← Quay lại trang sách

Chương IV

Người Pháp ra đi

- Thủy chiến tại Qui Nhơn

- Cái chết của Hoàng tử Cảnh

- Đánh chiếm thành Huế

- Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế

- Quân Nguyễn lấy lại thành Qui Nhơn

- Mặt trận ở xứ Đàng Ngoài

- Công trình hành chính của vua Gia Long

- Chính sách đối ngoại của vua Gia Long

- Chính sách thuộc địa của quận công Richelieu

- Sứ mệnh của ông Kergariou

- Sứ mệnh của Chaigneau

- Cái chết của vua Gia Long

Sự qua đời của Pigneau de Béhaine đã làm những người Pháp đi theo giám mục đến Đàng Trong cực kỳ buồn khổ. Họ mất đi ở giám mục, không chỉ một người bạn đáng kính mà còn một người thủ lĩnh nghị lực có uy tín to lớn đủ sức bảo vệ họ chống lại mối căm hận âm thầm của các võ tướng, ghen tị với họ vì họ có được sự tín nhiệm của Nguyễn vương và vì vị thế ưu đãi mà họ đạt được.

Nhiều người trong bọn họ đã từ lâu mong muốn về lại nước Pháp, nhưng vì tình cảm gắn bó với Pigneau de Béhaine níu giữ họ lại phục vụ cho Nguyễn Ánh, giờ đây lại nôn nóng khẩn khoản vương cho nghỉ ngơi và được vương chấp thuận với nhiều luyến tiếc.

Những người còn ở lại thì được vô số ân sủng, và chừng nào vua Gia Long186 còn sống thì chừng đó họ vẫn được trân trọng xem như những chiến hữu lão thành mà với họ không yêu cầu nào lại bị từ chối.

Trước di hài người bạn quá cố lừng lẫy, vương thể hiện một sự tôn trọng gần như tình phụ tử, khác xa với những điều lệ của nghi thức hoàng gia, quả tình Nguyễn Ánh đã nghe theo những tình cảm chân thật, nhưng vương cũng muốn xác định với thần dân sự quý trọng ở mức độ nào đối với nhóm người Pháp mà vương còn nợ họ một phần lớn công sức đối với cuộc phục hưng của mình. Vương làm tròn nhiệm vụ thành kính, vừa tính toán với hy vọng thu phục những người tận tụy trước đây thường vây quanh người quá cố.

Nhưng bỗng dưng nhiều người Pháp cảm thấy nhớ quê hương, và ít người trong bọn họ đáp ứng nguyện vọng của Nguyễn Ánh, vương buồn bã chứng kiến sự ra đi của những người tổ chức quan trọng của quân đội mình, ngay chính vào lúc sự có mặt của họ là cực kỳ cần thiết.

Quả thật quân Tây Sơn, vốn thoái chí nản lòng vì mất thành, nay cực kỳ hoan hỉ khi biết tin giám mục đã qua đời và Nguyễn Ánh thì rối ren lúng túng. Lúc ấy, Cảnh Thịnh nghĩ đến chuyện bỏ kinh thành [Qui Nhơn] cho Võ Tánh và tiến công về Gia Định. Nguyễn Ánh, trước nguy hiểm đe dọa tiêu diệt mọi cố gắng của mình thêm một lần nữa, không chịu để các vị trí của mình lại bị tấn công. Vương vội vàng tập trung quân và cấp tốc tiến quân về Qui Nhơn và chặn đứng đối phương trước khi chúng kịp xung trận.

Trong lúc ấy, đội quân bộ của tướng Thành lần lượt hạ các vị trí phòng thủ Qui Nhơn và kết nối được với Võ Tánh vẫn còn bị vây trong thành, hạm đội của Nguyễn Ánh xuất hiện trước cửa đầm187 ngày 1 tháng 3 năm 1801.

Lối vào đầm có nhiều dàn pháo mạnh mẽ án ngữ với tầm bắn đủ ngăn chặn mọi cuộc tấn công của các đại chiến hạm Đàng Trong, đồng thời bảo vệ đầm phá, nơi đang ẩn náu những tốp binh lính thiện chiến nhất có thể chống lại một cuộc đổ bộ bất ngờ.

Quân Tây Sơn không quên cuộc tập kích năm 1791, vì thế, bắt chước theo chiến thuật của Dayot, họ đã neo lại ba chiến thuyền lớn nhất để hỗ trợ mạnh mẽ hoạt động của pháo binh trên đất liền.

Trước những bố trí như thế, Nguyễn Ánh từ bỏ ý định tổng tấn công với tất cả lực lượng, vương chỉ mang theo mình hai mươi sáu thuyền chiến và chừng một trăm sà-lúp chở bốn ngàn người cùng tiến tới trước mặt quân địch. Họ đến trước bến tàu vào ban đêm, cho thuyền nhỏ chở quân đổ bộ xuống ở góc tứ giác của pháo binh địch [vùng ngoài tầm bắn], trong khi ấy các thuyền chiến, nhờ bóng đêm càng lúc càng dày đặc và nhờ gió biển thổi vào, lặng lẽ tiến đến gần các chiến hạm neo đậu trong vịnh để tấn công rồi đốt cháy.

Lối vào như thế trở nên thông thoáng, toàn bộ hạm đội của vương tiến vào trong đầm nơi mà quân Tây Sơn, vất vả vì gió ngược, tranh nhau trên những mảnh thuyền vỡ, quáng mắt vì những đám cháy, tìm cách kháng cự một cách tuyệt vọng, trong một cơn rối loạn lại càng gia tăng bởi cách bắn thiếu kiểm soát của chính pháo binh của mình. Trận chiến khốc liệt khắp mọi nơi, kẻ địch trên tàu vẫn còn hăng hái chống cự bằng pháo binh mãi cho đến tận khi hỏa hoạn bắt mồi đến thuốc súng, toàn hạm đội biến mất trong một cơn thiêu rụi hoàn toàn.

Những thiệt hại về phía Nguyễn Ánh là to lớn, nhưng thiệt hại phía quân Tây Sơn thì đau đớn hơn rất nhiều, không thể so sánh nổi. Hơn hai mươi ngàn quân của vua Cảnh Thịnh mất trong trận này, toàn bộ hạm đội, sáu ngàn đại bác và vô số khí giới khác, vàng và đá quý chất trên các chiến hạm. Chaigneau, người đã đóng góp to lớn vào chiến công rực rỡ này, kể lại sự việc như sau:

Jean Baptiste Chaigneau (1769-1832)

Ngôi nhà của J.B. Chaigneau ở Huế

“Chúng tôi vừa đốt cháy toàn bộ hạm đội địch, không sót một chiếc thuyền nhỏ nào. Đấy là trận chiến đẫm máu nhất mà quân Đàng Trong chưa hề gặp trước đây. Địch quân kháng cự tới chết và quân ta thì chiến đấu phi thường. Chúng tôi có quá nhiều thương vong, nhưng điều này chẳng là gì so với những thắng lợi mà vương đạt được. Các ông Vannier, Forsans và tôi đã có mặt ở đó và trở về toàn vẹn. Trước đây, tôi đã xem thường khi thấy hạm đội địch, nhưng tôi khẳng định là tôi đã sai lầm. Quân địch có những chiến hạm trang bị từ năm mươi tới sáu mươi đại bác cỡ lớn.

Quân Tây Sơn hẳn là rất bối rối, nhiều người muốn đầu hàng, nhưng họ bị từ chối. Vương cho phép họ trở về sống bình yên ở quê nhà và không được tham dự vào chiến tranh nữa.

Năm nay, chúng tôi không trở về Sài Gòn vì nhà vua đưa các chiến hạm đi thu thóc cho mình”.

Hạm đội Tây Sơn bị tiêu diệt vài ngày trước khi thành Qui Nhơn bị chiếm188, đó là nơi vinh danh các đại tướng Nguyễn Văn Thành và Lê Văn Duyệt.

