Chương 16 - IV - Jean-Marie Dayot-Phần I: Chức vụ và trách nhiệm
Về mục từ Jean-Marie Dayot, Wikipédia tiếng Anh tóm tắt Wikipédia Pháp. Wikipédia Việt dịch lại tiếng Anh.
Wikipédia Pháp ghi chức nghiệp của Jean-Marie Dayot như sau: “Grand amiral de la flotte annamite et commandant des bâtiments français de l’Annam” (Đại đô đốc của hạm đội An Nam và tư lệnh những tàu Pháp của nước Nam); và ghi những “chiến công” của Dayot như sau:
“Năm1792, ông cầm đầu một chiến dịch cho Nguyễn Ánh, ông tàn phá 5 tàu chiến, 90 chiến thuyền, và khoảng 100 tàu nhỏ của Tây Sơn; ông cho đổ bộ quân đội lên bộ và phá huỷ những đồn luỹ trước khi quay về bến Can-Tru (?) Năm 1793, ông đặt ra chiến dịch hàng năm (Giac mua) [Giặc mùa], trong khi bộ binh do Olivier de Puymanel điều khiển lại tấn công Qui Nhơn lần nữa. Ông bắt được 60 chiến thuyền của Tây Sơn và chiếm được các tỉnh Bình Thuận và Phú Yên, mặc dù thành Quy Nhơn vẫn chưa hạ được.
Jean-Marie Dayot còn thực hiện một công trình lớn lao là thủy đạo đồ bờ biển nước Nam, bản đồ do người em vẽ và ông gửi một bản sao về Paris. Ông lấy tên mình, Port Dayot, đặt cho cảng Van Phong [Vân Phong tức Hòn Khói, tỉnh Khánh Hoà, nơi Gia Long đóng bản doanh khi đánh trận Thị Nại 1801; năm Minh Mạng thứ sáu đổi tên là Vân Phong]. Năm 1795, Jean-Marie Dayot bị kết án oan ức là đã cố tình làm đắm chiếc tàu mà ông cai quản. Oan thực, vì lúc đó ông đâu có ở trên tàu. Ông bị kết án vì bất cẩn và bị đóng gông. Nhờ Olivier de Puymanel và giám mục Adran can thiệp, ông mới được thả sau 4 ngày chịu nhục hình.
Ghê tởm vì bị đối xử như thế sau những phụng sự lớn lao như thế, ông rời bỏ Nam Hà”.
Những điều Wikipédia Pháp viết trên đây, tổng hợp toàn bộ những gì các ngòi bút thuộc địa viết về nhân vật này: “sự nghiệp” của Dayot; “sự oan ức” bị kết án, và sự “đối xử tàn nhẫn” của Gia Long, đối với con người “lừng lẫy” này.
Đôi khi chúng ta nghi ngờ độ chính xác của một số thông tin trên Wikipédia, nhưng đây là một trong những trường hợp điển hình nhất của sự xuyên tạc lịch sử, được Wikipédia quảng bá trên toàn thế giới.
Những sai lầm và xuyên tạc này đến từ các tác giả thực dân, mà chúng tôi đã trình bầy trong các chương trước, nay xin đưa thêm vài nhận xét mới:
1- Chức Grand amiral, Đại đô đốc, nếu tìm tương đương trong sử Việt, là chức của Nguyễn Văn Trương, chỉ huy toàn bộ thủy binh của Nguyễn Ánh, đã lập chiến công trong các trận Thị Nại 1792 (cùng với Nguyễn Văn Thành), trận Thị Nại 1801, trận Đà Nẵng và trận Phú Xuân…
2- Việc “Dayot đặt ra chiến dịch giặc mùa” là hoàn toàn bịa đặt. Gió mùa chứ không phải giặc mùa. Thời đó, tất cả tàu bè (Âu hay Á) đều dùng buồm, đi đâu cũng phải đợi thuận gió mới khởi hành được. Không chỉ Nguyễn Ánh dùng chiến dịch gió mùa, mà Tây Sơn cũng đợi thuận chiều gió để đánh vào Nam, giặc mùa là tiếng dân miền Nam chỉ quân Tây Sơn.
3- Trên văn bằng vua cấp cho Jean-Marie Dayot có ghi: Khâm sai cai đội quản chiếu tàu nhị chích (khâm sai cai đội chỉ huy hai chiếc tàu [nhị chích là hai chiếc]). Hai tàu này là Đồng Nai và Le prince de Cochinchine (tên đã dịch sang tiếng Pháp, không rõ tên gốc tiếng Việt là gì), chưa rõ là tàu do người Việt làm, hay tàu Nguyễn Ánh mua lại của Bồ, Anh hay Pháp, vv… Tuy nhiên, nhiệm vụ hai tàu này là mua bán ở nước ngoài và vận tải lương thực, như ta sẽ thấy, chắc chắn không phải là tàu chiến.
Ngoài ra, từ 1790 đến năm 1795, Dayot giữ chức khâm sai cai đội, tức vẫn là cai đội, tuy có thêm chữ khâm sai, trên quyền cai đội một chút, chứ không thể là “đại đô đốc”. Người chỉ huy toàn bộ thuỷ quân của vua Gia Long là Nguyễn Văn Trương.
4- Chưa có chứng cớ gì đích xác về sự góp mặt của Jean-Marie Dayot trong trận Thị Nại 1792. Nếu có, cũng chỉ là vận tải lương thực. Dayot không ở trong hạm đội tác chiến. Trận Thị Nại 1792 đánh chớp nhoáng, tất cả chỉ có 10 ngày, chưa chắc Nguyễn Ánh đã cần đến sự vận tải lương thực, vì Thực Lục không nói đến các quan coi việc quân lương như trong các chiến dịch khác.
Jean-Marie Dayot (1759- 1809)
Dayot là hai anh em: Jean-Marie và Félix, cùng đến giúp Nguyễn Ánh khoảng 1789.
Jean-Marie Dayot được nhận văn bằng của vua và giữ vai chính trong sự nghiệp này. Félix Dayot, nhỏ tuổi hơn, chỉ đi theo trợ giúp. Tuy sang cùng với Vannier, nhưng Félix không có chức tước rõ ràng, nên cũng không được ghi nhận trong các giấy tờ chính thức.
Trước khi viết về JM Dayot, chúng tôi xin nói qua về Félix Dayot: Félix Dayot, quê Redon (Bretagne), em Jean-Marie Dayot, đến nước Nam năm 1789 cùng với Vannier, và trốn đi năm 1795 cùng với JM Dayot.
Theo thư của giáo sĩ Le Labousse viết về Hội thừa sai Paris ngày 16/6/1792, thì: “Tất cả những người Pháp ở đây giúp vua được hơn hai năm, đều trở về Macao. Trong đó có hai anh em Dayot, quê Rhedon, và ông Vannier quê ở Auray” (Cadière, Doccuments Relatifs à l’époque de Gia Long, BEFEO, số 12, 1912, t. 28). Đó là Le Labousse tóm tắt tình hình chung vào tháng 6/1792, khi biết tin Quang Trung sẽ đánh xuống miền Nam qua ngả Lào. Tuy vậy, anh em Dayot còn ở lại Nam Hà đến 1795 và Vannier, lúc đầu chắc cũng định bỏ đi, nhưng sau, ở lại đến đầu đời Minh Mạng.
Anh em Dayot rời Nam Hà, sang ở hẳn Phi Luật Tân tiếp tục việc buôn bán.
Félix Dayot mất năm 1821; thư Vannier, từ Huế gửi M. Baroudel, quản thủ Hội thừa sai Macao, ngày 2/8/1821, viết về cái chết của Félix như sau: “Tôi rất đau đớn về cái chết của Félix Dayot cùng quê với tôi và đi cùng với tôi sang nước Nam năm 1789″ (Cadière, Doc. Rel., BEFEO, t. 67).
Tiểu sử Jean-Marie Dayot
Theo Taboulet, Jean-Marie Dayot, sinh ngày 21/3/1759 (Taboulet, I, t. 249). Quê ở Redon (Bretagne). Theo Faure, Dayot là cháu của Charpentier de Cossigny, cựu toàn quyền Pháp ở Ấn Độ. Dayot trực thuộc vào trụ sở thuộc địa địa phương ở Ấn Độ, với tư cách trợ tá đại úy hải quân, làm việc trên các thương thuyền, bị cướp ở Vizaudrut (giữa Goa và Bombay) bị đánh đập, trốn thoát, nhưng bị mất tàu (Faure, Bá Đa Lộc, note 1, t. 201).
Maybon viết sau Faure, tìm thêm được một số chi tiết khác: “gia đình Dayot sang lập nghiệp tại Ile de France, có nhiều người làm việc cho công ty Pháp Ấn. Có họ với Charpentier de Cossigny, cũng sinh ở Ile de France, làm tư lệnh Pondichéry từ 1785 đến 1787.
