← Quay lại trang sách

Chương 18 Olivier de Puymanel (1768-1799)

Phần I: Khởi hành

Olivier de Puymanel và Laurent Barisy là hai khuôn mặt đáng mến, đã giúp vua Gia Long nhiều việc, phục vụ vua đến lúc mất và đã không phản bội. Nhưng sự tôn vinh đồng loạt và tột đỉnh của các sử gia thuộc địa về Olivier de Puymanel, như vị “kỹ sư đầu tiên” của nước Việt, là “ông tổ” xây dựng các “thành đài Vauban”, là người “hình thành quân đội” Việt Nam, đã tạo ra một Olivier khác hẳn, không giống với thực tế, thể hiện qua những thư từ, tài liệu của gia đình, và những thành tích đích thực mà Olivier đã thực hiện trong thời gian ở Nam Hà. Olivier “tân tạo” này, sau cùng được Wikipédia Pháp thăng chức Tướng (Général) với lời tổng kết như sau:

“Olivier de Puymanel (1768-1799) là, một người Pháp, một nhà xây dựng và một nhà tổ chức quân đội Việt Nam dưới triều Nguyễn”. Gắn liền với “công trạng” này, là bản đồ thành bát quái Gia Định “của Le Brun”, do Puymanel “xây” và hình ảnh thành Diên Khánh, cũng là “công trình” của Puymanel. Wikipédia tiếng Anh dịch từ tiếng Pháp. Wikipédia Việt, còn thêm vào những câu: “Puynamel được ghi nhận là đã huấn luyện 50.000 quân Nguyễn”, là “người có vai trò khá quan trọng trong lịch sử Việt Nam”.

Vậy, đâu là sự thực? Chúng ta thử tìm lại hành trình thật sự của Puymanel, từ đầu.

Trình độ học vấn

Ở tuổi 12, Olivier de Puymanel đã viết thư xin cha cho phép đổi trường “vì con không chịu nổi ở đây nữa. Sáng nay, người ta đã định quất roi vì tội con không thuộc bài” (Thư viết trong nội trú một trường ở Roanne, đề ngày 22/11/1780, Taboulet, I, t. 248-249).

Chín năm sau, Olivier de Puymanel viết thư cho M. Letondal, quản thủ (procureur) tu viện Macao, bắt đầu bằng câu:

“Je regrette touts les jours de n’avoir pas été à Macao où j’aurois pu faire tout ce qui eut dépendu de moi pour mariter d’être connu de vous” [Je regrette tous les jours de ne pas avoir été à Macao où j'aurais pu essayer de tout faire pour mériter votre confiance - Con tiếc hoài đã không ở Macao, nơi con có thể làm hết sức mình để xứng đáng được cha tin cậy] (Thư viết ngày 15/7/1789, Cadière, Les français au service de Gia Long, Leur correspondance, BAVH, 1926, IV, t. 363). Ba lá thư của Puymanel được Cadière sưu tầm và in lại trong bài Leur correspondance (Thư từ) này, BAVH, 1926, IV, các trang 363, 365 và 369; đều đầy lỗi như thế.

Nhìn câu, chữ trên đây, ta thấy Puymanel, ở tuổi 21, vẫn còn phạm những lỗi: chính tả, từ vựng, văn phạm, cấu trúc câu và sự diễn đạt ý tưởng; vậy mà Taboulet viết: “… cuối cùng anh hoàn thành việc học ở Louis Le Grand” (Taboulet, I, t. 247). Louis Le Grand là trường trung học nổi tiếng của Pháp, chỉ nhận những học sinh ưu tú. Một người viết tiếng Pháp, trình độ như Puymanel, chắc chắn không thể được nhận vào trường Louis Le Grand.

Năm 1922, trong bài diễn văn đọc trước Thống Chế Joffre, học giả Cadière cũng đã gián tiếp so sánh Puymanel với thống chế Joffre, xuất thân trường Polytechnique, là trường đào tạo kỹ sư nổi tiếng nhất nước Pháp. Hơn 20 năm sau, Taboulet, thêm vào tiểu sử Puymanel vinh hạnh “cựu học sinh Louis Le Grand”, để “kiện toàn nền học vấn” của “kỹ sư” Puymanel.

Đó là manh mối câu chuyện người ta đã nhào nặn một cậu bé, từ nhỏ đã không ưa việc học, đến 21 tuổi vẫn thất học, trở thành kỹ sư, rồi nhà xây dựng thành đồn và nhà xây dựng quân đội cho cả một dân tộc!