Cuộc chiến thắng lớn lao này bị giảm sút vì cái chết của Hoàng tử Cảnh, xảy ra vào ngày 20 tháng 3 năm 1801189. Barizy, người báo tin cho Đức cha Letondal về cái chết ấy đã nhận thức sáng suốt những hậu quả của sự mất mát này. Hoàng thái tử vốn được Giám mục Adran dạy dỗ, có những phẩm chất có thể miễn chấp các sai phạm và khuyết điểm của mình. Hoàng tử yêu mến những người Pháp và coi họ là những vị cứu tinh của gia tộc mình. Ít được học hành hơn em trai là Hoàng tử Đảm190, nhưng nhạy cảm hơn em mình, hoàng tử luôn theo đuổi mục đích hòa giải giữa sự cần thiết của một tôn giáo mang tính quốc gia với sự ích lợi trong việc ủng hộ công trình hợp nhất của Hội Thừa sai.

Nếu nối ngôi được, Hoàng tử Cảnh chắc chắn sẽ không cai trị đất nước mình với quyền lực và sự thông minh của vua Minh Mạng, nhưng chính sách của hoàng tử sẽ làm cho tương lai An Nam và các mối liên minh mà hoàng tử trù liệu bảo đảm được sự toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc mình.

Cái chết của hoàng tử không kéo theo một thay đổi rõ rệt nào về tình cảnh của những người Âu châu còn cư trú trong vương quốc. Những tình cảm của Nguyễn vương luôn luôn nồng nàn đối với những chiến hữu cùng phiêu lưu của mình. Nhưng ngay cả lòng nhân từ đó và sự an toàn của nó đều lệ thuộc vào đời sống của một con người mà chiến tranh, những bất hạnh và sự quá lạm đã làm hao mòn sớm trước tuổi. [Nguyễn Phúc] Đảm được phong hoàng thái tử bất chấp hậu duệ của anh cả mình191, công khai quy tụ quanh mình những vị quan hiềm thù nhất với đạo Thiên Chúa và với những quan niệm của Hoàng tử Cảnh. Hoàng tử Đảm bày tỏ rộng rãi ý định gửi trả về nước những giáo sĩ ngoại quốc, đóng các hải cảng, ngưng thương mãi với người Âu châu, xây dựng An Nam thành một cường quốc đặc biệt ở Á châu, đối lập với mọi ảnh hưởng Tây phương, phục hồi lại trong đất nước chủ nghĩa thuần túy hài hòa với những điển lệ Khổng giáo.

Nguyễn Ánh dường như đã không chống đối quan điểm khắt khe nghiêm ngặt của thái tử. Người ta còn dám nghĩ là vương đã bí mật khuyến khích một quan điểm chính trị mới mà những cam kết và lòng biết ơn thật sự với những người Pháp ngăn cản vương tự thân theo đuổi. Mặt khác, chiến tranh chưa kết thúc, quân Tây Sơn vẫn còn chiếm đất Phú Xuân, kinh đô của Đàng Trong. Nguyễn Ánh vẫn chỉ là chúa của vùng Nam bộ chừng nào ông chưa ra chiếm được kinh thành thiêng liêng kia. Như thế, mục đích vẫn chưa đạt được và để đạt được điều ấy, vương cần phối hợp mọi lực lượng mà vương có thể có được. Thế nên, vì lý do chính trị, cũng như bị thúc đẩy bởi những tình cảm cá nhân nên vương vẫn nể nang đối xử khéo léo với những bạn đồng hành cũ của Pigneau de Béhaine.

Hạm đội Tây Sơn đã bị tiêu diệt, nhưng Võ Tánh, từ hai năm nay vẫn bị vây trong thành Qui Nhơn đã kiệt sức kháng cự, quân đồn trú đã rã rời, thiếu lương thực và đạn được, không còn sức chống lại một cuộc tấn công dũng mãnh. Nguyễn Ánh do dự việc giải vây thành vì tướng Thành vừa mới chiếm Tourane trong khi đó, tướng Lê Văn Duyệt vẫn tiếp tục tiến quân vừa quan sát quân đội của vua Cảnh Thịnh. Đấy là cơ hội duy nhất để tấn công thành Phú Xuân, với điều kiện không để địch quân có đủ thời gian bảo vệ thành trì trước khi quân của vương kịp đến nơi. Nhưng vương còn lo ngại để lại đằng sau mình một chiến lũy mà quân Tây Sơn sẽ chiếm cứ sau khi vương rời đi, như thế là cắt đường trở về trong trường hợp cần lui binh. Tuy vậy, vương vẫn nhẫn nại, ra lệnh cho Võ Tánh ban đêm bỏ thành và đến hội quân với vương. Tướng Võ Tánh khuyên vương hãy để mình ở lại và cứ tiến quân thẳng ra Phú Xuân, trong lúc phần lớn quân địch phải còn ở lại đây để vây thành, không thể ra để tiếp viện.

Quan lại Tây Sơn, 1793 - tranh vẽ của hoa sĩ William Alcxander.

Nguyễn Ánh, do tình thế thúc đẩy, quyết định theo đuổi chiến dịch và phải hy sinh Võ Tánh. Vương phái tướng Nguyễn Văn Thành đến trấn giữ ở vùng đèo Hải Vân để phòng ngừa mọi bất ngờ và tập trung tại Tourane các đơn vị sẽ tham dự chiến dịch mới. Vương kỹ lưỡng tiếp tế cho hạm đội, ra lệnh cho tướng Nguyễn Công Thái dẫn mười ngàn quân tiến về Phú Xuân trong lúc chính vương nhổ neo lên đường cùng hạm đội.

Ngày 11 tháng 6 năm 1801, vương thả neo ở cửa biển dẫn vào sông Hương, trong khi đó quân của tướng Thái đã đến dưới chân thành.

Tất cả mọi chiến hạm và ba mươi pháo thuyền lập thành một hạm đội có nhiệm vụ khóa chặt lối đi nằm ở phía tây của đầm [Cầu Hai], phần còn lại của hạm đội chỉ gồm những thuyền nhỏ thì trấn giữ trước Cửa Ông192.

Sáng ngày 12, các chiến thuyền trong tư thế chiến đấu vượt lối vào của ông và lập tức chịu đựng hỏa lực của các công sự trên bộ, các chiến thuyền vẫn tiến lên mặc dầu có sự rối loạn do đại bác địch dội trên hàng quân, nhưng rồi mắc cạn vào những bãi cát ngầm, phơi mình trước pháo binh địch bắn ráo riết. Vương hoảng sợ, lệnh cho binh sĩ nhảy xuống nước để tập trung lại trên bờ trong lúc các chiến thuyền bị mắc cạn trả đũa cực lực bằng tất cả hỏa lực sẵn có. Các pháo thuyền được gấp rút gọi đến, vượt qua được rào cản, vào tận bên trong con sông và đổ bộ binh sĩ đằng sau công sự pháo đài đầu tiên nơi hỏa lực đang dồn dập lên nhóm thuyền mắc cạn.

Tướng Nguyễn Văn Trị, người chỉ huy bảo vệ chiến lũy Cửa Ông193, ra bên ngoài công sự để tiêu diệt nhóm người mà chiến thuyền mới cho đổ bộ, bỗng bị tấn công từ phía sau bởi toán quân [do Lê Văn Duyệt chỉ huy] tăng cường đổ bộ từ các pháo thuyền, tướng Trị bị bắt và đưa đến trình diện Nguyễn vương.

Ngày 13, nhờ vào thủy triều lên, các chiến thuyền hết mắc cạn, tiến ngược dòng sông theo sau là đội chiến đấu với các thuyền nhẹ. Quân địch tiến đến phía đội thuyền, giáp mặt mà không khai hỏa trước. Cuộc chiến đấu ngắn ngủi nhưng đẫm máu. Quân Tây Sơn đột ngột ngưng chiến khi thấy trên nóc những pháo đài bị quân đổ bộ tấn công đã tung bay cờ hiệu của Nguyễn vương.

Đến chiều, vương ngược dòng đi lên với toàn bộ lực lượng, đến cập bến sông kế bên những cung điện của tổ tiên mình.

