← Quay lại trang sách

Chương II

Nguyễn Ánh

- Chiến dịch ở Nam kỳ

- Giám mục Bá Đa Lộc ở Pondichéry

Năm Nguyễn Ánh được mười bảy tuổi145 lúc chú là chúa Duệ Tông và cháu là Mục vương bị Tây Sơn giết chết. Ánh trở thành người thừa kế các chúa Đàng Trong. Nhưng dường như Ánh không được kêu gọi để giành lại quyền lực mà các chúa Nguyễn đã đánh mất. Những kẻ cộng sự chán nản đã bỏ trốn, gia đình thất tán, và chính bản thân Ánh cũng lang thang từ làng này qua xóm nọ, ban đêm núp trốn trong những chòi tranh xa khuất, lén lút nhận những bữa ăn khốn khổ do những nông dân sợ sệt mang đến. Ánh khiến cho đối phương thương hại một cách khinh bỉ hơn lo sợ nhưng dẫu sao họ cũng phải tìm giết cho được Ánh để tuyệt diệt dòng họ Nguyễn. Bị săn lùng khắp nơi, ông hoàng này tìm cách qua Cao Miên rồi từ đó qua Xiêm. Ông viết thư gửi quốc vương các nước ấy xin được trú ngụ, nhưng chẳng hề nhận được thư trả lời. Bị quân Tây Sơn lùng sục nhưng Ánh trốn thoát một cách kỳ diệu, ông ra một đảo hoang ở vịnh Xiêm La146 và ẩn nấp ở đấy với vài người thân cận. Mọi thứ đều thiếu thốn trên hòn đảo hoang khô cằn này. Chẳng mấy chốc kẻ đào tị khổ sở vì thiếu ăn, Ánh nghĩ đến việc về lại đất liền, thì lúc ấy Giám mục Adran tiếp tế được cho Ánh vài túi gạo xấu và cá ướp muối. Nhiều tháng trôi qua như vậy, trong khốn khổ vật chất và trong khắc khoải. May mắn thay quân Tây Sơn không thèm đuổi theo nữa, khinh khi đối thủ mà họ đã gây cho bao nhiêu khổ nạn. Nhờ hỏi thăm các ngư dân, Nguyễn Ánh biết được sau cuộc rượt đuổi đẫm máu qua khắp miền châu thổ sông Cửu Long, quân Tây Sơn đang chuẩn bị rút binh về phương Bắc để tiến hành việc chia chác dứt khoát lãnh thổ. Cho rằng Ánh không còn nghĩ đến chuyện phục quốc bất khả thi kia nữa, hoàng đế Thái Đức bỏ qua việc chiếm đóng kỹ lưỡng các thị trấn trong vùng châu thổ, nơi có thể trở thành chỗ ẩn nấp cho Nguyễn Ánh. Nhà vua tập hợp quân đội và trở về phương Bắc, chỉ để lại tại Gia Định một đội quân đồn trú nhỏ.

Tức thì Nguyễn Ánh vượt biển trên một chiếc thuyền rách nát trở về Cà Mau nơi có một nhóm người trung thành đón đợi. Ánh cùng họ tiến về Sa Đéc, rồi lực lượng mỏng của ông từng bước gia tăng số lượng nhờ người gia nhập đến từ những đồng ruộng xa xôi ở mỗi đoạn đường. Ánh tiến chiếm Vĩnh Long rồi Mỹ Tho.

Nguyễn Ánh lúc ấy do dự không biết nên tiếp tục thắng lợi tiến quân về Gia Định, hay đóng quân tại Biên Hòa, tổ chức quân đội cho thật vững vàng để chờ kẻ thù trở lại? Chiếm đóng Gia Định xác định được sự thành công, tuy nhiên đấy là một vị trí dễ bị tấn công. Nguyễn Ánh biết rằng mình không thể bảo vệ vị trí này, chống lại những đội quân được trang bị tốt mà đối phương đã gửi vào tấn công. Mặt khác, thời tiết sắp sang mùa và các tướng hối thúc Ánh quyết định. Mẹ của Nguyễn Ánh, dường như rất có ảnh hưởng đến các quyết định của con, thúc giục Ánh chiếm Gia Định là nơi bà tin có thể tìm ra lương thực và vũ khí cho quân sĩ. Mặc dầu thế, Nguyễn Ánh quyết định đóng quân tại Biên Hòa. Nhưng một cơn lụt do nước sông Đồng Nai dâng lên buộc Ánh phải tiến chiếm Gia Định mà không gặp kháng cự nào (năm 1777147).

Nguyễn Ánh, mặc dầu tuổi còn trẻ và vì đã từng chịu nhiều bất hạnh, không quá vui mừng với thắng lợi quá dễ dàng. Những tình huống thuận lợi đã dẫn dắt Ánh đến tận Gia Định. Nhưng từ những ngày đầu tiên, Ánh đã thấy rõ là không thể bảo vệ vị trí chỉ bằng chính lực lượng của riêng mình. Quân đội của Ánh chỉ là một đám hỗn loạn thiếu kỷ luật. Việc tiếp vận cung cấp mà Ánh mong đợi vẫn không có, mặc dầu có sự giúp đỡ nhiệt tình của các thương gia vùng Chợ Lớn. Quan lại quan tâm đến thứ vị hơn là nghĩ chuyện đối phó với cuộc chiến. Ngay cả thân mẫu của Ánh, trước hiện tình hỗn độn mà Ánh phải vật lộn, cũng khuyên Ánh nên lợi dụng vị thế hiện tại để điều đình với hoàng đế Thái Đức. Ánh chịu đựng những trách móc của người thân, sự bất mãn của các tướng sĩ thân cận, đi vuốt ve kẻ này, năn nỉ người nọ, nhờ vào những lời hứa hẹn và sự nhẫn nhục để tạo nên được một nỗ lực mới ở các tướng sĩ phụ tá. Nhưng Ánh không bao giờ quên những xúc phạm nhằm đến uy quyền của mình, không tha thứ cho những tổn thương mình phải chịu trước ba quân. Và một khi ổn định trở lại, Ánh sẽ áp đặt ý chí của mình lên công việc với một thái độ tàn nhẫn đầy hiềm thù.