Gia thế

Victor-Louis-Joseph-Cyriaque-Alexis Olivier, sinh tháng 4 năm 1768 tại Carpentras [Vaucluse, Pháp], con Augustin Raymond Olivier và Françoise Louise Vitalis, [theo di chúc của Olivier, in trong La Cochinchine Religieuse của Louvet, t. 561]. Olivier de Puymanel có những tên Victor, Alexis… (người Âu có nhiều tên); họ là Olivier. Còn Puymanel là tên mảnh đất của gia đình Olivier ở gần Carpentras, trên bản đồ quân sự ghi là Plumanel. Victor Olivier sinh ngày 8/8/1768 (theo Taboulet, I, t. 245). Trong gia đình, để phân biệt với các anh, Olivier de Puymanel thường được gọi là Victor hay Puymanel.

Trong lá thư viết tại Avignon ngày 9/12/1937, gửi cho tập san Đô Thành Hiếu Cổ, bác sĩ L. Gaide cho biết: ông được vị quản thủ thư viện Carpentras cho bản sao 2 lá thư của người anh ruột, Vitalis-Ignace, là tu sĩ, viết cho người cha về việc Puymanel. Hai thư này, đăng trên BAVH, 1938, I, t. 63-67, đề ngày 28/11/1787 và 30/11/1787, tức là một tháng trước khi Puymanel lên tàu ở Lorient để đi Ấn Độ và Nam Hà, trong đó linh mục Vitalis kể lại sự tình người em Victor Puymanel. Ngoài ra, bác sĩ Gaide còn cung cấp thêm một số thông tin về gia đình Puymanel, như sau:

Victor-Louis-Alexis Olivier de Puymanel, sinh trong một gia đình thế giá, cha làm chưởng ấn tại Tối cao pháp viện Carpentras; có hai anh: anh cả, Gabriel Raymond, sinh ngày 10/2/1753, học luật, đỗ tiến sĩ ở Avignon năm 1778. Năm 1790, được bầu làm dân biểu quốc hội. Sau cùng, làm thẩm phán toà thượng thẩm Nimes.

Vitalis-Ignace, sinh ngày 13/2/1764, tại Carpentras, đi tu, trở thành chanoine (chức sắc trong hàng giáo phẩm) tại thánh đường Sainte Siffen, Carpentras. Chỉ hơn Puymanel có 4 tuổi, nhưng vị linh mục này cư xử và lo lắng cho em không khác gì cha vậy. Nhờ hai lá thư của ông viết vào đúng thời điểm Puymanel sắp lên tàu đi Ấn Độ, mà chúng ta biết khá rõ đầu đuôi câu chuyện viễn du của Puymanel, về tính tình, hạnh kiểm và tại sao, sinh trưởng trong một gia đình thế giá như vậy, mà lại phải đầu quân tình nguyện làm lính thuỷ.

Thư của linh mục Vitalis, đề ngày 28/11/1737 [in nhầm, thực ra là 1787]

Lá thư này chia làm hai phần, cách nhau một hàng chấm chấm, có thể là hai thư chắp lại, vì có chủ đề khác nhau. Phần thứ nhất, vị tu sĩ cố gắng giải thích cho cha về chuyến đi Ấn Độ sắp tới của em mình.

Thời đó, đối với Châu Âu, Á Châu là Ấn Độ; và Nam Hà là một phần của Ấn Độ. Người Âu thường hình dung Ấn Độ, trong đó có Nam Hà, với những tiểu vương đầy quyền uy, bạc vàng châu báu. Lối ăn mặc của Hoàng tử Cảnh khi sang Pháp: áo gấm đỏ, hoa vàng, đầu đội khăn xếp, thắt nơ, trông giống một “tiểu vương Ấn Độ”, được ghi lại trong bức họa chính thức của hoàng gia Pháp. Hoàng tử Cảnh là một đứa bé đẹp và sang trọng, sau này Shihõken Seishi, thủy thủ Nhật, khi sang Gia Định, được vào yết kiến vua, đã viết: “Thái tử độ trạc hai mươi tuổi, rất đẹp và sang trọng không ai sánh nổi. Trong tất cả các nước mà tôi ghé qua trên đường trở về [Nhật], chúng tôi chưa thấy ai đẹp như ông”.