Năm 1786, JM Dayot điều khiển thuyền nhỏ hai cột buồm (polacre) Adélaide, trang bị ở Ile de France để đi Pointe-de-Galles [Sri Lanca-Tích Lan] và Mascate [Oman] mua lưu hùynh và gia vị; nhưng gặp cướp người Mahrattes [Trung Ấn]. Chủ tàu khiếu nại nhiều lần không có kết quả, Dayot bèn về Pondychéry cầu cứu tướng Conway hiện đang làm tư lệnh quân Pháp ở Ấn Độ, nhờ ông can thiệp với nhiếp chính vương Mahratte và được bồi thường (Maybon, Introduction, Relation Bissachère, t. 27).
Sau đó, Maybon chép lại lời Sainte-Croix, cho rằng Dayot đã lái một trong hai chiếc tàu hộ tống giám mục Bá Đa Lộc cùng hoàng tử Cảnh trở về Nam Hà tháng 7/1789. Nhưng điều này sai, vì chính vị giám mục đã tuyên bố ông về với độc một chiếc tàu. Maybon còn đưa ra giả thuyết Dayot đã quen với vị giám mục, hoặc ở Ile de France, hoặc ở Pondichéry, nhưng đó cũng chỉ là giả thuyết, vì không có gì chứng minh những sự “gặp gỡ” này.
Cosserat trong bài Notes Biographiques sur les français au service de Gia Long (BAVH, 1917, III, t. 179) cho biết, ông không tìm thấy tài liệu nào chứng nhận đích xác ngày JM Dayot đến Nam Hà, nhưng ông lại dựa vào chứng sau đây của Faure để xác định JM Dayot đã có mặt ở Nam Hà từ năm 1788, bởi vì, theo lời Faure: “Tàu Dryade… bỏ neo ở Cavite [Phi Luật Tân]…ba giáo sĩ đi từ Paris với giám mục Bá Đa Lộc lên bờ, đó là các ông Le Labousse, Pocard và Lavoué… có 7 pháo thủ Pháp của tàu này đào ngũ ở Cavite và hình như họ sẽ tới tăng cường cho đội ngũ của tàu tư Saint-Esprit do Jean-Marie Dayot, đại uý hải quân, một tay đào ngũ khác của hạm đội ta, cai quản” (Faure, t. 201).
Những điều Faure viết chỉ tin được đến đấy, bởi vì sau đó, ông lại phóng lên rằng J.M Dayot đã được Bá Đa Lộc trao cho nhiệm vụ “thành lập và chỉ huy hải quân của Gia Long” và trong khi chờ đợi, Dayot sang Phi mua bán khí giới cho Gia Long theo lệnh của Bá Đa Lộc. Những điều này không tin được, vì tàu Dryade đậu ở Cavite từ 7/10/1788 đến 29/11/1788, tức là trong thời điểm Bá Đa Lộc còn đang ở Pondichéry, chưa về tới Gia Định, làm sao giám mục Bá có thể phát sẵn chức tước như thế? Và như chúng ta đã biết, Bá Đa Lộc chẳng mộ lính, cũng chẳng mua khí giới gì cho Nguyễn Ánh. Ngoài ra, ông cũng không có quyền hành gì về chính trị lẫn quân sự. Cho nên sự kiện tháng 10-11/1788, Dayot điều khiển tàu Saint-Esprit, mà Cosserat đưa ra cũng không chứng tỏ JM Dayot đã về giúp Nguyễn Ánh từ năm 1788.
Với những chứng cớ tin được, ta chỉ có thể đoán rằng JM Dayot đã đến Nam Hà vào khoảng 1789, trước Félix Dayot, vì theo thư Vannier viết ngày 2/8/1821 đã nói ở trên, thì Félix đến Nam Hà cùng với Vannier năm 1789; và theo Faure, thì Jean-Marie đến trước rồi mới gọi em sang sau.
Còn ngày chính thức JM Dayot về giúp Nguyễn Ánh, có lẽ nên ghi ngày nhận văn bằng Khâm sai cai đội, tức là ngày 27/6/1790.
Văn bằng Khâm sai cai đội của Dayot
Sau đây là bản dịch văn bằng vua cấp cho Dayot (dịch lại từ bản dịch tiếng Pháp):
Văn bằng do vua Nam Hà cấp cho M. Dagot [Dayot]
“Hoàng thượng xét sự trung thành và nhiệt tâm trong công việc của Jean-Marie Dagot, quốc tịch Pháp, người đặc biệt chú ý đến thiện chí mà y đã chứng tỏ khi đến từ rất xa để phục vụ trong ngành thủy binh của người, Hoàng thượng xét thấy y xứng đáng được chọn, và với văn bằng này, cấp cho y chức Khâm sai cai đội quản chiếu tàu nhị chích trí lược hầu, quản chiếu hai tàu Đồng Nai và Le prince de Cochinchine. Hoàng thượng hy vọng khi thời cơ đến, Jean-Marie Dagot, sẽ kịp thời chứng tỏ lòng can đảm và trí thông minh để điều khiển các tàu được giao phó, và nghiêm khắc áp dụng quân lệnh, y sẽ xứng đáng được tin cậy. Nếu vì lỗi, không làm tròn nhiệm vụ quan trọng này, thì y sẽ bị nghiêm trị theo luật pháp.
Ngày thứ 15, tuần trăng thứ 5, năm Cảnh Hưng thứ 51, tại Sài Gòn, ngày 27/6/1790″
(Louvet, La Cochinchine Religieuse, I, Paris, 1885, Pièces justificatives, t. 532-533).
Cùng ngày này, có bốn người nữa dưới quyền điều khiển của Dayot được văn bằng cai đội và phó cai đội, đó là: Vannier, Cai đội chấn thanh hầu, quản tàu Đồng Nai; Isle-Sellé, cai đội long hưng hầu, quản tàu Le Prince de la Cochinchine, Guillon, Phó cai đội oai dõng hầu và Guilloux, Phó cai đội nhuệ tài hầu (Theo các văn bằng in trong La Cochinchine Religieuse, t. 534-538).
Như vậy, Dayot được vua giao chức vụ Khâm sai cai đội quản chiếu tàu nhị chích trí lược hầu với trách nhiệm quản chiếu hai tàu Đồng Nai và Le Prince de la Cochinchine, mỗi tàu có một phụ tá cai đội và phó cai đội người Pháp ở dưới quyền. Và theo chỉ dụ sai phái vua cấp cho Dayot cùng ngày nhậm chức, thì ta biết hai tàu này là hai tàu buôn, có thể đi xa, tới Ma Cao, Phi Luật Tân, vv…
Nhiệm vụ mua bán của Dayot
Nhiệm vụ đầu tiên Dayot nhận được là một chỉ dụ sai phái, ký cùng ngày 27/6/1790 với văn bằng Khâm sai cai đội. Qua chỉ dụ này, ta biết được nhiệm vụ chính của Dayot và đồng thời hiểu thêm sự giao dịch mua bán với các nước lân cận của Gia Long trong năm 1790. Cách thức vua bán gạo để mua các vật dụng chiến tranh và tàu chiến. Đồng thời cho thấy sự nghiêm ngặt trong các chi tiết về ngân quỹ, dưới thời Gia Long và cả Minh Mạng, để tránh sự thâm lạm; nếu đọc Hội Điển, ta sẽ thấy năm nào, vua Minh Mạng mua bao nhiêu cân nhãn, giá bao nhiêu tiền một cân, nhất nhất đều ghi lại hết. Vì thế, sự thâm lạm ngân quỹ của Dayot sẽ là một lỗi nặng, và những người Pháp (Dayot, Chaigneau, Vannier) thường chỉ trích sự “hà tiện” của hai vua là bởi tính cách chi li và gắt gao trong các chiếu chỉ sai phái.
Lệnh sai phái này khá quan trọng và hơi dài, chúng tôi xin tóm tắt, như sau:
“Lệnh cho ngươi Jean-Marie Dagot [Dayot], Khâm sai cai đội quản chiếu tàu nhị chích trí lược hầu, quản chiếu hai tàu Đồng Nai và Le prince de Cochinchine và lệnh cho quan Trung [không rõ tên ông quan là Trung hay chức ông là Trung, cộng thêm một chữ nữa], làm trọn vẹn những điều khoản sau đây:
1- Chở 3.900 tạ [mỗi tạ ta là 62kg500] gạo sang Macao bán.
2- Dùng tiền thu được trả lương còn thiếu cho thủy thủ đoàn của hai tàu …
3- Hàng tháng, dành 300 đồng, để chi cho việc ăn uống trên hai tàu.