Trong hoàn cảnh chỉ còn có một lực lượng gồm những người đi theo lâu nay, Nguyễn Ánh tìm chung quanh mình những đồng minh. Người Cao Miên lại lẩn tránh lần thứ hai, Ánh quay sang người Hoa ở Căn Cáo khẩn khoản họ giúp sức, viện dẫn quyền hạn chính đáng của họ, nhắc nhở những điều khoản thật ra đã lỗi thời của hiệp ước năm 1663, hứa hẹn những quyền lợi cá nhân to lớn, nỗ lực thuyết phục đến mức người Hoa phải đồng ý gửi binh lính, vũ khí, lương thực mà Ánh rất cần. Nguyễn Ánh trang bị quân đội, mau chóng tổ chức lại binh sĩ của mình, có binh sĩ người Hoa hỗ trợ vững chắc. Rồi sốt ruột muốn giải quyết với kẻ địch, Nguyễn Ánh xuất quân tấn công và đánh tan quân Tây Sơn ở gần Bình Thuận.

Chiến thắng này có được nhờ vào sự bền chí và sự tự tin của Nguyễn Ánh, đã làm Ánh kiêu hãnh. Nguyễn Ánh trở về Gia Định với tư cách là kẻ chiến thắng và tự xưng Nguyễn vương148.

Nguyễn Văn Lữ thất trận, chưa nghĩ đến chuyện báo phục. Nguyễn vương lợi dụng tình hình tĩnh lặng ấy để phô trương quyền lực của mình trong tất cả các vùng ở hạ Đàng Trong; tạo cho quyền lực đang nắm giữ một sắc thái dứt khoát, chỉ giữ lại những người trung thành đã theo mình mà không hề phàn nàn, gạt đi những kẻ khác, ông cai trị với tư cách người chủ tuyệt đối, buộc tất cả mọi người phải tôn trọng con người và uy quyền của Nguyễn vương.

Vương vẫn không quên thái độ lạnh lùng của người láng giềng Cao Miên, vốn là chư hầu của xứ Đàng Trong theo điều ước 1675. Thế nên, một khi Nam bộ đã bình định xong, Nguyễn vương dứt khoát từ nay bảo đảm cho mình sự tuân phục của vua nước láng giềng. Nguyễn vương lợi dụng những rối rắm nội bộ ở vương quốc Cao Miên để làm cho vua nước này hoảng sợ bằng những chuẩn bị chiến tranh mà trong thực tế mình không có ý định theo đuổi chút nào. Vua Cao Miên sợ hãi, chấp nhận thực hiện lại hiệp ước Bảo hộ [protectorat] và triều cống thường niên (năm 1778).

Một thời gian ngắn sau, Nguyễn Ánh rút lực lượng về Biên Hòa để có thể trông nom toàn vùng hiệu quả hơn. Chính vào giai đoạn này, vai trò của Giám mục Adran được khẳng định thông qua trong những hoạt động của vương quốc. Nguyễn vương thường xuyên tham khảo ý kiến và rất thường nghe theo ý kiến của vị giám mục trước sự bất mãn của tướng sĩ, sợ rằng chủ nhân của mình cải đạo theo Thiên Chúa giáo. Quả tình giám mục sử dụng tất cả ảnh hưởng của mình để nhằm thuyết phục Nguyễn Ánh. Nhưng Nguyễn vương, vừa không cản trở các khuynh hướng nảy nở trong đám cận thần của mình, cũng không nhiệt tình ủng hộ uy tín của giám mục đang lan rộng trong quần chúng Nam bộ. Nguyễn Ánh và Giám mục Adran mỗi người theo đuổi quan điểm của mình đồng thời lừa dối lẫn nhau. Nguyễn vương nuôi mong ước trở về Thuận Hóa, cảm nhận sự cần thiết phải tôn trọng giám mục vì sự giúp đỡ của giám mục có thể là rất quý báu. Nguyễn vương dẫn dắt một cách từ tốn giám mục đến với ý tưởng về một quan hệ với nước Pháp vừa làm cho choáng ngợp về những lợi ích mà sự hợp tác có thể mang lại cho hai quốc gia. Pigneau de Béhaine, người mà tham vọng không thiếu phần hào hiệp, nóng lòng đóng một vai trò khẳng định được những phẩm chất của một con người hành động và của một nhà ái quốc. Giám mục biết rõ hơn ai hết những tài nguyên đa dạng của châu Á. Trên quan điểm kinh tế cũng như quan điểm chính trị, nước Pháp chỉ việc rút được những lợi lộc vô tận từ một liên minh như thế mà rất ít chịu tốn kém hy sinh. Sự can thiệp của giám mục vào những công việc của người An Nam gây một tác động rõ rệt đối với hoạt động của người Anh và mang lại cho Chính phủ Pháp những phương tiện hiệu quả, không chỉ ngăn cản người Anh thực hiện những dự án mà họ phải hất cẳng người Pháp ra khỏi Ấn Độ để bành trướng và mở rộng cơ sở của khắp mọi nơi trên vùng bờ biển phía đông, mà còn làm người Anh phải lo ngại trong vịnh Bengale vốn là đại bản doanh của họ.

