giải thích cho Tư biết đường lợi hại. Vừa tới cửa, dì thét:
- Tư... Mày ở đâu? Đồ bất hiếu!
Vừa thấy Tư ló mặt, dì xông tới như tính đánh nhưng chế Lềnh làm bộ níu lại khuyên can. Thẻo ở sau nhà chạy lên. Tư nhìn mẹ. Bình tĩnh lạ thường, Tư chỉ thấy mình thản nhiên, lòng không hề vui, không hề giận.
- Tao là mẹ, lo cho mày kiếm được tấm chồng đàng hoàng, có cơ nghiệp, sống nếp sống văn minh, làm ăn thì công nghiệp hiện đại... Lo dzậy, tốn kém ngàn đô mà tới phút chót mày bỏ mày đi, bây giờ mắc nợ, ai trả tiền đây...
Quay sang chế Lềnh, dì Sáu tiếp:
- Con cái ngu như dzậy, tui ăn nói chi với chế cũng vô ích. Thế nợ, thôi thì chế lấy căn nhà này, với cái mảnh ruộng xã phân cho anh Sáu vì ảnh có công với Cách mạng. Dzậy là tay trắng, một thân một mình tui đi ăn xin ăn mày, cố sống ngày nào hay ngày nấy...
Nhìn Thẻo, dì quát:
-...Còn mày, Thẻo... Mày bước khỏi đây ngay! Nuôi ong tay áo, mày ở đây tao nuôi như con để rồi mày dụ dỗ con Tư theo mày cạp đất mà ăn à?
Dì chồm tới, tay đẩy Thẻo ra khỏi nhà. Lúc đó, Tư giằng tay dì, níu Thẻo. Nó lạnh lùng:
- Ảnh đi đâu, tui theo đó!
Nhìn vào mắt dì, Tư lôi từ túi áo bức thư con Thúy. Nó đọc, chậm rãi:
“... Nhưng Tư ơi, mày khó mà tưởng tượng ra đâu. Người đầu tiên hãm hiếp tao là bố chồng, năm nay chắc trên sáu mươi. Kẻ đồng lõa là thằng cháu, mới mười bảy. Nó xoạc cẳng tao ra, giữ chặt cho ông nó làm cái việc súc vật ấy. Tối về, thấy tao mặt mày thâm tím, hiểu liền. Chồng tao có lớn tiếng với bố, nhưng nghe ông ta sụt sịt khóc lóc, nó cũng thôi. Và từ đó, cả thằng cháu cũng được phép vào giường tao nằm, chống thì nó đánh... Thế là tao một lúc có ba thằng làm chồng, và nói thật, tao chỉ muốn chết... Sống thế này là sống nhục. Chịu sống nhục là sống tội lỗi...”
Gí bức thư vào mặt dì Sáu, Tư bất thình lình bật khóc, nghẹn ngào:
- Má bán tui như bán gà, bán vịt... Bộ má cũng muốn tui như con Thúy hả? Má bán, được nhiêu? Còn tui, sống chết ra sao, má thây kệ...
Khi đó chế Lềnh chụp bức thư, nheo mắt đọc. Chế ôm vai Tư, nhỏ nhẹ:
- Đài Loan khác Quảng Tây a... Ông Tseng là người đàng hoàng, Đài Loan có luật lệ văn minh chớ bên Trung Quốc thì chưa hiện đại nên mới có những chuyện kỳ cục như dzậy! Sẳm bảo đảm với nẩy mà!
Đẩy tay chế Lềnh ra, Tư nhăn mặt, giọng khinh bỉ:
- Đừng đụng tới tui!
Đúng khi đó, ông Trưởng công an xã cùng hai đồng nghiệp xuất hiện. Ông nhìn Thẻo, cứng cỏi:
- Anh không có hộ khẩu ở nhà này! - Tay chỉ dì Sáu, ông gằn - Chủ nhà mời anh ra... Anh phải ra!
Thẻo ngạc nhiên. Ông Trưởng công an xã xưa là du kích cùng đội với Tám Hớn cha nó, thường coi Thẻo như con cháu, nay thay đổi cách xưng hô, làm mặt lạnh. Thẻo ấp úng:
- Chú biết từ ngày cha cháu chết biển thì cháu ở đây mà!
- Ở bất hợp pháp, thêm một tội...
Tư xen ngang:
- Ờ, đi thì đi, anh Thẻo, hổng cần...
