← Quay lại trang sách

HỒI THỨ HAI Quan lại Hán cùng nhau tranh bá;-Quân tướng Ngô nối gót sang Nam

HỒI THỨ HAI

quan lại hán cùng nhau tranh bá;
quân tướng ngô nối gót sang nam

uyệt giả 24 xem hết hồi thứ nhất, chắc phải chú ý đến người con gái. Mà muốn biết ngay người ấy là ai?... Phải, chú ý đến là rất phải. Vì người ấy, đối với trên lịch sử là một người rất vẻ vang, tiếng thơm lưu truyền mãi mãi, sẽ cùng với trời đất bất tiêu, bất diệt; đối với quốc dân là một người rất có công đức, ân huệ, với giang san, nòi giống: chẳng những một đời chúng ta, mà đến trăm nghìn vạn ức đời về sau, nòi giống ta một ngày nào còn có ở trên mặt đất hình chữ S này, là còn phải nhớ đến công đức và ân huệ người ấy.

Người ấy tức là bà Triệu Thị Trinh, sử cũ chép là “Triệu Ẩu, người huyện Nông Cống 25, tỉnh Thanh Hóa bây giờ”…

Muốn biết lịch sử của bà, trước phải biết cái địa vị và thời thế nước ta bấy giờ thế nào?...

Xin nhắc lại, nước ta bị mất quyền tự trị từ năm Canh Ngọ, trước kỉ nguyên 111 năm, tức là cái thời kì vua Vũ Đế nhà Hán diệt được họ Triệu ở nước ta và lấy hẳn đất nước ta đem chia ra làm quận huyện đó.

Sau khi bờ cõi, nhân dân nước ta đã chịu chui vào trong vòng thống trị của nhà Hán, trải một thời kì 149 năm, đến năm Canh Tý - sau kỉ nguyên 40 năm – Vua Trưng dấy nghiệp tự trị được ba năm 26. Sang đến năm Quý Mão, thời nước ta lại bị mất về nhà Hán lần nữa. Lần này trải một thời kỳ tới 148 năm. Bấy giờ thời cục bên Tàu đã biến ra đời Tam Quốc. Mà ở nước ta cũng riêng lọt vào quyền thống trị trong một tay họ Sĩ. Họ Sĩ, tức sử cũ tôn gọi là “Sĩ Vương”, chính tên ông ta là Sĩ Nhiếp, tự là Ngạn Uy; tiên nguyên là người nước Lỗ (thuộc tỉnh Sơn Đông bên Tàu)27, đến lúc Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, mới tránh loạn sang Giao Chỉ, ở huyện Quảng Tín, quận Thương Ngô28.

Từ đời ông tổ sang quận Giao Chỉ đến đời Sĩ Vương là sáu đời. Thân phụ Sĩ Vương tên là Tứ, làm quan Thái thú quận Nhật Nam. Sĩ Vương lúc còn nhỏ, vào du học ở kinh đô nhà Hán, theo Lưu Tử Kỳ ở Đĩnh Xuyên học sách Tả thị Xuân Thu, đỗ Hiếu liêm, được bổ chức Thượng thư lang. Sau vì việc quan, bị cách chức; được ít lâu, lại phải về chịu tang cha. Khi mãn tang, Vương lại sang Hán thi, đỗ khoa Mậu Tài, được bổ làm quan Lệnh Vu Xương29, rồi thiên sang Thái thú quận Giao Chỉ.

Trước thời Sĩ Vương làm Thái thú, thời có quan Thứ sử là Chu Phù, vì sự tham tàn quá, nên dân ta đồng thời khởi lên giết đi. Tuy đã giết được viên tham quan ấy rồi, nhưng vì công cuộc khởi nghĩa của ta không có trật tự thống nhất, thành ra loạn lạc rối beng cả lên. Gặp lúc đó, Sĩ Vương vừa được bổ sang làm Thái thú. Sĩ Vương trông thấy cái tình hình nhiễu nhương như vậy, tự lượng sức một mình không thể đánh dẹp cho yên, muốn gây thêm vây cánh, nhưng lại sợ nếu dùng người ngoài, chưa chắc họ đã cùng lòng hiệp ý với mình, chẳng kẻo lại làm thêm khó khăn cho mình cũng nên. Vì nghĩ thế nên Sĩ Vương không còn ngại gì hiềm nghi, dâng biểu về triều đình, xin cho ba em:

Em thứ hai là Sĩ Nhất, lĩnh chức Thái thú quận Hợp Phố.

Em thứ ba là Sĩ Vĩ, lĩnh chức Thái thú ở Cửu chân.

Em thứ tư là Sĩ Vũ, lĩnh chức Thái thú ở Nam Hải.

Vua Hán tiếp được biểu, liền chuẩn tấu y cho. Thế là cả bốn anh em Sĩ Nhiếp đều làm quan Thái thú ở bốn quận.

Bốn anh em Sĩ Vương tuy đã đều làm Thái thú, nhưng trên các quan Thái thú còn có quan Thứ sử. Quan Thứ sử bấy giờ tên là Trương Tân, người nối chân Chu Phù. Trương Tân là một người mê tín về quỷ thần, thường cứ trùm khăn đỏ lên đầu, gảy đàn đọc đạo thư, không đoái hoài gì đến công việc chánh trị. Tân có viên Tùy tướng là Khu Cảnh, rất kiệt hiệt30, lại hay hiếu sắc, thường vẫn khinh Tân nhu nhược không biết làm quan. Nhân một hôm nhà Tân có tư yến; Cảnh được dự, thấy Tân có bảy, tám con thị tì trông rất yêu kiều mỹ lệ. Cảnh thèm quá, thèm đến nỗi mê người đi, hai mắt cứ nhìn chòng chọc vào bọn thị tì, đến nỗi rượu đã để lên đến môi rồi lại quên không uống, có lúc Tân hỏi chuyện cũng không đáp… Sau có người bạn thích vào cánh tay khẽ bảo, Cảnh mới sực tỉnh ngộ.

Tuy tỉnh thời tỉnh mà cái ma lực của tình dục nó làm cho hắn đến nỗi đâm liều. Đang giữa tiệc, hắn đứng phắt dậy, ra quỳ trước mặt Trương Tân lè nhè nói:

- Bẩm Minh công, tiểu tướng mạo muội muốn kính bẩm một lời, nếu Minh công có tha lỗi, tiểu tướng mới dám nói?

Trương Tân thấy cái cử chỉ của Khu Cảnh như vậy, thời ngạc nhiên, vội cất tiếng lên nói:

- Nhà ngươi có ý kiến gì thời cứ nói?

Khu Cảnh ấp úng nói:

- Bẩm Minh công, tôi năm nay đã ngoài 30 tuổi đầu, đem thân đi đất khách quê người, nhỏ cũng làm nên được một chức tì tướng. Thế mà phòng không chiếc bóng, rất nỗi cô đơn…

Trương Tân vừa nghe đến đấy thời mỉm cười nói:

- Nhà ngươi bấy lâu nói năng rất là khảng khái anh hùng, sao nay đổi giọng buồn rầu thế?

- Bẩm… bẩm, người ta ai lại chẳng có tình… Xin Minh công lượng xét chỗ đó cho.

Trương Tân nói:

- Nhà ngươi nói ý thế nào ta không hiểu. Hay là nhà ngươi muốn nói với ta để đón vợ con sang bên này chăng? Nếu vậy thì hay lắm, ta sẽ giúp tiền cho về quê mà đón gia quyến…

Khu Cảnh nghe đến đấy, đỏ bừng mặt lên mà rằng:

- Bẩm… bẩm Minh công quá lòng thương. Nhưng tiểu tướng thực chưa có gia quyến…

- À, thế ra nhà ngươi chưa có gia quyến đấy? Vậy có lẽ nhà ngươi muốn nhờ ta chủ trương việc ấy chăng? Được lắm! Nhưng nhà ngươi định lấy con cái nhà ai? Đã dạm hỏi chưa?

- Bẩm… thực chưa định hỏi con cái nhà ai.

Trương Tân ngạc nhiên nói:

- Ô hay! Thế nhà ngươi định nói với ta gì?...

- Bẩm… bẩm tiểu tướng chỉ muốn…

- Muốn gì thời cứ nói, sao phải ấp úng?

- Bẩm… bẩm… muốn… muốn…

- Thì nhà ngươi cứ nói ngay đi…

- Bẩm, xin Minh công một cô thị tì…

Trương Tân nghe dứt nhời, bất giác phì cười mà rằng:

- Ồ! Tưởng việc gì, có thế thôi mà cứ phải ấp úng mãi. Được rồi, nhà ngươi hãy cứ ngồi lên uống rượu, rồi ta sẽ liệu cho.