4- Làm mọi cách để đòi ở Macao tiền 5.000 cây cau, mỗi cây 3 đồng, mà Antoine Vincent de Rosa, còn nợ vua, cộng thêm nợ cũ của y còn đọng lại 6.208 đồng; và tiền 1.908 tạ cau, giá 3 đồng một tạ, mà Antoine Milner ở Macao còn nợ vua; những số tiền này tổng cộng là 26.933 đồng (piastres) và 4 condorins [?].
Với tất cả tiền thu được [tiền bán gạo và tiền nợ] Jean-Marie Dagot [Dayot] lấy ra 3.848 đồng thiếu một quan, để trả lương cho thủy thủ đoàn như đã nói trên, chỗ còn lại đưa cho quan Trung giữ.
Sau đó các ngươi sẽ đi Manille, và sau khi xin phép quan toàn quyền ở đấy, sẽ sửa chữa hai tàu, rồi sắm sửa buồm, dây và những thuyền cụ khác. Mua 500 tạ lưu huỳnh và làm một chuyến tải gạo đem về Macao bán. Với số tiền còn lại, và nếu giữ gìn sổ sách đúng đắn, các ngươi sẽ mua được 1.000 cái cuốc sắt, 500 cuốc đinh (pic de clou) đủ loại lớn nhỏ, mua những súng trường tốt và những đại bác đạn 12 livres [cân Anh, tức là 0, 453kg] hay lớn hơn.
Các ngươi phải rời Macao và về đến đây vào khoảng giữa tháng giêng năm tới [tháng 2/1791] là chậm nhất. Nếu các ngươi thấy một chiếc tàu lớn, trang bị đầy đủ những thứ cần thiết, và có thể chở tới 40 ngàn canjus [?] thì các ngươi có thể trả tới giá 40.000 đồng, với điều kiện sẽ trả làm ba lần:
1- 10.000 đồng, tiền mặt.
2- 5.000 tạ gạo, khi khâm sai cai đội Dagot trở về đây.
3- Chỗ còn lại đến tháng 6 sang năm sẽ trả hết.
Các ngươi phải cẩn thận thi hành đúng những điều khoản trên đây, nếu vì bất cẩn hay vì lỗi, mà không hoàn thành nhiệm vụ thì sẽ coi như phạm tội nặng”.
Sài Gòn ngày thứ 15, tuần trăng thư 5, năm thư 51, đời Cảnh Hưng (27/6/1790) (Louvet, t. 533-534).
Dayot chỉ là một trong những người được vua sai đi mua bán, còn có những chỉ dụ khác cho Barisy, Januario Phượng, Gibsons… đi bán gạo, cau… để mua khí giới ở những vùng khác như Mã Lai, Indonésia, Ấn Độ, vv… và có thư từ của nhà vua viết cho vua Anh, vua Đan Mạch, vv… với cùng mục đích.
Như vậy, chúng ta thấy địa bàn hoạt động để mua khí giới và tàu chiến của Nguyễn Ánh rất rộng; về phiá Tây Sơn, chắc cũng không kém, vì có những chứng cớ của các giáo sĩ cho biết Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Quang Toản cũng tiếp xúc với người Âu. Do đó, nếu chỉ xem người Pháp giữ độc quyền giao thiệp và “giúp đỡ” Nguyễn Ánh là một sai lầm.
Nguyễn Vương giới thiệu Dayot với toàn quyền Phi Luật Tân
Ngày 22/6/1790, tức là 5 ngày trước khi JM Dayot nhận chức Khâm sai cai đội quản hai tàu Đồng Nai và Le Prince de Cochinchine và nhận chỉ dụ sai phái, vua đã viết một uỷ nhiệm thư cho toàn quyền Phi Luật Tân, gửi gấm Dayot và quan Trung. Chúng tôi xin trích dịch đoạn chính:
“… Quả nhân vẫn luôn luôn có ý muốn giao dịch với các hạ. Hôm nay, vì có việc, quả nhân phải gửi hai tàu đến Macao và Quảng Đông, và sai bọn JM. Dagot, người Pháp, khâm sai cai đội, quản hai tàu và quan Trung đi cùng; sau khi xong nhiệm vụ ở hai nơi nói trên, họ sẽ đến Manille để mua lưu huỳnh và sửa chữa [caréner tức là lau chùi, sơn hay bọc lại phần chìm của vỏ tàu] hai tàu này. Trong trường hợp hai phái viên này cần đến sự giúp đỡ của các hạ để hoàn tất nhiệm vụ, quả nhân xin mạn phép yêu cầu các hạ đoái hoài đến họ, nếu họ có thiếu thốn tiền bạc gì, xin các hạ vui lòng ứng ra cho, như đối với chính quả nhân vậy. Nếu sau có dịp thừa nhận những sự giúp đỡ này, xin các hạ yên tâm rằng quả nhân sẽ hết sức sốt sắng…
Ngày thứ 14, tuần trang thứ 5, năm Cảnh hưng thứ 51 (22/6/1790)” (Louvet, I, t. 543-544)
Dayot đã hoàn tất mỹ mãn nhiệm vụ đầu tiên này, cho nên, thư của chính quyền Việt cám ơn toàn quyền Phi viết ngày 1/7/1791, tức là một năm sau, có những lời lẽ:
“Năm ngoái, hoàng thượng đã gửi tới Manille Jean-Marie Dagot [Dayot], người Pháp, với tàu của người để mua vật liệu chiến tranh và sửa chữa phần chìm của vỏ tàu. Hoàng thượng đã viết thư cho quan toàn quyền Phi Luật Tân nhờ che chở và giúp đỡ. Hoàng thượng hết sức hài lòng khi biết quan toàn quyền đã hết sức chú ý đến sự thỉnh cầu của người và đã cấp cho phái viên tất cả những phương tiện để thành công trong nhiệm vụ. Hoàng thượng xin gửi tới quan toàn quyền sự biết ơn sâu xa và không bao giờ người quên sự giúp đỡ này….”
Năm 52 Cảnh hưng, ngày 1, tuần trăng thứ 6 (1/7/1791) (Louvet, I, t. 544)
Nhưng chỉ chuyến đi đầu tiên là có kết quả, chuyến đi thứ nhì, Dayot đã phạm lỗi thâm lạm ngân quỹ, sẽ nói rõ ở phần dưới. Ngoài nhiệm vụ “buôn bán” này, vua còn giao cho Dayot một nhiệm vụ khác, khá quan trọng, đó là việc vận tải lương thực.
Nhiệm vụ vận tải lương thực
Theo bài ký sự ở dưới, Dayot nhận nhiệm vụ vận tải lương thực cho quân đội, mỗi khi có chiến dịch hành quân đánh Tây Sơn. Chiến dịch này đã được Gia Long hoạch định từ tháng 2/1792: tức là tấn công theo gió mùa, thuận gió đánh ra Trung, ngược gió lại quay về Gia Định. Nhưng đến tháng 7/1792, mới có trận Thị Nại, là trận đầu tiên, đánh theo gió mùa.
Hiện tại, chưa thể xác định rằng JM Dayot có tham dự vào trận Thị Nại 1792 hay không vì hai lý do:
- Thiếu tài liệu chính xác.
- Tháng 6/1792, là thời điểm khủng hoảng: vua thấy sự thâm lạm ngân quỹ của Dayot, nổi giận đuổi tất cả lính Pháp, nhưng sau vua hồi tâm. Tuy vậy, cũng khó hình dung vua cho Dayot ngay nhiệm vụ tải lương ở trận Thị Nại.
Tuy nhiên, chúng tôi sẽ dần dần tháo gỡ các chi tiết, để đi đến kết luận rõ ràng hơn về trận Thị nại 1792, trong những trang sắp tới. Nhưng trước hết, hãy nói về công việc vận lương của Dayot, và nhờ sự biệt đãi của nhà vua mà anh ta vẽ được bản đồ bờ biển nước Nam như thế nào, qua bài ký sự dưới đây.
Ký sự của Dayot
Trong bài ký sự này, Jean-Marie Dayot nói rằng anh ta đã lợi dụng chiến tranh gió mùa để vẽ bản đồ thủy đạo của nước Nam.