Giám mục nghĩ đến việc viết một lá thư cho Chính phủ Pháp, thì bỗng nổ ra một cuộc khởi nghĩa buộc ông cùng các linh mục và học viên trốn chạy. Nguyễn vương cố gắng trấn áp bạo loạn, nhưng đành chịu thua trước quy mô rộng lớn của nó. Vương phải về ẩn nấp trong vùng Vàm cỏ, nơi có một số tướng sĩ tìm về theo trong khi quân Tây Sơn chiếm lại đất Phú Yên và Bình Thuận. Nguyễn vương không cách gì chặn đứng quân địch, phải chạy về Rạch Giá rồi Hà Tiên và cuối cùng lên thuyền ra Phú Quốc. Giám mục đã lánh ẩn bên Cao Miên, nhưng bỗng chốc lại bị đe dọa. Nguyễn Văn Nhạc sau khi áp đặt quyền Bảo hộ với vua Cao Miên, yêu cầu vị này phải giao nộp những kẻ đào tị Nam bộ. Pigneau de Béhaine trốn được qua đất Lào, lang thang từ làng này sang làng khác mà không tìm đâu ra một nơi trú ẩn an toàn. Mãi cho đến khi quân Tây Sơn rút về thì giám mục mới trở lại Gia Định, chờ Nguyễn vương trở về Gia Định lần thứ hai (năm 1782)149.

Nguyễn vương không hưởng được sự bình yên lâu dài. Qua năm sau, quân Tây Sơn lại xuất hiện. Ánh bị đánh bại, chạy về ẩn nấp ở Ba Giồng, gần Mỹ Tho. Quanh Ánh chỉ còn lại sáu tướng và một trăm quân cùng theo về đến Long Xuyên ngày 26 tháng 9 năm 1783. Chỉ huy quân Tây Sơn tên là Nguyễn Hòa rượt theo, sai một đội thủy binh gồm năm mươi chiến thuyền trấn đóng ở cửa sông Đốc để chặn đường. Nhưng Nguyễn Ánh được các tù binh thông báo việc nguy hiểm đang đe dọa, ra lệnh lập tức khởi hành, tận lực tay chèo để thoát hiểm. Quân rượt theo không bắt kịp, Nguyễn Văn Lữ và Nguyễn Văn Huệ đành phải quay về Qui Nhơn, để lại phò mã Trương Văn Đa và Chưởng tiền Bảo trông coi vùng Nam bộ. Thuyền chở nhóm người đào tẩu ghé đến Hòn Chông, nhưng chỉ dừng tại đảo Poulo-Panjab150 sau một hành trình thê thảm sáu ngày trên biển cả cuồng nộ.

Một sự kiện bất ngờ đón chờ Nguyễn Ánh trên đảo: Giám mục Adran và các đồng đạo đã đến đảo Poulo-Panjab trước đó vài hôm, nơi mà một cảm hứng phù hợp cũng dẫn dắt Nguyễn vương đến. Sự hiện diện của Pigneau de Béhaine làm vững lòng vương và gia đình. Đối diện nghịch cảnh với một nghị lực quen thuộc, vương lập tức thảo luận với giám mục những phương cách để tiếp tục chiến đấu. Vùng Nam bộ không còn cung cấp nguồn lực được nữa, họ quyết định xin nước Xiêm giúp đỡ. Giám mục tự mình đi Vọng Các (Bangkok ngày nay) thương thảo những điều khoản về một hiệp ước. Giám mục được tiếp đãi lịch sự, vua Xiêm cung cấp cho Nguyễn vương một nơi trú ngụ trong lãnh thổ của mình, nhưng từ khước dấn thân vào một cuộc phiêu lưu quân sự mà ông cho là quá sớm.

Giám mục quay về lại Poulo-Panjab báo cáo cho Nguyễn vương kết quả của chuyến đi. Giám mục bắt gặp lúc trở về đảo những đại diện của chính quyền Hà Lan ở Batavia đang lôi kéo Nguyễn Ánh chấp thuận nhượng độc quyền thương mãi ở Nam bộ cho họ, đổi lại họ hứa hẹn giúp vương lên ngai vàng. Giám mục kinh hoàng, thuyết phục Nguyễn Ánh cắt đứt mọi thương thảo đã giao kết trong thời gian giám mục vắng mặt. Giám mục trình bày cho vương biết là một hiệp ước như thế chỉ mang lại cho vương lợi ích hão huyền khi cai trị một dân tộc làm nô lệ cho ngoại bang. Nguyễn Ánh không phải là không hiểu điều ấy, nhưng đồng thời có người Anh và người Bồ đào Nha đến cầu xin, vương so sánh những hứa hẹn của nhóm người này với những hứa hẹn của nhóm người khác, thương lượng, thảo luận, mưu mẹo. Quá khôn ngoan để không phải cho nhiều hơn nhận, vương cố gắng dẫn dắt Giám mục Adran đến chỗ đề nghị một giúp đỡ vô vị lợi từ phía Pháp. Pigneau de Béhaine không ngừng theo đuổi hy vọng về một thỏa hiệp sẽ có ảnh hưởng đến vị thế của Pháp tại Ấn Độ, đệ trình lên vương một dự thảo hiệp ước mà giám mục vẫn cất giữ bấy lâu. Vương chuẩn y, tập hợp một hội đồng và sau nhiều lần thảo luận, chính thức giao phó cho giám mục nhiệm vụ gửi đến vua Louis XVI dự thảo hiệp ước ấy đồng thời ủy thác cho giám mục mang con của vương là Hoàng tử Cảnh151, sinh tại Biên Hòa năm 1779, cùng đi theo. Có lẽ rất thú vị khi đưa vào đây toàn bộ nội dung hiệp ước do một vị vua An Nam đề nghị với nước Pháp vào một giai đoạn mà chính sách của các bộ trưởng Pháp đặt nặng vấn đề thứ tự độc quyền, những cuộc phiêu lưu xa xôi được xem như những việc làm khinh suất, vô ích và tốn kém:

“Hội đồng Hoàng gia sau khi đã thảo luận về tình trạng hiện tại của công việc nhà nước, quyết định:

1. Rằng sự giúp đỡ của một cường quốc phương Tây trở nên cần thiết để khôi phục trở lại cương vị của Đức vua. Đức vua xin trao quyền lợi của mình vào tay quốc vương nước Pháp, là quốc gia mà sức mạnh, lòng tốt và sự công chính của chính phủ được Đức vua biết đến, ưu ái hơn mọi cường quốc khác.