Được nhời như cởi tấc lòng. Khu Cảnh lạy tạ luôn ba, bốn lạy, rồi ngồi lên uống rượu. Trong thân thể Khu Cảnh bấy giờ thấy nó thư khoái lạ thường, chẳng khác một người bị bẩn lâu ngày mà được tắm; một người đang bị gánh nặng trên vai mà có người đỡ đi hộ…

Đến khi tan tiệc, Khu Cảnh về nhà, để vậy cả áo lăn vào giường nằm, cứ chợp mắt đi là thấy mấy con thị tì của Trương Tân hiển hiện ra trước mắt. Dằn dọc31 mãi một hồi lâu, bỗng nghe có tiếng kẹt cửa, một tên tiểu tốt đi vào vái chào một cái cất tiếng lên nói:

- Quan Thứ sử có lệnh mời tướng quân vào ngay…

Cảnh vội vàng xốc áo đứng dậy ra đến cửa có ngựa buộc sẵn, nhảy phắt lên ngựa, giật cương cho đi thẳng về phía dinh quan Thứ sử. Ngựa chạy, gió thổi vù vù, trông cây cối hai bên đường đều lướt chạy giật lùi trở lại. Một lát đã tới cổng dinh, thấy ngoài cổng cắm cờ, kết hoa, quang cảnh như sắp đón một vị quan nào lớn… Cảnh nghĩ bụng:

- Có lẽ hôm nay lại có sứ mệnh sang hẳn? Nếu vậy ta sẽ được dịp hỏi thăm công việc bên nhà…

Vừa nghĩ vừa xuống ngựa toan buộc cương vào một gốc cây liễu bên cạnh cổng. Một tên lính canh cổng chạy lại nói:

- Xin tướng quân cứ đi vào, để ngựa đấy tôi buộc.

Cảnh đưa dây cương cho tên lính ấy, thấy năm, sáu tên khác đứng gần đấy, cứ trông vào mình mà chỉ trỏ cười nói… Cảnh không hiểu ra thế nào, cứ điềm nhiên đi vào. Vừa đi gần tới cái bình phong trước chính đường, thấy tên nội thị chạy ra nói:

- Xin tướng quân sang ngay bên Đãi Nguyệt lâu, quan Thứ sử ngài chờ ở đấy đã lâu…

Khu Cảnh vội đi rẽ vào hoa viên, gần tới Đãi Nguyệt lâu đã nghe có tiếng đàn sáo vang lừng. Cảnh cắm đầu đi thẳng vào, vừa tới hè, đã thấy Trương Tân mình vận hồng bào, đầu đội ngân quan, tay trái vuốt râu, miệng sẽ mỉm cười, cất tiếng lên gọi:

- Gia nhân đâu! Đưa Khu tướng quân vào trắc thất32 thay quần áo mau!

Dứt tiếng, có hai tên quản gia chạy ra, dắt tay Khu Cảnh đưa vào một cái phòng con gần đấy, thấy có sẵn bộ quần áo mới ở đấy. Cảnh chả hiểu ra thế nào, thấy họ bảo thay thì mình cũng thay. Thay xong, hai tên quản gia đưa ra ngoài, thấy trong lầu trang hoàng một cách rất rực rỡ. Trên ban thờ sáp33 thắp sáng choang, hương bay nghi ngút; dưới đất rải chiếc đệm nhung đỏ, hai bên có bọn nhạc công đứng sắp hàng, cùng nhau cử nhạc34.

Cảnh trong bụng phân vân hồ nghi, ghé vào tai môt tên quản gia, hỏi thầm:

- Trong nhà quan Thứ sử hôm nay có việc gì mà náo nhiệt thế?

Tên quản gia bịt miệng lại cười, ngước mắt trông vào Cảnh, tỏ ra ý giễu cợt, rồi sẽ nói:

- Việc vui mừng của mình mà không biết. Rõ anh thật là người trong mộng!...

Cảnh nghe vậy thời bủn rủn cả người, cử chỉ đều thấy cứ run lẩy bẩy như người mắc bệnh thần kinh. Trong bụng nghĩ thầm: - Quan Thứ sử đối với ta như thế này, thật là ân đức hơn cha mẹ! Ừ, cha mẹ chỉ biết sinh ra ta, nuôi cho ta ăn và nhớn35, chứ có bao giờ làm cho ta được sung sướng đến thế này? Từ nay trở đi, ta phải coi quan Thứ sử thân thiết hơn cha mẹ ta mới được!

Đang nghĩ vậy, bỗng lại nảy ra một mối nghi ngờ: - Nhưng sao ngài có lòng thương ta, chuẩn lời yêu cầu của ta, lại không cho ta biết trước một mảy may gì. Để đến lúc việc đã đến nơi rồi, mà vẫn chưa thấy ngài nói sao cả. Thế mới biết cái độ lượng của bực đại nhân, thật không biết thế nào mà lường được.

Vừa nghĩ đến đấy, bỗng nghe có người nói xôn xao, tiếng cười khúc khích từ phía trong đi ra. Thoạt tiên thấy Trương Tân ra đứng trước nhà, cất tiếng lên nói:

- Quản gia, dẫn hai vị tân nhân ra lễ thiên địa, rồi dẫn vào động phòng làm lễ giao bái và hợp cẩn36 nghe!

Dứt nhời, bọn quản gia dạ ran cả lên. Tức thời bên thời quản gia, bên thời thị nữ dẫn hai vị tân nhân vào giữa đệm nhung cùng lễ. Khu Cảnh liếc mắt trông người tân hôn, thấy toàn mặc đồ đỏ, đầu cũng trùm khăn đỏ, không biết mặt mũi đẹp hay xấu thế nào... Chỉ thấy mùi thơm ngào ngạt, phảng phất quanh mình, khiến cho tâm hồn như dại, như ngây, như say, như tỉnh… Chẳng còn biết cử chỉ nói năng ra thế nào, cứ để mặc bọn quản gia dẫn đi đâu thì đi, bảo nói sao thì nói. Một lát sau, vào tới động phòng, do bọn quản gia chỉ dẫn cho làm lễ giao bái, rồi làm lễ hợp cẩn. Bấy giờ tiếng nhạc ở bên ngoài vẫn réo rắt vang lừng, dù có pháo nổ, người reo ở xung quanh cũng không thể biết. Lễ hợp cẩn xong, một mụ quản gia lại mở khăn trùm của vị tân hôn ra. Đầu mày, cuối mắt, muôn vẻ xinh tươi. Thật chẳng khác một đóa mẫu đơn mới nở ở dưới bóng trăng trong sáng! Khu Cảnh bấy giờ sung sướng một cách lạ lùng, mà cũng bối rối một cách lạ lùng, muốn tìm lấy một câu nói để gợi chuyện với người tân nhân yêu quý của mình mà không thể tìm sao được. Tiếng đàn sáo ở ngoài vẫn vang lừng.

Khu Cảnh cứ ngồi đần người ra để nhìn tân nhân. Mà mãi sau mới nói lên được một câu:

- Đôi ta mà được cùng nhau kết duyên như thế này, tuy là lòng trời run rủi, song thực nhờ ở cái đức độ cao dày của quan Thứ sử…

Người nữ lang sẽ mỉm cười mà rằng:

- Tướng quân đã biết là nhờ ơn đức của quan Thứ sử, chắc tướng quân cũng phải nhớ ơn.

Khu Cảnh gợi được vợ mới nói lên như vậy, thời sướng quá, vội cất tiếng trả nhời:

- Phải! Nhớ lắm chứ! Dù cho thịt nát xương tan, ơn đức ấy tôi cũng không khi nào dám quên…

Nữ lang nói:

- Thật đấy chứ! Tôi thường thấy ở đời có lắm người, cứ nói một đằng, lại làm một nẻo. Coi nhời thề như mực của loài Ô Tặc, viết trước phai sau37, nghĩ thật đáng lấy làm phàn nàn, chán ngán…

Khu Cảnh nói:

- Nhời ái khanh nói thật là động đạt38 thế tình. Nhưng ở đời, bao giờ cũng có kẻ dở người hay, chưa nên chấp nhất. Ngẫm như tôi, chỉ là một kẻ vũ phu, công cán gì chưa có, tài đức gì cũng không, mà bỗng nghe được quan Thứ sử ngài ban cho cái kỳ ân đặc ân như thế này, thời dù đến sắt đá cũng phải cảm động, nữa chi là người. Tôi tính từ mai trở đi, tôi sẽ lập một cái “Trường sinh lộc vị bài” để cứ mỗi ngày tôi với ái khanh thắp hương khấn nguyện trời đất cho ngài được hưởng thọ và chức vị cao thăng…

Nữ lang nghe Khu Cảnh nói đến đấy thời sẽ mỉm cười, cất lên tiếng ngâm:

Ngã tâm phi tịch, bất khả quyển dã.

Ngã tâm phi thạch, bất khả chuyển dã.39

Ngâm xong lại se sẽ mỉm cười, lấy tay vỗ vào vai Khu Cảnh mà rằng:

- Người anh hùng nói một câu như chặt sắt, chém đanh40. Tôi mong tướng quân sẽ không phụ lời nói ấy.