“Jean-Marie Dayot lợi dụng chiến tranh gió mùa để làm thủy đạo đồ bờ bể nước Nam (1791-1795)”
…”Lần đầu tiên đi khắp nơi với quân đội của Vua Nam Hà, từ Vũng Tàu đến Qui Nhơn, tôi đã ngạc nhiên vì con số vịnh, những chỗ trú, những chỗ tàu đậu mà chúng tôi thấy trên mỗi bước đường, ở vùng bờ biển vẫn được trình bầy trên bản đồ như nhiều chỗ đầy đá ngầm. Dù trong chiến dịch này, tôi chưa có dịp trông thấy phần lớn những bến cảng đẹp, tôi đã thoáng nẩy ý định sẽ tu chỉnh lại vùng này, bằng những bản đồ đúng hơn tất cả những bức mà tôi đã có từ trước tới giờ… Tôi bèn tâu với vua, vì biết ông là người rất thích những gì có tính cách khám phá, khoa học, và tôi đã không lầm; ông hết lòng với việc này và đã cho tôi tất cả những trợ giúp cần thiết mà tôi đã hoài công tìm ở những nơi khác…
… Làm việc trong hải quân của nhà vua và cai quản các tàu Tây phương, lực lượng chính của quân đội ông, tôi bắt buộc phải đi theo quân mỗi khi có chiến dịch, thường kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10. Trong 5 năm liên tục, tôi chạy dọc theo bờ biển, từ Bắc xuống Nam và từ Nam lên Bắc cùng quân đội. Nhiệm vụ tải lương, cho một số lượng tàu bè nhiều đến thế, đi với quân đội và tuỳ tùng, và cho cả bộ binh, thường tiến dọc theo bờ biển, bắt buộc chúng tôi phải đỗ lại mỗi buổi chiều, để tập hợp một đoàn thuyền tàu, thường tới hơn nghìn cánh buồm. Nhiều khi chúng tôi cũng bị bắt buộc phải ở lại một nơi nhiều ngày để đợi bộ binh và phân phát thực phẩm cho họ. Khi ở trên đất địch, thì phải tiến chậm hơn và trong thời gian tàu thả neo, chúng tôi đo đạc kích thước và dò chiều sâu của bể. Nhà vua cho tôi hai thuyền chèo và hai thuyền buồm, chuyên làm việc ấy, luôn luôn đi theo tàu do tôi điều khiển. Tôi được những sĩ quan có học và chăm chỉ giúp đỡ, hết lòng vào việc ấy, đến nỗi không có một điểm nào là không được đo đạc ghi chép bằng năm, sáu vị trí khác nhau… Khi mùa gió bắt buộc chúng tôi phải quay lại Sài Gòn, nhà vua thường để cho tôi tự do sử dụng những chiếc tàu dưới quyền điều khiển của tôi, để đến các bến khác nhau và ở lại bao nhiêu ngày cũng được tuỳ tôi định, theo công việc đo đạc bản đồ… khiến tôi có thể bảo đảm rằng có rất ít bến tàu được đo đạc kỹ càng và chính xác như những bến thấy trên bản đồ trong sưu tập bản đồ của tôi.
Mặc dù cẩn thận như vậy, nhưng vẫn có nhiều chi tiết thoát ra hoặc không đúng, bởi vì, nhìn từ biển vào, những đối tượng này có vẻ khác với bộ mặt thật của chúng, nếu M. Olivier de Puymanel, sĩ quan đầy công trạng và tài giỏi, điều khiển đoàn quân cận vệ của nhà vua và là kỹ sư đầu tiên của nhà vua, vui lòng cho tôi biết tất cả những tư liệu và làm việc vài lần với tôi, thì chúng tôi đã cùng nhau làm bản đồ sông Sài Gòn, và nhiều chỗ khác lưu thông với Cao Mên. Anh thường đi cùng với chiến dịch trên bộ, luôn luôn dọc theo bờ biển, và anh không để lỡ cơ hội nào mà không vẽ bản đồ những chỗ anh đi qua và ghi lại những nhận xét. Về phía chúng tôi, những bản đồ mà chúng tôi làm trên các hạm đội, nhiều hơn, lại có dấu hiệu thông báo cho chúng tôi mỗi ngày, đúng 12 giờ trưa…
… Nhờ sự chăm sóc đặc biệt của những sĩ quan mà tôi có hân hạnh điều khiển, nên hôm nay tôi rất hài lòng tặng cho các thủy thủ một công trình đáng tin cậy, nhờ sự chính xác của họ, nhờ tính hiếu kỳ của họ, và bằng sự mới mẻ của họ. Tôi không dám nhiều lời về tất cả số lượng đo đạc khổng lồ đã được kỹ lưỡng vẽ lại trên giấy. Đó là một phần công việc của tôi và Félix Dayot, em tôi, nhưng những bản đồ (cartes) và những đồ thị (plans) được vẽ rõ ra từ đám mây mù, chính nhờ cây bút chì của Félix…”
(Mémoire sur la côte et les ports de Cochinchine par M. Dayot, mandarin à la cour de Cochinchine, pendant les années 1791-1792-1793-1794 et 1795. Archives du Ministère de la Marine… daté de Macao le 1/11/1807 (Lược trình về bờ bể và bến tàu ở Nam Hà của Ô. Dayot, quan trong triều Nam Hà những năm 1791-1792-1793-1794 và 1795, văn khố bộ Hải quân… viết ở Macao ngày 1/11/1807 (Taboulet, I, t. 250-251).
Như vậy, nhiệm vụ của Dayot thực rõ ràng: không những Nguyễn Vương cho Dayot điều khiển hai tàu Đồng Nai và Le Prince de Cochinchine mà còn cho sử dụng hai tàu này vào những việc riêng. Tuy Dayot tâu vua là vẽ bản đồ cho vua nên mới được biệt đãi, nhưng chủ đích của anh ta không phải vậy, Dayot đã viết rất rõ chủ đích của mình: tôi rất hài lòng tặng cho các thủy thủ một công trình đáng tin cậy. Thủy thủ ở đây là thuỷ thủ Pháp, vì Dayot không nhắc nhở gì tới việc trình bản đồ cho vua Gia Long. Dayot trao toàn bộ bàn đồ này cho Sainte-Croix đem về Pháp và kèm theo lá thư viết cho Ste-Croix (sẽ trích dưới đây) nói rõ chủ đích của anh ta. Cho nên những người vội vàng kết luận Dayot có công vẽ bản đồ bờ biển nước Nam cho vua Gia Long sử dụng, là hoàn toàn sai lầm.
Công lao của Dayot đối với nước Pháp
Công lớn nhất của Dayot với nước Pháp là vẽ bản đồ bờ biển Việt Nam, Maybon viết:
“Trong những lần đi dọc bờ biển nước Nam, không chỉ theo quân, mà còn vận tải lương thực, hai anh em Dayot đã làm một việc rất hiển vinh: vẽ thuỷ đạo đồ bờ biển và các cửa biển. Chính ông Renouard de Sainte-Croix đã đem về Pháp những bản đồ và ghi chép của Dayot. Trong thư Dayot viết cho Sainte-Croix ở Macao ngày 15/11/1807 có những hàng: “Tài mọn của tôi không cho phép tôi mơ ước chức giao dịch viên của một viện quý giá [Viện lưu trữ], nhưng tôi sẽ rất mừng nếu kết quả công việc của tôi được công nhận. Tôi có thể gửi các nhận xét bổ ích về nhiều vấn đề của cái xứ chưa ai biết đến này bằng sự hiểu biết hạn hẹp của tôi. (…) Tôi gửi ông kết quả sáu năm làm việc cam go, tất cả những gì ông sẽ làm sẽ là tốt, nếu có trở ngại gì với việc ông vì tình bạn giúp tôi và tấm lòng của tôi phục vụ tổ quốc, thì cũng không giảm bớt được lòng biết ơn suốt đời của tôi đối với ông”. Saint-Croix đã gửi công trình của Dayot về kho lưu trữ và đã được Hoàng đế [Napoléon] xem.
Năm 1820, chính phủ quyết định dành cho Dayot một câu lạc bộ thiên văn; nhưng sự tưởng thưởng đến quá muộn, Dayot đã mất từ năm 1809. Ông cũng không nhìn thấy những bản đồ của ông được Viện lưu trữ hải quân phát hành năm 1818, và cũng không biết lời khen ngợi hết mình của Abel Rémusat: “…Chúng ta biết có nhiều người nước ta đã giữ những chức vụ quan trọng trong triều nước Xiêm và nước Việt, và nhờ vào một trong những người đó, ông Dayot đã quá cố mà chúng ta có tập địa đồ (Atlas) cực kỳ quý giá về nước Nam, được vua [Louis XVIII] sai khắc năm 1818, đó là một trong những toà lâu đài đẹp nhất của khoa học địa lý xây trên cái xứ rất xa Âu châu… Từ khi các bản đồ của ông Dayot được in ra, bờ biển nước Nam được biết rõ, có lẽ còn hơn một số bờ biển Âu châu nữa.
