Chú thích:
(1) Dịch theo nguyên văn: Annam. Bấy giờ, quốc hiệu của nước ta là Việt Nam, toàn bộ lãnh thổ rộng lớn do vua Minh Mạng cai trị (1820-1841), đến năm 1838 mới đổi quốc hiệu thành Đại Nam. (Toàn bộ cước chú trong ấn bản tiếng Việt này do Ban Biên tập Omega+ thực hiện).
(2) Thập niên 1930, thời điểm tác phẩm này ra đời.
(3) Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh (hay thường dùng là Nguyễn Ánh) lấy niên hiệu là Gia Long, đóng đô tại thành Phú Xuân (Huế).
(4) Tức Giám mục Bá Đa Lộc theo cách gọi quen thuộc của người Việt Nam, hoặc Cha Cả. Tên đầy đủ là Pierre Joseph Georges Pigneau de Béhaine (1741-1799), người Pháp, Giám mục hiệu tòa Adran nên cũng thường được gọi là Giám mục Adran.
(5) Theo trật tự thế giới Đông Á cũ, Trung Quốc là “thiên triều”, tự cho mình vai trò “mở mang khai hóa” các “phiên quốc” xung quanh: Việt Nam ở giáp biên giới phía nam của Trung Quốc là “Nam man”; Triều Tiên, Nhật Bán nằm về phía đông là “Đông di”. “Bắc địch” và “Tây nhung” là tên gọi các dân tộc ở phía bắc và phía tây của Trung Quốc.
(6) Nhà Thục (257-207) trước Công nguyên.
(7) Nước Nam Việt do Triệu Đà lập ra năm Quý Tỵ (năm 207 trước Công nguyên).
(8) Triệu Ai vương (?-112 TCN), tên Triệu Hưng (趙興), vị vua thứ tư nhà Triệu nước Nam Việt, trị vì giai đoạn 113-112 TCN.
(9) Lữ Gia (190-111 TCN), tên hiệu là Báo Công (保公), làm thừa tướng qua ba đời vua nhà Triệu nước Nam Việt.
(10) Triệu Đà nhà Triệu tự lập Nam Việt hoàng đế vào năm Mậu Ngọ (năm 183 trước Công nguyên), tức Triệu Vũ vương, về sau mới chịu bỏ đế hiệu, thần phục nhà Hán.
(11) Đây là thời Triệu Dương vương, năm Canh Ngọ (năm 111 trước Công nguyên), nước Nam Việt bị nhà Hán đánh chiếm, cải thành Giao Chỉ bộ và chia thành chín quận do quan thứ sử giám sát chung, mỗi quận có quan thái thú cai trị.
(12) Hơn sáu mươi thành trì.
(13) Tương truyền, hai bà gieo mình xuống Hát giang tự tử.
(14) Khắc sáu chữ “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” (cây đồng trụ mà đổ thì người Giao Chỉ mất nòi).
(15) Giai đoạn Bắc thuộc lần thứ hai (43-544), năm 544 là mốc nhà Tiền Lý.
(16) Đoạn cuối đời nhà Đông Hán, thời thái thú Sĩ Nhiếp dẹp loạn.
(17) Nguyên văn: Trien et Ly-Phat-Tu. Năm 544, Lý Bí lên ngôi hoàng đế, tự xưng là Lý Nam đế, đóng đô ở Vạn Xuân, về sau, Lý Phật Tử cũng xưng là Lý Nam đế, sử Việt gọi là Hậu Lý Nam đế.
(18) Nguyên văn: vice-roi, tức thứ sử [Giao Châu] Tiêu Tư. Ở đây chúng tôi dịch theo nguyên bản tiếng Pháp, vice-roi được người Pháp dùng để chỉ Kinh lược sứ/Kinh lược đại thần thời Pháp thuộc sau này, tác giả dùng vice-roi trong ngữ cảnh này là chưa đúng.
(19) Nguyên văn: Minh-huong. Ở đây chỉ người Tàu/Hoa kiều/Hoa thương, Minh hương chỉ được dùng giai đoạn sau khi nhà Thanh chiếm Trung Nguyên, những người Hoa không tuân lệnh nhà Thanh, gióc tóc đuôi sam bỏ xuống vùng Đông Nam Á, tạo thành nhóm gọi chung là Minh hương, từ gốc nhà Minh, và phản Thanh phục Minh.
(20) Nhà Tiền Lý tồn tại được năm mươi tám năm (544-602), Lý Phật Tử hàng phục nhà Tùy, mở ra giai đoạn Bắc thuộc lần thứ ba (603-939).
(21) Tức việc đánh nhau giữa Triệu Quang Phục và Lý Phật Tử.
(22) Bấy giờ, bên Trung Quốc, nhà Đường thay nhà Tùy cai quản. Năm Kỷ Mão (679), vua Đường Cao Tông chia đất Giao Châu thành mười ba châu (mười hai châu và một châu kimi (Man Châu)), năm mươi chín huyện và đặt An Nam đô hộ phủ.
(23) Chúng tôi chưa rõ ý tác giả nói đến sự kiện nào. Từ đầu đến cuối năm 546, quân Lý Nam đế đã giao chiến nhiều lần với quân của Trần Bá Tiên.
(24) Cao Biền là quan đô hộ An Nam thời Bắc thuộc, trấn nhậm Giao Châu từ năm 866 đến năm 887. Năm 865, sau khi đánh thắng quân Nam Chiếu, Cao Biền được cử làm Tĩnh Hải Quân Tiết Độ Sứ, cai quản Giao Châu và Quảng Châu. Cao Biền được gọi là Cao vương. Cao Biền là nhân vật có nhiều huyền thoại ở Việt Nam, vì vậy cũng có nhiều sử kiện không nhất quán về ông.
(25) Sau Cao Biền là đoạn sử dài liên quan đến họ Khúc và Dương Diên Nghệ. Sau khi giết được nghịch thần Kiểu Công Tiện và thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng (năm 938), Ngô Quyền xưng vương năm Kỷ Hợi (939), đóng đô ở Cổ Loa, mở ra thời kỳ tự chủ sau hơn một ngàn năm Bắc thuộc. Ngô Quyền ở ngôi được sáu năm (939-944).
(26) Từ thời Tiền Ngô, đến Dương Tam Kha tiếm ngôi và cuối cùng là Hậu Ngô kéo dài gần ba mươi năm (939-965).
(27) Thập nhị sứ quân hình thành và cát cứ trong giai đoạn 945-967.
(28) Chúng tôi chưa rõ hiệp ước tác giả đề cập là gì. Năm 618 là mốc nhà Đường thay nhà Tùy bên Trung Quốc, đến năm 679 thì nhà Đường mới chia Giao Châu thành nhiều châu, quận như đã đề cập ở cước chú trước. Có lẽ tác giả muốn ghép loạn mười hai sứ quân với chuyện lập An Nam đô hộ phủ chăng?
(29) Đinh Bộ Lĩnh theo sứ quân Trần Minh Công (Trần Lãm) trấn giữ Bố Hải Khẩu (phủ Kiến Xương, Thái Bình), sau khi Trần Minh Công mất, Đinh Bộ Lĩnh đem quân về Hoa Lư, chiêu mộ người tài, đánh đâu thắng đấy, được tôn là Vạn Thắng vương. Năm Mậu Thìn (968), lên ngôi hoàng đế (Tiên Hoàng đế), đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư.