Câu chuyện vừa xong, giọt rồng41 hầu cạn, tiếng nhạc ở bên ngoài cũng nghỉ, chỉ những tiếng vang thừa hình như vẫn còn phảng phất ở bên tai… Hai vị tân nhân ấy liền cùng dắt nhau vào trướng uyên ương, cùng vui giấc mộng Vu Sơn42 êm ái. Sáng hôm sau, Khu Cảnh dậy trước, toan ngảnh lại43 phía trong để đánh thức vợ cùng dậy, bỗng thoảng có mùi tanh tanh từ trong trướng đưa ra. Cảnh mở màn ra xem, bỗng một hiện tượng bày ra trước mắt: một bộ xương người trắng hếu, nằm trườn trườn ở trên chiếc đệm đỏ… Bên cạnh bộ xương ấy vẫn còn thấy để đầy những đồ trang sức của người nữ lang đeo đúng tối hôm qua!

Khu Cảnh thấy vậy, không còn hồn vía nào nữa, kêu rú lên một tiếng, bừng mắt tỉnh dậy, té ra là một giấc chiêm bao!

Cảnh ngồi nhổm dậy, trông ngắm xung quanh mình, không thấy có một mảy gì khác, mà mồ hôi thời đã toát ra ướt cả hai lần áo… Cứ ngồi ngẩn ra ở trên giường, ngẫm nghĩ cái giấc mộng ban đêm, vẫn còn nhớ rõ rệt từng li từng tí… Lại như cách cử chỉ, giọng nói cười của người nữ lang, vẫn còn thấy hoạt hiện ra ở trước mắt… Liền lẩm bẩm nói một mình rằng: - Quái! Không biết vì sao mà bỗng lại sinh ra một cái ảo mộng như vậy? Ừ, nếu nói mộng do tưởng mà sinh ra, thời đối với việc hôn nhân kia ta có tưởng đến thật. Nhưng sao đang là mỹ nhân mà bỗng lại biến ra một bộ xương là thế nào? Có lẽ thần minh báo cho ta biết trước: bao những hạng mỹ nhân ở trên đời, bây giờ tuy trông bóng bảy lả lơi, nghiêng thành, nghiêng nước mà rút cục44 về sau cũng biến thành bộ xương trắng như thế cả. Bộ xương trắng ấy, ta có thể ham mê say đắm được, ta sẽ nên ham mê say đắm mỹ nhân. Quả vậy thời ở trong sách vở không còn nên để lại một chữ “sắc” nữa, vì chữ “sắc” ấy đối với ta không còn hứng thú gì kia mà!

Nói đến đấy, ngồi lẳng lặng lại một lát, bỗng lại lắc đầu nói:

- Không phải! Không phải! Đến bực thánh nhân như ông Văn vương45 ngày xưa cũng còn “hiếu sắc” nữa chi là mình? Nếu quả có vị thần minh nào đem cái hiện tượng ấy để báo cáo cho ta biết cái lý nghĩa thế, thời vị thần minh ấy cũng là một bậc đồ gàn, ta không thể theo được. Không thể theo được!

Nói rồi đứng dậy, gọi người nhà lấy nước rửa mặt, bước chân ra hè ngắm nghía mấy chậu hoa, bỗng sực nhớ đến cái thái độ của mình tối hôm qua, bất giác vẻ hổ thẹn hiện ra đầy trên mặt. Tự nghĩ: - Mình bấy lâu vẫn tự phụ là một bực ngang tàng trượng phu, tuy chức còn nhỏ, còn phải ở dưới quyền quan Thứ sử; nhưng mình đối với quan Thứ sử vẫn giữ được cái địa vị bất khuất, quan Thứ sử vì vậy mà vẫn có ý kiêng nể mình… Sao hôm qua, mình lại bỗng đốn đời làm ra cái cách “vẫy đuôi chực miếng” như vậy?... Chà! Chà! Đó thật là do con ma tửu sắc nó giết mình rồi. Bây giờ mình làm cách nào để rửa được cái vết nhơ nhuốc ấy? Bọn quân sĩ của mình nó phải cười cho đến mục xương! Ừ, thảo nào, thảo nào, lúc ta mơ ngủ, khi vào đến cổng dinh thấy chúng nó chỉ trỏ ta mà cười thầm. Chết thật, có đời nào, một vị tướng đường đường nam tử như ta mà lại vì một đứa thị tì, đến nỗi làm mất cả khí tiết như thế bao giờ!...

Khu Cảnh nghĩ đến đấy thời mặt bỗng nóng bừng lên ngây ngứt46 như người say nắng, cứ đứng đờ người ra ở trước mấy chậu hoa. Con chim anh võ� treo trên lồng thấy tình hình chủ nó như vậy, hình như cũng biết là chủ đang buồn, cất tiếng lên nói:

- Chủ đã dậy! Chủ đã dậy!... Chủ đừng buồn! Chủ đừng buồn!...

Tiếng nó nói bập bẹ như đứa trẻ lên ba, tuy không rõ ràng nhưng có vẻ ngây thơ, ngộ nghĩnh.

Khu Cảnh nghe tiếng chim nói, hình như thức tỉnh người lại, thời rút cục cái lòng hiếu sắc vẫn chiến thắng được cái chí anh hùng, liền chép miệng mà rằng:

- Ừ, thôi ta trót thì chét, ở đời giữ sao cho được hoàn toàn. Bây giờ ta hãy cứ biết sẽ được một người như hoa tựa ngọc, để nâng khăn sửa túi cho ta, yên ủi47 ta những nỗi quê người đất khách, thế là đủ rồi. Còn ai cười hay không, ta cũng coi như gió thoảng ngoài, tai bất tất chấp, trách làm chi cho nhọc bụng.

Vì có mấy nhời nói quả quyết ấy, nên từ hôm ấy trở đi, Khu Cảnh lúc nào cũng mong quan Thứ sử sẽ thực hành lời nói của ngài cho mình.

Ngờ đâu, một ngày, hai ngày đến nửa tháng, một tháng, càng lâu càng mong, mong đến nỗi có lúc như người phát điên phát dại, mà vẫn không thấy quan Thứ sử trả lời ra sao cả. Khu Cảnh sốt ruột quá, sau hỏi dò mấy tên quản gia, họ nói:

- Quan Thứ sử sau khi hứa tặng tướng quân tên thị tì, đến sáng ngày ngài tỉnh dậy, nói chuyện với phu nhân: ngài rất lấy làm hối nhời nói ấy. Ngài rất khinh ghét tướng quân là một người hiếu sắc, yêu cầu những điều vô lý, làm mất hết phẩm cách con người. Ngài định chờ dịp đổi tướng quân đi nơi khác, hoặc cách chức không cho ở đây nữa.

Khu Cảnh nghe thấy nhời nói ấy thời máu nóng sôi lên sùng sục. Lập chí định giết bỏ Trương Tân đi mới lấy làm cam tâm.

Hôm đó, nhân có tin loạn ở vùng Hợp Phố, Trương Tân họp văn võ liêu thuộc48 lại để bàn việc phái quân đi chinh tiễu. Bấy giờ cả Khu Cảnh cũng có dự ở đấy. Đang lúc bàn tán, có tên tiểu tốt vào trình rằng: có con chim phượng hoàng đất49 đậu ở trên cây đa, ngoài gần bình phong… Trương Tân cùng bọn liêu thuộc đều đứng dậy ra xem.

Quả nhiên, một con chim phượng hoàng đất to bằng hai con sếu, lông đen và lốm đốm xanh, đuôi dài, mỏ đỏ, to bằng quả chuối hột, dài đến hơn gang tay. Nó đậu ngay ở lưng chừng cây, thấy người ra xem đông, nó chỉ trông xuống mà không hề động đậy. Chính đang lúc ai nấy đều chú ý vào một con chim to lớn; thì thào nói chuyện: người cho là điềm lành, người cho là điềm dữ, tiếng ồn ào như là vỡ chợ. Trương Tân đang giơ tay chỉ trỏ định gọi quân cung thủ đem cung ra bắn. Bỗng vụt một người chạy đến sau lưng Trương Tân, đâm một nhát suốt sau lưng ra trước ngực. Trương Tân kêu rú lên một tiếng, ngã phục ngay xuống, máu chảy ra như tháo cống, chết ngay lập tức.

Người giết Trương Tân là Khu Cảnh.

Sau khi Khu Cảnh đã giết được Trương Tân, tay trái móc vào bọc, lấy ra một tờ giấy, giơ cao lên, trông vào bọn liêu thuộc mà nói:

- Có mật chỉ: Trương Tân mê đạo, bỏ việc, tội thực đáng giết ngay. Văn võ ai không theo, tức khắc khép vào tội bội phản!