Năm 1817, vua Louis XVIII sai Kergariou sang biển Đông, với bản đồ của Dayot. Trong thư ngày 28/3/1818 gửi bộ trưởng Hải quân, Kergariou viết: “Tôi đã đi khắp các cửa biển của nước Nam và trong hải trình chông gai này, tôi đã có dịp kiểm chứng, đảo lộn hầu như tất cả công trình của Ông Dayot. Chẳng có lời nào đủ để khâm phục sự chính xác, nhất là sự chính xác mà đất đai được chiếu lại trên các bản đồ” (Maybon, Relation Bissachère, t. 31-33).
Sau này, liên quân Pháp Tây Ban Nha cũng dùng bản đồ này để đánh chiếm nước ta dưới thời vua Tự Đức.
Hết phần I về Jean-Marie Dayot.
Jean-Marie Dayot Phần II- Công và TộiTất cả hình ảnh những “sĩ quan” Pháp đứng địa vị hàng đầu trong các ngành, làm “kỹ sư trưởng”, “chỉ huy trưởng”, “xây dựng thành đài”, “thiết lập thuỷ binh”, và “huấn luyện quân đội”… nói chung là “giúp đỡ” và “dạy dỗ” Gia Long thành lập một quân đội tân tiến, xây những thành đài theo kiểu Vauban; mà các ngòi bút thuộc địa dày công tô đậm, đôi khi chỉ cần vài dòng chân thực của một vị thừa sai, là bị quét sạch.
Sự vô hạnh của những người lính đánh thuê
Sự vô hạnh của lính Pháp và Bồ, khi đặt chân đến nước Việt, được giáo sĩ Le Labousse ghi lại trong lá thư gửi quản sự Létondal ngày 28/5/1790 (một tháng, trước khi một số người này được nhận chức cai đội), như sau:
“Chúng tôi rất bực mình vì mỗi ngày được nghe và thấy hàng ngàn câu chuyện nhục nhã xảy ra vì hạnh kiểm của bọn [lính] Pháp và Bồ… Chúng tôi đã chán ngán phải rên siết vì chiến tranh tàn phá giáo dân, không cần những người Âu này đến để trùm lên chúng tôi những hỗn độn vì sự dâm ô và vô kỷ luật của họ (leur incontinence le leurs désordres). Đức Ông [Bá Đa Lộc] đã quỵ ngã vì gánh nặng này (succombe sous le faix); người đã chán ngấy bọn đồng hương; phải có một tâm hồn cao thượng và mạnh mẽ lắm, người mới trụ nổi” (Launay, III, note 1, t. 209).
Hai năm sau, giáo sĩ Lavoué gửi thư cho M. Létondal từ Lái Thiêu, ngày 16/6/1792, viết:
“… nhà vua, bất mãn với những người Pháp, đã cho họ nghỉ tất cả, trong những ngày đầu tháng năm [1792]; hay chính những người Pháp bất mãn với vua, đã xin nghỉ và vua cho phép ngay lập tức” (Launay, III, t. 295).
Ngày 16/4/1793, trong một thư gửi cho hai người bạn Lewet và Roland, Olivier de Puymanel viết: “… tôi thề với các anh đó, trạng thái này [xưng tội] tốt hơn hết tất cả những gì mà ta gọi là khoái lạc. Tôi cũng xấu hổ vì nhiều khi đã làm gương xấu cho các anh, và tôi muốn sửa lỗi, vì tôi tin chắc rằng sự chơi bời dẫn đến sự vô đạo” (Cadière, Les francais au service de Gia Long, Leur correspondance, BAVH, 1926, IV, t. 365)
Nhờ những dòng ngắn ngủi này mà chúng ta hiểu rõ tình trạng những năm đầu, khi đám lính Pháp và Bồ đánh thuê đến Nam Hà và vai trò cũng như tình cảm của Bá Đa Lộc đối với bọn người này. Những lời trên đây của các giáo sĩ Le Labousse, Lavoué và chính Puymanel đã:
- Đặt những người lính Pháp đào ngũ, đánh thuê, trong bối cảnh thực sự của họ với những thói hư tật xấu.
- Vô hiệu hoá tất cả các lập luận cho rằng giám mục Bá Đa Lộc “điều khiển quân đội” và ban chức Tư lệnh bộ binh cho Puymanel, Tư lệnh hải quân cho J. M. Dayot, v.v. mà ngược lại, vị giám mục đã chịu đựng sự vô hạnh của họ như nỗi bất hạnh của chính mình.
Chuyện Dayot thâm lạm ngân quỹ chỉ là giọt nước làm tràn cái chén đã đầy.
Vụ Dayot thâm lạm ngân quỹ năm 1792
Được hưởng nhiều ân sủng và sự tin cậy của vua Gia Long, nhưng Dayot đã không làm tròn phận sự ghi trong văn bằng Khâm sai cai đội. Nếu chuyến đầu tiên vua sai Dayot đi Phi Luật Tân (chỉ dụ ngày 27/6/1790) thành công, khiến vua bằng lòng, tháng 7/1791, triều đình viết thư cám ơn viên toàn quyền Phi Luật Tân, như đã nói ở phần I, thì chuyến đi Phi lần thứ hai, Dayot đã phạm tội thâm lạm ngân quỹ. Thư của giáo sĩ Le Labousse viết cho M. Letondal ngày 17/6/1792, có những lời sau:
“Chuyến đi xui xẻo từ Macao sang Manille của Dayot và sổ sách cực kỳ thâm lạm của anh ta đã làm cho vua ghê tởm, bực quá không thèm nói gì thêm, vua sai đuổi hết không chỉ các lính thủy, mà tất cả sĩ quan, ai muốn đi thì đi, không giữ. Họ cũng không đợi vua đuổi, họ đã làm đơn xin về và được chấp thuận liền. Điều này khiến cho Đức Cha [Bá Đa Lộc] quyết định, vì từ lâu người đã rất bất mãn với vua và v.v., lại một lần nữa xin vua cho phép người được về Pháp, lấy cớ có việc nhà. Vua đã thuận cho, rồi nghĩ lại, vua đổi ý” (Launay, III, t. 296).
Giám mục Bá Đa Lộc, từ khi đem hoàng tử Cảnh trở về, ở trong một địa vị rất khó khăn: Vừa thất bại trong sứ mệnh cầu viện, vừa là cha đỡ đầu cho một bọn lính đào ngũ vô kỷ luật, vừa chịu sự ác cảm của các bà hoàng và sự nổi giận của vua, vì đã dạy hoàng tử không được lậy trước bàn thờ tổ tiên, vừa bất mãn với vua vì không được Gia Long nghe lời khuyên: nên đánh ngay ra Bắc. Trong hai năm, ông đã bị giày vò về vấn đề đi hay ở.
Năm 1792, đối với giám mục Bá là năm phải quyết định bỏ đi, vì trước mắt có một cái họa lớn: Quang Trung sắp đánh xuống miền Nam qua ngả Lào; nếu Quang Trung thắng mà ông còn ở đó, thì họ đạo của ông sẽ bị tiêu diệt vì Quang Trung không thể tha thứ tội ông đem hoàng tử Cảnh sang Pháp cầu viện. Mà trở về Pháp trong thời điểm hỗn loạn đẫm máu sau cách mạng 1789, giáo quyền bị triệt tiêu, là bất cẩn, nên ông chỉ tính đi lánh nạn ở nước ngoài, đợi khi chiến cuộc ngã ngũ, sẽ trở về đất Việt, đó là toan tính của ông.
Về phiá những lính Pháp đánh thuê, sự bỏ Gia Long để đi chỗ khác, đến từ những yếu tố:
- Vì sự vô hạnh của họ nên vua nổi giận đuổi họ đi.
- Họ chê vua trả lương ít.
- Họ đến đây với mục đích tìm của, tìm vàng, nhưng không “tìm” thấy gì cả.
- Và sau cùng, khi nghe tin Nguyễn Huệ sắp đánh xuống miền Nam, họ không muốn chết vì một cuộc chiến không dính dáng gì đến họ.
Tuy nhiên, Gia Long là một chính trị gia có tài, ông biết trong tình trạng cấp bách này, không nên để cho địch thấy sự đổ vỡ của việc “người Âu đến giúp” mà ông vẫn dùng như một lợi khí tuyên truyền. Vì vậy, ông đã thuyết phục giám mục Ba Đa Lộc ở lại, và khi vị giám mục, người cha tinh thần của họ ở lại, thì những người lính theo đạo Gia Tô này sẽ theo. Vì vậy, vua tỏ những cử chỉ khuyến khích: cho Puymanel được thăng chức Vệ uý, vì đã có công trong đội ngũ pháo binh, “chế tạo các hạng hoả xa, chấn địa lôi, binh khí” cùng với Trần Văn Học (LT, II, t. 282). Dayot cũng được vua bỏ qua lỗi thâm lạm, tuy nhiên nhà vua sẽ không gửi y đi mua bán ở ngoại quốc nữa, Dayot được sung vào ban tiếp vận lương thực cho quân đội. Chính nhờ nhiệm vụ tiếp vận quân lương này mà Dayot có đủ phương tiện để vẽ thủy đạo đồ bờ biển nước Nam như anh ta đã tả lại trong bài ký sự ghi ở phần I.