2. Rằng để bắt đầu và chấm dứt việc thương thảo cho công cuộc trọng dại này, Đức vua phó thác cho Giám mục Adran, người gốc Pháp, mà từ lâu cả nước đều biết tính cẩn trọng và lòng yêu mến điều thiện.

3. Rằng Đức vua ban cho giám mục những quyền hành không giới hạn, để nhân danh ngài, yêu cầu triều đình Pháp quốc những hỗ trợ cần thiết và thực hiện cùng với triều đình Pháp quốc những thỏa thuận phù hợp nhất và thích đáng nhất để mang lại lợi ích cho hai quốc gia liên quan.

4. Rằng để bảo đảm với triều đình Pháp quốc sự trung thực trong những mục đích của mình, Đức vua chấp thuận ủy thác hoàng tử, con trai duy nhất kế nghiệp của quốc gia, cho vị giám mục người Pháp nói trên tùy nghi săn sóc để giáo dục vị hoàng tử mà Đức vua rất yêu dấu và rất trân quý đối với quốc gia.

5. Rằng để tránh những khó khăn trong việc bảo chứng nội dung đích thực của văn bản được viết bằng ngôn ngữ nước ngoài trong một xứ sở chỉ có những người liên quan là thông hiểu, Đức vua ủy thác cho giám mục nói trên ấn tín hoàng gia và, tại mọi quốc gia, được xem như là sự ủy nhiệm vương quyền, để trong mọi trường hợp, triều đình Pháp quốc được bảo chứng về những quyền hạn của Giám mục Adran và có thể tin cậy vào những thắng lợi của việc hợp tác mà triều đình Pháp quốc sẽ có thể thực hiện.

6. Rằng giám mục nói trên sẽ nhân danh quốc vương xứ Đàng Trong, yêu cầu triều đình Pháp quốc hỗ trợ một ngàn năm trăm binh sĩ, một số chiến hạm cần thiết để chuyên chở pháo binh diện địa, đạn được quân nhu cần cho chiến tranh, và nói chung tất cả những gì cần thiết và hữu dụng cho cuộc viễn chinh.

7. Rằng đi cùng với hoàng tử và Giám mục Adran có hai võ quan cao cấp của triều đình cùng đoàn tùy tùng; hai tướng này152 cũng là con tin đảm bảo ý muốn chân thành của Đức vua về việc hợp tác với triều đình Pháp quốc.

8. Rằng Giám mục Adran, thay mặt nhà vua và Nội các, có nhiệm vụ đề nghị nhượng và tặng cho quốc vương Pháp toàn quyền sử dụng hòn đảo hải cảng chính của Đàng Trong mà người Pháp gọi là Tourane còn người bản xứ gọi là Hội An, để tùy ý xây dựng cơ sở.

9. Rằng thừa nhận quyền sở hữu của Pháp quốc, cùng với người xứ Đàng Trong, đối với hải cảng nói trên để trông coi, sửa chữa hoặc đóng mới các tàu thuyền mà triều đình Pháp quốc nhận thấy cần thiết.

10. Rằng giám mục nói trên sẽ đề nghị triều đình Pháp quốc quyền sở hữu đảo Poulo-Condor (Côn Đảo).

11. Rằng Đức vua chấp thuận cho Pháp quốc buôn bán trên lãnh thổ của mình, loại trừ mọi quốc gia phương Tây khác.

12. Rằng Đức vua cam kết, nếu Pháp quốc giúp đỡ và khôi phục cho ông ngôi vị, thì ông cũng trợ giúp tương tự cho vua Pháp quốc bằng binh lính, thủy thủ, lương thực, tàu thuyền... vào mọi lúc khi được yêu cầu và mọi nơi khi cần thiết.

13. Rằng Đức vua báo trước cho Giám mục Adran, nếu triều đình Pháp quốc yêu cầu những điều mà hoàng thượng không lường trước được, thì giám mục nói trên chỉ được phép chấp thuận khi các điều khoản đòi hỏi không phương hại bằng mọi lẽ đến lợi ích của thần dân trong vương quốc. Rằng giám mục nói trên, là người hoàn toàn hiểu biết phong tục và tập quán của xứ Đàng Trong, sẽ trình bày với triều đình Pháp quốc rằng hiệp ước mà Đức vua mong muốn thực hiện với triều đình Pháp quốc sẽ chỉ nhất quán khi các điều khoản công bằng và hữu ích cho các quốc gia ký kết.

14. Cuối cùng, Đức vua cho Giám mục Adran hiểu rằng, lúc trao trọn cho giám mục số phận của mình và của tất cả thần dân, Đức vua chờ mong - bằng vào sự gắn bó của ông với bản thân Đức vua, giám mục sẽ tiến hành thương thảo này, với sự mau chóng tùy theo hoàn cảnh, mọi sự cẩn trọng mà Đức vua đã luôn luôn thừa nhận ở giám mục - rằng sự cứu rỗi một thánh chức mà ông đã luôn hoàn thành với nhiệt huyết phải tùy thuộc vào cuộc thương thảo này, và vì thánh chức ấy cho đến nay giám mục đã chịu nhiều hy sinh to lớn nhất.

Rằng cuối cùng, thành công này sẽ minh chứng cho lòng nhân từ của Đấng Tối Cao mà giám mục là sứ giả và lòng khoan dung quốc vương vĩ đại mà giám mục là thần dân, giám mục sẽ mãi mãi xứng đáng với lòng biết ơn của Đức vua và của vương quốc Đàng Trong.