(30) Năm 979, Đinh Tiên Hoàng và con trai (Nam Việt vương Đinh Liễn) bị Đỗ Thích giết chết, Tiên Hoàng ở ngôi được mười hai năm.
(31) Sau khi Đinh Tiên Hoàng thăng hà, Vệ vương Đinh Tuệ lúc đó mới sáu tuổi kế vị, quyền chính nằm trong tay Thập đạo tướng quân Lê Hoàn và Dương Thái hậu. Bấy giờ, nhà Tống hay tin Tiên Hoàng mất, thừa cơ sang xâm lược. Để chống giặc phương Bắc, Lê Hoàn được tôn lên làm vua (Đại Hành hoàng đế, năm 980), giáng Đinh Tuệ xuống làm Vệ vương, sử gọi là Phế đế.
(32) Sau trận chiến Tống - Việt trên sông Bạch Đằng năm 981, Lê Hoàn chiến thắng vang dội.
(33) Lý Thái Tông là hoàng đế thứ hai của vương triều Lý, tên là Lý Phật Mã, con trưởng của Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn), ở ngôi hai mươi sáu năm (1028-1054).
(34) Ý tác giả muốn nói đến giặc Nùng Trí Cao năm 1048, Trí Cao chiếm tám châu ở đất Quảng Đông và Quảng Tây. Vua nhà Tống muốn nhờ quân nhà Lý [Thánh Tông] đánh Nùng Trí Cao nhưng bị tướng Địch Thanh can ngăn.
(35) Quốc hiệu Đại Việt có từ thời vua Lý Thánh Tông, năm 1054.
(36) Năm 1127 là mốc phân chia Nam Tống và Bắc Tống (nhà Kim) bên Trung Quốc, chúng tôi chưa rõ tác giả muốn nói đến sử kiện nào.
(37) Năm 1192 là thời điểm vua Lý Cao Tông trị vì ở Đại Việt (giai đoạn 1176-1210). Trong đoạn văn trên, tác giả viết là Ly-Hou và Ly-Anh, chúng tôi chép theo nguyên văn. Căn cứ vào sử liệu, đoạn sử này có lẽ thuộc thời Lý Nhân Tông (1072-1127) với sự kiện Lý Thường Kiệt đưa quân đánh sâu vào đất Tống năm 1075 và nhà Lý đánh Tống bình Chiêm, cải thiện quan hệ ngoại giao với nhà Tống, được các nước phía nam triều cống.
(38) Tức Qubilai Khan, thư tịch Trung Quốc (Nguyên sử) phiên âm là Hốt Tất Liệt, đời Thanh Càn Long đổi phiên âm là Hô Tất Lai.
(39) Hay Tatar. Tatar (Ta-ta) là tên một bộ lạc Mông Cổ nhưng người ta thường dùng để chỉ người Mông Cổ nói chung (còn gọi là Tartar). Trung Quốc dịch âm là Thát Đát.
(40) Lý Huệ Tông (cai trị từ 1211-1224) phát điên, trao ngai vàng cho Lý Chiêu Hoàng, một công chúa mới lên bảy.
(41) Sự biến ngày 11 tháng Chạp năm Ất Dậu (tức ngày 10 tháng 1 năm 1226), ngôi vua về tay Trần Cảnh, vương triều Lý sụp đổ.
(42) Chữ hiệp ước ở đây và một số chỗ khác chúng tôi dịch theo nguyên văn, có thể hiểu là những thỏa thuận về sắc phong, triều cống... trong bang giao giữa hai nước... Có lẽ hiệp ước 1259 mà tác giả lặp lại vài lần là thỏa thuận năm 1258 mà chúng tôi đề cập ở cước chú ngay sau đây.
(43) Toàn thư, quyển 5, t. 24a, chép rằng tháng Giêng năm Nguyên Phong thứ 8 (ngày 5 tháng 2 đến ngày 6 tháng năm 1258) đời Trần Thái Tông, sứ Mông Cổ sang sách nhiễu tuế cống, vua còn phân vân chưa định nên sai Lê Phụ Trần đi sứ, Chu Bác Lãm làm phó. Từ Vân Nam, Ngột Lương Hợp Thai (Uriyangpdai) đã dẫn họ đến gặp chúa Mông Cổ Möngkä (sử Việt gọi là Mông Kha) bấy giờ ở vùng Thiểm Tây. Sứ bộ đã đi đến thỏa thuận là định lệ ba năm cống một lần. Xem: Hà Văn Tấn - Phạm Thị Tâm, Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII, Nxb. Hồng Đức và DTBooks Hà Nội, 2019, tr. 81.
Gần hai mươi lăm năm, giai đoạn 1258-1284 là thời kỳ đấu tranh ngoại giao, bang giao Việt-Mông khôn khéo của nhà Trần.
(44) Tức Trần Thánh Tông (1258-1278), thái tử Hoảng, tức Nhật Huyên trong sử liệu Trung Quốc.
(45) Tên Trần Cảnh, ở ngôi từ năm 1225 đến năm 1293, tức Nhật Cảnh và Quang Bính trong sử liệu Trung Quốc. Ngày 30 tháng 3 năm 1258 (24 tháng Hai năm Mậu Ngọ), thái tử Hoảng lên ngôi, tức Trần Thánh Tông. Lúc đó, Thái Tông Cảnh làm thượng hoàng, đối với Mông Cổ thì Thái Tông vẫn là vua An Nam với tên Quang Bính trong thư từ.
(46) Chúa Mông Cổ sai Nur ud-Dīn, một tín đồ Hồi giáo, đưa thư sang Đại Việt, trong thư có đoạn “... Nếu các ngươi thật lòng nội phụ thì quốc chủ phải thân đến, nhược bằng còn không sửa lỗi thì nói rõ cho ta biết.” Trần Thái Tông vẫn không sang chầu. Dẫn theo: Hà Văn Tấn - Phạm Thị Tâm, Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII, sđd, tr. 82.
(47) Trần Anh Tông (1293-1314), niên hiệu Hưng Long.
(48) Trần Minh Tông (1314-1329), niên hiệu Đại Khánh, Khai Thái.
(49) Trần Hiến Tông (1329-1341), niên hiệu Khai Hữu.
(50) Nhà Minh đánh tan quân nhà Hồ, chia nước Nam thành mười bảy phủ, năm châu...
(51) Quốc hiệu của nước ta thời Hồ Quý Ly (1400) và Hồ Hán Thương (1401-1407).
(52) Có lẽ tác giả nói đến nhà Hậu Trần, Giản Định đế (1407-1409) và Trần Quý Khoách (1403-1413).
(53) Sau trận Thuận Hóa (năm Quý Tỵ, 1413), Đặng Dung và Nguyễn Súy bị Trương Phụ đánh bại, phải bỏ chạy. Trần Quý Khoách lánh ẩn trong rừng núi, sau bị bắt. Trên đường đi, Trần Quý Khoách nhảy xuống bể tự tử.
(54) Thời thuộc Minh (1414-1427).