Sự kiện Dayot được quản hai chiếc tàu và phục vụ trong đội vận tải quân lương, sẽ được khuếch trương thành Dayot, tư lệnh hải quân của Gia Long và là người anh hùng thắng trận Thị Nại 1792 như thế nào, chúng ta sẽ tìm hiểu dần, từng bước một, ở dưới.
Nhưng trước khi đi xa hơn, chúng tôi muốn trình bầy sức mạnh thuỷ quân của Nguyễn Ánh, để độc giả thấy rõ hơn, những điều có thật và những điều được người ta biạ đặt ra, sau này.
Sức mạnh của thuỷ quân Nguyễn Ánh
Để trả lời những sai lầm, vì chủ quan của người Pháp, tưởng cái gì họ cũng làm thầy, và những sai lầm của người Việt, vì mặc cảm bị trị, tưởng cái gì mình cũng phải học của Tây, chúng tôi xin nhắc lại một số dữ kiện sau đây:
Khoảng cuối thế kỷ XVIII, thuộc đoạn lịch sử mà chúng ta đang khảo sát, thuyền tàu của Tây phương chưa tiến bộ đến mức vượt xa thuyền tàu Đông phương. Bởi cả Đông lẫn Tây đều dùng thuyền tàu buồm. Chúng ta chỉ cần xem tàu Bounty trong cinéma, hay tàu của Lafayette mà người Pháp vừa làm lại nguyên bản, và cho chạy xuyên đại dương sang Mỹ là thấy rõ.
Tàu Tây chỉ hơn hẳn tàu Ta một bực, khoảng gần 100 năm sau, khi khoa học Âu châu đã phát triển mạnh trong khi Á Châu, trừ Nhật, còn ở trong tình trạng lạc hậu.
Các chiến thuyền của Tây phương, thời Gia Long khởi nghiệp (1777-1800) có khác với chiến thuyền của Đông phương, sự khác biệt này, cả ưu lẫn nhược điểm của đôi bên, đã được Barrow và Montyon phân tích trong sách của họ, mà chúng tôi đã trích dịch trong các chương 4 viết về Barrow và chương 7, về Montyon.
Một câu hỏi cần được trả lời cặn kẽ hơn: Thuỷ binh Nam Hà -lực lượng chính của quân đội Nguyễn Ánh- tại sao lại hùng mạnh?
Theo các tác giả thuộc địa, mà người Việt thường chép lại, là nhờ sự giúp đỡ của Bá Đa Lộc và nhờ những “sĩ quan” Pháp đem kỹ thuật tân tiến của Tây phương vào.
Lời sau đây của Tạ Chí Đại Trường có thể coi là tiêu biểu: “Đặc sắc của thuỷ quân Gia Định là sự dồi dào vũ khí, hiệu suất cao của chúng, là các tàu bọc vỏ đồng chắc chắn cùng chiến thuật mới của các sĩ quan Tây phương đưa vào” (LSNCVN, t. 237).
Trong những chương trước, chúng tôi đã tháo gỡ dần dần những sự “ngộ nhận” này. Ở đây, xin trình bầy thêm một số điểm chưa được nói đến: Thuỷ quân Nam Hà, phát triển rất sớm, không nhờ vào những đội “tàu Tây”, do “người Tây” Dayot “lãnh đạo” và “huấn luyện”, mà nhờ ở những yếu tố sau đây:
1- “Đất Gia Định nhiều sông kinh, cù lao, bãi cát, trong 10 người đã có 9 người giỏi nghề bơi lội, chèo thuyền”. “Ở Gia Định chỗ nào cũng có ghe thuyền, hoặc dùng thuyền làm nhà ở, hoặc để đi chợ, hay để đi thăm người thân, hoặc chở gạo củi đi buôn bán, rất tiện lợi” (Trịnh Hoài Đức, Gia Định Thành Thông Chí, Phong tục chí, bản dịch của Lý Việt Dũng, điện tử).
2- Chúng ta đừng quên rằng cả Nguyễn Ánh lẫn Tây Sơn đều mạnh về thuỷ binh. Nguyễn Huệ xuất quân vào Nam, ra Bắc, một cách thần tốc. Biết vậy, Nguyễn Ánh đã sớm mở mang kỹ thuật đóng thuyền, tàu (ta gọi tất cả là thuyền), nhờ tướng giỏi, có tài đóng thuyền như Đỗ Thanh Nhơn, Võ Di Nguy và lại liên tục sai người đi mua thuyền, tàu ngoại quốc. Đến năm 1793, Nguyễn Ánh có thêm Trần Văn Thái, thuộc Công bộ của Tây Sơn về hàng, hợp lực với Võ Di Nguy trong việc đóng tàu thuyền. Võ Di Nguy tử trận khi đánh nhau với Võ Văn Dũng ở Thị Nại, 1801. Trần Văn Thái sau làm đến chức Công bộ thượng thư (LT, II, t. 474). Tháng 8/1787, Nguyễn Văn Trương, chưởng cơ của Tây sơn đem 300 quân tinh nhuệ và 15 chiến thuyền về theo, Nguyễn Ánh trao cho chức Khâm Sai Chưởng Cơ, quản đạo Tiên phong Thuỷ dinh Trung quân; sau trở thành đại tướng thống lãnh toàn bộ thuỷ binh của Nguyễn Ánh và lập công lón trong các trận Thị Nại 1792, Thị Nại 1801, Quảng Nam, Phú Xuân… Như vậy chứng tỏ Nguyễn Ánh biết dùng người và Tây Sơn cũng có một nền thuỷ binh mạnh mẽ không kém.
3- Vừa thoát chết khỏi bàn tay Nguyễn Huệ, ngay từ tháng 4/1778, Nguyễn Ánh đã sai đóng hơn 50 chiến hạm gọi tên là thuyền hiệu Long Lân và mua nhiều bè hoả công. (TL, I, t. 206)
Trịnh Hoài Đức giải thích rõ hơn về các chiến thuyền Long Lân này: “Năm 1778… Quân ta đắp lũy đất từ bờ tây Bến Nghé chạy dọc đến mé sông An Thông, phàm tại các cửa sông đều đóng cọc cây ngăn cản tàu để chống giữ và bí mật đóng hơn 50 chiếc chiến hạm tại sông nhỏ Thị Tĩnh thuộc sông An Thông. Mấy chiến hạm này đầu bọc nhọn, đầu và thân đều gắn ba tấm ván có vẽ hình như hạm của Tây dương, lại giăng lưới gọi là Long Lân thuyền, lại chỉnh bị bè cho hoả công” (Gia Định Thành Thông Chí, Vật Sản Chí, bản dịch của Lý Việt Dũng, điện tử).
Như vậy, ở tuổi 16, Nguyễn Ánh đã sai đóng “chiến hạm giả” kiểu Tây dương, để “loè” địch.
Đến tháng 5/1778, Ánh lại sai cai đội Trần Văn Phúc sang đạo Tân Châu, Nguyễn Đức Huy sang đạo Quang Hoá để đóng thuyền đi biển (TL, I, t. 206).
4- Một bước tiến mới trong kỹ nghệ đóng thuyền chiến của quân Nguyễn: Theo Trịnh Hoài Đức tháng 8/1780, Đỗ Thanh Nhơn đã “sáng chế đóng thuyền chiến, làm bánh lái dài để đi đường biển yên ổn, nhưng vẫn để bánh lái tròn khi trước để dùng khi đi đường sông, gọi là thuyền hai bánh lái, phiá trên gác sàn chiến đấu, hai bên treo phên tre để che cho thuỷ binh ở dưới chuyên lo chèo chống, trên thì bố trí bộ binh để xung kích, nhờ vậy mà kỹ xảo của thuỷ sư càng tinh nhuệ, đến nay [khoảng 1820] cũng vẫn theo” (Gia Định Thành Thông Chí, Vật sản chí, bản dịch của Lý Việt Dũng, điện tử).
Thực Lục ghi: “Đỗ Thanh Nhân sai thủy quân lấy thứ gỗ nam (kiền kiền) để đóng thuyền trường đà (bánh lái dài), trên gác sàn chiến đấu, hai bên dựng phên tre che thủy binh ở dưới để cho chuyên sức mà chèo, còn trên thì bày bộ binh để xung trận mà đánh. Do đó đi đường biển thuận lợi mà nghề thủy quân sở trường càng tinh thêm” (TL, I, T. 209).