Kéo tay Thẻo, Tư tính ra đi nhưng hai công an đi cùng ông Trưởng công an xã dang tay ngăn. Ông ra oai, chìa một mảnh giấy lòe loẹt triện đỏ chót, quát:
- Không được đi! Có lệnh quản chế Nguyễn Thị Tư!
Thẻo nhảy xổ vào, miệng la:
- Quản chế? Lý do gì?
Ông Trưởng công an xã cười nhạt:
- Vì không tuân thủ thực thi hợp đồng là vi phạm pháp luật!
Vừa nói, ông vừa quơ quơ giấy đăng ký kết hôn của Tư và ông Tseng. Quay nhìn hai đồng nghiệp, ông lạnh lùng ra lệnh:
- Các đồng chí làm nhiệm vụ ngay, đứa nào chống thì bắt luôn! Nguyễn Thị Tư, đưa ngay Chứng minh nhân dân để Công an tạm giữ!
Gầm lên, Thẻo nắm tay xông vào nhưng Tư vội vàng ôm lại, giọng đầy nước mắt:
- Anh, đừng! Vô ích. Lên chùa báo thầy ngay!
32Sư đứng như trồng trước cửa trụ sở Công an. Mắt nhìn chòng chọc, Sư không phản ứng gì khi chú công an trực tuổi cỡ tuổi Thẻo ra đuổi. Dạo sau này, nhân viên công quyền thuộc hai dạng. Dạng đầu, là con cháu mấy quan chức địa phương. Dạng thứ hai là lớp được đào tạo trong Trường Công An thuộc tỉnh, nhưng muốn được tuyển chọn cho học thì không phải ai cũng có cơ hội. Đầu tiên, vẫn là tiền đâu, nhưng một vốn bốn lời, hạch toán kinh tế đầu vào đầu ra rõ ràng đâu đấy. Chú công an sừng sộ:
- Đ. M., đứng chi đứng hoài, tính “phản kháng” đây phải hông?
Sư vẫn im lặng. Ôi, cái thời Sư còn là Ba Tri, người trách nhiệm một điểm chốt trên con đường “Trường Sơn trên biển” vận chuyển khí giới cho hai vùng Cà Mau - Đồng Tháp, cái thời dân quân du kích coi việc bảo vệ quyền sống của nhân dân như sinh mạng mình đâu rồi? Ba Tri ơi, mi sống hay mi chết để thành ông Sư xóm Mũi biết tụng đúng bài kinh Thủy Sám tiễn những con người về nằm sâu ba thước đất với tổ tiên? Và ông Sư nay bị một chú công an chẳng biết Ba Tri là ai xua đuổi ngay trên mảnh đất hắn đã thí mạng bảo vệ dưới đạn bom Mỹ và những trận càn ruồng của bọn ngoại xâm! Nghiến răng, Sư tự nhủ, Sư cùng Ba Tri vẫn là một, và nói khác là mị, là huyễn. Cái chữ Không Sư tưởng mình ngộ ra chỉ là cách nói đầu hàng trước khổ đau. Khổ hơn cả, là mất nhân phẩm. Đau hơn cả, là phải quỵ gối lê lết bò trước mũi giày quyền lực. Trời ơi, cái quyền lực kia, Ba Tri hỡi Ba Tri, mi chính là một kẻ đã gây dựng lên nó, để rồi ngày nay, nó trơ tráo chà đạp lên những mảnh đời nghèo hèn yếu đuối nay bị bội phản không một chút xót thương!
Chú công an trờ tới, tay đẩy Sư, thét:
- Đi, đi ngay!
Sư gạt tay, bất chợt gầm lên như tìm lại sinh khí:
- Công an thì phải cần kiệm liêm chính, bảo vệ dân, thức cho dân ngủ, nghe chưa!
Chú công an ngạc nhiên, lùi một bước. Sư vẫn đứng, im lìm, mắt vẫn nhìn chòng chọc như muốn xuyên thủng không gian. Công an đi báo và cho tới khi mặt trời lên khỏi cánh rừng mắm xanh rì thì ông Trưởng công an xã phóng xe Honda tới. Dựng xe, thấy Sư, ổng khoác tay như xua chú công an trẻ, miệng reo:
- Trời, Thủ trưởng. Lâu mới gặp anh Ba!
Sư vẫn im lặng. Ông Trưởng công an xã bước tới, tay mời Sư vào cơ quan:
- Anh Ba tới thăm đàn em, anh dzô chơi chút. Uống miếng nước...