(55) Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn (1418-1427).
(56) Bình Định vương Lê Lợi lên ngôi, trị vì từ năm 1428 đến năm 1433, đặt quốc hiệu là Đại Việt, sử gọi là vua Lê Thái Tổ.
(57) Sau khi chiến thắng quân Minh, Lê Lợi cầu phong năm 1429 (lấy cớ là họ Trần không còn ai) nhưng đến năm 1431 nhà Minh mới sai Từ Kỳ mang ấn sang cho Lê Lợi “quyền thự quốc sự” (tạm quyền coi việc nước). Danh hàm ấy kéo dài đến mấy đời, đến năm Thái Hòa thứ nhất (1443), nhà Minh mới chính thức phong cho vua Lê Nhân Tông làm An Nam quốc vương.
(58) Nguyên văn: Le roi Oai, tức Lê Tương Dực (1510-1516), niên hiệu Hồng Thuận.
(59) Nguyên văn: Huynh. Lê Tương Dực bị đám Trịnh Duy Sản và Lê Quảng Độ giết, qua nhiều cuộc rối loạn, lập Lê Ỷ (mười bốn tuổi) làm vua, tức vua Lê Chiêu Tông (1516-1526) với niên hiệu Quang Thiệu trong lịch sử.
(60) Mạc Đăng Dung chuyên quyền, vua Chiêu Tông mưu ngầm đánh họ Mạc. Mạc Đăng Dung lập hoàng đệ Xuân làm vua, tức Lê Cung Hoàng niên hiệu Thống Nguyên (1527) trong lịch sử. Năm Đinh Hợi (1527), Mạc Đăng Dung lên ngôi với niên hiệu Minh Đức.
(61) Nhân cớ Mạc Đăng Dung tiếm ngôi, nhà Minh đem quân sang hỏi tội. Mạc Đăng Dung và Mạc Phúc Hải tự trói ra hàng ở Nam Quan. Giao bốn động (Tê Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát) về châu Khâm (Quảng Đông] cho Minh và dâng bảy châu Quảng Lãng và các trại... nhập về Vân Nam.
(62) Giai đoạn Nam triều (Hậu Lê, nắm vùng đất từ Thanh Hóa trở vào) - Bắc triều (nhà Mạc, từ Sơn Nam trở ra) trong lịch sử, đánh nhau qua lại hơn năm mươi năm.
(63) Chép theo nguyên văn, năm 1558 thuộc thời Lê Anh Tông (1556-1573) giai đoạn Nam Bắc triều.
(64) Họ Mạc chỉ được phong Đô Thống Sứ, đổi nước ta thành An Nam đô thống sứ ty.
(65) Thời Lê trung hưng, năm 1597 vua Lê sai Phùng Khắc Khoan đem người bằng vàng sang cầu phong, chỉ được vua Minh phong làm An Nam Đô Thống Sứ, ngang với nhà Mạc.
(66) Ý nói chính sách bảo hộ của Pháp ở thời điểm tác giả viết cuốn sách này.
(67) Lê Duy Đàm.
(68) Chép theo nguyên văn, năm 1548 có sứ đoàn do Lê Quang Bí dẫn đầu sang cầu phong cho vua mới là Mạc Tuyên Tông.
(69) Khang Hi lên ngôi năm 1662, lúc tám tuổi, vị vua thứ hai của triều đại nhà Thanh.
(70) Nguyên văn: Lê-Duyên. Cùng thời với Khang Hi bên Trung Quốc là vua Lê Huyền Tông, niên hiệu Cảnh Trị, tên là Lê Duy Vũ.
(71) Năm Quý Mão (1663), Trịnh Tạc sai sứ sang Trung Hoa cầu phong cho vua Lê, năm Đinh Mùi (1667) Khang Hi sai sứ sang phong cho vua Lê [Huyền Tông] làm An Nam quốc vương, hai bên thông sứ với nhau từ đó.
(72) Trịnh Tráng mất năm 1657, Khang Hi trị vì Trung Hoa từ năm 1662, vì vậy việc phong chức cho Trịnh Tráng là sự kiện diễn ra trước đó. Năm 1646, khi bị quân Thanh đánh đuổi xuống phương Nam, nhà Minh phong cho Lê Thần Tông (lúc đó đã chết) làm An Nam quốc vương; năm 1651, nhà Minh phong cho Trịnh Tráng làm phó quốc vương.
Sau khi nhà Minh mất hẳn, Khang Hi (nhà Thanh) phong cho vua Lê Huyền Tông làm An Nam quốc vương (1667) nhưng bắt phải đem sắc ấn cũ của nhà Minh nạp lại.
(73) Khởi đi từ sự kiện Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa năm 1558.
(74) Nguyên văn: 1623. Đỉnh điểm của mâu thuẫn là cuộc chiến năm 1627, trong vòng bốn mươi lăm năm (1627-1672) có đến tám cuộc chiến lớn nhỏ giữa hai bên để tranh giành phần đất từ phía nam đèo Ngang đến sông Nhật Lệ.
(75) Baldinotti người Ý, sinh năm 1591 tại Pistoia, gia nhập giáo đoàn Jesus năm 1609. Ông đến Đàng Ngoài thời chúa Trịnh Tráng, chứng kiến các sinh hoạt chốn cung đình và cuộc sống thường ngày ở Kẻ Chợ...
(76) Alexandre de Rhodes đến Đàng Ngoài năm 1627, thời vua Lê Thần Tông (1619-1643) và Thanh Đô vương Trịnh Tráng (1623-1657).
(77) Tháng 5 năm 1630, cha de Rhodes bị trục xuất khỏi Đàng Ngoài. Ông sang Áo Môn (Macao ngày nay) giảng dạy Thần học khoảng mười năm, năm 1640 đến Đàng Trong để thay thế cho giáo sĩ Buzomi.
(78) Hội An bây giờ.
(79) Chi tiết này cần được xem xét, đánh giá thận trọng.
(80) Nguyễn Phúc Lan (1635-1648), vị chúa Nguyễn thứ ba của chính quyền Đàng Trong.
(81) Sau khi nhân viên chi điếm hành quyết một gia nhân người Đàng Trong thì bảy nhà buôn bị chặt đầu và hai người được thả về Batavia để tường trình về những việc xảy ra.
(82) Công Thượng vương từ chối thả những người Hà Lan đang bị giam giữ, năm chiếc thuyền của Công ty Đông Ấn Hà Lan do viên thuyền trưởng Jacob van Liesvelt chỉ huy đổ bộ tấn công quân Đàng Trong, van Liesvelt cùng nhiều thuyền viên bị giết trong trận chiến.
(83) Vịnh Tourane ở Đà Nẵng bây giờ. Vachet sinh ngày 30 tháng 10 năm 1631 tại Dijon, đến Đàng Trong năm 167-, qua đời ở chủng viện của Hội truyền giáo hải ngoại (Paris) vào ngày 16 tháng 1 năm 1720.
(84) Sau khi giành thắng lợi trong trận thủy chiến năm 1643, chúa Nguyễn Phúc Lan dè chừng hơn với các giáo sĩ. Năm 1645, chúa trục xuất nhiều giáo sĩ, de Rhodes bị giam giữ nhiều ngày, sau đó phải rời Đàng Trong và quay trở lại Áo Môn.