Montyon đã nhắc đến sự lợi hại của thuyền trường đà có hai bánh lái này trong sách của ông (Montyon I, t. 128-130) mà chúng tôi đã trích dẫn trong chương 7, Montyon.
5- Về sức mạnh thủy binh và sự đóng thuyền, tàu liên tục của Nguyễn Ánh trong khoảng 12 năm (1781- 1793), có những mốc đáng chú ý:
- Tháng 5-6/1781, Nguyễn Ánh duyệt binh, có khoảng 3 vạn quân, 80 thuyền đi biển, 3 thuyền chiến lớn và 2 tàu Tây (TL, I, t. 210).
- Tháng 9-10/1782, sai cai cơ Trung thủy Võ Di Nguy, cai cơ Tiền thuỷ Trương Phúc Dĩnh tập hợp những thủy binh ngạch cũ, sửa đóng chiến thuyền.
- Ngày 9/4/1785, Nguyễn Ánh chạy sang Xiêm với 30 quần thần, 200 quân và 5 chiến thuyền: Phượng Phi, Bằng Phi, Hùng Trì, Chính Nghi, Thuyền Ô (Thực Lục I, t. 223).
- Trong thời gian tạm trú ở Xiêm, “xưởng” đóng tàu của Nguyễn Ánh là đảo Giang Khảm:
Hoàng Tiến Cảnh, năm Ất Tỵ [1785], được thăng khâm sai tổng nhung chưởng cơ, cùng với bọn Trương Phúc Dĩnh đến đảo Giang Khảm đóng thuyền chiến (LT, 270). Năm Bính Ngọ [1786] Nguyễn Văn Nhàn cùng Trương Phúc Luật đến Giang Khảm đóng chiến thuyền thập hiện (LT, 236). Trương Phúc Luật trông coi đội trường đà [tức là thuyền hai bánh lái] (LT, 237). Năm Bính Ngọ [1786] đốc chiến cai cơ Mai Tiến Vạn theo chưởng cơ Hoàng Tiến Cảnh đóng 10 chiếc thuyền hiệu ở đảo Giang Khảm (LT, II, t. 249).
- Tháng 8/1989, sai đóng chiến thuyền lớn hơn 40 chiếc, thuyền đi biển hơn 100 chiếc (TL, t. 251). Tháng 12/1789, sai cai cơ Võ Di Nguy đóng một chiếc thuyền lớn và 15 chiếc thuyền đi biển (TL, I, t. 267).
- Tháng 1/1791, Lập xưởng thuỷ sư, từ bờ sông Tân Bình đến bờ sông Bình Trị, trên ba dặm, thuyền đi biển, thuyền chiến (hình thức như thuyền buôn, không mui mà nhỏ) thuyền ô (sơn đen nên gọi là ô thuyền), thuyền son (sơn đỏ gọi là chu thuyền), thuyền lê (đầu đuôi thuyền đều chạm vẽ gọi là lê thuyền), đều đậu ở đó (TL, I, t. 270).
- Tháng 5/1791, đóng hơn 100 chiếc chiến thuyền (TL, I, t. 284).
- Tháng 2/1792, đóng năm hiệu thuyền Hoàng Long, Xích Nhạn, Thanh Tước, Bạch Yến và Huyền Hạc (TL, I, t. 283).
- Theo thư của giáo sĩ Liot gửi từ Tân Triều (Đồng Nai) về Paris ngày 18/7/1792: Nhà vua vừa làm xong 15 tàu chiến, mũi, đuôi và giàn cột buồm giống tàu Trung Hoa, tất cả phần còn lại làm theo lối Tây, sắp đi đánh Tây Sơn (Cadière, Doc.Rel, t. 28)
- Tháng 2-3/1793 (tháng giêng Quý Sửu) đóng thêm các thuyền đại hiệu: Long Ngự, Long Thượng, Long Hưng, Long Phi, Bằng Phi, Phượng Phi, Hồng Phi, Loan Phi, Ưng Phi. (Chắc là sửa lại các thuyền Phượng Phi và Bằng Phi, vì đã có từ năm 1785) (TL, I, t. 290).
Nhìn những mốc trên đây, ta thấy ngay:
Hai thuyền Phượng Phi và Bằng Phi (tàu chiến bọc đồng theo kiểu Tây phương) Nguyễn Ánh đã có từ năm 1785, hoàn toàn do người Việt điều khiển. Tàu Phượng Phi năm 1790 sẽ giao cho Trần Văn Học và Nguyễn Văn Chấn (Vannier) cai quản (Liệt truyện II, t. 282). Đến năm 1792, trong trận Thị Nại, hai tàu Long Phi và Phượng Phi sẽ được các tướng Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Văn Trương sử dụng. Cho nên, chúng ta không nên lầm tưởng chỉ có người Tây mới quản được tàu Tây.
Nguyễn Ánh là nhà lãnh đạo giỏi, ông sai Dayot, Barisy, Gibsons, Januario, Puymanel… đi ngoại quốc mua bán vì họ là người Âu, nói được tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Bồ, dễ giao thiệp hơn người Việt. Chỉ đơn giản như thế. Ngoài ra, trừ Puymanel, họ không có phận sự tác chiến. Trong những năm 1801, 1802, ở thời điểm cuối của cuộc chiến, Nguyễn Ánh sai Chaigneau, Vannier, và de Forcant, quản ba tàu chiến bọc đồng Long Phi, Phượng Phi và Bằng Phi đi hộ giá, là để thị uy, phô trương lực lượng, chứng tỏ ông có người Pháp hầu cận. Những người này đi hộ giá, cũng không có nhiệm vụ tác chiến, trừ de Forcant, đã hăng say, đang đêm lẻn đi lập chiến công ở trận Thị Nại 1801 và được giáo sĩ Le Labousse viết về việc này.
Từ đầu 1791, khi đã lập xưởng đóng tàu ở Sài Gòn (Trịnh Hoài Đức viết rõ vị trí và diện tích; xưởng này cũng được Barrow và Le Labousse mô tả và khâm phục), Nguyễn Ánh gia tăng sản xuất thuyền tàu ngay tại Sài Gòn.
Nhìn qua số lượng tàu thuyền Tây, Ta mà Nguyễn Ánh mua hoặc sản xuất tại chỗ thời đó, mới thấy con số 2 tàu Đồng Nai và Prince de Cochinchine mà Dayot được điều khiển thực là khiêm nhượng. Và sự thượng thăng khâm sai cai đội Dayot lên làm Chỉ huy trưởng hải quân Nam Hà thực là ấu trĩ.
Về “chiến công” của Dayot, trong trận Thị Nại 1792
Trận Thị Nại 1792, mà chúng tôi đã xác định bắt đầu từ ngày 26/7/1792 và chấm dứt ngày 5/8/1792, trong chương 8, Hịch Quang Trung, là chiến thắng lớn đầu tiên của Nguyễn Ánh trên quân Tây Sơn, phá hoại toàn bộ thuỷ quân của Nguyễn Nhạc đậu ở cửa Thị Nại trong khi Nguyễn Nhạc đi săn vắng. Trận này đánh dấu ngõ quặt, khiến Quang Trung nổi giận, truyền hịch đánh Nam Hà, và hai mươi ngày sau khi hịch truyền, Quang Trung mất.
Vì sự quan trọng của trận Thị Nại 1792, có thể coi như chiến công lớn đầu tiên trong cuộc chinh phục lại toàn thể lãnh thổ của Gia Long, cho nên, bằng mọi giá, các sử gia thuộc địa đã tìm cách “xác định” chiến công Thị Nại 1792 là chiến công “lừng lẫy” của người Pháp. Chúng ta sẽ điều tra hư thực chuyện này như thế nào.
Barrow, là một trong những người đầu tiên viết mấy hàng về Dayot và trận Thị Nại 1792, nhưng ông khá dè dặt:
“Mùa xuân 1792, ông [Nguyễn Ánh] xuống thuyền đi đánh Qui Nhơn, để trên đầu hạm đội, 2 sĩ quan Pháp, cai quản hai tàu chiến Tây phương. Người ta đồn rằng, một trong hai người này, ông Dayot, đã làm cho hạm đội Việt [Tây Sơn] thiệt hại lớn, đốt cháy, đánh đắm, hoặc xâm chiếm tất cả những thuyền gặp trên đường. Nhưng hăng say, tiến sâu quá và thuyền ông mắc cạn. Người ta đồn nhà vua, tuy chứng kiến tai nạn này, có thể làm cho ông thua trận, nhưng vẫn tỏ chút mãn nguyện, nói rằng: “Ông ấy đã làm nhiệm vụ của mình, tôi không chờ đợi ông ấy làm nhiệm vụ của tôi” (Barrow, t. 218).