Hội đồng Hoàng gia, ngày 10 tháng Bảy năm Cảnh Hưng thứ 43 [18-8-1782].

Hoàng tử Nguyễn Phúc Cảnh - tranh vẽ của họa sĩ Pháp Mauperin, Paris, 1787.

Giám mục và Hoàng tử Cảnh rời Poulo-Panjab ngày 25 tháng 11 năm 1784 để di Pondichéry và đến nơi vào tháng 2 năm 1785, sau khi đã dừng chân tại Malacca một thời gian.

Nguyễn Ánh cũng lên thuyền về đất liền một thời gian ngắn sau khi giám mục ra đi, để nắm quyền chỉ huy một đội quân mà vua Xiêm đột nhiên quyết định gửi đi đánh quân Tây Sơn. Cuộc viễn chinh này kết thúc bằng một thất bại thảm hại và vương trở về ẩn náu trên đảo cũ153, gửi cho Giám mục Adran thông tin về cuộc thất trận như sau:

“Sau khi Đức thầy ra đi thì đến lượt chúng tôi. Chúng tôi và quân đội Xiêm đến Mang Thít [Mân Thít] với hy vọng đánh dẹp bọn nổi loạn Tây Sơn. Chúng tôi đã bắt giữ một chiến thuyền và năm thuyền vận tải, rồi chúng tôi đến thẳng vùng Rạch Giá. Tại đấy, quân Xiêm mặc sức buông thả vào những ham muốn của chúng, cướp bóc, hãm hiếp đàn bà và con gái, trộm cắp tài sản của người dân, giết chóc không phân biệt trẻ hay già. Vì thế mà lực lượng phe nổi loạn càng ngày càng phát triển trong khi lực lượng quân đội Xiêm càng lúc càng giảm sút. Điều đó khiến cho chúng tôi nhận thảm bại vào mồng 8 tháng Chạp [tức ngày 18 tháng 1 năm 1785]. Tất cả các đội quân đều bị đánh tan. Thêm vào đó, ngày chúng tôi bị một cơn bão, mà thuyền bè ở các đảo lại vẫn cứ bình như vại. Hoàng thái tử [Cảnh] của chúng tôi đã lên thuyền vào lúc 10 giờ ngày rằm [tức ngày 25 tháng 11 năm 1784], còn bây giờ chúng tôi đã về lại trạm cũ Hòn Khoai”.

Nguyễn Ánh ở lại trên đảo đến ngày 9 tháng 4 năm 1785. Cuối cùng, quyết định chấp thuận lời mời của vua Xiêm, lên thuyền đi Vọng Các và ở lại nơi ấy đến tận ngày 13 tháng 8 năm 1787.

Tại Pondichéry, Giám mục Adran hy vọng có thể thuyết phục quan thống đốc154 một cách dễ dàng về lợi ích của một sự ủng hộ lập tức đối với người sẽ trở thành quốc vương. Thế nhưng, một nỗi thất vọng dành sẵn cho giám mục từ những người mà ông đặt nhiều hy vọng nhất. Giới giáo sĩ ở Pondichéry, thay vì thuận ý theo những quan điểm chính trị của ông, đã phàn nàn dữ dội rằng ông đã bỏ rơi Sứ mệnh Thừa sai của mình để chạy theo một cuộc phiêu lưu mà họ cho là ngược lại với tính cách mà ông được đào tạo.

Nhiều báo cáo được gửi đến các Giám đốc Chủng viện tại Paris, lên án với những lý do không phải là không có thực, rằng giáo sĩ, vì tình thân với Nguyễn Ánh, đã khiến cho Tây Sơn căm ghét người Thiên Chúa giáo ở Đàng Trong. Báo cáo trách cứ bằng những ngôn từ mãnh liệt rằng giám mục muốn thúc đẩy nước Pháp vào một cuộc phiêu lưu vô bổ đối với quốc gia và đầy hiểm nghèo cho tôn giáo, bởi lẽ dưới mắt của tất cả mọi người hẳn nhiên rằng quân nổi dậy sẽ thắng một cách dễ dàng quân đội phương Tây, bị phó mặc duy nhất vào khả năng của chính mình trong một xứ sở độc hại như thế, và hướng tất cả sự cuồng nộ về phía những cơ sở phải khó nhọc lắm mới dựng lên được của những linh mục Hội Thừa Sai.

Ngoài những chống đối không ngờ của giới tu sĩ, giám mục tìm được rất ít sự ủng hộ từ những đại diện của chính quyền. Ông Coutanceau des Algrains, cựu chiến binh có đầu óc tỉ mỉ, không có ác ý, nhưng cũng không có cá tính, cai quản thuộc địa [Pondichéry], với người phụ tá là đại tá hải quân de Souillac. Hai người này, vốn không muốn báo động sự ngờ vực cho chính phủ Anh quốc bằng những sáng kiến mà họ cho là nguy hiểm, đã đón tiếp trân trọng giám mục, nhưng tuyên bố với ông rằng kế hoạch của giám mục là không thể thực hiện được. Họ khuyên giám mục nên từ chối nhiệm vụ sứ giả mà vua xứ Đàng Trong giao phó và đừng vượt quá giới hạn của vai trò dẫn dắt con chiên của mình. Thống đốc viết thư cho bộ trưởng để trình bày những lúng túng của mình, liệt kê những lý do khiến ông cho rằng một cuộc viễn chinh đến một xứ sở mà ông tuyên bố là thiếu thốn mọi tài nguyên khả dĩ thu hút người Âu châu là quá mạo hiểm.