(85) William Gyfford đến Đàng Ngoài ngày 25 tháng 6 năm 1672 và rời khỏi xứ này năm 1676.
(86) Nguyên văn: Bowyeard, chúng tôi đã hiệu chỉnh trong phần chính văn, thương nhân Thomas Bowyear đến Đàng Trong năm 1695-1696.
(87) Minh vương Nguyễn Phúc Chu, vị chúa thứ sáu của chính quyền Đàng Trong, cầm quyền ba mươi bốn năm (1691-1725).
(88) Nguyên văn: Dang-ngoai.
(89) Nguyên văn: Hien-vuong. Năm 1681 là cuối thời Tây Định vương Trịnh Tạc.
(90) Năm 1684.
(91) Về nhân vật này, Charles Maybon trong Những người châu Âu ở nước An Nam (Nguyễn Thừa Hỷ dịch, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2018) cho rằng Castonnet des Fosses là người “nói đến một nhân viên Công ty Ấn Độ, tên là Le Chappelier, tới Đàng Ngoài năm 1684”. Tuy nhiên, đối chiếu các sử kiện thì Maybon không tìm thấy tên Le Chappelier mà chỉ có tên Chappelain. Maybon đặt câu hỏi: “Liệu ta có phải cho rằng Castonnet des Fosses đã đọc nhầm tên không?”
(92) Có thể tác giả muốn nói đến sự sụp đổ của nhà tài phiệt người Scotland John Law và bong bóng tài chính Mississippi Company tại Pháp vào thập niên 1720, một trong những vụ bong bóng kinh tế - tài chính lớn nhất trong lịch sử.
(93) Vùng đất Ấn Độ thuộc Pháp.
(94) Dupleix, tổng chỉ huy các cơ sở của người Pháp tại Ấn Độ từ năm 1742, khi Dupleix đang tiến hành dự định đặt quan hệ với chúa Nguyễn (Đàng Trong) thì Pierre Poivre (ở Paris) đã xây dựng xong một kế hoạch tương tự. Ngày 21 tháng 6 năm 1749, chiếc tàu Sumatra chở Poivre dừng lại Pondichéry, Dupleix có chút tự ái và khó chịu.
(95) Tên thường được biết đến là Friel, cháu rể của Dupleix phu nhân, Friel là người Ái Nhĩ Lan (Ireland). Năm 1744, thương gia de Rothe ủy thác cuộc lữ hành đến Đàng Trong cho Friel, chuyến đi khá thành công, Võ vương Nguyễn Phúc Khoát niềm nở đón tiếp, ban cho ông một giấy phép được đến giao dịch, buôn bán với cư dân xứ Đàng Trong. Friel không cung cấp những thông tin đã biết cho Poivre và đòi món tiền rất lớn nếu Poivre muốn ông nhượng lại giấy phép do chúa Nguyễn ban, Poivre không đáp ứng được yêu cầu của Friel.
(96) Tàu cập bến Tourane (Đà Nẵng) ngày 29 tháng 8 năm 1749, đến ngày 22 tháng 9 đoàn của Pierre Poivre mới đến kinh thành Phú Xuân, qua ngày hôm sau vào yết kiến Võ vương Nguyễn Phúc Khoát.
(97) Xin thiết lập ở Tourane một quầy hàng.
(98) Thực tế, Pierre Poivre rời vương phủ nhưng không đạt được mục đích ban đầu. Ngày 10 tháng 2 năm 1750, tàu buôn Machault nhổ neo rời Tourane. Ngày 10 tháng 4 năm 1750, tàu Machault cập bến Ile de France.
(99) Về sau, Dupleix có mở một cửa hàng tại Tourane, hoạt động trong một thời gian ngắn.
(100) Tức Edmond Bennetat, tư giáo hậu bổ của giám mục thừa sai Armand Lefebvre, “xin để ông được đứng ra làm người điều đình nhằm đặt mối quan hệ vững chắc giữa Pondichéry và Đàng Trong, lập những thương điếm và có được một khoảnh đất nào đó ở bờ biển” (dẫn theo Charles Maybon, Những người châu Âu ở nước An Nam, sđd, tr. 101).
(101) Charles-Thomas de Saint-Phalle, từng là giáo sĩ. Ông ở Đàng Ngoài tám năm, và biết tiếng bản địa. Ngày 24 tháng 2 năm 1753, ông trình lên quan chưởng ấn de Silhouette một ghi nhớ với mục đích để Công ty khai trương nền thương mại ở Đàng Ngoài...
(102) Ngày 15 tháng 5 năm 1755, Protais-Leroux, thương nhân và mại biện, trình bày dự án đặt một cơ sở tại Côn Đảo “nằm ở cửa ngõ eo biển Malacca”. Tức đặt một chi điếm tại Côn Đảo, tạo ưu thế cho Công ty Đông Ấn Pháp trước các Công ty của Anh và Hà Lan, ngoài ra còn nhắm đến vị trí chiến lược nếu chiến tranh nổ ra...
(103) Chiến tranh bảy năm (1756-1763). Ngày 15 tháng 5 năm 1756, chiến tranh bắt đầu khi Anh tuyên chiến với Pháp, trước đó hai bên đã đụng độ nhiều lần ở Bắc Mỹ. Cuộc chiến kết thúc bằng việc ký kết Hiệp ước Hubertusburg và Hiệp ước Paris tháng 2 năm 1763.
(104) Từ sau chiến thắng của Clive ở Plassey (năm 1757), Công ty Đông Ấn Anh chiếm ưu thế, vượt lên trước, đến năm 1769 thì Công ty Đông Ấn Pháp lụi tàn.
(105) Étienne Aymonier (1844-1929): nhà ngôn ngữ học và thám hiểm người Pháp. Ông là người đầu tiên khảo sát có hệ thống sự suy tàn của Đế chế Khmer, trải khắp Campuchia, Thái Lan, Lào và miền Tây Nam Bộ Việt Nam ngày nay. Ông trở thành giám đốc đầu tiên của Trường thuộc địa, từng là thành viên của Hội Đồng quản trị Hội Pháp Văn Liên hiệp. Ông đã thu thập được một lượng lớn tác phẩm điêu khắc Khmer cổ mà nay được trưng bày tại bảo tàng Guimet, Paris; đồng thời là tác giả của nhiều tác phẩm về ngôn ngữ Chăm.
(106) Ngày nay, người Chăm là một tộc người trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
(107) Tức Harivarman IV, năm 1074 hoàng tử Thâng tự xưng vua với vương hiệu là Harivarman IV. Ông lãnh đạo Champa đẩy lui quân Đại Việt, thắng người Khmer và đẩy cuộc chiến tranh đến tận sông Mékong. Harivarman IV dành cuộc đời mình cho việc “trả lại nước Champa vẻ huy hoàng thuở trước” (L. Finot).
(108) Kế vị Harivarman IV là con trai Jaya Indravarman II (Lần thứ nhất là giai đoạn 1080-1081, lần thứ hai là 1086-1113), xen giữa là khoảng thời gian sáu năm tiếm ngôi của hoàng thân Pâng với tên Paramabodhisattva. Nhân vật Surjavarman mà tác giả đề cập là Sûryavarman II trong lịch sử. Sûryavarman II lên ngôi năm 1113, ông là một vị vua chinh phục.