Dân chúng kinh hoàng quỳ phục chờ đợi quyết định của người chủ mới, với quân đội vây quanh trong sự im lặng thiêng liêng. Nguyễn vương xúc động sâu xa, trầm ngâm hồi lâu trước các cung điện nhà Nguyễn. Cuối cùng, sau khi gửi đến dân chúng đang bất động chờ đợi vài lời trấn an, vương ra lệnh cho các tướng trở lại thuyền và vương cũng thế, trong khi các đội bảo vệ ở lại trấn đóng trong các phố phường để bảo vệ dân chống bọn cướp bóc.

Sáng hôm sau, vương phái các đội tiền vệ tinh nhuệ nhất đuổi theo những kẻ đào tẩu với hy vọng bắt được vua Cảnh Thịnh. Nhưng nhà vua đã rút lui với hai ngàn chiến binh trung thành nhất và sáu mươi thớt voi, theo đường núi mà đạo quân chiến thắng không dám phiêu lưu rượt đuổi.

Binh tướng xứ Đàng Ngoài và hầu hết xứ Đàng Trong đã đi theo Nguyễn vương trong những ngày đen tối cũng như đẹp trời đều chờ đợi lúc vương trả lại ngai vàng cho hậu duệ nhà Lê mà nhân danh điều ấy, vương đã lôi kéo về dưới lá cờ của mình nhiều gia tộc lớn của vương quốc. Vương đã cho đồng đội mình thấy rằng cuộc chiến mà vương thực hiện chống lại Tây Sơn như là một sứ mạng thiêng liêng mà mục đích là tiêu diệt những kẻ nổi loạn để phục dựng lại sức mạnh của những chủ nhân chính thống của quốc gia.

Tuy nhiên, khi sức kháng cự của đối phương càng lúc càng yếu, thì tham vọng của vương từ bấy lâu chỉ giới hạn ở mức nắm lại quyền sở hữu lãnh địa họ Nguyễn ở Đàng Trong, nay thúc đẩy vương trải rộng ra xa hơn sự chinh phục của mình vốn phải khó nhọc mới có được nhờ vào sự thành công gian khổ của quân đội.

Việc chiếm thành Phú Xuân lẽ ra có thể chấm dứt được chiến tranh nếu vua Cảnh Thịnh chịu chấp nhận để mất kinh đô. Lúc ấy, một thỏa ước sẽ công nhận việc phân chia vương quốc, và người ta có thể nghĩ rằng hai đối thủ sẽ nhắc lại dòng họ Lê, để mà dưới uy quyền có tính danh nghĩa của dòng họ ấy, hai bên sẽ chia nhau quyền lực thật sự.

Nhưng Cảnh Thịnh, khi trở về miền Bắc, lại dấy quân để tiếp tục chiến tranh, buộc Nguyễn vương phải sẵn sàng chiến đấu. Bị lôi kéo bởi những sự kiện, vương thấy một điềm báo trước trong việc bó buộc phải tiếp tục cuộc chiến. Bởi lẽ Cảnh Thịnh không muốn quyết định hòa bình mà dân chúng hết lòng kêu gọi, vương dứt khoát chỉ dừng chiến tranh sau khi chiếm được thủ phủ xứ Đàng Ngoài, hang ổ cuối cùng của Tây Sơn, và phục hồi lại sự thống nhất vương quốc giúp cho riêng dòng họ mình có thể nối lại truyền thống bị gián đoạn trong một thế kỷ rưỡi trước đây vì tham vọng vô bờ của họ Trịnh.

Tháng 6 năm 1802, Nguyễn vương tự xưng hoàng đế, lấy niên hiệu là Gia Long.

Bản đồ Gia Định năm 1815, dưới thời Gia Long, do Trần Văn Học vẽ.

Gia Long là chủ nhân của xứ Đàng Trong và Nam bộ, đã chiếm lại được cung điện nhà Nguyễn, đã trả lại cho dòng họ tài sản của tổ tiên mình. Nhưng việc lên ngôi của nhà vua thay nhà Lê bị phần lớn thần dân mình xem như một cuộc tiếm vị làm mờ đi vẻ rực rỡ của vinh quang. Những người ấy đã từng tận lực phục vụ nhà vua, nay phát biểu mạnh mẽ sự bất bình của mình và những sự phân rẽ xảy ra chung quanh hoàng đế có tác động sâu xa đến dân chúng.

“... Một chủ đề khác của mối lo ngại - Cha Langlois đã viết như thế ngày 3 tháng 9 năm 1803 - là có vẻ như có ít sự đồng tình giữa các đại thần. Lại thêm, những người xứ Đàng Ngoài từ lâu mong mỏi sau khi chúa Đàng Trong ra đi và được giải phóng khỏi ách bạo quyền mà họ đã chịu đựng dưới sự cai trị của những kẻ nổi dậy, giờ đây tỏ ra không mấy bằng lòng về vị vua mới bởi lẽ họ chờ đợi người này sẽ đưa lên ngai vàng ở xứ Đàng Ngoài một hoàng thân của dòng họ Lê xưa kia đã cai trị vương quốc và bị quân nổi dậy ở xứ Đàng Trong [Tây Sơn] đánh đuổi. Đấy là điều mà nhà vua đã hứa hẹn và chính trong kỳ vọng ấy mà một số đông người Đàng Ngoài đã đi theo nhà vua, có người theo đã từ rất lâu, có kẻ từ ba hay bốn năm nay, và có người chỉ vừa mới đây. Trong tất cả các chỉ dụ nhà vua chứng nhận và các biên bản nhà vua thông qua, nhà vua không hề tự xưng là vua, mà làm mọi thủ tục ấy dưới danh nghĩa vua nhà Lê, niên hiệu Cảnh Hưng, dầu vua ấy đã qua đời từ lâu rồi. Nhà vua đã cư xử như vậy cho đến tháng 6 vừa qua là lúc nhà vua tự phong hoàng đế lấy niên hiệu Gia Long. Điều này làm nhiều người dân Đàng Ngoài bất bình và gây lo ngại rồi sẽ có cuộc nổi dậy nào đấy, nhất là khi nhà vua sẽ trở vào Đàng Trong và hẳn là vua sẽ thường xuyên ở đấy...”.

Những tâm trạng của đám quần thần và những xầm xì của dân chúng làm vua Gia Long rất lấy làm lo ngại. Nhà vua xoa dịu quân đội bằng tiền bạc, ban thưởng rộng rãi cho các quan, chấp thuận cho những kẻ nổi loạn được hưởng ân xá hoàn toàn, làm thỏa mãn dân chúng bằng cách miễn thuế và lao dịch, đồng thời phiên chế binh sĩ của Tây Sơn vào quân đội. Sau đấy nhà vua hướng về phía triều đình Bắc Kinh, gửi một sứ bộ với nhiều tặng phẩm, sang dâng biểu xin sắc phong194. Hoàng đế Trung Hoa đón tiếp trọng thể các chức sắc của phái bộ, nhưng mãi đến hai năm sau mới chuẩn y khi vua Gia Long bắt đầu tổ chức lại hành chính của một đất nước rất thường xuyên và rất mau chóng bị đảo lộn vì những tranh cãi giữa các thủ lĩnh.

Tuy nhiên, nếu kể từ đây nhà vua yên lòng về sự trung thành của các vùng ở miền Trung, thì vẫn chưa phải là chủ nhân của xứ Đàng Ngoài mà ở đấy Cảnh Thịnh đang tổ chức lại quân đội. Mặt khác, Võ Tánh đã tuẫn tiết195 sau khi trao cho quân địch thành Qui Nhơn, làm cho Phú Xuân nằm giữa hai mối đe dọa từ phía bắc cũng như từ phía nam.