Trong khung cảnh xa hoa của Versailles, cậu Cảnh đã trở thành le petit prince, và, theo những báo săn tin sốt dẻo của hoàng triều thời đó, được Faure chép lại, thì người ta thích thú theo dõi các trò chơi của hai hoàng tử cùng tuổi, con Louis XVI và con Gia Long, trong vườn thượng uyển Versailles. Léonard, người thợ chải tóc nổi tiếng cho hoàng hậu Marie-Antoinette, đã “cảm hứng” từ chiếc khăn lạ của hoàng tử Cảnh, để sáng tạo lối chải tóc “kiểu hoàng tử Nam Hà” cho các ông và “búi tóc kiểu Tàu” cho các bà hoàng phái (Faure, t. 120-121).

Cậu hoàng tử nhỏ bé Cảnh, trong bối cảnh đó, thực sự đã là một “đại sứ” cho cha ở trời Tây. Và khi gửi hoàng tử trở về nước với giám mục Bá Đa Lộc trên tàu Dryade, vua Louis XVI đã ra lệnh cho thuyền trưởng hiệp sĩ De Kersaint phải đối đãi theo đúng nghi lễ, để Hoàng tử, vị Giám Mục và đoàn tháp tùng dùng bữa với các sĩ quan trên tàu. (Launay, III, t. 177).

Không khí “linh đình” như thế, khiến linh mục Vitalis cho việc em mình, được đi cùng tàu với hoàng tử Nam Hà, là một vinh dự, một giấc mơ “ngàn lẻ một đêm”, để đến một đất nước “giầu có” ở phương Đông, mà cậu hoàng tử bé nhỏ kia, chính là hình ảnh trong sáng phản ánh quyền năng, bạc vàng, mà em mình có thể dễ dàng đạt được. Nhất là người em này, không phải là một người con mẫu mực, năm trước đã phạm một lỗi lớn, tức là bỏ nhà đi hoang ở Le Havre, và hiện ông đang còn phải bù đắp trả nợ cho em về chuyến đi hoang này.

Bức thư như sau:

Cha kính mến,

“Trong khi con đang lo bù đắp cho xong những phí tổn của chuyến đi Le Havre [chỉ vụ Puymanel bỏ nhà trốn đi Le Havre], thì cơ hội may mắn tình cờ đến, con vội chụp ngay, đó là ông bá tước de Capellis, mà con đã sưởi ấm tình bạn và ý muốn làm gì hữu ích cho quê mình, đặc biệt cho cha mẹ và gia đình ta [Lời giáo đầu để giải thích tại sao đã lo cho em xung vào lính thuỷ tình nguyện]. Hiện nay con rất bận nên không thể kể hết chi tiết những lý do đã khiến con giúp đỡ em con khi nó nhất quyết định đi sang Ấn Độ, đặc biệt vùng Nam Hà; nó đã chỉ ở lại Paris có bốn ngày, và khi mà cha nhận được lá thư này, thì nó đã đi Lorient với Giám Mục Adran và hoàng tử Nam Hà rồi. Chuyến đi này không phải là sự bất cẩn như lần trước [ý nói vụ trốn nhà đi Le Havre năm ngoái], nó đi với tư cách sĩ quan tình nguyện thuỷ binh [ở đây linh mục Vitalis tưởng lầm là em mình có thể được vào lớp sĩ quan tình nguyện], và nó rất sung sướng được xuống tàu của vua, cùng với hoàng tử. [Tàu Dryade của vua Louis XVI, được lệnh đưa hoàng tử Cảnh về nước với tất cả những vinh dự dành cho một hoàng tử]. Ông De Kersaint thuyền trưởng tàu này, sẽ lo cho nó, dẫn nó đi và đưa nó về, trừ khi nếu được thăng tiến thì nó sẽ ở lâu, dưới sự che chở của các quyền lực mạnh mẽ ở Ấn Độ, hay nó làm sáng giá những điều nó biết và những điều nó sẽ học được. Nó sẽ được gởi gấm kỹ càng cho ông De Kersaint và ông sẽ cần kiệm cung ứng cho nó trong mọi trường hợp, những gì nó cần dùng; có thể, chỉ trong vài năm nó sẽ được huân chương La Croix de Ste-Louis [Huân chương quân đội] và mang về rất nhiều tiền, nếu có hạnh kiểm tốt.

Tàu này chở nhiều sinh viên sĩ quan trẻ của ông Capellis và ông sẽ giới thiệu nó với họ và nó cũng muốn có thư giới thiệu với tất cả các quan trấn thủ các nơi mà nó sẽ ghé lại; con nghĩ nghề nó chọn là tốt, trừ những hiểm nguy không thể tránh được mà con đã chỉ rõ cho nó, con cũng đã cố gắng kéo nó chọn một dịch vụ ít động tác hơn, và con đã để cho nó tự quyết định lấy một mình; nó sẽ ra đi với sự chu toàn bổn phận của một con chiên.