Như thế, về phía các tu sĩ, cũng như về phía đại diện của Pháp hoàng, Pigneau de Béhaine không tìm ra nơi nào để trông cậy. Chán nản với những người đồng hương mà ông tin có thể tìm được sự đón nhận nồng nhiệt, ông nghĩ có thể kêu gọi người Bồ Đào Nha giúp đỡ, và ông đã viết thư gửi cho Nghị viện Macao vào ngày 8 tháng 7 năm 1785. Lá thư nói lên tâm trạng của giám mục vào lúc ấy, bị công kích vì những tình cảm nảy sinh với Nguyễn Ánh, vì những tấm lòng yêu nước và vì tinh thần trách nhiệm của mình:

“Tháng 4 năm 1780, tôi nhận một lá thư của ông Francis Xavier De Castro, lúc ấy là thống đốc Macao. Theo thư ấy, thống đốc nhờ tôi xin vua xứ Đàng Trong cho thống đốc Goa giấy phép đặc quyền khai khác thương mãi của xứ Đàng Trong. Đổi lại, thống đốc Goa sẽ có trách nhiệm tìm mọi cách giúp đỡ Đức vua khôi phục cương vị của mình ở trong nước.

Lúc nhận được thư thì tôi đang lẩn trốn trong vương quốc Cao Miên, vì thế tôi không thể làm thỏa mãn yêu cầu ấy. Lúc đi qua vịnh Xiêm La, tôi đã gặp Đức vua. Tin rằng sứ mạng là... ông hoàng ấy, tôi... chuyển hướng, hứa giới thiệu ông với những cường quốc Thiên Chúa giáo. Để yên tâm hơn, tôi cũng đã yêu cầu Đức vua trao cho tôi con trai duy nhất của ông mà hiện nay đang ở bên cạnh tôi. Bởi vì lúc ấy tôi không thể đi đâu khác ngoài Pondichéry, tôi định trước hết ưu tiên cung cấp việc ấy cho người Pháp, nhưng tôi thấy họ có quá ít đức tin nên tôi, nói trước mặt Chúa, đã quyết định tiếp xúc với quốc gia Bồ Đào Nha. Người Anh, vào năm 1778, đã đến với ý muốn giúp đỡ ông hoàng này... Trong năm này, họ nhiều lần năn nỉ tôi chấp thuận giao cho họ hoàng tử trẻ tuổi. Nhưng ngài cũng khá hiểu những lý do mà vì thế tôi không thuận làm họ vui lòng. Chỉ có những lý do tôn giáo, trước Chúa và con người, mới có thể miễn xá cho tôi khi chọn một quốc gia khác ngoài quốc gia tôi thuộc về. Vì lý do ấy tôi đề nghị giao lại cho Đức vua xứ Đàng Trong, con trai của người, sáu hoặc bảy trọng thần, những phương cách dễ dàng để khôi phục ngôi vị cho Đức vua, và không chỉ là những phương cách để bù lại những tiêu tốn có thể cần phải hao phí, mà còn để thiết lập trong xứ sở ấy một nền thương mãi vừa sáng lạng cho nước Bồ Đào Nha lại vừa có lợi cho thành phố Macao... Nếu chẳng may không nhận được tin tức của Đức vua ở nơi đã chỉ định (Poulo-Panjab), công việc vẫn sẽ không đổi, vì trong tay tôi vẫn có hoàng tử bé mà tôi sẽ đưa về Macao. Tất cả những ai đã gặp tôi ở xứ Đàng Trong đều khá hiểu kinh nghiệm tôi đã trải qua trong nước để thừa nhận rằng tôi không đề xuất bất cứ điều gì mà tôi không được yên tâm.

Mong ngài cho tôi biết sớm quyết định của ngài về vấn đề này và cho dầu ngài quyết định như thế nào cũng xin giữ thật kín giúp tôi. Quốc gia tôi sẽ chỉ có thể thấy rất tệ rằng sau khi đã trình bày điều này với họ như là không mấy ích lợi, mà nay tôi lại đã trình bày với ngài bằng một cách khác”.

Tuy nhiên, giám mục cũng đồng thời viết thư cho bộ trưởng Pháp, hầu tước de Castries155. Điều ấy chứng tỏ giám mục gọi người Bồ Đào Nha chỉ là chuyện trái lòng, vì thất vọng. Sự ngưng trệ công việc đè nặng lên ông, thái độ thù nghịch của những người chung quanh làm ông bất bình. Và con người thép ấy, bị dày vò vì những cảm xúc trái ngược, phó mặc mọi sự. Có lúc ông định buông bỏ tất cả, đi ngược lên phía bắc xứ Đàng Trong, bấy giờ là giang sơn của Tây Sơn, chấp nhận tuẫn đạo. Nhưng sự suy sụp ấy chỉ kéo dài một thời gian ngắn, lúc trở lại chiến đấu, giám mục đã chinh phục cho mục đích của mình những thương gia ở Pondichéry và Bourbon đang muốn phát triển mạng lưới thương mãi vốn bị người Anh kiểm soát gắt gao. Chính vào lúc ấy các ông Coutanceau des Algrains và de Souillac được thay thế bởi các ông Charpentier de Cossigny và đại tá hải quân d’Entrecasteaux. Vị đại tá này, một thủy thủ hạng nhất, một sĩ quan lỗi lạc nhờ vào một trí tuệ chính xác, tầm nhìn rộng rãi về các vấn đề thuộc địa, đặc biệt chú ý đến các kế hoạch của giám mục. Ông nhiệt tình chấp thuận đưa giám mục lên tàu đi Pháp để biện hộ cho mục đích của Nguyễn Ánh. Cuộc du hành này thoạt tiên không nằm trong kế hoạch của Pigneau de Béhaine, nhưng cuối cùng giám mục thuận theo những lý do của d’Entrecasteaux, viết thư yêu cầu Nguyễn Ánh ẩn nấp tại Pondichéry dưới sự bảo vệ của người Pháp. Cuối cùng, giám mục lên đường vào tháng 6 năm 1786 trên một chiếc tàu do thuyền trưởng Pignatel chỉ huy, là người được ông Charpentier de Cossigny, thống đốc Pondichéry, ủy thác một lá thư đệ trình lên Bộ trưởng Bộ Hải quân.