(109) Campuchia ngày nay.
(110) Sử Việt gọi là Chế Mân.
(111) Năm 1282, Toa Đô tiến đánh Chiêm Thành bằng đường thủy, chiếm thành Đồ Bàn (Bình Định). Năm 1285, Trần Nhân Tông phản công, đánh bại Thoát Hoan, chém đầu Toa Đô, Chiêm Thành được giải phóng. Năm 1293, Trần Nhân Tông nhường ngôi cho Trần Anh Tông. Trong chuyến vân du Chiêm Thành, Trần Nhân Tông hứa gả Huyền Trân công chúa cho vua Chế Mân. Chế Mân liền dâng hai châu Ô, Lý (tương đương với lãnh thổ từ Quảng Trị đến phần phía bắc tỉnh Quảng Nam (Hòa Vang, TP Đà Nẵng, Điện Bàn, Duy Xuyên, Đại Lộc, Hội An) ngày nay) làm sính lễ. Năm 1306, Huyền Trân bước chân qua khỏi đèo Hải Vân, vì một cuộc hôn nhân chính trị.
(112) Chế Bồng Nga từng nhiều lần đánh bại quân nhà Trần, tấn công và cướp phá thành Thăng Long.
(113) Năm 1642, con của Chey Chetta II là Chant (mẹ người Lào), sử Việt gọi là Nặc Ông Chân giết Outley và Ang Non I rồi lên làm vua (1642-1659). “Năm 1658, con của Prey Outley là So và Ang Tann nổi binh đánh Nặc Ông Chân, nhưng thất bại, đến nương náu với bà thái hậu người Việt, vợ Chey Chetta II. Bà này vốn bất bình con ghẻ mình lấy vợ người Mã Lai, theo Hồi giáo, nên khuyên So và Ang Tan đi cầu cứu chúa Nguyễn để can thiệp vào việc Chân Lạp [Cao Miên], bành trướng thế lực trên mảnh đất mà ông cha bà đã lưu ý. Chúa Thái Tông bèn sai Phó tướng dinh Trấn Biên (dinh Phú Yên) là Nguyễn Phước Yến 阮福 燕, Cai đội Xuân Thắng 春勝, Tham mưu Minh Lộc 明祿 (đều không rõ họ) đem 3.000) quân đến thành Hưng Phước 興福 (bấy giờ gọi là Mỗi Xuy 每吹, tức tỉnh Bà Rịa), đánh phá được, bắt Nặc Ông Chân bỏ vào cũi đem về Quảng Bình nạp cho chúa”. (Dẫn theo: Phan Khoang, Việt sử Xứ Đàng Trong 1558-1777, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2018, tr. 307-308 và ba cước chú liên quan).
(114) François Pallu sinh ngày 31 tháng 8 năm 1626 tại giáo quản khu Tours, ra đi từ Paris ngày 8 tháng 11 năm 1661 và rời Marseille ngày 2 tháng 1 năm 1662; giám mục ở Héliopolis năm 1658, thừa sai của giáo hoàng tại Đàng Ngoài, được thôi chức thừa sai của giáo hoàng ở Đàng Ngoài năm 1629 và bổ nhiệm ngày 1 tháng 4 năm 1680 làm tổng quản các đoàn truyền giáo Trung Quốc. Ông chết tại Phúc Kiến năm 1684.
(115) Chép theo nguyên văn, chúng tôi chưa tra cứu được chỉ dụ này. Ở Đàng Trong, Minh vương (Nguyễn Phúc Chu, 1691-1725) ra chỉ dụ cấm đạo năm 1700, Võ vương (Nguyễn Phúc Khoát) ra chỉ dụ năm 1725.
(116) Nguyên văn: Hoc-hoa-lang-dao.
(117) Sắc lệnh cấm đạo Hoa Lang, chúa Trịnh Cương (1682-1709) ra bốn sắc lệnh cấm đạo vào các năm 1709, 1712, 1721 và 1722. Thời Lê - Trịnh gọi Cơ Đốc giáo (Thiên Chúa giáo) là đạo Hoa Lang, vì nghĩ rằng tôn giáo này do người Hà Lan (hay Hòa Lan) du nhập vào nước ta.
(118) Nguyên văn: 1774.
(119) Hay còn gọi là Giáo hoàng Biển Đức XIV (Benedictus XIV). tác giả muốn nói đến vấn đề thờ cúng tổ tiên của người Công giáo phương Đông. Giáo hoàng Clemente XI ban hành Tông chiếu Exilladie (1715), buộc các thừa sai phương Đông phải tuyên thệ trung thành với Tòa Thánh La Mã trong vấn đề bác bỏ thờ cúng tổ tiên. Đến thời Giáo hoàng Biển Đức XIV, ngài ban hành hai thánh lệnh Ex quo singulari (1742) và Omnium sollicitudinum (1744), cấm giáo dân châu Á không được thờ cúng tổ tiên, vấn đề này được bàn trở lại, thờ cúng tổ tiên được thừa nhận thời Giáo hoàng Piô XII (1939) và sau đó là Công đồng Vatican II (1962-1965)...
(120) Hồ Văn Nghị, thầy giảng.
(121) Theo tài liệu của Phan Khoang (Việt sử xứ Đàng Trong 1557-1777, sđd, tr. 439-440) thì bấy giờ Mạc Thiên Tứ thành lập một Tu đạo Học hiệu ở mũi Hòn Đất (1767), Giám mục Piguel giúp tiền của cho việc lập trường này. Pigneau de Béhaine đến Hòn Đất thì Giám mục Piguel giao cho chức hiệu trưởng, dạy bốn mươi học trò Hoa, Tiêm [La], Việt. Năm 1769, trường tu, nhà thờ, nhà ở của giáo hội bị cướp đốt phá, nhiều học trò bị giết, Pigneau de Béhaine phải dời trường qua Pondichéry.
(122) Nguyên văn: Duc-Tong, tức Định vương Nguyễn Phúc Thuần (1754-1777). Duệ Tông là miếu hiệu (dành cho các vị quân chủ sau khi họ qua đời), được nhà Nguyễn truy tôn sau này. Tác giả gọi Duệ Tông trong bối cánh lịch sử này là chưa chính xác.
(123) Một thời gian sau, quân Tây Sơn làm chủ vùng đất từ Quảng Nghĩa đến Bình Thuận. Ở đây, cần lưu ý quan điểm khác biệt của tác giả (!)
(124) Ở Đàng Ngoài, Trịnh Sâm thấy phía nam có biến, sai Hoàng Ngũ Phúc cầm quân vượt sông Gianh, đầu tháng 1 năm 1775, quân Đàng Ngoài chiếm được Phú Xuân.
(125) Trên đường chạy vào Nam, Định vương lập Nguyễn Phúc Dương làm Đông cung. Quân Tây Sơn kéo từ Qui Nhơn ra đánh, quân chúa Nguyễn địch không lại, Định vương giao Quảng Nam cho Đông cung, lên thuyền cùng Nguyễn Phúc Ánh và gia quyến chạy vào Gia Định.