Ngay sau lúc Khu Cảnh giết Trương Tân, có nhiều viên võ tướng và bọn thân binh, toan xông lên giết Khu Cảnh. Sau khi thấy Khu Cảnh nói là có mật chỉ, thời ai nấy đều trông nhau không dám nhúc nhích. Thừa lúc đó, Khu Cảnh chạy tuột vào chính đường, giữ lấy hòm ấn Thứ sử, đòi hết thảy các liêu thuộc vào ngay nghe lệnh.

Bọn liêu thuộc bình nhật vốn chẳng ưa gì Trương Tân, lại thấy cái cách cử động của Khu Cảnh rất là tinh nhanh, hung ngược nên ai nấy đều lấy bảo toàn tính mệnh làm mục đích, Cảnh muốn vật sao thì vật, diệt sao thì diệt, đều không dám ho he!

Thế là Khu Cảnh, một viên tiểu tướng, đã nghiễm nhiên làm chức Thứ sử cõi Giao Châu.

Sau khi Khu Cảnh đã chiếm được chính quyền, cái việc nên phải thi hành trước nhất là bắt bọn thị tì để vui đường nhục dục.

Trương Tân có tất cả mười thị tì, tên nào cũng xinh đẹp, giòn giã. Tựu trung có tên Lăng Hoa là xuất sắc hơn hết.

Lăng Hoa mới độ 17 tuổi, chẳng những có cái tư sắc nhạn sa cá lặn, lại có đôi chút học thức, có tính nết kiên trinh. Bình nhật Trương Tân vẫn có ý thanh nhãn50 hơn các thị tì khác, vẫn định chờ dịp nói với phu nhân cho tôn làm thiếp. Lăng Hoa cũng tự biết cái phẩm giá của mình nên cách ngôn ngữ cử chỉ cũng khác hẳn với chín cô thị tì kia.

Cũng chung một số phận, Lăng Hoa cũng bị lọt vào tay Khu Cảnh.

Cũng lại riêng một số phận. Tuy vừa mới giao tiếp một lần với Lăng Hoa, Khu Cảnh cũng thanh nhãn hơn. Lăng Hoa đã có cái số phận riêng ấy, Lăng Hoa lại thêm có một cái tâm tư khác hẳn với đồng bạn.

Số là sau khi Lăng Hoa bị bắt, Lăng Hoa đã toan tự liều để cùng theo tiên Thứ sử xuống suối vàng. Lăng Hoa lại tự nghĩ: - Thứ sử hiện giờ con cái chưa có, anh em thân thích đều ở cả bên Trung Quốc, phu nhân thời già yếu chẳng làm nên trò trống gì. Nếu còn mình, mình cũng lại chết nốt, thời lấy ai là người báo thù cho Thứ sử? Âu là ta hãy liều nhẫn nhục ít lâu, chờ khi trả được thù rồi, bấy giờ ta sẽ tự liều cũng chưa muộn…

Bởi Lăng Hoa nghĩ vậy nên chi đối với Khu Cảnh, Lăng Hoa dùng hết cách để làm cho Khu Cảnh phải mê mệt. Nói cho đúng, có lẽ Khu Cảnh từ khi mới mang tiếng khóc mà ra đời, bao cái việc, khoái khoắc ở trên cõi đời từng trải cũng không ít; đến cả việc đâm người, chém người, xông pha ở dưới mũi tên lưỡi kiếm, Khu Cảnh cũng đã từng trải. Duy có lưới tình, Khu Cảnh mới vướng vào là một; bể tình, Khu Cảnh bây giờ mới bơi ra là một; đường tình, Khu Cảnh bây giờ mới đi lên là một. Vì sự mới mẻ lạ lùng ấy, nên chi Khu Cảnh mới vướng vào đã mắc, mới bơi ra đã đắm; mới đi qua đã vấp. Mà mắc, đắm, vấp một cách không thể nào vãn hồi được. Thương thay!

Hôm ấy, Khu Cảnh, quan Thứ sử mới, ngài bày dạ yến, thiết đãi các liêu thuộc. Mãi hết canh một mới tan tiệc. Rồi quan vào phòng nghỉ. Chỉ có một mình, Lăng Hoa được vào thị tẩm51.

Thật là hạnh phúc của Lăng Hoa!

Sáng hôm sau, mãi tới mặt trời cao bằng ngọn tre, vẫn chưa thấy quan dậy. Người nhà sinh nghi, đẩy cửa vào, một hiện tượng ghê gớm bày ra trước mặt.

Khu Cảnh nằm chết sóng sượt ở trên giường, giữa ngực còn cắm một con dao nhọn, máu chảy lênh láng đầy giường. Đầu giường, Lăng Hoa treo cổ lủng lẳng; hai chân buông thõng, hai mắt mở trông trừng trừng.

Một tiếng hô hoán, nha dịch liêu thuộc đều đổ xô cả vào. Ai nấy đều tấm tắc khen ngợi Lăng Hoa là một hiệp liệt52 ít có.

Thế là Khu Cảnh chết. Cõi Giao Châu không có Thứ sử.

Ngay khi Trương Tân bị giết, tin ấy truyền về đến Kinh Châu. Viên mục ở Kinh Châu là Lưu Biểu họp liêu thuộc lại bàn rằng:

- Giao Châu với Kinh Châu cách nhau không xa mấy. Hiện giờ trong nước rối loạn. Tào Tháo lộng quyền, các bực anh hùng đều lo toan chiếm đất để mở mang thế lực của mình. Chi bằng nhân dịp này ta sai quân sang chiếm lấy Giao Châu, ta hãy mở thế lực về phương Nam, rồi sẽ chờ dịp mà trừ Tào Tháo, chỉnh triều cương thời cái huân lao53 của mình dù đến Y, Chu ngày xưa cũng không thể vượt hơn được.

Các liêu thuộc đều cảm phục là phải. Rồi đó, Biểu liền sai Lại Cung đem binh mã sang trước là giết Khu Cảnh, sau là chiếm lấy chính quyền ở Giao Châu.

Sĩ Nhiếp biết tin ấy, vội vàng dâng biểu về tâu với vua Hiến Đế nhà Hán. Vua Hiến đế hỏi Tào Tháo, Tào Tháo tâu rằng:

- Từ Hứa Xương sang Giao Châu, so với đường từ Kinh Châu sang, xa hơn tới gấp ba gấp tư. Hiện giờ, nghe tin Lưu Biểu đã sai Lại Cung đem binh mã sang rồi. Nếu giờ ta lại sai người đi, có khác gì cho đi theo sau để tiễn chân Lại Cung, thực không có ích gì cho đại sự cả. Tôi lại nghe Sĩ Nhiếp ở Giao Chỉ rất có thế lực, vừa rồi triều đình lại mới phong cho bốn em Nhiếp làm chức Thái thú. Hiện giờ người Giao Châu coi Nhiếp như thần như thánh. Trong tay Nhiếp có tới ba bốn mươi vạn binh mã. Thủ hạ có rất nhiều tướng giỏi quen việc trận mạc. Chi bằng nhân lúc này, triều đình đã phong cho Sĩ Nhiếp, cho Nhiếp được quyền đổng đốc54 tất cả bảy huyện. Tất nhiên Nhiếp phải đem quân để khu trục55 Lại Cung. Thế có phải triều đình vừa không phải tốn công nhọc sức mà lại vừa bảo toàn được cõi Giao Châu. Kế sách hoàn toàn không còn gì hơn thế nữa.

Vua Hiến Đế chuẩn tấu, liền sai sứ sang phong cho Sĩ Nhiếp làm chức “Tuy Nam Trung lang tướng lĩnh Giao Chỉ quận Thái thú, kiêm đổng đốc thất quận đại tiểu sử vụ.”

Sau khi Sĩ Nhiếp đã tiếp được sắc mệnh của triều đình, mỉm cười nói với liêu thuộc rằng

- Sự gia phong này, chưa chắc đã phải là ân mệnh của triều đình, chính là cái thâm mưu của bác Tào Mạnh Đức56 đây...

Các liêu thuộc hỏi cớ vì sao, Nhiếp nói rằng:

- Hiện giờ Lưu Biểu sai Lại Cung sang làm Thứ sử, y muốn chiếm lấy cõi đất này để sáp nhập vào Kinh Châu, cho rộng thêm thế lực mình. Tào Tháo vừa không muốn để mất Giao Châu, lại vừa không muốn động binh, nên mới tâu với hoàng đế cho ta được quyền đổng đốc bảy quận, đó chính là cái kế “Khu hổ tranh thực57” của hắn.

Bọn liêu thuộc lại hỏi:

- Thế, bây giờ Minh công tất sẽ phải động binh để trừ bỏ Lại Cung?

Nhiếp cười mà rằng:

- Ai dại gì mà lại mắc lừa bác Tào Man58!

- Vậy đối với sắc mệnh của triều đình, khi nào dám trái.

- Sắc mệnh của triều đình khi nào dám trái.

- Sắc mệnh của triều đình đã không trái. Đánh Lại Cung cũng không đánh, vậy chẳng hay Minh công làm theo phương pháp nào?