“Kính thưa ngài. Tôi đã không thể từ chối lời yêu cầu của đức Giám mục Adran muốn tôi chấp thuận một chuyến đi miễn phí trên thương thuyền Le Malabar. Giám mục đi cùng với con trai của một vị vua mất ngôi của xứ Đàng Trong, cùng với hai hay ba người phục vụ. Cách đây mười lăm tháng, giám mục cùng một phái đoàn bốn mươi người đến Pondichéry, nơi giám mục dự trù chờ đợi câu trả lời cho những lá thư mà giám mục đã viết về vấn đề mà ông Coutanceau lúc ấy còn là chỉ huy tại Pondichéry đã báo cáo lại với ngài.

Bị Giám mục Adran chất vấn về những điều mà giám mục hy vọng từ phía Chính phủ Pháp, tôi tự cho có bổn phận thông báo rằng những gì mà ông Coutanceau đã báo cáo với ngài đã không thuận lợi cho kế hoạch của giám mục. Điều ấy khiến giám mục quyết định tự mình đi gặp ngài để trình bày.

Kính thưa ngài. Tuyệt nhiên không đi sâu vào những quan điểm của Giám mục Adran, mà tuy thế, tỏ ra là quan điểm của một người yêu nước chân chính, tôi không thể cùng ý kiến với ông Coutanceau khi ông nhìn cuộc viễn chinh này như là một công việc trái ngược với quyền lợi của quốc gia, trái với một chính sách lành mạnh, rất khó thực hiện và rất vô ích.

Cuối cùng, lúc giám mục đến gặp được ngài, ngài sẽ cũng phán xét được tầm vóc của những quan điểm, trí tuệ của giám mục, những lợi ích mà quốc gia có thể rút tỉa từ cuộc viễn chinh ấy”.

Thống đốc Pondichéry đã tỏ ra khá can đảm khi viết những dòng này. Không nhằm thực hiện một phán xét chung về người tiền nhiệm, ông chỉ làm cho hiểu rằng những thành kiến của người này về dự án đã đệ trình lên ông ta không dựa lên trên một nghiên cứu nghiêm túc nào của sự việc. Như thế, thống đốc đã tạo cho giám mục một điểm tựa còn quý báu hơn là những từ ngữ cẩn trọng và cân nhắc trong lá thư có thể gây nghi ngờ là ông có thiên kiến.

Về phần mình, ông d’Entrecasteaux có sáng kiến gửi chỉ huy de Richéry đi khảo sát vùng bờ biển xứ Đàng Trong và đặc biệt vịnh Dừa mà giám mục đã cho biết là một nơi hoàn toàn sẵn sàng cho việc vận hành khéo léo một cuộc đổ bộ khi cần. Ông cũng giao phó cho de Richéry liên lạc với Nguyễn Ánh và cung cấp cho Nguyễn Ánh một chỗ lưu trú tại Pondichéry, nói tóm lại, chuẩn bị mọi sự cho một cuộc viễn chinh có thể xảy ra khi Pháp hoàng đồng ý.

Chỉ huy de Richéry hoàn thành sứ mạng nhưng không mang được Nguyễn Ánh về, vì vua Xiêm giữ Ánh lại dưới dạng cầm tù. Tuy thế, thuyền trưởng trình lên ông d’Entrecasteaux một lá thư của Nguyễn Ánh khẳng định chọn lựa của mình, tránh né những đề nghị lặp đi lặp lại của Nữ hoàng Bồ Đào Nha và chỉ chờ đợi từ mỗi nước Pháp sự giúp đỡ mà vương đang cần.

Tuy vậy, những chỉ dẫn trong báo cáo về chuyến khảo sát của de Richéry cho phép d’Entrecasteaux vạch nên những nét khái quát của chiến dịch mà ông dự trù tự mình điều khiển. Ông nôn nóng chờ đợi lệnh của bộ trưởng cho phép ông lấy trong đội ngũ đồn trú ở đảo Bourbon một lượng quân đội sẽ được gọi để mang cờ thêu hình hoa huệ đến xứ Đàng Trong. Lệnh ấy rồi chẳng bao giờ đến với ông.

Trong thời gian ấy, Giám mục Adran dong buồm đi về Pháp quốc và cập bến Lorient vào tháng 2 năm 1787, sau tám tháng hải hành đầy gian khó. Một thời gian ngắn sau, qua trung gian của cha Liot, giám đốc chủng viện tại Chantaboun, giám mục nhận được một lá thư cung cấp cho chúng ta những chi tiết kỳ lạ về tình trạng tinh thần của Nguyễn Ánh, người đang chịu sự giám sát của vua Xiêm và những tình huống cản trở vương lên tàu đi Pondichéry.

Nghị viện Macao đã nhận những đề nghị của Giám mục Adran, vội vàng gửi một con tàu tới Vọng Các vì được biết Nguyễn Ánh đã rút về núp tránh ở đấy. Phái bộ Bồ Đào Nha đã gặp de Richéry ở đây cùng một lý do. Nhưng Nguyễn Ánh không thể rời khỏi nước Xiêm vì sĩ quan người Pháp từ chối không đến đợi Ánh tại đảo Poulo-Panjab, mặc những lời cầu khẩn của thầy giảng Paul Nghị là người đi theo có nhiệm vụ thông dịch.