Ngắt ngang, Sư nghiêm giọng:
- Thằng Thẻo con Tám Hớn, xưa đồng sanh cộng tử với mày, phải không Bảy Tới?
- Dà...Với Sáu Nhêm, tụi em cùng tổ. Anh Ba nhớ trúng phóc!
- Dzậy cớ chi mày đuổi thằng Thẻo khỏi nhà Sáu Nhêm?
- Vợ Sáu Nhêm yêu cầu mà anh Ba...
- Năm sáu năm nay, thằng Thẻo sống nhà đó, mày biết rõ mà. Nó một tay giúp vợ thằng Sáu chuyện đồng ruộng, cả xóm này ai cũng hay. Dzậy mày có biết tại sao vợ thằng Sáu đuổi thằng Thẻo không?
- Dạ không! Em chỉ biết Thẻo vẫn giữ hộ khẩu ở nhà chòi của Tám Hớn, rồi cứ đúng luật em thi hành...
- Mày xạo! Mày biết chuyện nhỏ Tư lên Cần Thơ bị mấy đứa ba Tầu lừa lấy thằng Đài Loan chớ?
Ông Trưởng công an xã lí nhí:
- Dà không anh Ba!
- Thôi, chuyện thằng Thẻo để đó. Nhưng “quản chế” con Tư, mày có cái quyền đó không? Tao từng là Tỉnh Ủy viên, tao biết. Lệnh này phải từ An ninh cấp tỉnh xuống huyện, rồi huyện xuống xã, xã xuống công an ấp... Mày có công văn quản chế con Tư không?
-...
- Tụi môi giới nó đưa mày bao nhiêu tiền? - Sư quát.
-...
Lát sau, ông Trưởng công an xã xuống giọng:
- Anh Ba à, thời thế nay khác... Anh để đàn em sống với chớ! Đâu phải ai cũng vào chùa tu như anh đâu. Thôi, tu cho trót, anh Ba à...
- Không! Bay áp bức. Ở đâu có áp bức, ở đó nhân dân sẽ vùng lên. Ba Tri cởi áo thầy tu lên huyện khiếu nại, xem cái luật nước nay thể thống ra sao!
Cười nhạt, ông Trưởng công an xã đổi thái độ, giọng đóng băng:
- Được, chống nhân viên nhà nước thi hành công vụ phải không? Cứ đi khiếu nại đi cha. Cậy là công thần à? Cách mạng thành công mà không biết hưởng, bày đặt kiếm chuyện!
Vẫy tay gọi đồng nghiệp, ông ta quát lớn:
- Mấy chú ra đuổi giùm thằng cha khùng đội lốt nhà Sư này. Không đi, cứ việc bắt giam, nghe chưa!
33Quay mặt vào vách, Tư đưa tay lên bịt tai, mặc cho dì Sáu lải nhải. Dì kêu, nuôi con khôn lớn, ai cũng mong con mình có một đời sống khấm khá. Vụ nuôi tôm nước lợ năm nay coi là bỏ, và cái dự định sang cửa tiệm trên chợ Năm Căn chỉ có thể thành nếu đủ vốn. Vốn ấy, chính là thu hoạch từ cuộc gả bán Tư. Chế Lềnh ngồi cạnh, đưa đẩy:
- Sẳm thương Tư như con cháu, tìm chỗ đứng đắn chớ đâu như chuyện con Thúy bạn nẩy. Sẳm có hỏi trên Cần Thơ về gia cảnh ông Tseng. Ổng góa, có hai đứa con, và còn trẻ nên quyết sẽ có con với nẩy. Ổng nhắm xây dựng lâu dài chớ không phải chuyện qua đường qua chợ... Vả lại, sẽ cưới hỏi chính thức, giấy tờ đàng hoàng chớ đâu kiểu lấy chui rồi qua biên giới như ở miền Bắc! Nẩy ở Đài Loan sẽ có pháp luật bên ấy đảm bảo, không phải mắc mớ chi mà lo!