Thế nên vua Gia Long quyết định chấm dứt tình trạng ấy. Nhà vua phái Nguyễn Văn Thành và Lê Văn Duyệt với một lực lượng tăng cường người Xiêm La đông tới năm ngàn người đến bao vây lại thành Qui Nhơn đang được hai tướng Tây Sơn là Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng trấn giữ. Tình hình của đội quân phòng thủ trở nên gay go. Đến lượt họ bị thiếu thốn mọi tiếp tế, và chẳng bao lâu cạn kiệt nguồn dự trữ, phải đang đêm bỏ thành rút đi. Đội quân bị bao vây gồm ba ngàn người đã rút được lên núi phía Lào mà không bị quân vua Gia Long đuổi kịp, theo ra Bắc gặp vua Cảnh Thịnh.

Vào tháng 7, hoàng đế rời Phú Xuân tiến quân ra Bắc. Ba đạo quân lần lượt tiến chiếm Nghệ An, Thanh Hóa, vượt đèo Tam Điệp dễ dàng, chiếm Ninh Bình, Cau-Châu (?), Nam Định và vào thành Thăng Long sau hai mươi bảy ngày kể từ lúc vượt biên giới phía bắc Đàng Trong.

Cảnh Thịnh, tự thấy không còn cách gì để kháng cự, chạy trốn lên vùng núi phía bắc cùng với các em, nhưng bị chặn lại và bị bắt giao nộp cho quân nhà vua. Người anh lớn tuổi nhất [Quang Thùy] trong số anh em, chỉ huy tiền quân của đội hộ tống Cảnh Thịnh, bị giết chết trong khi đánh nhau với dân miền núi phía bắc. Những người còn lại trong gia đình cũng như các trọng thần của Tây Sơn đều bị bắt trói giải về trước mặt nhà vua chiến thắng. Nhà vua phong Nguyễn Văn Thành làm Tổng trấn Bắc thành cai quản mười một trấn phía bắc.

Từ đấy, vua Gia Long cai trị nước Việt Nam thống nhất.

Quả thật, đất nước bị tàn phá, dân chúng sống lầm than, nghe nhiều ta thán chứng tỏ âm ỉ một sự sửa soạn nổi dậy, những kẻ lưu vong trước kia thấy rằng sự yên ổn của mình chỉ có thể có được bằng cách vĩnh viễn dập tắt, hàng phục họ Lê và họ Trịnh, giam họ vào một kiếp sống tối tăm không lối thoát.

Nhiệm vụ của hoàng đế là rất nặng nề. Vương quốc điêu tàn, việc cai trị vô tổ chức, nhiều vùng miền trọn vẹn rơi vào trong hỗn loạn. Tất cả điều ấy đòi hỏi những cải tổ khẩn cấp mà hoàn cảnh và tình trạng tài chính gây ra những khó khăn để thực hiện.

Một số tác giả đã trình bày triều đại Gia Long như một giai đoạn trật tự ổn định và cần lao. Chính vì họ đã rút ra những định kiến ấy trong việc đọc biên niên sử được viết - có thể nói như thế - theo lệnh của triều đình Huế. Những tài liệu gần đây được công bố của cha [Léopold] Cadière, ngược lại, chứng minh cho chúng ta thấy rằng nhà vua bị ngập lút đầu trong những sự kiện. Có vẻ như nhà vua đã hao mòn sức lực của mình trong việc hoàn thành nhiệm vụ quân sự mà nhà vua đảm đương, sau đó còn phải gắng sức chịu đựng một tình trạng những sự vụ mà chỉ có thời gian mới mang lại sự lắng dịu thanh thản.

Năm năm sau khi lên ngôi, trật tự chỉ mới được ổn định tương đối trong hành chính của vương quốc. Vua Gia Long đã hết sức tập trung mọi sức lực, mọi tài nguyên quốc gia, gạt qua một bên những viện cớ mà Trung Hoa tạo ra để từ chối lễ tấn phong. Nhưng dưới vẻ bề ngoài hợp nhất, gắn bó do các vùng miền cố tạo ra, sự hỗn loạn vẫn còn ngự trị, vẫn tồn tại bởi sự tái tổ chức quá vội vã thiếu chặt chẽ.

“Các tầng lớp dân chúng”, năm 1807 Chaigneau đã viết như thế, “sống rất lầm than. Nhà vua và các quan lại đã làm mất lòng dân theo cách gây phẫn nộ nhất. Công lý được tính bằng tiền. Người giàu có thể tấn công kẻ nghèo mà không bị trừng phạt bởi lẽ y chắc chắn rằng, với tiền bạc, công lý sẽ đứng về phía của y. Đến nỗi tôi nhìn vương quốc như một con bệnh đang chịu một cơn đau dữ dội, hoặc cơn đau sẽ giết chết con bệnh, hoặc làm thay đổi chứng bệnh...”.

Bản cáo trạng này có thể tỏ ra quá nghiêm khắc nếu nó không được ủng hộ bởi Đức cha Véren196, người mà tính khách quan không bè phái và sự cẩn thận không thể gây sự hoài nghi. Mối liên lạc thư tín riêng tư giữa những người đương thời dưới triều hoàng đế Gia Long, được viết ngày này qua ngày khác mà không lo ngại đến hậu quả, cho phép chúng ta tin rằng nhà vua, trước khi lo lắng xoa dịu những thảm họa do chiến tranh gây nên, đã từng xem tổ quốc mình như là một vùng đất bị chinh phục. Nhà vua đã nhầm lẫn, đem buộc trong cùng một cuộc trừng phạt mục đích của những kẻ thù và lý do của dân chúng bị các thủ lĩnh thúc đẩy vào những cuộc phiêu lưu tàn bạo. Nhà vua đã trao chính sự vào tay những kẻ bất xứng, gạt ra khỏi hệ thống hành chánh những dòng họ lớn có thể hỗ trợ quyền lực của mình bởi ông lo sợ, ban thưởng hậu hĩ cho lính tráng bằng mồ hôi nước mắt của người dân.

Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng một tình hình đầy sự cố như thế không thể làm mờ đi cái vinh quang hẳn nhiên xán lạn của hoàng đế. Gia Long, vị vua châu Á đã hành xử như một vị vua châu Á. Khi thì uyển chuyển, khi thì khiêm tốn, thoắt ẩn thoắt hiện, tuyệt vời và tàn độc, nhà vua mang dấu ấn của thời đại mình và những thử thách hoang đường của cuộc sống phi thường.

Lên ngai vàng sau nhiều năm chiến đấu, thất vọng và đau đớn thể xác, nhà vua trả thù không thương xót những kẻ địch đã buộc mình phải trải qua một tuổi trẻ bi thảm trên những hòn đảo hoang. Đã sống như một chiến sĩ, ông nắm lấy vương quyền và trừng phạt bằng tư cách của một chiến sĩ. Dân chúng tin rằng ông giữ mối khinh bỉ sâu xa đối với những thủ lĩnh từng hống hách thống trị đám dân thường thụ động.

Tâm lý của nhà vua vượt qua hiểu biết của những người châu Âu chung quanh mình bởi lẽ họ tìm đến phục vụ nhà vua vì quyền lợi cá nhân hoặc tôn giáo. Tất cả bọn họ đều quy những vấn đề thời đại thành những câu hỏi về con người hay dòng họ.

Việc hoàng đế Trung Hoa sắc phong cho người chủ mới của đất Việt Nam đã chính thức hóa sự tiếm ngôi. Nhưng nếu Nam kỳ vẫn trung thành theo hậu duệ của các đời chúa Nguyễn, thì Bắc kỳ không bao giờ chấp nhận hoàn toàn quyền lực của họ Nguyễn, và ta có thể nói rằng quyền lực của hoàng gia được mau chóng củng cố bởi không có một thủ lĩnh nào xuất hiện để chiêu tập những kẻ bất mãn. Các cuộc nổi dậy, bị các vua Gia Long và Minh Mạng dễ dàng trấn áp, không hề có mối liên hệ gắn kết với nhau. Trước hết vì dân chúng mệt mỏi và vị vua cũ đã chết trước khi lấy lại đủ sức mạnh để tranh ngôi báu.