Nhiếp ung dung nói:

- Các ngươi cứ yên lòng chờ đó ít lâu, sẽ thấy ta trừ được Lại Cung, bảo toàn được 7 quận…

Các liêu thuộc thấy Nhiếp nói vậy, thời đều nghi hoặc nhưng lại không dám hỏi lại…

Lại Cung sang nhậm chức ở Giao Châu mới được chừng hơn một tháng. Hôm đó đang ngồi một mình ở trong văn phòng, xem xét lại mấy bức dư đồ59 các quận huyện thuộc cõi Giao Châu. Bỗng tên canh cửa vào bẩm:

- Có một người thư sinh xưng danh là Liêu Quý xin vào bái yết.

Cung truyền mời vào. Liêu Quý vào tới nơi, vái chào một cách rất là cung kính. Cung chỉ ghế mời ngồi, cất tiếng hỏi:

- Hiền sĩ quê quán tại đâu? Hôm nay tới đây, chắc sẽ có điều giúp ích bản súy60 chăng?

Liêu Quý đứng lên, vái một cái thật dài, rồi ung dung nói:

- Tôi là một kẻ bần sĩ ở Linh Lăng, vì có thân thích buôn bán ở bên Giao Chỉ, vì viết giấy về mời tôi sang chơi. Khi đi qua quận Thương Ngô, xẩy61 nghe được một câu chuyện, e chẳng những bất lợi cho Minh công, mà lại có thiệt hại đến oai danh của Lưu Kinh Châu. Tự nghĩ, mình dù nhỏ mọn, cũng là một người từng được thấm nhuần cái ơn huệ của Lưu Kinh Châu. Nếu thấy Lưu Kinh Châu có việc không may, mà lại ngơ đi, chẳng những đối với Lưu Kinh Châu không đang62, mà tự vấn cũng thành là một kẻ vong ân bội nghĩa. Bởi cớ đó, nên tôi không từ đường đột mà muốn vào bày tỏ với Minh công một đôi lời…

Lại Cung nghe Liêu Quý nói vừa lưu loát, vừa lễ độ, thời tỏ ngay lòng kính trọng; liền cất tiếng lên nói:

- Chẳng hay có điều chi quan thiết63 đến như thế, dám xin hiền sĩ cứ thực tình chỉ giáo cho.

Liêu Quý ung dung nói:

- Tôi nghe từ khi triều đình ta thu phục được nước Nam Việt thời chia làm 7 quận?

- Phải.

- Bẩy quận ấy là: Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam?

- Phải.

- Mỗi quận đặt một viên Thái thú. Trên viên Thái thú là Thứ sử. Thứ sử có quyền đổng đốc cả bảy quận?

- Phải.

- Lưu Kinh Châu sai Minh công sang đây, cũng là để đổng đốc cả bảy quận?

- Phải.

Liêu Quý hỏi đến đấy, thời gật đầu, mỉm cười mà rằng:

- Vậy sao giờ quận Thương Ngô lại không thuộc quyền của Minh công?

Lại Cung nghe Liêu Quý hỏi vậy thời ngạc nhiên vội hỏi lại:

- Vì cớ sao mà hiền sĩ lại nói như vậy? Tôi thật không hiểu…

Liêu Quý cười mà rằng:

- Vậy thế Minh công có biết quan Thái thú Thương Ngô là ai?

- Có, tên là Ngô Cự.

- Chẳng những quen biết mà lại cùng là môn hạ của Lưu Kinh Châu?

- Chính phải.

Liêu Quý sẽ mỉm cười mà rằng:

- Cứ một chỗ đó, Minh công cũng có thể hiểu được vì sao quận Thương Ngô sẽ thoát ly quyền thống trị của Minh công rồi!

Lại Cung nói:

- Xin hiền sĩ cứ nói rõ cái lý do vì sao?

Liêu Quý nói:

- Minh công với Ngô Cự khi trước cùng là môn hạ của Lưu Kinh Châu, nếu cứ cùng là môn hạ mãi thì khi nào lại sinh ra điều tiếng; hay là Ngô Cự làm Thái thú, Minh công cũng làm Thái thú, Minh công làm Thứ sử, Ngô Cự cũng làm Thứ sử, thời quyết cũng không sinh ra điều gì. Thảng hoặc64, nhờ số phận của Minh công đỏ hơn, bước công danh của Minh công nhanh hơn. Minh công được làm chức Thứ sử trước Ngô Cự, nhưng làm Thứ sử ở nơi khác, thời cũng không sao. Bây giờ Ngô Cự vẫn làm chức Thái thú ở Thương Ngô, Minh công vọt làm ngay Thứ sử ở Giao Châu. Trước kia cùng là bằng bối, ngày nay bỗng biến thành kẻ dưới người trên, tự xét mình đã cay đắng, đối với người lại bẽ bàng. Đổi chốn65 là Minh công, dám hỏi ngài cam hay không cam?

Lại Cung nghe Liêu Quý nói đến đấy, trầm ngâm một lát gật đầu mà rằng:

- Hiền sĩ nói rất phải. Vậy chẳng hay hiền sĩ biết Ngô Cự ý định thế nào?

- Cự một mặt dâng biểu về triều đình Hứa Xương, xin Tào Thừa tướng đem quân sang đánh Minh công, một mặt mật thư nói với Thái thú Giao Chỉ là Sĩ Nhiếp chỉnh bị binh mã để chờ tiếp ứng.

Lại Cung nghe Liêu Quý nói xong, cả sợ mà rằng:

- Nếu vậy thời ta tiền hậu thụ địch, nguy mất rồi. Vậy hiền sĩ có kế sách gì bàn giúp tôi với.

Liêu Quý ung dung nói:

- Minh công tự xét, liệu có thể địch lại được với Tào Thừa tướng không?

Lại Cung lắc đầu nói:

- Địch thế nào được! Tào Thừa tướng binh hùng tướng dũng, đến Lưu Kinh Châu cũng khó lòng đối đầu, nữa chi là tôi.

Liêu Quý nói:

- Đã thế thời cái kế hoạch của Minh công bây giờ, không gì bằng: “Tiên phát chế nhân.”66

- Phải dùng kế thế nào, xin hiền sĩ cứ nói rõ cho…

Liêu Quý nói:

- Tuy Ngô Cự có dâng biểu về triều, nhưng Tào Thừa tướng còn đang bận việc trong nước, khó lòng đã thoát thân đem quân đi xa được. Thừa lúc quân Tào chưa sang, họ Ngô đương đợi, Minh công đem ngay binh mã, ngậm tăm, chạy riết, đánh úp Thương Ngô, khiến cho Ngô Cự dở tay không kịp, quận Thương Ngô thế nào cũng lọt vào trong tay Minh công…

Lại Cung nghe nói, vỗ đùi mà rằng:

- Kế hoạch ấy rất diệu! Thật là lòng trời giúp tôi, mới run rủi cho hiền sĩ đến đây.

Song đó, Liêu Quý đứng dậy cáo từ, Lại Cung giữ thế nào cũng không chịu ở lại. Nói rằng:

- Tôi là một kẻ thư sinh, ưa bề nhàn dật, vì thăm thân thích, mới qua chốn này. Sở dĩ đem ngu kiến mà bày tỏ với Minh công là muốn bảo toàn cái oai danh cho Lưu Kinh Châu, thực không phải có hy vọng gì về đường danh lợi. Vậy xin Minh công cứ y kế ấy mà thi hành, chắc thế nào cũng được thành công, còn tôi, cũng không cần phải ở đây làm gì.

Nói rồi ra đi, Lại Cung rất lấy làm mến tiếc, tiễn mãi ra cổng thành mới trở lại.

Canh 3 hôm sau, Lại Cung đem hết đại binh ở Giao Châu, nhằm thẳng quận Thương Ngô tiến phát.

Quân đi vừa đến núi Vân Nham…

… Lại Cung đem quân tới dưới núi Vân Nham, thời ngày vừa sâm sẩm tối. Cung liền truyền cho ba quân hạ trại yên nghỉ, chờ đến hôm sau sẽ tiến binh. Lại Cung yên trí rằng ở đấy còn thuộc về địa hạt của mình và lại là một nơi núi hiểm rừng sâu, hẳn không xẩy ra việc gì bất trắc nên cho quân sĩ cứ việc tự do yên nghỉ. Chỉ để dăm ba tên quân cầm canh giữ hiệu lấy lệ mà thôi.