Dì Sáu khóc nho nhỏ, giọng ấm ức:
- Lo cho con lên Cà Mau đi học này nọ, rồi đóng đủ thứ phí để con có dịp lấy chồng ngoại, má đã chi ngàn đô, phải vay mượn chớ đâu ai có món tiền lớn dzậy. Nếu Tư không chịu lấy ông Tseng, làm sao trả nợ được! Còn như nếu lấy ổng, khi đi về nhà chồng ổng sẽ để lại thừa tiền trả nợ, thêm vào đó, dư ra vốn làm ăn. Tiền đó, má tính đưa cho thằng Thẻo hai trăm đô để nó sinh cơ lập nghiệp... Ổng còn hứa, tháng tháng Tư có thể gởi giúp gia đình một, hai trăm đô, dzậy má mới sống được chớ sau tuổi già rồi sẽ làm gì để ăn...
Khóc vùi, Tư gọi thầm Thẻo, van vái Trời Phật làm sao cho hai đứa qua được cơn hoạn nạn ập xuống đời như một cơn giông đánh thốc ra biển mọi hy vọng. Nó cắn răng, lòng chỉ một niềm oán hận, chẳng còn chút gắn bó nào vào cái cuộc sống oái oăm khốn nạn này. Ý tưởng chết cho xong bất chợt lóe sáng như vạch chớp xé toạc trời báo trước tiếng sét giáng xuống trần gian. Phải, sống là buộc mình vào tội lỗi thì sống làm chi. Tư thầm hỏi, “anh Thẻo ơi, nếu Tư chết, anh có cùng chết với Tư không?”
Chiều xuống. Trời chạng vạng, gió biển rít qua những rặng đước trong cánh rừng viền xóm Mũi. Bỗng có tiếng gọi “Tư ơi, Tư!”. Úi trời, tiếng ai như tiếng chị Hai. Nhổm dậy, Tư nhảy xuống đất tất tưởi chạy ra. Đúng rồi. Chị Hai tay ôm một cái bọc cuốn vải trắng đứng choán cửa. Tư reo:
- Chị Hai, Trời đất quỷ thần... Chị ơi, Tư nhớ chị muốn chết!
Xô lại, Tư nhìn bọc vải. Chị Hai vui vẻ nói:
- Cháu mày đó Tư. Mới đầy tháng, con trai, tên Dũng!
Tay lần mở, Tư nhìn. Thằng nhỏ tru lên oe oe. Chị Hai cười: “Chắc nó đói rồi! Nó đòi bú đó...”. Khi đó dì Sáu chạy ra, nắm áo Hai, miệng hỏi:
- Hai đó hả... Con ai dzậy kìa?
- Con tui với Bảy Hiền chớ còn con ai nữa! Ẵm về cho bà xem mặt cháu, coi nó có giống ông ngoại không?
Dì Sáu ôm bọc vải, nhìn, rồi òa khóc. Lý do, dì không nói. Ăn cả rổ cóc chua lè để tưởng mình mang bầu với Hai Sanh, dì đã khóc như vậy khi tới ngày dì lại ra máu tháng. Không sanh đẻ được, già dì sẽ sống với ai, câu hỏi làm dì khốn khổ vẳng lên nguyền rủa. Nhưng bây giờ, dì không sợ nữa. Nay có đứa cháu ngoại, lại là con trai, dì bật miệng: “Ông Trời dzậy mà có mắt!”, mắt nhìn chị Hai như vừa chịu một ơn huệ. Ngày chị Hai bỏ đi, dì hận đến độ không còn muốn nhận chị là con. Dì rủa cho chị chết cho rồi. Và có sống chỉ đi làm đĩ bán trôn nuôi miệng, chứ một con nhỏ chăn vịt, học hành không có, đâu còn cách khác. Không phải dì không biết mối gắn bó của chị Hai với Bảy Hiền. Và khi Hiền cũng bặt tăm, dì ngờ là rồi tụi nó cùng tính toán, nhưng dì chắc mẩm cũng chỉ năm bữa nửa tháng cái mối tình nông nổi đó sẽ rã ra như đám bèo hoang. Nhưng không. Đứa cháu ngoại trong tay dì là chứng cớ. Dì đổi giọng, ngọt ngào:
- Hai à, vô rửa mặt cho khỏe, rồi kể má nghe chuyện từ ngày con đi nghen con!