(126) Nguyên văn: Muc-vuong. Tức Tân Chính vương Nguyễn Phúc Dương, con trai của Nguyễn Phúc Hiệu, cháu nội của Võ vương Nguyễn Phúc Khoát, gọi Định vương Nguyễn Phúc Thuần là chú. [Cung Mẫn Anh Đoán Huyền Mặc Vĩ Văn] Mục vương là thụy hiệu (dành cho các vị quân vương sau khi họ qua đời), được nhà Nguyễn truy tôn sau này.
(127) Cửa biển Cu Đê cách Hòa Vang hai mươi bảy dặm về phía bắc.
(128) Nguyễn Nhạc ở thế yếu, phía nam có quân của Tống Phúc Hợp, phía bắc có quân Trịnh đóng ở Quảng Nam, vì vậy dâng thư cho Hoàng Ngũ Phúc xin làm tiền khu đánh chúa Nguyễn.
(129) Quân Trịnh lui về Thuận Hóa thì đất Quảng Nam thuộc về quân Tây Sơn.
(130) Thái Thượng vương Nguyễn Phúc Thuần và Tân Chính vương Nguyễn Phúc Dương, chi tiết đưa về Sài Gòn xử tử là không chính xác.
(131) Năm 1778, đặt kinh đô tại Chà Bàn. Trước đó, năm 1776, Nguyễn Nhạc tự xưng vương, Tây Sơn vương.
(132) Năm 1782.
(133) Nguyên văn: Trinh-Giai. Sau khi Trịnh Sâm mất, Đặng Thị Huệ và Huy quận công Hoàng Đình Bảo lập Trịnh Cán (1777-1782) lên ngôi chúa với tước hiệu Điện Đô vương, ở ngôi chúa được một tháng. Trịnh Khải (hay Trịnh Tông), con trai trưởng của Trịnh Sâm lên thay, hiệu Đoan Nam vương.
(134) Thủ phủ của Sơn Nam Thượng.
(135) Đúng phải là vua Lê Hiển Tông phong cho Nguyễn Huệ làm Nguyên súy Dực chính Phù vận Uy quốc công và gả con gái là Lê Thị Ngọc Hân. Nguyễn Nhạc ra Thăng Long sau khi vua Lê Hiển Tông thăng hà.
(136) Vua Lê Hiển Tông mất ngày 17 tháng Bảy năm 1786.
(137) Lê Duy Khiêm (hay Kỳ) là cháu nội của vua Lê Hiển Tông.
(138) Vua Lê xin nhường mấy quận cho Nguyễn Nhạc để khao quân.
(139) Nguyễn Hữu Chỉnh từ kinh đô lui về Nghệ An xây dựng căn cứ.
(140) Tức Án Đô vương, vị chúa Trịnh cuối cùng (thứ 11) trong lịch sử thời Lê Trung hưng, Trịnh Bồng là anh họ của Trịnh Sâm.
(141) Sau khi lui về nam, Nguyễn Nhạc giữ vùng đất ở giữa (Quảng Nam đến Bình Định), tiếp tục cương vị hoàng đế Thái Đức, đóng đô tại thành Hoàng đế ở Qui Nhơn; Nguyễn Huệ ở Phú Xuân được phong Bắc Bình vương, giao cai quản vùng Thuận Hóa vừa giành được cùng với vùng Nghệ An; Nguyễn Nhạc phong tước Đông Định vương cho Nguyễn Lữ, cho cai trị vùng đất Gia Định. Sau đó, Nhạc và Huệ xung đột, một trận chiến kéo dài từ tháng 2 đến tháng 6 năm 1787, Nhạc giao cho Huệ thêm vùng đất phía nam đèo Hải Vân.
(142) Nguyễn Hữu Chỉnh kéo quân vào Thăng Long để hạ Trịnh Bồng nhưng không thông báo cho Nguyễn Huệ, Huệ cử Vũ Văn Nhậm ra Thăng Long giết Hữu Chỉnh, Nhậm nắm quyền hành và làm nhiều điều đắc chí. Nguyễn Huệ sai Ngô Văn Sở ra Bắc kiềm chế Nhậm. Nhậm cử Sở lên đóng ở Phú Xuyên, Sở căm tức gửi thư mật báo cho Nguyễn Huệ, tố cáo Nhậm. Mùa xuân năm 1788, Nguyễn Huệ tấn công Thăng Long, bắt và chém đầu Vũ Văn Nhậm. Nguyễn Huệ về lại Phú Xuân, giao Thăng Long cho Ngô Văn Sở.
(143) Tác giả muốn nói đến việc Lê Duy Kỳ xử phạt tội danh “cộng tác với địch” hay “hàng giặc” của Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Hoãn... thăng chức cho bầy tôi đi hộ giá, quản thúc Lê Duy Cẩn...
(144) Tết năm Kỷ Dậu (1789), Quang Trung tiến quân ra Bắc đánh tan quân Tàu, Tôn Sĩ Nghị chạy về Quảng Tây, vua Lê Chiêu Thống xuất bôn sang Trung Hoa. Độc giả quan tâm đoạn vua Lê xuất bôn, nhận định về Lê Chiêu Thống, về tôi trung Lê Quýnh... có thể tìm đọc trong: Nguyễn Duy Chính, Lê mạt sự ký: sự suy tàn của triều Lê cuối thế kỷ XVIII, Nxb. Khoa học xã hội và DTBooks, 2016.
Sau mười lăm năm lưu lạc, hài cốt vua Lê Chiêu Thống được đưa về nước vào năm Giáp Tý (1804).
(145) Lúc này Nguyễn [Phúc] Ánh mới mười lăm tuổi (sinh năm 1762). Về vai vế, Nguyễn Ánh là anh họ của Nguyễn Phúc Dương.
(146) Sau khi chạy trốn khỏi Gia Định, Nguyễn Ánh sống giữa vùng đầm lầy Cà Mau, sau đó qua đảo Thổ Châu (Pulau Panjang) ẩn lánh trong vịnh Xiêm La.
(147) Năm 1778.
(148) Nguyễn Ánh xưng vương năm 1780.
(149) Giữa năm 1782, anh em Nhạc và Huệ kéo tàu chiến hướng về sông Sài Gòn, tiến đánh Gia Định. Cướp bóc và đốt cháy các tiệm buôn của Hoa kiều, tàn sát hàng ngàn cư dân người Hoa, phần vì cộng đồng người Hoa ủng hộ Nguyễn Ánh, phần vì trả thù cho cái chết của tướng Tây Sơn Phạm Ngạn bị đạo quân Hòa Nghĩa (phần lớn là người Hoa) giết trong trận đánh tại cầu Tham Lương.
(150) Tức đảo Thổ Châu.
(151) Nguyễn Phúc Cảnh, con trưởng của Nguyễn Ánh.
(152) Phạm Văn Nhân và Nguyễn Văn Khiêm.
(153) Quân Nguyễn Ánh và tàn quân Xiêm trở về ẩn lánh ở Vọng Các.
(154) Bá tước de Conway, tổng chỉ huy quân đội Pháp trong vùng Ấn Độ Dương.