Các vùng miền ở Việt Nam vốn bị phân rẽ trong gần một thế kỷ bởi tranh chấp chính trị đã tạo nên những tập quán, những quan niệm và những luật lệ khác biệt, đối diện với những nỗ lực của nền một hành chính kể từ lúc đó là duy nhất trên khắp lãnh thổ để thống nhất sự phát triển. Vua Gia Long phải đấu tranh trong nhiều năm trước khi áp đặt lên dân tộc những luật lệ hà khắc và nếu không có điều này thì không thể có một đời sống quốc gia ổn định. Kết quả này, nhà vua chỉ có được vào lúc ông trao lại cho người kế vị [Minh Mạng] di sản nặng nề của vinh quang của mình.

Hoàng Việt luật lệ.

Nguồn: nomfoundation.org

Công trình hành chính cần thiết, được vua Gia Long thực hiện muộn màng, cuối cùng cũng đã đưa vào khuôn khổ đời sống xã hội của đất nước vốn đã bị rối loạn sâu xa vì những cuộc nội chiến, tan nát sau chiến tranh. Bộ luật mới197 là một sao chép vội vã những quy tắc do chế độ nhà Thanh áp đặt lên Trung Hoa, với một số điều khoản được thu tóm lại và được vua Minh Mạng lúc nắm quyền biên cải mới mẻ hơn. Tất cả các chỉ dụ vùng miền, mọi chỉ thị địa phương đều bị hủy bỏ bởi Bộ luật [Gia Long] năm 1812 và chỉ lưu giữ lại những truyền thống chung của mọi người dân An Nam. Vua Gia Long gắn bó nhất trong việc thiết lập lại trong dân chúng sự tôn trọng các cơ chế gia đình, nền móng của kỷ luật quốc gia ở một nước châu Á và trả lại uy quyền cho ngai vàng, điều mà các vua nhà Lê đã không biết bảo vệ để chống lại các chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Những chiếu chỉ của triều đình ít bắt nguồn từ mối quan tâm đến việc chấm dứt sự rối loạn vẫn còn tồn tại trong hành chính sau mười năm hòa bình, cho bằng sự quan tâm ổn định uy quyền của dòng họ đang trị vì, bằng cách tán dương những đạo đức truyền thống của dòng họ, bằng cách khép chặt định chế của vương quốc vào trong một hệ thống những quy định lễ nghi làm cho định chế ấy mang đặc tính hầu như là tôn giáo.

Vua Minh Mạng cũng lẫn lộn giữa tầm quan trọng của một dân tộc với uy thế của một quân vương, nhưng nhà vua bù đắp và hoàn tất tốt đẹp công trình của tiên vương bằng cách kết hợp mật thiết sự tồn tại của các thuộc quốc với sự tồn tại của Việt Nam. Nhà vua nghĩ đến việc áp đặt lên những sắc tộc vùng xa bằng nhiều sắc lệnh hợp thời, những truyền thống, tập quán và ngay cả tiếng Việt, đồng thời duy trì bền vững trên vùng biên giới sự bảo hộ của chính quyền An Nam [Việt Nam, năm 1839 đổi thành Đại Nam]. Nhà vua ép buộc các nước nhỏ phụ thuộc phải chấp thuận một loại quy tắc về quyền bá chủ gắn bó với những cơ chế của vương quốc và công trình xây dựng luật pháp mạnh mẽ ấy cho đến nay vẫn còn chứng minh được khả năng khoa học chính trị của nhà vua.

Luật pháp của một dân tộc cần thiết phải khế hợp với phong tục, với tôn giáo, với những cần thiết và với ý tưởng được tạo nên từ cuộc sống của dân tộc ấy. Bộ luật Gia Long, mặc dầu có phần sao chép lại luật Trung Hoa và có lẽ việc sao chép lại luật ấy tạo ra sự hài hòa giữa những quan niệm của những nhóm dân sống trên khắp ba miền hành chính của vương quốc và tạo ra mối dây kết tụ họ với quyền lực của nhà vua.

Pháp chế An Nam có thể chia làm ba phần: những quy chế của vương quốc và những điều lệ của lục bộ, một bộ luật hình sự, những điều luật không được pháp điển hóa.

“Đức hoàng đế”, Luro đã viết như vậy, “theo cách hiểu của người An Nam, vừa là hoàng đế, vừa là vị vua thẩm phán, vừa là vị giáo chủ tối cao. Ngài là cha mẹ của dân. Ngài là kẻ học thức uyên bác nhất vương quốc, có nghĩa là kẻ tuân thủ trung thành nhất học thuyết Khổng Phu tử. Chỉ riêng ngài là người đại diện, người được ủy nhiệm của Trời, chỉ mình ngài có quyền đại diện quốc gia để dâng đồ hiến tế lên Thượng đế, là hoàng đế tối cao của mọi vật và mọi linh hồn. Chỉ mình ngài trong vương quốc của mình được gọi là Thiên tử, danh hiệu tượng trưng cho sự thần phục các ý niệm tôn giáo truyền thống và bổn phận của người con. Danh hiệu này không hề bao hàm một ý tưởng kiêu ngạo hay đồng hóa với thiên tính thần thánh. Đấy chỉ là cái tên hoàn toàn mang tính thành kính mô tả sự lệ thuộc vào hoàng đế tối cao và bổn phận thực thi đạo lý mà hoàng đế tối cao là vị thần linh kiểu mẫu”.

Xã hội An Nam được tổ chức theo chế độ tập quyền nếu ta nhìn thông qua những cơ chế làng xã, là một xã hội quân chủ nếu ta xem xét mối quan hệ giữa thần dân và người nắm giữ quyền lực tối thượng. Quyền lực của nhà vua là tuyệt đối, cơ cấu pháp luật không đặt ra một vai trò trung gian nào giữa nhà vua và người dân, nhưng trong thực tế, nhà vua chấp thuận để cho các quan có quyền trông nom mình, các quyền tự do trong làng xã, trong hành chính và trong tư pháp, vốn là quyền ưu tiên của tập đoàn có sở hữu tài sản được đặt ra giữa nhà vua và khối bình dân.

Vương triều gồm có tứ trụ triều đình, lục Bộ, Hội đồng Tư vấn [du Conseil privé], Cơ Mật viện và các thành viên cao cấp có nhiệm vụ điều khiển những công việc khác nhau. Triều đình nhóm họp hai lần mỗi tháng với sự có mặt của nhà vua để giúp nhà vua hiểu rõ tình hình và để các quan nhận chỉ thị từ nhà vua.

Tứ trụ triều đình là những lão tướng, những cựu phó vương [kinh lược], những nhà ngoại giao trước đây được gọi đến bên cạnh nhà vua, vì những kiến thức của họ và những đóng góp họ đã từng thực hiện cho đất nước, để làm nhà vua hiểu rõ vấn đề quốc gia hơn nhờ những lời khuyên của họ. Các vị trọng thần này không có trách nhiệm cụ thể mà chỉ mang các danh hiệu danh dự của Cần Chánh, Văn Minh, Võ Hiển, Đông Các198 là tên bốn điện bao quanh cung vua.

Các thượng thư Bộ Lại, Bộ Binh, Bộ Hình, Bộ Công, Bộ Lễ, Bộ Hộ điều hành quốc gia dưới sự kiểm tra của Nội các. Nội các chỉ đơn giản dựa trên số phiếu bầu chọn để chứng duyệt hoặc loại bỏ quyết định của các bộ.

Nội các cũng như Cơ Mật viện có những quyền hạn được xác định bởi những quy tắc bất biến. Các tổ chức này không bao gồm các hoàng thân, vì lẽ những người này bị gạt ra khỏi công vụ bởi một nguyên tắc nghi ngại chính thức, nhưng các đại quan được nhà vua cử vào những nơi này cũng chỉ được trả lời các câu hỏi do chính nhà vua đặt ra.

Để tưởng thưởng các công thần đã giúp vua đánh bại Tây Sơn, đã theo vua trong cơn hoạn nạn, vua Gia Long đặt ra một đẳng cấp quý tộc mới gồm bảy hạng. Đẳng cấp ấy mang tên Minh Nghĩa Công thần, có nghĩa là đẳng cấp dành cho người có công trạng và trung thành vang dội.