Đêm hôm ấy muôn vật đều im lặng. Cả những tiếng chim kêu vượn hú, gió thét, suối reo là những tiếng thường có ở trên đỉnh núi Vân Nham, cứ đến ban đêm là phát động. Mà đêm hôm ấy thời hết thảy đều im lặng. Hình như Sơn linh muốn để cho toán quân của Lại Cung được cùng nhau mà yên giấc mộng đêm trường… Quả vậy thời Lại Cung an nhàn lắm. Toán quân của Lại Cung cũng an nhàn lắm! Nhưng… nhưng sự đó thực chưa lấy gì làm chắc… Vào khoảng nửa đêm hôm ấy, Lại Cung và hết thảy các hàng quân sĩ đang mơ màng trong giấc ngủ say sưa, thời bỗng nghe thấy bên ngoài pháo nổ liên thanh, rồi tiếng trống, tiếng chiêng, tiếng tù và đều đua nhau mà nổi lên rầm rĩ…

Mấy tên quân canh thấy vậy, hoảng hốt chạy vào giữa sân trại kêu to lên rằng: - Cướp! Cướp! Có giặc cướp trại! Nguy to mất rồi! Trời đất ơi!... - Chúng vừa kêu, vừa chạy vào chỗ Lại Cung nằm. Lại Cung đương trong giấc nồng, bỗng giật mình tỉnh dậy, hoảng hốt nhẩy choàng xuống đất, chỉ vớ được một chiếc hoạch kích cầm ở trong tay; áo, mũ, đai, giày đều bỏ hết. Khi chạy ra được đến sân trại, chưa kịp gọi quân, thời đã nghe thấy khắp các trại xung quanh, tiếng quân mình kêu rầm lên như ong vỡ tổ. Lại Cung cố trấn tĩnh lại, cất tiếng lên hô các tướng. Ngờ đâu tiếng hô chưa dứt, thời đã thấy xung quanh trại ngọn lửa bốc cháy đùng đùng. Lại Cung ngoảnh đi ngoảnh lại không còn thấy một người nào là tướng tá tâm phúc của mình nữa, liền thở dài lên một tiếng, lẩm bẩm nói một mình: - Không biết quân nào mà đến đánh úp mình như thế này. Lạ quá! Lạ quá!

Chưa dứt nhời thì nghe loạn quân đã phá tan cửa trại mà xông vào. Lại Cung cuống quá, đành phải vung hoạch kích đánh tháo lấy đường để chạy. Vừa chạy thoát ra khỏi trại độ bốn, năm trăm thước, bỗng thấy một đám đến 100 bó đuốc, xúm xít, ủng hộ một viên đại tướng ngồi trên lưng ngựa, xồng xộc kéo đến. Dưới ánh lửa sáng, hình như viên tướng ấy đã thấy rõ mặt Lại Cung, tức thời viên đại tướng thét to lên rằng:

- Bớ Lại Cung! Ngươi có còn nhớ ta nữa không? Ta với ngươi vốn là bè bạn, chẳng phải hằn thù. Vì cớ sao ngươi nỡ nói gièm67 với Lưu Kinh Châu, định lấy đầu của ta, thu bờ cõi của ta? Ngươi là giống thú hay giống người, mà ăn ở tàn nhẫn đến như thế? Bây giờ đây, ta đem đầu ta sang rồi đấy, ngươi có giỏi thời lấy đi. Mau!

Lại Cung nghe mấy câu xỉ vả của viên tướng ấy, thời ngạc nhiên, không hiểu ra thế nào. Vừa toan hỏi lại thời viên tướng ấy đã chỉ huy quân sĩ vây bọc lấy mình, chúng cùng đua nhau reo lên rằng:

- Nào, xem chuyến này ta có bắt sống được hết bọn dối Chúa lừa nước không nào!

Lại Cung một mình ở trong vòng vây vừa đánh tháo vừa ngầm nghĩ: - Quái! Viên tướng địch là người nào? Nghe giọng nói thời ra y ngờ mình nói gièm với Lưu Kinh Châu, nên chi y tức giận mà đem quân đánh mình… Thế mới lạ chứ! Nào mình có nói gièm pha ai bao giờ đâu…

Lại Cung cũng vừa nghĩ đến đấy. Bỗng sực nhớ ra, nói lẩm bẩm một mình: - Ô! Không khéo người ấy là Ngô Cự rồi! Chết thật! Có lẽ ta bị thằng Liêu cẩu nó đánh lừa ta cũng nên đây?...

Nghĩ vậy, đã toan đuổi cho kịp viên tướng kia để hỏi rõ đầu đuôi, nhưng lúc bấy giờ viên tướng kia đã chỉ huy quân sĩ đi nơi khác. Còn mình thời vẫn bị bó buộc vào trong vòng vây. Đánh mãi một hồi lâu, mới thoát ra được, liền cắm đầu chạy miết về phía bên kia. Ngoảnh lại thấy quân địch không đuổi nữa, liền tìm thấy một gốc cây để yên nghỉ. Một lát sau, bọn quân sĩ theo tìm đến cũng được vài trăm người, nhưng đứa nào cũng chỉ cầm được một thanh mã tấu hoặc một ngọn trường thương, còn mình thời mặc áo cánh chẽn chứ chẳng có áo giáp gì cả. Lại Cung trông thấy tình hình như vậy, thở dài một tiếng mà rằng:

- Ta không ngờ, đường đường một chức Thứ sử Giao Châu, chỉ vì không cẩn thận, mắc phải mưu gian, mà để đến nỗi lâm phải bước gian nan lưu lạc như thế này, ta còn mặt mũi nào để trông thấy nhân sĩ ở Giao Châu nữa?

Nói dứt nhời cầm hoạch kích toan đâm cổ để tự vẫn, bọn quân sĩ nhanh tay cứu được, đồng thanh nói với Lại Cung, xin hãy quay về Giao Châu, rồi sẽ định mưu phục thù tuyết hận68.

Lại Cung bất đắc dĩ cũng phải nghe lời, rồi dẫn tàn quân trở về Giao Châu. Khi về đến dưới thành, thấy cổng thành vẫn đóng, mà trên mặt thành cũng chẳng thấy quân canh, Lại Cung liền cất tiếng gọi, gọi đến hai, ba điều mà vẫn không thấy trong thành thưa, đương lúc phân vân nghĩ ngợi, bỗng nghe thấy trong thành nổ luôn mấy tiếng pháo, rồi cờ, giáo cắm lên san sát khắp trên mặt thành. Trên địch lâu kéo lên một ngọn cờ đại, giữa lá cờ đề một chữ “Sĩ” rất lớn. Phía dưới lá cờ có một viên thiếu niên tướng quân, đứng dựa vào bao lan69, tay trái giữ vào yểm tâm kính70, tay phải chỉ vào mặt Lại Cung mà thét to lên rằng:

- Lại Cung! Ta vâng mệnh Tào Thừa tướng đã lấy lại thành trì Giao Châu rồi. Muốn sống thời xa lánh ngay đi, ta đây cũng thể đức hiếu sinh mà tha cho toàn tính mệnh. Nhược bằng còn dùng dằng, thời dưới mũi tên của bản tướng quân không dung tình đâu.

Lại Cung nghe dứt nhời nói ấy, khí uất bốc lên suýt nữa thời chết ngất người đi. Đã toan củ hợp71 quân sĩ, liều một trận sống mái cho hả lòng căm tức. Bỗng nghe thấy phía đằng sau trống trận nổi lên ầm ầm, toán quân đánh úp mình lúc ban đêm đã đuổi gần tới nơi. Lại Cung biết không còn cơ vãn hồi được nữa, đành cùng bọn tàn quân chạy rẽ vào phía Tây Lâm. Rồi cứ ngày nghỉ đêm đi, về thẳng vùng Linh Lăng theo làm một kẻ nông phu cho trọn kiếp.

Viết đến đây ký giả xin hãy tạm dừng bút mà thuật rõ viên tướng đem quân đến đánh úp Lại Cung là ai.

Nguyên lai viên tướng ấy chính là quan Thái thú quận Xương Ngô tên là Ngô Cự đó. Ngô Cự sở dĩ đem quân đến đánh úp Lại Cung là vì thấy có một người đến nói với mình rằng: “Lại Cung sắp đem quân đến đánh mình. Người ấy lại khuyên: ‘Nếu đem quân đi ngay, tất thể nào cũng bắt gập toán quân của Lại Cung ở giữa đường, sẽ thừa hư72 mà đánh úp. Sau khi đã phá tan được toán quân của Lại Cung, tức thời thừa hư lấy thẳng Giao Châu, thời không khó gì mà sẽ giữ được chức Thứ sử ở Giao Châu, có thể sánh hàng được với Lưu Cảnh Thăng ở bên nhà Hán…’” Vì nghe nhời nói ấy nên Ngô Cự mới kéo quân ra đi, quả nhiên chỉ đánh có một trận mà tan được toán quân của Lại Cung. Ngô Cự bấy giờ lại càng tin người khuyên mình hôm trước là rất đúng, liền kéo quân đắc thắng tới thẳng dưới thành Giao Châu. Khi đến nơi, thấy sự canh phòng ở trên mặt thành rất là nghiêm chỉnh; trên lá cờ đại bay phấp phới, lại thấy lộ ra một chữ “Sĩ” chứ không phải chữ “Lại”, trong bụng lấy làm nghi hoặc, nghĩ thầm: - Quái chưa? Sao cờ lại đề chữ “Sĩ”. Sĩ nào? Chẳng có lẽ cánh anh em Sĩ Nhiếp mà lại đến đây được lúc nào? Chính đang lúc còn trù trừ nghĩ ngợi, thời bỗng nghe thấy trong thành liên thanh pháo nổ, trên địch lâu hiện ra một vị thiếu niên tướng quân, chỉ vào mặt Ngô Cự mà nói to lên rằng:

- Chào Ngô Thái thú?... Sĩ Thái thú tôi có nhời cảm ơn ngài đã đánh đuổi Lại Cung hộ! Thành trì Giao Châu, Sĩ Thái thú tôi đã sai tôi bảo thủ73 rồi! Xin Thái thú trở lại cho!...