(155) Bộ trưởng Bộ Hải quân.
(156) Tức Khiêm Quang hầu, Long Chính hầu và Quý Ngọc hầu. Theo Tạ Chí Đại Trường (trong: Lịch sử nội chiến ở Việt Nam từ 1771 đến 1802, sđd, tr. 337-338) có thể Khiêm Quang hầu là Nguyễn Văn Khiêm, Long Chính hầu là Thượng đạo tướng quân Nguyễn Long sau này, Quý Ngọc hầu là Ngô Công Quý.
(157) Nguyên văn: Grand Occident, tức Pháp hoàng Louis XVI.
(158) Tức Côn Đảo.
(159) Nhượng cho Pháp vùng đất và vùng biển Tourane, đảo Côn Lôn và các đảo kề cận.
(160) Nguyên văn: de Gonway.
(161) Tức gia tộc Orange-Nassau (Oranje-Nassau), vào thế kỷ XVI đóng một vai trò quân sự quan trọng trong Cộng hòa Liên bang gồm mười bảy tỉnh hay còn gọi là xứ Hà Lan thuộc Tây Ban Nha. Guillaume I là vị vua đầu tiên của triều đại Orange cai trị Hà Lan kể từ năm 1814.
(162) Étienne de Silhouette (1709-1767), triết gia của thời kỳ Khai sáng, Tổng trưởng Tài chính của vua Louis XV.
(163) Olivier de Puymanel là tác giả của thành Sài Gòn (xây năm 1790 và bị phá hủy năm 1835) và thành Diên Khánh (Khánh Hòa).
(164) Philippe Vannier (1762-1842), tên Việt là Nguyễn Văn Chấn.
(165) Nguyên văn: Cochinchine. Jean Baptiste Chaigneau (1769-1832), tên Việt là Nguyễn Văn Thắng, một trong hai người Pháp phục vụ lâu nhất tại triều đình nhà Nguyễn.
Theo A. Salles (trong: Lê Nguyễn, Xã hội Việt Nam qua bút ký của người nước ngoài. Nxb. Hồng Đức và DTBooks, 2018. tr. 119), chuyến tàu La Méduse của Bá Đa Lộc cập bến Cap Saint-Jacques (Vũng Tàu ngày nay) ngày 28 tháng 7 năm 1789 không có J.B. Chaigneau, mãi đến năm 1793 Chaigneau mới gặp chúa Nguyễn Ánh lần đầu tiên.
(166) Đúng phải là năm 1824.
(167) 1 picul = 60,45kg.
(168) Tachos và sagen: chúng tôi chưa tra cứu được.
(169) Có lẽ là mass, tức đồng cân bạc, một đơn vị đo lường cũ.
(170) Phần lớn trích dẫn tác giả dùng trong sách này không ghi nguồn, về những ghi chép của J.B. Chaigneau độc giả có thể tìm hiểu trong Le Mémoire sur la Cochinchine (Ký ức về Việt Nam) được ông viết trên chuyến tàu Henri trở về Pháp năm 1819-1820. Gần năm mươi năm sau, con trai ông là Michel Đức Chaigneau xuất bản tập hồi ký Souvenirs de Hue (Hồi ức Huế) tại Paris năm 1867. Trong cuốn sách, Michel Đức Chaigneau kể qua về cuộc đời cha mình từ khi rời nước Pháp vào năm 1791, đây là một thông tin bên lề về chuyện J.B. Chaigneau có mặt hay không trên con tàu của Bá Đa Lộc năm 1789.
(171) Nguyễn Huệ qua đời ngày 29 tháng Bảy năm Nhâm Tý, tức ngày 16 tháng 9 năm 1792.
(172) Tức Nguyễn Quang Toản (1783-1802), con trai của Nguyễn Huệ, lên ngôi lúc chín tuổi, dưới sự giám hộ của phụ chánh (thái sư Bùi Đắc Tuyên).
(173) Sau những thất bại trước Nguyễn Ánh (1792-1793) và thương thuyết thất bại với Quang Toản, Nguyễn Nhạc qua đời ở tuổi năm mươi, vào mùa hè năm 1793.
(174) Nguyễn Ánh lập Nguyễn Phúc Cảnh làm Đông cung, người sẽ kế vương vị về sau.
(175) Tức Lạng Giang quận công Nguyễn Phúc Hội (Tôn Thất Hội) (1757-1798).
(176) Nguyên văn: Vo-Thanh et Nguyên-van-Thuong.
(177) Nguyên văn: Tu-Trieu. Sau khi Nguyễn Nhạc mất, quyền lực thuộc về vua Cảnh Thịnh và triều đình Phú Xuân, Nguyễn Bảo được phong tước Hiếu công. Nguyễn Bảo tập trung lực lượng, đánh chiếm thành Qui Nhơn. Thời Nguyễn Bảo cầm quyền ở Qui Nhơn được gọi là Tiểu triều, có thể chữ Tu-Trieu được hiểu theo nghĩa này chăng?
(178) Tức Thuận An công Nguyễn Phúc Hy (1782-1801), ông được gọi về trấn thủ Gia Định lúc Nguyễn Ánh đi đánh Qui Nhơn. Hoàng tử Hy trấn thủ Gia Định.
(179) Lần thứ ba.
(180) Nguyên văn: Thoai. Ba cánh quân trong trận này là thủy binh của Nguyễn Văn Trương, bộ binh của Nguyễn Văn Thành và cánh quân của Đông cung Cảnh.
(181) Nguyên văn: Thieng. Tức Nguyễn Văn Thành, về sau là Bắc thành Tổng trấn thời Gia Long.
(182) Nguyễn Công Thái.
(183) Nguyên văn: Ki-Dao.
(184) Nguyên văn: Nguyên-van-Diêu.
(185) Dịch theo nguyên văn tiếng Pháp, lúc này chưa có niên hiệu Gia Long.
(186) Theo nguyên văn, dùng niên hiệu Gia Long lúc này chưa chính xác.
(187) Đầm Thị Nại, nơi diễn ra trận thủy chiến nổi tiếng trong lịch sử nội chiến thời bấy giờ.
(188) Võ Tánh và Ngô Tùng Châu ở trong thành bị bao vây hơn một năm, bấy giờ Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng vẫn bao vây chặt.
(189) Mất tại Gia Định. Hai tháng sau Hoàng tử Hy cũng qua đời, đưa về Gia Định chôn cất.
(190) Nguyễn Phúc Đảm, về sau nối nghiệp vua Gia Long, lấy niên hiệu Minh Mạng, cai trị Việt Nam giai đoạn 1820-1841.
(191) Tức Nguyễn Phúc Mỹ Đường (hay Nguyễn Phúc Đán, Hoàng tôn Đán), con trai trưởng của Hoàng tử Cảnh, cháu đích tôn của Nguyễn Ánh. Dưới thời Minh Mạng, có ba vụ án lớn là vụ án: Lê Văn Duyệt, Lê Chất và Mỹ Đường.
(192) Tức cửa Tư Hiền (Tư Dung), thuộc hệ đầm phá Tam Giang - cầu Hai.
(193) Phò mã Nguyễn Văn Trị, đóng trên núi Quy Sơn (Linh Thái).