Từ hạng thứ nhất đến thứ năm, danh hiệu quý tộc ấy mang tính kế thừa và cứ mỗi đời kế thừa tiếp theo thì giảm xuống một bậc. Người mang hạng năm truyền danh hiệu của mình cho đời kế thừa và chỉ dành cho con trai trưởng đến hết triều đại nhà Nguyễn. Nguyên tắc kế thừa dành cho hạng năm này tạo nên một cải cách khác với truyền thống. Vì thế vua Minh Mạng, không thuận theo ý nguyện của vua cha, đã loại bỏ hệ thống đẳng cấp Minh Nghĩa Công thần này, lo rằng sẽ hình thành một giai cấp quý tộc truyền từ lưu tôn có khả năng một ngày kia làm nguy hại đến vương quyền.

Dân chúng sống trong làng xã, được các thân hào điều hành và bảo vệ. Sự bình đẳng giữa các người dân là tuyệt đối, bởi lẽ người An Nam không thừa nhận những phân biệt xã hội nào khác ngoài những sự trọng vọng gắn liền với chức vụ và do đó với những công trạng được chính quyền thừa nhận.

Dân trong xã được chia ra hai hạng: có đăng ký và không có đăng ký. Nhưng sự phân hạng này không tương ứng vào một cách phân cấp nào mang tính xã hội. Người có đăng ký là những điền chủ, thương gia, người giàu có, vì tình trạng có tài sản của mình, chịu đóng mọi loại thuế và cũng vì lẽ đó gánh vác các chức vụ làng xã. Những người không đăng ký là những người nghèo, nhưng không có rào cản nào phân biệt họ với những người dân khác. Bằng chứng là quá rõ ràng vì không gì cấm cản họ tham dự vào các cuộc thi văn chương và trở thành quan lại.

Xã là một cá thể tinh thần. Xã có thể chiếm hữu, quản trị, thu mua, nhưng xã chỉ có thể tham gia quyền thu hoa lợi những tài sản của xã trong một thời gian nhất định. Xã phân phối các loại thuế, thu thuế, bảo đảm an ninh cho khu vực. Các thân hào được bầu bởi những người dân có đăng ký đến tuổi được đi bầu và ngồi cạnh các bô lão mà tuổi tác đã cho họ có quyền tham dự vào hành chính của nội bộ xã. Xã trưởng là một thành viên thực thi các hoạt động, do các đồng nghiệp của mình chọn ra, có nhiệm vụ bảo đảm mối quan hệ giữa Hội đồng các thân hào và chính quyền địa phương. Cơ quan này thừa nhận chức danh của xã trưởng bằng cách cấp một văn bằng chứng nhận và một khuôn dấu. Xã của An Nam, một đơn vị mang tính vừa tôn giáo, vừa chính trị và hành chính, nên nó là một loại đơn vị có tính cộng hòa, tự trị dưới sự kiểm soát của các quan địa phương và ta có thể so sánh với các thành quốc thời trung cổ ở châu Âu. Xã luôn luôn đặt dưới sự che chở của một vị thần và đền thờ của xã là nơi cử hành mọi lễ hội thờ cúng, vừa là nơi lưu giữ bài vị tổ tiên của mỗi gia đình199.

Mọi người dân An Nam đều được đăng ký trong xã của mình suốt đời, ngay cả lúc vì công vụ, họ phải sống xa quê gốc của mình. Dầu ở xa họ vẫn luôn luôn được tính đến ở quê nhà. Điều này đã thiết lập rõ ràng cương vị xã trước hết là một cương vị cá nhân.

Còn có ở trên xã, một tập hợp có được quyền tự trị thật sự. Đó là tổng, do một Cai tổng điều khiển, được bầu giữ chức vụ trong một thời hạn không ấn định. Nhiệm vụ của Cai tổng là bảo vệ các quyền lợi của tổng mình trước cấp hành chính quan lại và bảo đảm việc thực hiện các mệnh lệnh nhận được từ trên. Tổng trở thành một cách hiển nhiên trung gian giải quyết những tranh chấp giữa các xã, và trong nhiều trường hợp, nhờ sự can thiệp của tổng, tránh khỏi phải cầu cứu đến tòa án cấp huyện.

Khá là khó khăn để sắp xếp các điều khoản của Bộ luật An Nam vì sự vội vã bao trùm việc soạn thảo và vì những quy định của đạo luật là nhiều vô kể. Nhưng vì việc nghiên cứu về luật pháp không hề có ở An Nam, nên việc áp dụng các chỉ dụ chỉ giao cho những vị quan chỉ huy các nhiệm sở lớn, được đào luyện nhờ đã thực hành lâu ngày việc khảo sát loại văn bản rối rắm tối nghĩa này. Điều này nhằm giới hạn những bất cập do sự thiếu minh bạch trong văn bản là dễ dàng nhận ra.

Dẫu sao người ta có thể nghiên cứu luật An Nam dưới hình thức một bộ sách gồm hai cuốn. Cuốn thứ nhất gồm Bản các Đề mục [comprend la table des articles], các quy tắc để phân biệt nghĩa của tám ký tự đặc biệt có tầm quan trọng trong những văn bản luật, và các điều lệ liên quan đến đời sống gia đình, đến việc tôn trọng các cơ chế, đến mối tương quan giữa những thành phần thuộc quyền xét xử, đến những cách thi hành. Cuốn thứ hai liệt kê những trường hợp áp dụng năm hình phạt bằng roi, gậy, khổ sai, lưu đày và tử hình. Các hình phạt ấy đều có thể được chuộc bằng tiền, cũng có thể được án treo hoãn thi hành án sau một năm có thể gia hạn lại. Mỗi điều lệ bao hàm một phê chuẩn hình sự được cân nhắc tùy theo những cá nhân mà điều lệ ấy nhằm vào, bởi lẽ nhà lập pháp An Nam không cần phải liên kết những chỉ dụ với những nguyên tắc tư pháp. Những bắt buộc ấy không có tính cách tổng quát mà chiếu theo những trường hợp riêng biệt, tập hợp thành các thứ hạng, rồi từ đó có thể rút ra những ý tưởng tổng quát.

Luật pháp áp dụng cho tất cả mọi thần dân của hoàng đế cũng như đối với những người nước ngoài đang có mặt trong lãnh thổ. Quan tòa nhất thiết phải xử họ nếu không thì bị truy tố vì tội không chịu xét xử. Tương tự như vậy, vị quan cố tình làm chậm tiến độ của vụ án cũng sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc.

“Công lý” cha de Rhodes đã viết như thế, “cai trị ở đây cũng hiệu quả hơn bất kỳ quốc gia nào khác trên thế giới. Chính nhà vua cấp lương cho tất cả thẩm phán và cấm họ không được thiên vị, cho dù ở bất kỳ vụ án nào, làm cho không một ai phải tiêu tốn gì để bảo vệ quyền của mình. Thế nên không có sự rườm rà về thủ tục cũng như văn bản làm tiêu tốn các bên bằng tiền bạc hay bằng mánh khóe thầy kiện. Tất cả những chuyện ấy đều xa lạ đối với những người ngoại đạo mà ta gọi là man rợ. Tôi để cho quý vị suy nghĩ về điều mà họ sẽ nói về chúng ta nếu họ hiểu thế nào là lệnh của cung đình và những mánh khóe thầy kiện ở đất nước ta!...”.

Những án buộc tội tử hình đều để nhà vua quyết định, hoặc thi hành án hoặc treo án, hoặc giảm tội vào lúc chung thẩm. Trong trường hợp đầu, sự kháng án được đệ lên nhà vua ba lần khác nhau, mục đích để tránh những nguy cơ vua thiếu tập trung lưu ý hoặc bực bội cáu kỉnh. Trong trường hợp thứ hai, việc phán xử sẽ được tiến hành vào năm sau và rất ít trường hợp nhà vua vẫn ban lệnh xử tử tội nhân sau nhiều lần hoãn thi hành án.