Ngô Cự nghe dứt nhời, thời nổi giận đùng đùng, tức thời chỉ huy quân sĩ đánh thành. Thành Giao Châu là một nơi thủ đô của toàn cõi Nam Việt, nên chi thành rất là kiên cố. Ngô Cự tuy có truyền quân đánh phá, nhưng chỉ cứ đứng hò reo hão ở ngoài hào, hễ anh nào chực bắc cầu qua hào để sang chân thành, thời đã bị trên thành ném đất ném đá xuống túi bụi, chả một tên nào dám bén mảng đến gần thành. Đánh mãi suốt từ sáng đến quá trưa, Ngô Cự thấy quân của mình tên nào tên ấy đều mệt nhoài, mà thành Giao Châu vẫn không bớt được một viên gạch, nhổ được một ngọn cỏ. Trong lòng tức tối vô cùng, nhưng thế vô khả nại hà74 đành phải truyền lệnh cho quân sĩ hãy tạm lui tìm nơi hạ trại để yên nghỉ dưỡng sức.

Đêm hôm ấy, Ngô Cự một mình rằn rọc75 trong trướng, càng nghĩ lại càng căm không thể nào chợp mắt đi được. Sáng hôm sau, Ngô Cự họp các tướng tá lại để bàn việc đánh phá thành Giao Châu. Cự bảo các tướng rằng:

- Sĩ Nhiếp xử với ta thế này thật là gian quyệt quá! Mình hết hơi hết sức, đem quân đi đánh đuổi bằng được Lại Cung. Đã yên chí rằng thành Giao Châu sẽ thuộc về quyền mình thống trị. Ngờ đâu Sĩ Nhiếp nó lại đem quân đến ót lấy Giao Châu trước, có khác gì mình làm cỗ sẵn cho người ăn, mà nó thời ngồi mát ăn bát vàng. Nếu chuyến này mà ta không lấy được Giao Châu, thời thật là bêu thêm một tiếng dại cho người đời khinh bỉ…

Ngô Cự nói dứt nhời, các tướng tá ai nấy đều tỏ ý căm tức. Lúc đó có một viên tham mưu là Trình Ấn, đứng lên nói rằng:

- Các tướng tá chỉ biết theo ý của Thái thú, mà hăm hở chực đánh lấy Giao Châu cho hả lòng căm tức. Nhưng cứ ý tôi thời xin Thái thú hãy nên gác bỏ việc Giao Châu mà lo lấy nơi căn bản…

Ngô Cự không đợi Trình Ấn nói xong, liền cất tiếng lên hỏi:

- Nhà ngươi bảo ta hãy gác bỏ việc Giao Châu mà lo lấy nơi căn bản là ý thế nào?

Trình Ấn nói:

- Cứ do ngu ý đoán xét: Thời Lại Cung không khéo cũng vì tin lời phản gián mà đem quân chực đáng úp Minh công, Minh công vì tin lời phản gián mà đem quân chực đánh úp Lại Cung. Bởi thế cả hai toán quân mới đột nhiên mà gặp nhau ở giữa đường. Tôi lại xét: người lập nên kế phản gián ấy, không khéo chính là bọn anh em Sĩ Nhiếp. Nếu gian mưu không gây nên bởi Sĩ Nhiếp, thời Sĩ Nhiếp biết đâu mà sai tướng lấy ót ngay Giao Châu của mình? Sĩ Nhiếp sở dĩ lấy được Giao Châu, vì bao nhiêu quân sĩ ở Giao Châu đã đem đi hết. Đã thế, thời chắc đâu Sĩ Nhiếp không dùng luôn cái kế mà chờ lúc ta kéo quân đi, thừa hư lấy cả Thương Ngô của ta? Vì cớ đó nên tôi nói với Minh công hãy bỏ Giao Châu mà kịp lo đến căn bản.

Ngô Cự nghe Trình Ấn nói xong, bấy giờ mới tỉnh ngộ, mặt tái mét ngay đi, miệng lắp bắp nói:

- Phải lắm! Phải lắm! Lời bàn của Trình tiên sinh thật là trông xa thấy rõ. Chết chưa! Thế bây giờ làm thế nào?

Các tướng nghe Ngô Cự nói vậy, thời đều ngơ ngác trông nhau, bàn tán rối loạn cả lên. Ngô Cự thấy quang cảnh như vậy thời cũng rối loạn, định truyền lệnh cho quân sĩ lập tức kéo về ngay hôm ấy, không chờ đến hôm sau.

Trình Ấn vội vàng gạt đi mà rằng:

- Đem quân về ngay thế nào được?

Ngô Cự ngạc nhiên hỏi:

- Nếu không đem quân về ngay thời làm thế nào?

Trình Ấn nói:

- Minh công hành binh đã lão luyện, mà sao đến việc này lại khờ như vậy? Mình bây giờ đã đương sử vào cái thời kỳ mắc mưu, việc tiến thoái phải nên dè dặt từng bước. Nếu bây giờ ta hấp tấp kéo quân về, thảng hoặc trong thành họ đem quân tập hậu thời sao?

Ngô Cự ngơ ngẩn nói:

- Nếu vậy thời làm thế nào?

Trình Ấn nói:

- Bây giờ Minh công phải sai hai viên du kích, đem hai chi quân76 nhỏ, phục ở hai bên đồi Tây Tự. Rồi ta sẽ cất quân từ từ đi ngay từ lúc nửa đêm. Lại sai mươi tên quân tế tác77 đi do thám từng đoạn đường một, phòng hoặc có đám quân nào đánh đón đường chăng?

Ngô Cự nói:

- Cứ như nhời tiên sinh nói thời biết mấy tháng mới về tới Thương Ngô? Thôi, tôi chịu thôi không thể dùng dằng thế được?

Nói dứt nhời, nhất vị truyền lệnh cho toàn quân đúng nửa đêm hôm ấy thời nhất tề bạt trại khởi hành.

Trình Ấn thấy Ngô Cự không nghe lời, đến lúc trở ra thở dài nói lẩm bẩm một mình rằng: - Tiếc thay! Mấy nghìn binh mã, một quận sinh linh bị tống táng trong tay một kẻ vũ phu độc đoán!

Nói rồi cuốn gói hành lý, một mình lẩn trốn ngay từ lúc chập tối.

Nửa đêm hôm ấy, Ngô Cự truyền lệnh toàn quân bạt trại khởi hành, vừa đi gần đến trái đồi Tây Tự, bỗng nghe thấy tiếng liên thanh pháo nổ, rồi thấy trăm, nghìn bó đuốc vùn vụt từ hai bên trái đồi kéo ra, tiếng trống đánh như ếch kêu, tiếng loa vang như sấm động.

Toán quân của Ngô Cự bấy giờ, đã mang sẵn một tấm lòng nghi sợ. Đột nhiên gập có phục binh, thời đều táng đởm kinh hồn, đều đua nhau ôm đầu trốn chạy tán loạn.

Ngô Cự bấy giờ cũng hoảng sợ, cùng với mấy tên tì tướng vừa đánh vừa chạy, mãi đến tận núi Vân Nham; không thấy quân sau đuổi nữa, bấy giờ mới dám dừng chân lại nghỉ, điểm lại tàn binh, thời còn lại không được một nửa, liền vỗ tay vào yên ngựa, thở dài mà rằng: - Nếu ta biết nghe Trình Ấn thì đâu đến nông nỗi này!

Nói rồi truyền quân sĩ đi tìm Trình Ấn, có tên biết chuyện liền nói với Ngô Cự rằng:

- Trình Ấn đã bỏ đi ngay từ tối hôm qua.

Ngô Cự bấy giờ đầy lòng hối hận. Nhưng sự thể đã lâm đến cái nước vô khả nại hà, đành lủi thủi kéo tàn binh thẳng về Thương Ngô. Khi về đến Thương Ngô thời quả nhiên thành trì quận Thương Ngô đã bị tướng của Sĩ Nhiếp chiếm mất rồi. Đành phải thay hình đổi dạng chạy trốn về Trung Quốc. Thế là Sĩ Nhiếp chỉ ngồi yên một chỗ, chưa bao lâu đã hoàn toàn lấy được cả hai quận.