(194) Thực hiện chính sách bang giao “trong xưng đế, ngoài xưng vương”, nhận sắc phong và thực thi triều cống để ổn định và phát triển đất nước.
(195) Võ Tánh tuẫn tiết ngày 7 tháng 7 năm 1801, Ngô Tùng Châu uống thuộc độc ngày 5 tháng 7 năm 1801.
(196) Giám mục qua đời ngày 6 tháng 8 năm 1823.
(197) Hoàng Việt luật lệ hay còn gọi là Luật Gia Long, do Tiền quân Nguyễn Văn Thành làm Tổng tài, gồm 22 quyển với 398 điều.
(198) Cần Chánh điện Đại học sĩ (勤政殿大學士), Văn Minh điện Đại học sĩ (文明殿大學士), Võ Hiển điện Đại học sĩ (武顯殿大學士), Đông Các điện Đại học sĩ (東閣大學士).
(199) Mặc dầu là xã theo bản gốc tiếng Pháp nhưng có lẽ là làng thì đúng hơn, vì làng là đơn vị độc lập, có hội đồng kỳ mục, có thành hoàng làng và đình làng...
(200) Bộ luật Gia Long khắc in năm 1813, ban hành năm 1815, “ban quốc triều luật lệ cho trong ngoài [...]. Từ năm Mậu Dần (1818) trở đi thì xử trị theo luật”.
(201) Tác giả muốn nói đến cuộc hôn nhân của công nữ Ngọc Vạn và Chey Chettah II. Tương truyền, chúa Sãi gả một người con gái của mình cho Chey Chettha II (Brah Jaya Cestha), theo Geoges Maspéro (trong Empire Khmer. Histoire et documents): “Nhà vua mới đăng cơ cho xây một cung điện tại Oudong, ở đây ông tổ chức hôn lễ trọng thể với một công nữ xứ An Nam. Người này vô cùng xinh đẹp và về sau có ảnh hưởng lớn tới nhà vua. Nhờ bà mà một sứ bộ An Nam được Chey Chettha cho phép xây dựng thương điếm ở vùng Sài Gòn ngày nay”. về nhân vật công nữ Ngọc Vạn, hiện vẫn còn nhiều tranh luận.
(202) Quyền bảo hộ 1658, và đoạn về vua Hồi giáo kế tiếp, chúng tôi đã nhắc đến ở cước chú về Nặc Ông Chân.
(203) Về sau hình thành hai trung tâm giao thương lớn là Mỹ Tho đại phố do Dương Ngạn Địch thành lập; Nông Nại đại phố (Cù Lao Phố, Biên Hòa) do Trần Thượng Xuyên tập trung Hoa thương thành lập.
(204) Năm Mậu Dần (1698), chúa Nguyễn Phúc Chu sai Thống suất Nguyễn Hữu Kính vào Nam kinh lược, chia đất Đông Phố (東 浦), lấy xứ Đồng Nai đặt huyện Phước Long, lập dinh Trấn Biên (缜 邊), lấy xứ Sài Côn đặt huyện Tân Bình (新 平), lập dinh Phiên Trấn (藩 鎮), chính thức xác lập chủ quyền của chính quyền Đàng Trong.
(205) Khum, tức xã.
(206) Mạc Cửu (鄚 玖) người Lôi Châu (Quảng Đông), không chịu gióc tóc theo nhà Thanh nên chạy sang Cao Miên, được cho làm chức Ốc Nha, trở nên giàu có. Mạc Cửu bèn chiêu tập lưu dân đến ở các nơi như Phú Quốc, Cần Bột (Kampot), Rạch Giá, Luống Cày, Hương Úc (tức Vũng Thơm, Kompong Som), Cà Mau, lập thành bảy xã thôn, đặt tên đất là Hà Tiên. Năm Mậu Tý (1708), Mạc Cửu dâng đất cho chúa Nguyễn, chúa trao cho Mạc Cửu chức tổng binh, trấn giữ Hà Tiên. Năm Ất Mão (1735), Mạc Cửu mất, chúa cho con là Mạc Thiên Tứ (鄚 天 賜) làm đô đốc, trấn Hà Tiên.
(207) Năm 1757, chúa Nguyễn Phúc Khoát lập đạo Đông Khẩu (ở Sa Đéc), đạo Châu Đốc (ở Châu Đốc), đạo Tân Châu (ở Cù lao Giêng), trực thuộc dinh Long Hồ. Những vùng đất cuối cùng được triều đình Cao Miên chuyển giao cho chính quyền chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn chính thức xác lập chủ quyền ở vùng đất Nam bộ ngày nay.
(208) Ang Non II, tức Nặc Vinh trong sử Việt.
(209) Đúng hơn phải là Phraya Tak, sử Việt gọi là Trịnh Quốc Anh, vua Xiêm La. Năm Tân Sửu (1781), Trịnh Quốc Anh sai hai tướng là Chất Tri (Chao Phaya Chakkri) và em là Sô Si đem binh sang đánh Cao Miên. Nặc Ân cầu cứu chúa Nguyễn. Năm Nhâm Dần (1782), Nguyễn Ánh sai chưởng cơ Nguyễn Hữu Thụy (阮有瑞) và Hồ Văn Lân (胡文燐) đem 3.000 quân sang cứu, đóng ở La Bích. Bấy giờ ở Vọng Các [Bangkok bây giờ] có loạn, hai bên Việt - Xiêm không đánh nhau, Chất Tri và Sô Si đem quân trở về, Trịnh Quốc Anh bị giết, Chất Tri lên ngôi, tức Phật vương (Rama I) trong lịch sử, Sô Si làm Đệ nhị vương. Mối bang giao giữa Nguyễn Ánh và Phật vương bắt đầu từ đó.
(210) Tức Nặc Ân trong sử Việt.
(211) Nặc Ân còn nhỏ tuổi, các phe phái tranh giành quyền lực, cuối cùng Chiêu Thùy Biện (hoặc Bên) chiến thắng, lên làm phụ chính. Lúc ấy, người Bồ Đà đánh Cao Miên, Chiêu Thùy Biện đưa Nặc Ân sang Vọng Các, vua Xiêm sai quân đưa Nặc Ân về Oudong, các tỉnh Battambang, Angkor, Mongkol, Borei... sáp nhập vào Xiêm La, Chiêu Thùy Biện được giữ tỉnh Battambang...
(212) Tức Tổng trấn Gia Định thành Lê Văn Duyệt ( 1763-1832).
(213) Đại tá David de Charpentier de Cossigny đến từ Île de France, không đồng tình với người tiền nhiệm Coutanceau về vấn đề do Bá Đa Lộc trình bày, cũng không chủ trương đưa quân sang Đàng Trong.
(214) Công tước, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Pháp.
(215) Về chuyến đi của thuyền trưởng Kergariou, độc giả có thể tìm hiểu thêm ở tác phẩm La mission de la Cybèle en Extrême-Orient en 1817-1818 (Paris, 1914).
(216) Hoàng đế Pháp, Louis XVIII, ký sắc lệnh ngày 12 tháng 10 năm 1820 cử ông làm Lãnh sự kiêm Đặc ủy của nhà vua cạnh triều đình Huế.
(217) Năm 1824.