Luật pháp An Nam không đòi hỏi các hợp đồng phải được soạn thảo theo những hình thức và quy tắc riêng biệt. Những tặng dữ được xem ở dạng chính thức khi có sự có mặt của gia đình, của các thân hào và được đóng dấu của xã. Các việc mua bán được thừa nhận bởi những văn bản chính thức hoặc bằng văn bản ký tự không có thị thực công chứng. Nhưng trong khi những trao đổi mua bán động sản luôn luôn bằng lời nói, thì quyền sở hữu các tài sản bất động sản chỉ được thừa nhận bằng văn bản.

Khác với điều xảy ra ở nhiều dân tộc phương Đông, việc bán một vật của người khác với mục đích đền bù là bị cấm ở An Nam và ác ý trong trường hợp ấy đưa đến những trừng phạt nặng nề. Luật pháp chấp thuận một hình thức bán có cho chuộc lại tương đương cho tới một mức nào đấy của việc cầm cố. Quy ước này được áp dụng cho các động sản và chấp thuận quyền sở hữu động sản mà không vì thế việc hưởng thụ thành quả làm giảm bớt giá món nợ ban đầu. Điều này không hoàn toàn là một việc bán cho chuộc lại, vì việc mua lại có thể đẩy lùi đến sau năm năm mà không để cho người sở hữu có quyền trở thành chủ nhân của tài sản nếu giấy đòi nợ không được thu hồi trong những thời hạn thích hợp.

Việc bán một động sản hay một bất động sản được thực hiện dưới những điều kiện thay đổi tùy theo hoàn cảnh và với thời hạn trả tiền được thỏa thuận. Vua Minh Mạng giới hạn đến ba mươi năm là thời kỳ mà tài sản được bán sẽ được đăng ký dưới tên của chủ tài sản.

Luật Gia Long không ghi một phân biệt cụ thể nào giữa các tài sản động sản và bất động sản. Quyền sở hữu tài sản mặc dầu không được xác định vẫn là quyền tuyệt đối, nhưng Nhà nước có thể truất quyền sở hữu mà không đền bù vì những mục đích lợi ích công cộng, vì đất đai thuộc về nhà vua, không gì có thể viện dẫn quyền ngược lại. Việc sở hữu đất đai trong thực tế được áp dụng theo một điều khoản mặc định về tính tạm thời, và không phải chỉ từ triều vua Minh Mạng mà việc sở hữu đất được xác định nhờ việc đăng ký vào địa bạ, điểm khởi đầu của một chế độ thuế khóa phân bổ một cách sáng suốt.

Nền tảng của tổ chức xã hội là cơ chế gia đình, bắt nguồn từ học thuyết của Khổng Phu tử. “... Người cha của gia đình - luật pháp nói như thế - không có một bổn phận nào đối với vợ con, họ bị bỏ mặc trước lương tri và sự quan tâm của người cha. Người cha được xem như người chủ của vợ và các con mình, nghĩa là vợ con thì thuộc sở hữu của người cha. Trong bảy trường hợp được chỉ định, người chồng có thể bỏ vợ mình để lấy một người mới. Người chồng phải xem vợ là kẻ dưới, như một người hầu hạ khiêm tốn hoặc như một đứa trẻ cần phải canh chừng. Người chồng có thể trừng phạt vợ nếu người vợ đáng bị như thế. Người chồng có quyền cưới nhiều vợ... Người cha của gia đình là người chủ tối cao của các con mình, người cha có thể yêu cầu các con mình thể hiện sự tôn trọng và phục tùng bằng mọi phương cách, biến chúng thành nô lệ, bán chúng đi, cưới hỏi cho chúng mà không cần sự đồng ý của chúng”.

Người đàn ông An Nam, tốt bụng, hiền lành, thành thật, thực sự là người chủ tuyệt đối của gia đình mình, nhưng y thực hiện quyền mà luật pháp giao phó với một sự nhẫn nại độ lượng và tự nhiên. Như người Trung Hoa, như những người châu Á nói chung, y tự nhận mình là chủ của người vợ vì y đã mua cô ta, vì y đã trả tiền hồi môn, nhưng thỉnh thoảng y sửa sai cô ta lúc cô hãy còn trẻ, đấy là điều chắc chắn, như văn chương bình dân vốn không thiếu điều mỉa mai từng tuyên bố, bởi lẽ đấy là luận chứng duy nhất mà phần lớn phụ nữ An Nam thừa nhận có một sức mạnh có tính thuyết phục quyết định.

Người cha yêu sâu sắc con cái mình. Nhưng con cái lại phục tùng một kỷ luật nghiêm khắc. Chúng không bao giờ chiếm chỗ của người cha ở bàn ăn, chúng chỉ trình diện trước mặt người chủ gia đình với những biểu hiện của sự kính trọng đã được luật lệ xác định tỉ mỉ.

Việc đa thê, được luật pháp thừa nhận, là rất hiếm trong dân chúng khi đã có một con trai thừa kế. Trái lại, việc đa thê là thường xuyên khi người vợ vô sinh, lúc ấy người chồng chọn, với sự đồng ý của người vợ chính vẫn là nữ chủ nhân không tranh cãi của gia đình, một hầu thiếp mà vai trò duy nhất là mang lại cho gia đình nhiều con trai, nhờ đó việc thờ cúng tổ tiên được tiếp tục.

Đạo thờ cúng tổ tiên chắc chắn đã rất phổ biến ở châu Á vào những giai đoạn mà Ấn Độ và Trung Hoa chưa lập thành quốc gia. Giả thuyết này tuy thế cũng chưa được chứng thực. Nhưng cũng khá hợp lý khi nghĩ rằng những dân tộc có mối quan hệ thường xuyên, sống trên cùng một lục địa, thì thường tuân theo những tín ngưỡng chung. Dẫu sao đi nữa, những pháp điển gia tộc mà từ đó thiết lập quyền thừa kế, đòi hỏi mọi người, để được cứu rỗi trong thế giới khác, phải để lại trong thế giới này một đứa con trai có khả năng dâng lên những phẩm vật hiến tế cho thần linh. Phải đợi ít nhất ba thế hệ đi qua để tổ tiên được giải thoát. Với một đứa con trai, người cha đạt đến vương quốc của nhiều cõi. Với đứa con trai của con trai, y đạt đến cõi vĩnh hằng. Với đứa con trai của đứa cháu trai ấy, y đạt đến cõi Trời. Người chết mà không có con trai bị loại khỏi cõi Trời. Nếu con trai chết không có người nối dõi, thì tổ tiên rơi xuống địa ngục mà con gái không cách nào có thể hoàn thành những nhiệm vụ cúng tế.

Mọi đứa con đều chính thức, người vợ đầu là mẹ hợp pháp của tất cả con cái. Con cái chịu tang cha và người mẹ đầu trong vòng ba năm và chỉ chịu tang một năm với người mẹ thứ hai.

Hình phạt dành cho chuyện ngoại tình là kinh khủng. Luật Gia Long buộc những tội phạm phải bị voi giày hoặc ném xuống sông, lưng trói vào nhau trên một bè tre.

Luật pháp không thừa nhận một khả năng thừa kế nào cho con cái. Người cha có thể quyết định theo ý mình toàn thể tài sản của y mà không có một kiểm soát nào của nhà nước. Trong thực tế, tài sản của cha mẹ luôn luôn được chia sẻ đồng đều, sau khi những tài sản không thể bị tước bỏ dành cho việc thờ cúng đã giao cho người con trai trưởng.