Sau khi đó Sĩ Nhiếp liền sai sứ sang cống nhà Hán. Hán Hiến đế liền phong cho Sĩ Nhiếp làm An Viễn tướng quân Long Đô đình hầu, được quyền đổng đốc cả bảy quận. Từ đó uy quyền của Sĩ Nhiếp càng ngày càng lừng lẫy. Sĩ Nhiếp lại sẵn lòng khai hóa cho nhân dân, nên chi dân ta cũng rất là cảm phục.

Cách mấy năm sau, Ngô Tôn Quyền đã hùng cứ một phương Đông Nam bên Trung Quốc, đặt tên nước gọi là Ngô. Địa thế của cõi Giao Châu ta bấy giờ đối với nhà Hán thì xa, mà đối với nước Ngô thì gần. Tôn Quyền thấy vậy, liền quyết chí lấy cả cõi Giao Châu để sáp nhật vào nước mình để cho được gây to thêm thế lực đối với Thục và Ngụy.

Năm Canh Dần, tức là sau kỷ nguyên 20178 Ngô Tôn Quyền sai Bộ Chất sang làm Thứ sử Giao Châu. Sĩ Nhiếp liệu thế mình không thể cự được, liền đem cả ba em là các quan Thái thú quận Hợp Phố, Cửu Chân và Nam Hải ra đón Bộ Chất và vâng triệu tiết chế.

Ngô Tôn Quyền thấy Sĩ Nhiếp là người biết lượng thời đại, liền phong cho Sĩ Nhiếp làm chức Tả tướng quân.

Sĩ Nhiếp muốn buộc cho chặt tấm lòng thân ái của Tôn Quyền và để cho mình được yên hưởng sự thái bình ở cõi Giao Chỉ, liền sai con là Sĩ Hâm sang Ngô làm con tin. Ngô phong cho Sĩ Hâm làm chức Thái thú là quận Vũ vương. Còn các con cháu của Sĩ Nhiếp nguyên trước vẫn ở trong nước không sang bên Giao Chỉ, Tôn Quyền đều phong cho là chức Trung lang tướng. Sĩ Nhiếp lại dụ được người thổ hào ở hạt Ích Châu là bọn Ung Khải về với Đông Ngô. Tôn Quyền lại càng khen Sĩ Nhiếp là người có tài cán và trung thành, liền gia phong cho Sĩ Nhiếp làm chức Vệ tướng quân Long Biên hầu; và phong cho con Sĩ Nhiếp là Sĩ Nhất chức Thiên tướng quân, Đô Hương hầu.

Trò đời hòn đất ném đi thời hòn chì ném lại, Tôn Quyền đã hậu đãi cha con Sĩ Nhiếp, chả lẽ Sĩ Nhiếp lại không có gì báo lại cái hậu ân ấy. Bởi thế, nên Sĩ Nhiếp thường cho sang cống bên Ngô rất hậu, những đồ như: hương liệu, vải gai, ngọc trai, đồi mồi, lưu ly, lông trả79, tê giác, tượng nha80 và các thứ quả lạ như: chuối, dừa, long nhãn, lệ chi81,… Lại có khi đem cống cả một đàn ngựa tới hàng trăm con. Lần nào, Quyền cũng làm thư cảm ơn và tặng lại rất nhiều. Sĩ Nhiếp cầm quyền chính ở cõi Giao Chỉ ta trước sau vừa được 40 năm, đến năm Bính Ngọ tức là sau kỷ nguyên 226 năm thời tạ thế, hưởng thọ được 90 tuổi.

Tôn Quyền nghe tin Sĩ Nhiếp đã mất, liền đem đất Giao Châu chia ra làm hai châu; từ Hợp Phố trở về Bắc là Quảng Châu, dùng Lã Đại làm Thứ sử. Từ Hợp Phố trở về Nam là Giao Châu, dùng Đới Lương làm Thứ sử, lại sai Trần Thời sang thay Sĩ Nhiếp làm Thái thú quận Giao Chỉ.

Khi Đới Lương và Trần Thời sang đến quận Hợp Phố thời ở Giao Chỉ bỗng xẩy ra một việc chẳng ngờ, khiến cho Đới, Trần hai tướng phải tạm đóng quân lại ở quận Hợp Phố.

Nguyên lai sau khi Sĩ Nhiếp chết, có người con thứ là Sĩ Huy bàn với mọi người cẩn thận rằng:

- Đức tiên nghiêm82 ta khó nhọc trong 40 năm, mới mở mang được ra cõi Giao Chỉ tốt đẹp như thế này. Nhà Ngô đối với ta chẳng qua là có cái tình nghĩa đi lại. Huống chi lúc sinh thời tiên nghiêm ta đối với nhà Ngô cũng không phải là bạc. Nay tiên nghiêm ta vừa mới tạ thế, nhà Ngô chẳng nghĩ gì đến tình nghĩa cũ, lại sai người khác sang để tiếm giữ lấy chức quyền. Nghĩ như thế thật không có tình nghĩa gì nữa. Các ngươi thử nghĩ xem có kế gì đối phó được với nhà Ngô chăng?

Lúc đó có tên Đào Thù là một người của Huy rất thân tín, đứng lên nói rằng:

- Hiện giờ tiên Thái thú tuy đã tạ thế, mà bao nhiêu quyền quân dân ở địa hạt Giao Chỉ này vẫn còn ở trong tay công tử. Nếu công tử muốn nối nghiệp của tiên Thái thú, chi bằng tự lập ngay lên làm Thái thú, rồi đem binh mã mà cự lại với tướng Ngô, thời có khó khăn gì mà đại sự chẳng thành.

Sĩ Huy nghe lời, liền kén ngày tự lập lên làm Thái thú, tuyên bố lời thệ quân83, quyết chí kháng cự với quân Ngô.

Khi đó có người cố lại84 của Sĩ Nhiếp tên là Hoàn Lân biết tin ấy liền vội vàng đến nói với Sĩ Huy rằng:

- Công tử nghe ai mà dám tự lập lên làm Thái thú để kháng cự với quân Ngô?

Sĩ Huy nói:

- Ta sở dĩ phải tự lập nên như vậy là bởi nhà Ngô đối với ta vô tình, nhà Ngô quên ân nghĩa của phụ thân ta…

Hoàn Lân nói:

- Công tử thử nghĩ: từ khi tiên Thái thú giao thiệp với nhà Ngô, trong một họ Sĩ, bao nhiêu người chịu cái tước lộc của nhà Ngô.

Đến như hồi tiên Thái thú sinh thời, tiên Thái thú cũng nói với các liêu thuộc, “các ngươi không nên quên ơn đức của nhà Ngô”. Đến nay tiên Thái thú mất đi, nếu công tử có muốn thừa kế cái đại nghiệp của tiên Thái thú, thời trước đấy hãy nên dâng biểu trần tình với nhà Ngô, chắc nhà Ngô cũng không hẹp gì mà không cho công tử được thỏa chí mình. Công tử chẳng làm thế, lại thiện tiện tự lập lấy mình, chẳng thèm bẩm mệnh với nhà Ngô. Đó tức là công tử quên ơn nhà Ngô trước chứ không phải nhà Ngô quên ơn của tiên Thái thú. Đó là nói về bên tình, công tử cũng đã là một người vô tình lắm rồi. Còn như nói về bên thế, thời công tử hiện nay chỉ thống suất có binh mã ở trong toàn hạt85 Giao Chỉ, cái số không được trên dưới hai vạn người. Giả sử nhà Ngô chỉ chuyên giao cho mấy quận ở hạt Giao Châu này, thống suất binh mã để đối đầu với công tử, công tử cũng đã khó lòng chống nổi được. Huống chi cái binh lực của nhà Ngô, chẳng những chỉ có ở mấy quận trong cõi Giao Châu này mà thôi. Chắc công tử cũng biết tin nhà Ngô chỉ đánh một trận ở Xích Bích, mà giết quân Tào Tháo hàng mấy mươi vạn. Đem cái binh lực ấy mà so sánh, phỏng ta có thể chọi nhau với nhà Ngô được một ngày chăng? Chẳng những thế, hiện giờ anh em thân thích của công tử, làm quan ở bên nhà Ngô cũng không phải là ít, nếu công tử khởi binh lên để phản kháng lại với nhà Ngô, theo ý công tử phỏng nhà Ngô có để cho những người ấy được hoàn toàn chăng?

Như thế, công tử chẳng những đối với nhà Ngô là một người không biết tình, không lượng thế, mà đối với anh em thân thích lại là một người quên mất nghĩa bảo toàn. Xin công tử nên nghĩ kỹ chỗ đó, đừng quá tin lời ngon ngọt của kẻ tiểu nhân, mà sau này hối lại không kịp…

Sĩ Huy nghe Hoàn Lân nói chưa dứt nhời, thời nổi gi?