“... Kể từ khi Đức thầy kính mến chấp nhận trách nhiệm nặng nề của sứ mệnh liên quan đến những công vụ quốc gia, với lòng quả cảm Đức thầy đã phải đi xa và việc chia tay khiến kẻ Bắc người Nam, cho đến nay, nhân vật khốn khổ của chúng tôi không ngừng chờ đợi và hy vọng, như một kẻ đói ăn khát uống. Năm trước, vào tháng Sáu (ngày 16 tháng 7 đến ngày 5 tháng 8 năm 1785), là thời điểm hẹn đã thỏa thuận, chúng tôi tuyệt đối không nhận được một tin tức nào, lòng nôn nóng và lo lắng của chúng tôi đã tới mức không chịu đựng nổi. Nhưng giờ đây, vào năm này, ngày 30 tháng Tám (ngày 21 tháng 10 năm 1786), chúng tôi được biết rằng thầy Bảo Lộc (Paul Nghị), các quan Khiêm Quang và Long Chính đã trao cho quan Quý Ngọc156 một lá thư mang đến cho chúng tôi để tường trình mọi việc. Thoạt tiên, chúng tôi tưởng rằng đã mất tất cả, nhưng cuối cùng chúng tôi nhận ra là nền móng nước nhà vẫn còn vững bền, rằng gia tộc họ Nguyễn được ban phước lớn và rằng Đức thầy kính mến sẽ mang lại cho chúng tôi cửu đỉnh bằng cách trải lòng thực hiện công việc khó khăn này, tận lực giúp đỡ chúng tôi. Đức thầy hoàn hảo như một viên ngọc đã được mài giũa. Ân huệ vô song ấy ghi khắc trong tâm can chúng tôi, cho đến lúc răng chúng tôi rụng hết cũng không quên sự việc này. Chính vì thế chúng tôi quyết tâm, như ngài đã nói với chúng tôi, phải chuẩn bị mọi thứ để ra đi. Nhưng ai dám chắc điều này? Ý đồ của con người theo một đường, mà quyết định của Thượng đế thì không phù hợp. Thế là vào ngày mồng 2 tháng Chín (ngày 23 tháng 10 năm 1787), chiếc tàu Tu Ton Roi bỗng nhiên đến, mang theo một lá thư của Nữ hoàng Bồ Đào Nha và một lá thư khác của sĩ quan chỉ huy thành Goa. Họ đã trình lên nhân vật khốn khổ của chúng tôi, báo rằng lực lượng của họ đã sẵn sàng tại Goa với năm mươi sáu chiến hạm. Vì thế, họ đi tìm nhân vật khốn khổ của chúng tôi. Ngoài ra, còn có hai lá thư gửi đến vua Xiêm cùng với các quà tặng gồm hai mươi khẩu súng tay và súng vừa cùng với một trăm tấm vải mịn châu Âu để cám ơn vua Xiêm và xin được phép mang nhân vật khốn khổ của chúng tôi đi, đưa quân đội ra trận để thanh toán bọn phản loạn Tây Sơn. Nhưng công chuyện này chúng tôi đã trông cậy vào Đức thầy bề trên, làm sao chúng tôi có thể tự quyền ưng thuận tìm đến với một quốc gia khác? Vì thế, chúng tôi đã phải cám ơn họ và lịch sự tiễn họ ra đi.

Nhân vì việc này, vua Xiêm nảy ý nghi ngờ, cho rằng chúng tôi muốn ra đi với chiếc tàu ấy. Hằng ngày, nhà vua sai người theo dõi và điều này làm chúng tôi khó thực hiện kế hoạch của mình. Dường như không còn thuận tiện nữa cho chúng tôi để lên đường vào tháng Mười (ngày 21 tháng 11 đến ngày 20 tháng 12 năm 1786) theo những hướng dẫn và mong ước của thuyền trưởng Ri-Xi-Ri (Richéry). Chúng tôi phải chờ tàu Tu Ton Roi ra đi để làm dịu bớt mối nghi ngờ của vua Xiêm, đến lúc ấy chúng tôi mới dễ dàng quyết định. Vì thế, chúng tôi gửi quan Quý Ngọc đến đảo Thổ Châu để nói với thuyền trưởng (de Richéry) giữ lại thầy Bảo Lộc (Paul Nghị) và yêu cầu để lại một người hoa tiêu cùng một số súng, trong vài tháng nữa nhân vật khốn khổ của chúng tôi sẽ theo sau. Còn về phần tàu thì xin cứ về trước, mang thư cho Đức thầy bề trên và cho sĩ quan chỉ huy thành phố (Pondichéry), về phần hoàng tử còn quá bé nhỏ, chúng tôi gửi gắm cho Đức thầy bề trên để Đức thầy tự định liệu cách nào tốt thì làm. Hoàng tử sẽ ở lại hoặc sẽ trở về tùy ý định của Đức thầy và cho dầu có định liệu theo cách nào đi nữa, nhân vật khốn khổ của chúng tôi cũng vẫn bằng lòng.

Nếu Đức vua nước Đại Tây157 có lòng chiếu cố thương xót lãnh thổ nhỏ bé của chúng tôi mà gửi quân đội sang giúp nhân vật khốn khổ của chúng tôi và nếu Đức thầy bề trên gắng sức trở lại thì chúng ta sẽ cùng chia sẻ mọi lo toan. Đây là một công việc phải cẩn thận lo liệu, không nên nản lòng vì những khó nhọc có thể xảy ra.

Cảnh Hưng năm thứ 47, tháng Chín, ngày 14 (ngày 4 tháng 11 năm 1786)”.

Lời thỉnh cầu khiêm tốn này ám chỉ kế hoạch giám mục đã xây dựng để trở lại Huế. Lời kêu gọi của Nguyễn Ánh gửi tới người cố vấn của mình cũng không thiếu tầm vóc lớn lao. Nó làm hiển lộ cảm xúc sâu xa của con người lạ lùng kia mà tâm lý bí ẩn của mình đã làm hoang mang tất cả những người đương thời. Đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng trong đời, Nguyễn Ánh bộc lộ một lòng thành thực đã khiến ông trao số phận của con trai cho người bạn mình như một bằng chứng của sự tin cậy, với một phẩm cách oai nghiêm mà thật xúc động.