Câu: [Nguyễn Ánh] để trên đầu hạm đội, 2 sĩ quan Pháp, cai quản hai tàu chiến Tây phương, và một trong hai người này là Dayot không thấy đâu chép cả. Chuyện tàu mắc cạn quá giống chuyện Mạn Hoè. Barrow không đề xuất xứ, nhưng ông đã cẩn thận dùng những tiếng “người ta đồn”, chứng tỏ ông không chắc và ông cũng biết, không thể dựa vào những lời “người ta đồn” để viết sử.
- Tác giả Sử ký Đại Nam Việt cũng viết câu chuyện này, tương tự như trên, nhưng đặt vào năm 1791, có lẽ là cùng chép một nguồn với Barrow, nhưng không để tên Dayot mà lại đề tên Puymanel:
“Vậy tàu ông Dade cai [SKĐNV gọi Olivier de Puymanel là ông Dade] thì đi trước, mà Nguyễn Ánh cùng các tàu thì đi sau, cách xa một trống canh đàng. Ông Dade vào một mình và bắn súng đánh các tàu quân giặc. Quân giặc thấy tàu Tây thì sợ hãi lắm; song cũng ra sức bắn trả, mà không mũi nào nhằm sốt. Ông Dade vào cửa nhằm khi nước ròng, nên tàu ông ấy phải mắc cạn chẳng đi được nữa. Vậy phải dùng những khẩu súng ở trước mũi tàu mà bắn thì càng khó lắm, song cũng đánh, và quân giặc đã phải chết nhiều; còn quân của ông ấy thì bằng yên vô sự “ (SKĐNV, t. 59).
Nói rằng Olivier lái tàu vào đánh là hoàn toàn sai, vì Olivier, dù có dự trận này cũng chỉ ở trong đội ngũ pháo binh, ai cho phép Puymanel lái tàu chiến? Còn chuyện tàu mắc cạn, như trên đã nói, quá giống chuyện Mạn Hoè. Tác giả Sử Ký Đại Nam Việt, chỉ biết một số chuyện xảy ra trong Nam. Còn về các trận đánh trận đánh xảy ra ở miền Trung, thì không biết nên không thấy kể gì cả. Trận này là trận duy nhất được kể lại, nhưng có lẽ cũng chỉ nghe người ta đồn hoặc chép theo nhà dòng, và lại luôn luôn đội Tây làm thầy về mọi mặt, giống như Trương Vĩnh Ký, cho nên, đoạn này cũng rất khó tin. Nhưng ta có thể đoán rằng: Barrow và SKĐNV chép lại cùng một nguồn tin đồn lấy từ nhà dòng.
Maybon và “công trạng” những người Pháp trong trận Thị Nại 1792
Maybon viết:
“Không thể chối cãi được rằng họ đã góp phần rộng lớn vào chiến thắng của Gia Long. Chưa nói đến sự đóng góp của họ vào những chiến công quan trọng, như việc tiêu diệt hạm đội Tây Sơn năm 1792, và những cuộc hành quân khác dẫn đến chiến thắng Huế, năm 1801” (Maybon, Histoire moderne du pays d’Annam, t. 279).
Nhưng ở trang 311-312, khi mô tả trận Thị Nại thì ông Maybon lại dùng tài liệu của Thực Lục. Rồi ông trách Thực Lục không đếm xỉa đến công lao của những người Pháp này, may mắn thay, ông tìm được các tài liệu khác, về phiá Tây phương, nói rất rõ. Đó là hai “chứng liệu” sau đây:
1-Lá thư của giáo sĩ Le Labousse kể chuyện Nguyễn Ánh, sau khi thắng trận, vì chưa có kinh nghiệm, đã ra lệnh đốt tàu của Tây Sơn (việc này Sử Ký Đại Nam Việt cũng chép, t. 59, và cho biết sau đó Nguyễn Ánh hối ngay và cho lệnh dập tắt lửa).
2- Chứng thứ hai, rút từ những điều Michel Đức, con trai của Chaigneau, viết trong hồi ký Souvenirs de Huế, (Paris, 1867), như sau:
“Chắc quý vị muốn có một vài chi tiết về chiếc tàu Âu châu làm gì. Con tàu này được ông Dayot ở Redon điều khiển, và được ông Vannier ở Auray, phụ tá; ông Olivier ở Carpentras, cũng có đó với quân đội của ông”. Chính nó đã tiến vào cửa biển [Thị Nại] đầu tiên, trước đại binh một giờ. Tính cách cao quý và mạnh dạn độc tiến giữa lòng địch của nó, trong khi địch quân đã ùa ra phiá trước nhả đạn tứ phiá vào tàu, làm cho nhà vua và tất cả những người Nam Hà kinh ngạc. Nhà vua, trong lúc này, không thể không ngợi khen sự can đảm của những người Âu. Toàn thể quân đội lúc đó đều nhận ra sự khác biệt giữa người Pháp và mấy chiếc tàu Bồ, ngày trước đã nhục nhã trốn chạy và đã làm cho vua bại trận.
Trong khi tất cả mọi người đang khâm phục chiếc chiến hạm đơn độc chống chọi với kẻ thù, thì lòng dũng cảm của những vị [sĩ quan] này bỗng chốc bị đình chỉ một cách nhục nhã nhất đối với người chiến sĩ: Cửa vào cảng rất hẹp, gặp lúc thuỷ triều xuống, tàu bị mắc cạn. Ở vị trí này, họ chỉ dám bắn vài phát đại bác nhỏ, phiá trước, mà đã trúng khá nhiều kẻ thù. Họ phải dừng ở đó. Và đau đớn thấy toàn thể đoàn quân kéo vào cảng mà họ không theo được. Nếu có thể tiến vào được hải cảng thì chắc chắn họ sẽ là những người duy nhất nhận công trạng và sự vinh quang của chiến thắng. Từ đó nhà vua thường nói bông đùa, về chuyện này: “Chúng tôi rất sung sướng vì sự cố này xảy ra. Nếu chiếc tàu này không mắc cạn, thì nó chẳng để cho chúng tôi việc gì nữa, và như thế chúng tôi sẽ ngượng lắm”. (Maybon, Histoire moderne du pays d’Annam, t. 311-312)
Dưới chú thích (3), trang 311, Maybon ghi rằng: người con trai Chaigneau đưa việc này vào năm 1793, chắc anh ấy viết nhầm (năm), vì chính anh ấy nói: năm này nhà vua đốt hạm đội của địch!
Thực ra, Michel Đức Chaigneau chẳng lầm gì cả, khi trận Thị Nại 1792 xảy ra, cha của ông còn chưa về giúp Nguyễn Ánh, và bản thân ông, đến hơn 10 năm sau, mới sinh ra đời. Vậy mà trong sách này (in năm 1867), tức là 47 năm sau khi ông rời nước Việt, 75 năm sau khi trận Thị Nại xảy ra, ông tả trận Thị Nại như được chứng kiến tận mắt! Câu chuyện ông kể là một chắp vá những giai thoại, sự kiện xảy ra ở các thời điểm khác nhau được tiểu thuyết hoá thành chuyện.
- Việc tàu mắc cạn là chuyện Mạn Hoè, đánh nhau với Tây Sơn năm 1782.
- Chắc hồi nhỏ Đức Chaigneau được nghe Vannier kể lại trận Qui Nhơn tháng 5-6/1793, mà Vannier đã tham dự trong đội vận lương, với tư cách phụ tá của Dayot. Trận này Le Labousse cũng có viết trong lá thư ngày 26/6/1793 gửi M.Boiret: “Nhà vua vừa xuất thuỷ bộ đại binh đi đánh Qui Nhơn… Các ông Dayot quê Rhedon và Vannier quê Auray cùng đi với thuyền của họ. Ông Olivier quê Carpentras cũng đi với quân của mình và một vài người Âu khác trong bộ binh.” (Cadière, Doc. Rel. t. 29). Vậy câu: Các ông Dayot quê Rhedon và Vannier quê Auray cùng đi với thuyền của họ. Ông Olivier quê Carpentras cũng đi với quân của mình, Michel Đức chép lại của Le Labousse.
- Và ông chép cả lời Gia Long “bông đùa” do Barrow viết, có đổi đi chút ít.
- Sau cùng Đức Chaigneau cảm hứng những điều đã có trong Sử Ký Đại Nam Việt: Dayot vào trước đại quân một giờ (một trống canh), bắn vài phát súng đại bác đằng trước tàu, v.v.
Cũng có thể Đức Chaigneau đã gom góp các nguồn tin đồn phát xuất từ nhà dòng giống như Barrow và SKĐNV, rồi cường điệu lên thành tiểu thuyết, với những chi tiết cực kỳ vô lý: Tàu chưa vượt qua được cửa Thị N?