Chị Hai và Bảy Hiền đi tuốt vô Bình Dương. Hiền làm phu hồ trong công trình xây dựng một xí nghiệp Đại Hàn. Phần Hai, nó may mắn tìm được việc làm ô-sin trong một gia đình khá giả, sáng sáu giờ có mặt, cơm nước xong tám giờ tối thì về. Hai vợ chồng thuê một căn phòng, Hiền ăn cơm bụi, không rượu chè lang bang, có cơ hội làm thêm ca là làm. Khi Hai có bầu được ít lâu, nó xin nghỉ việc ô-sin, phụ bán cơm cho một hàng ăn gần nhà. Đẻ bé Dũng, Hai nghỉ ở nhà, và khi nghe đài truyền hình chiếu lại phỏng vấn mấy người đi nuôi tôm nước lợ ở Kiên Giang, Cà Mau... nó bảo Hiền, vậy thì nó về xóm Mũi trước xem sao, khá thì Hiền cũng sẽ hồi hương chớ sống trên thành phố quá cực. Dì Sáu thở dài, kể chuyện mấy chục vuông tôm ở xóm Mũi đây bị vi-rút, Thẻo phải bỏ ngang, công làm hơn sáu tháng là công cốc, cán bộ kỹ thuật thủy sản dặn đợi mùa sau khắc phục bệnh tật rồi mới canh tác được. Quay nhìn Tư mắt mọng, mặt cúi gằm, Hai hỏi:
- Nhưng thằng Thẻo đâu sao không thấy?
Khi đó, Tư ngửng lên, mếu máo rồi bật khóc, kêu:
- Chị Hai ơi...
34Trời chợt lặng gió. Mây mù từ phía biển bay lờ lờ. Mặt trăng nay thành một chòm sáng tối lơ lửng vẽ vào vòm trời những hình dạng dị kỳ. Thẻo vuốt nhẹ lưỡi dao bầu nay sắc lẻm, lạnh ngắt, màu xanh rờn rợn ánh lên đe dọa. Ngoài lời căn dặn sống “nhơn, trí, dũng” , con dao là kỷ vật độc nhất cha nó để lại. Mẩu thoại với Sư lại văng vẳng. Dũng ở Đất Mũi với Sư nay là từ bỏ hết để khỏi dây bụi trần! Nhưng đâu dễ thế, nhất là với Thẻo, mới tuổi hai mươi, làm sao sống ngoài cõi thế gian mà nó chưa từng biết này. Mồ côi, nó về nhà dì Sáu, coi dì như mẹ, mấy năm ròng mang sức trai ra cáng đáng những việc nặng nhọc, mà rồi dì xua đuổi nó không một chút nghĩa tình. Chỉ vì nó thương con Tư, con Tư thương nó. Chỉ vì hai đứa chỉ mong xây dựng đàng hoàng trước chòm xóm, sống chết có nhau, tai ương cơ cực cùng chia, và trời thương mà cho tốt lành ấm no thì cùng hưởng. Tủi phận, Thẻo ôm mặt, nước mắt lại ứa ra.
Bữa trước, kể chuyện “sáng coi chiều cưới” trên Cần Thơ xong, Tư buồn bã nhìn Thẻo. Chặp sau, nó nói:
- Tụi mình trốn, Thẻo à! Sắp tới, chắc má với sẳm Lềnh thế nào cũng về ép buộc em thôi! Em lên chùa kể cho thầy nghe, coi bộ thầy cũng chưa biết phải làm chi, nhất là cái chuyện trót ký mà không biết là giấy đăng ký kết hôn...
Ý tưởng đi trốn ám ảnh, nhưng không dự trù được mọi sự thể, Tư rủ Thẻo chạy lên chùa. Nhìn Sư, Tư hỏi:
- Bây giờ tụi con trốn, thầy thấy sao?
Im lặng một lát, Sư nhỏ nhẹ:
- Chạy trời không khỏi nắng! Trốn hoài được sao? Mà trốn đi đâu?
Thật khó ngờ dì Sáu và chế Lềnh mượn tay Bảy Tới khống chế Tư và Thẻo. Khi lên trụ sở Công an, Sư thiệt không dám hy vọng chi. Sư nay đâu phải Ba Tri ngày đánh Mỹ. Nhớ lại câu mình xưa hay nói để động viên du kích, “quyền lực ở đầu nòng súng”, Sư thấy sao mà xót xa. Ngày nay, cũng quyền lực, và ngoài nòng súng còn cả một màng nhện ngôn từ đầy những chính sách, chức năng, nghị quyết, khẩu hiệu... chỉ nhằm che đi cái động cơ chính là đồng tiền, là đất đai, là mua quan bán chức nháo nhào của những kẻ cơ hội không việc gì không dám làm!