Đám cưới bị hủy bỏ khi có một người chết, khi có sự vắng mặt quá ba năm, khi có sự thỏa thuận chung, khi người phụ nữ bỏ trốn hay bị trả về lại gia đình. Việc trả về được thực hiện trong bảy trường hợp quy định sau đây: vô sinh, kém tư cách, thiếu lễ độ với bố mẹ chồng, ăn cắp, ghen tuông, nói xấu, bệnh tật làm người phụ nữ không đủ điều kiện sinh sản. Sự khắc nghiệt của bảng liệt kê này được giảm bớt nhờ sự xoa dịu của một số ngoại lệ, thánh hóa theo cách nào đấy công việc làm chung và những khổ sở cùng gánh chịu, tạo cho người vợ những bảo đảm tinh thần từ một quan niệm cao. Vì thế người phụ nữ chỉ có thể bị trả về nếu đã chịu tang người chồng được ba năm. Nếu người chồng, nghèo lúc mới bắt đầu lấy vợ, đã cùng nhau làm lụng khó nhọc để có tài sản và rồi cùng hưởng chung với nhau, nếu người vợ cuối cùng không còn cha mẹ thì có thể đón con gái về nhà. Việc ly dị trong thực tế là rất hiếm hoi và ta có thể khẳng định rằng việc ấy không bao giờ xảy ra với người vợ đầu, bởi lẽ thay vì thực hiện một thủ tục mà sự lo xa của nhà lập pháp làm cho, trong hầu hết trường hợp, trở thành không phù hợp, người đàn ông An Nam chọn cách gửi về lại gia đình cha mẹ người phụ nữ mà cách đối xử trở nên không chịu nổi đối với người chồng, mà không vì thế mối quan hệ vợ chồng bị cắt đứt vì sự xa cách ấy.

Xã không có một sổ hộ tịch nào cả và không một quyết định nào bắt buộc người dân phải khai báo việc sinh con của họ. Con gái thì không bao giờ phải trình diện, nhưng con trai được mang ra trình trước các vị thân hào để về sau chúng sẽ tham gia vào những quyền lợi cũng như trách nhiệm trong làng. Việc không có văn bản không gây ra một bất tiện nào cả, vì các loại thuế và nghĩa vụ quân sự không phân bổ trên từng đầu người mà trên từng xã.

Mục đích của việc cưới hỏi, ngay cả mục đích của cuộc sống đối với người An Nam là có con trai, để sau khi chết, chúng biết thực hiện việc thờ cúng truyền thống tưởng niệm người đã mất. Lúc người đàn ông không có khả năng tự nhiên để tạo giống, y sẽ bù đắp bằng việc có con nuôi. Y sẽ tìm một cậu trai trong gia đình, một cháu trai hoặc một người trong họ, một cậu bé có cùng chung tổ tiên với mình. Chỉ khi trong trường hợp y không thể khép chặt bằng cách ấy mối quan hệ gia đình sẵn có, thì y đành phải đưa về nhà mình một đứa bé ngoài gốc gác. Đứa bé được nuôi gia nhập hoàn toàn vào gia đình mới và sẽ mang tên họ của gia đình này. Người cha ruột của cậu bé bàn giao mọi quyền của mình cho cha nuôi, là người cha duy nhất kể từ lúc đó được luật pháp thừa nhận.

Quan niệm tôn giáo ấy về gia đình làm nền tảng cho các điều luật dân sự có mục đích chỉnh đốn những quan hệ giữa những công dân với nhau. Quan niệm ấy còn bền bỉ trong tập quán hơn là trong luật được viết ra và nó tạo nên ảnh hưởng sâu đậm lên phong tục của quốc gia.

Vậy nên, người An Nam chịu khuất phục từ thuở rất ấu thơ uy quyền không kiểm soát của cha mình, rồi từ đó được chuẩn bị để chịu đựng với sự kính trọng uy quyền của tập thể những thân hào trong làng mình, xem những mệnh lệnh của hoàng đế, người cha của quốc gia và người truyền ý đến các thần linh là thiêng liêng.

Vậy nên, Luật Gia Long nổi bật với cơ chế gia đình, nơi mà uy quyền của người cha là hầu như vô giới hạn, bằng việc cho phép đa thê, tình trạng không có khả năng có con, tính bình đẳng của mỗi người con trong xã hội, cho dầu chúng là chính thức hay ngoại hôn, sự gắn bó vào sở hữu chung của gia đình được ấn định bằng việc không thể tước bỏ tài sản dành cho việc thờ cúng, sự phụ thuộc tuyệt đối của con gái, quyền tự do để lại di chúc, bằng khả năng nào đó trong việc mua lại một bất động sản được chuyển nhượng.

An Nam vào đời Gia Long còn gắn bó với giai đoạn Cộng đồng đại gia đình trong lúc ở nước Pháp chúng ta “quyền sở hữu cá thể và tính độc lập cá nhân đã tồn tại từ thời thống trị La Mã, tính ra đã hơn hai ngàn năm.

Chúng ta đã làm gì cho dân tộc mà chúng ta không hay biết này? Những luật lệ nào chúng ta đã áp đặt lên dân tộc này sau cuộc thôn tính? Chúng ta đã hướng dẫn dân tộc này đến sự tiến bộ hay sự cưỡng bức, xa rời những phương hướng truyền thống của nó mà không hề hay biết?” (Cultru, Histoire de la Cochinchine française (Lịch sử xứ Nam kỳ thuộc Pháp)).

Bộ luật năm 1818200 mặc dầu còn thiếu sót, đã thích ứng tuyệt vời với tính cách của người An Nam vốn trọng lễ nghi, khách sáo, đam mê uy quyền nhưng lại hành xử với lòng tốt. Dân chúng, với những phong tục giản dị của mình, tìm thấy trong những điều khoản của bộ luật mới sự an toàn mà họ đã chờ đợi để ổn định lại đời sống. Vua Gia Long, người nắm giữ quyền lực tối cao được thừa nhận kể từ lúc đó, có thể yên tâm theo đuổi những hoạt động ngoại giao.

Chính sách của vua Gia Long mang những đặc trưng rất khác biệt tùy theo đối tượng của nó là vị chủ tể chính thống của An Nam [tức Trung Hoa], hay là các lân quốc có khi ngang hàng, có khi thấp kém hơn, hoặc với các quốc gia phương Tây. Tất cả những chứng thư của chính sách ấy đều bộc lộ một khuynh hướng đồng hóa các sức mạnh thứ yếu và mong muốn tránh mọi liên quan với những quốc gia được tổ chức chặt chẽ hơn.

Đối diện với Trung Hoa, vua Gia Long giữ gìn mọi quyền lợi của vương quốc, nhà vua bảo vệ những quyền hạn của mình vừa giữ những cơ hội củng cố ngai vàng vì nhà vua cảm nhận cần thiết phải là một nhân vật chính trị mạnh mẽ của triều đại. Tuy nhiên, nếu nhà vua ủng hộ tham vọng rằng các cuộc chiến đấu trước đây đã được thánh hóa, và nếu mọi gắng sức của nhà vua hướng đến sự vĩ đại của đất nước trong khuôn khổ của một chỉ đạo mang tính cơ hội, thì nhà vua cũng không dùng sức mạnh để tấn công và hủy hoại nền độc lập của các dân tộc yếu kém mà với họ nhà vua đã tự phong là người bảo hộ hiển nhiên.

Trong suốt nhiều năm, Nguyễn Ánh đã chiến đấu để giành lại cơ đồ, những quốc gia chư hầu của An Nam, ngoại trừ Cao Miên, vẫn luôn luôn trung thành với hiệp ước thừa nhận bá quyền đã nối kết họ với triều đại nhà Lê.

Việc bảo hộ của An Nam trên các quốc gia chung quanh thực ra không khó để thực hiện, cũng không nặng nhọc để chịu đựng và cũng không có một ép buộc nào đã từng là cần thiết để giữ các quốc gia ấy dưới sự bảo hộ mà họ thích nghi không chút khó khăn.

Những bộ tộc sống dọc theo biên giới vương quốc tạo thành một vành đai bảo vệ chống ngoại xâm, tạo điều kiện cho việc trông coi lãnh thổ đôi khi còn lơ là, ngăn chặn những cuộc xâm lấn hăng hái như thể chính sự an toàn của họ bị đe dọa. Ngược lại, người bảo vệ dành cho họ một sự độc lập hầu như là toàn vẹn và chỉ tạo một ảnh hưởng nhẹ nhàng và hòa bình.

Các bộ tộc ấy, không quan tâm về đặc điểm được thừa nhận của mình, luôn luôn tôn trọng vương quốc An Nam, và tính hữu dụng do sự tồn t?