Có thiệt là chạy trời không khỏi nắng? Thẻo có một thằng bạn tên Phước, hai năm nay cứ khi ở khi đi, nói với bà con trong xóm là đi buôn. Hỏi, nó nói nó qua Campuchia mua hàng lậu Trung Quốc về bán. Nó khoe có đợt nó sang tận bên Thái Lan, chẳng có giấy tờ đi lại gì cả. Một tia hy vọng lóe lên. Phải vậy thôi, Thẻo thầm nhủ. Cùng Tư, nó sẽ trốn. Sau, hai đứa móc nối với thằng Phước, vượt biên sang Miên, rồi Thái.
Thẻo ép lưỡi dao vào má. Dao đã sắc, và dù có thể chỉ là ảo tưởng, Thẻo an tâm hơn khi giắt con dao kẹp lưng quần. Theo lời Sư, lệnh quản chế Tư của công an không cơ sở. Thượng sách, là lẳng lặng đưa Tư đi, càng nhanh càng tốt. Nhìn ánh trăng lấp ló sau đám mây bạc, Thẻo dè chừng tính toán thời gian đưa Tư ra bãi, rồi chèo thuyền đến một cái cù lao vắng người qua lại, sau lần lần liên lạc với thằng Phước tính kế ra đi. Nó rời sân chùa, men đê về nhà, đi êm ru như một con mèo. Tay gỡ nhẹ cửa, Thẻo lách vào. Trườn người bò đến sát bộ ngựa Tư thường nằm, Thẻo chồm lên, tay nắm cườm tay Tư, lay lay, miệng thì thào:
- Dậy Tư, đi... Tụi mình đi!
- Ai dzậy cà? - tiếng thét khiến Thẻo giựt tay lại.
Rồi tiếng con nít oe oe chóe lên khóc. Thẻo hết hồn bò thối lui, đụng vào ai đó từ nhà sau lên, tay cầm đòn gánh giáng xuống, miệng la “Cướp... cướp”. Tiếng đầu đòn gánh đánh hụt chạm đất chát chúa. Thẻo vùng đứng lên, một tay kẹp chặt lấy cổ người đang la, tay kia rút con dao bầu ra. Miệng kêu ằng ặc, mái tóc xổ tung, người đó vùng vẫy khiến Thẻo hung lên, máu chảy rần rật. Khi đó, chế Lềnh bung cửa chạy ra con lộ, thét:
- Bà con ơi, cướp, cướp!
Người đàn bà nằm trên bộ ngựa ôm lấy đứa con nít vẫn khóc choe chóe lui vào góc. Tư châm đèn dưới bếp, ánh sáng hắt lên nhà trên khiến Thẻo nhìn, thì ra đó là chị Hai. Chị cũng nhận ra Thẻo, la:
- Thẻo, chị đây. Đừng làm ẩu...
Tư chạy lên, mặt nhợt nhạt, hai mắt mở lớn, kinh hoàng. Thẻo vẫn kẹp cổ dì Sáu, lưỡi dao bầu gí sát cần cổ, chuyện đưa Tư đi trốn vậy là bất thành khiến Thẻo chỉ muốn thọc lưỡi dao lia ngang, rồi tới đâu thì tới. Ào vào ôm tay Thẻo, Tư khóc, miệng kêu:
- Anh ơi, đừng! Chết hết à, anh Thẻo!
Khi đó chị Hai ôm con tiến đến. Chị dịu giọng:
- Thẻo à! Coi cháu nè, con chị đó...
Thằng nhỏ giãy lên, tiếp tục khóc. Thẻo nhìn thằng nhỏ, cái nụ sống vừa thành hình không lẽ lại phải đối mặt làm chứng cho sự chết. Thẻo nhìn Tư. Nước mắt chan hòa, nó thấy mình trống rỗng, mất hết sinh lực. Khi đó, tiếng chân rầm rập vọng từ con lộ quanh xóm mỗi lúc một gần. Thẻo nới tay, để dì Sáu vuột ra. Dì lấy hết sức vùng, lui xuống cửa dẫn ra vườn, miệng tru tréo:
- Mày tính giết tao hả Thẻo! Bớ bà con, thằng Thẻo giết người!
- Thẻo, chạy ngay đi! Đừng để bị công an bắt... - chị Hai la lên.
Tư đẩy Thẻo, nghẹn ngào, nhưng cương quyết:
- Thương em, chạy đi Thẻo. Rồi tính sau!