Con viết thư này, chính là để nhờ cha đến xin ông d’Entrecasteaux viết thư ngay cho em ông ấy hiện làm quan trấn thủ Ile de France, để thành khẩn gửi gấm Puymanel và xin ông ấy hết lòng giúp nó những gì mà ông ấy có thể giúp được. Con đã giao hẹn với ông de Capellis rằng ông sẽ đưa cho em con một lá thư cho quan trấn thủ, báo với quan trấn thủ rằng ông d’Entrecasteaux [anh] sẽ gởi gấm người thanh niên này cho ông [em], trong lá thư sắp tới.

Cha cũng nên viết thư cho bá tước de Capellis, triều đình Louvre, để tỏ lòng biết ơn của gia đình mình đối với sự hết sức ưu ái mà ông bá tước đã dành cho em con và đã tạo phương tiện để nó có được sự thăng tiến nhanh, và cha cũng còn phải cám ơn ông ấy về những gì ông đã làm để ngăn nó không cho nó làm chuyện khởi hành bất cẩn ở Le Havre, mà một lần khác con sẽ kể cho cha nghe chi tiết hơn về vụ này. Con hôn cha mẹ các anh chị em. Khí hậu ở Nam Hà tốt.

Puymanel sẽ viết thư cho cha trước khi rời Lorient và [nếu] M. d’Entrecasteaux [anh] đưa thư của ông ấy cho cha ngay, thì có thể lá thư này sẽ đến Lorient trước khi em con đi. Cha chỉ cần bỏ thư trong phong bì, đề địa chỉ M. de Versine, sĩ quan Pháo binh tại Lorient, Bưu điện lưu trữ (poste restante); trong trường hợp hợp mà em con đã đi rồi, thì ông de Versine sẽ lo liệu gửi thư này cho ông d’Entrecasteaux [em].

Người anh tu sĩ này đã làm hết sức để gửi gấm em, và Olivier de Puymanel thực sự là một loại “con ông cháu cha” có nhiều ân sủng, đã được hưởng mọi sự giúp đỡ che chở, của gia đình và những người quen biết, làm lớn, trong xã hội thời ấy.

Sau đó, lá thư bị bỏ dở hoạc bị cắt ngang, với nhiều chấm…

Rồi đến đoạn tiếp theo, dưới đây, linh mục Vitalis giải thích tại sao ông lại chọn cho em con đường tình nguyện lính thủy, (có lẽ vì ông de Capellis đã cho biết Puymanel không thể học lớp “sĩ quan”), trong khi có thể chọn con đường chỉ đi viễn du, rồi ở lại nơi nào có của cải và có việc làm tốt. Ông giấu em, không nói đến chuyện có thể chọn sự viễn du, vì ông chưa thấy một đề nghị cụ thể nào về ngành công binh mà ông muốn người em đi vào. Ông viết:

“Chúng ta nói chuyện về em con, nó nói với con rằng, nếu nó muốn đi Nam Hà, thì chuyến đi đã xong, Giám mục Adran phải đi ngày thứ năm, rằng đó là một cơ hội tốt (…) con phải đến ăn chung bữa với nó, để nói cho nó biết những đề nghị của ông de Capellis và cho nó 24 giờ để suy nghĩ. – Nó cũng chẳng cần đến ngần ấy thời gian, khi biết ông de Capellis đã dàn xếp xong tất cả, nó bị kích động ngay cho đến ngày hôm sau. Dù vận hội này đem lại cho em con những lợi ích, có thể con đã giấu nó khả năng được lựa chọn giữa việc chỉ đi viễn du hay là làm lính thuỷ tình nguyện đi Ấn Độ, nhưng vì chưa có gì chắc chắn, dẫn nó tới ngành công binh, mà cơ hội thì khẩn cấp, cần phải quyết định ngay tức khắc, hoặc là nắm lấy hoặc là kéo dài tình trạng không dứt khoát của thằng nhỏ này, mà sự thiếu kiên nhẫn là tính khí hàng đầu của nó.

Con biết rằng nghề lính thuỷ tình nguyện có lợi ở chỗ là thời gian đi biển sẽ được tính tăng gấp đôi, đối với những người nhắm được huân chương La Croix de St-Louis, con cũng biết rằng trong những chuyến đi trường kỳ, cả lần đi, lẫn lần về, chỉ một món hàng rất nhỏ được phép mang theo cũng kiếm được một món hời [những thuỷ thủ đi biển ngày trước, được phép mang theo một gói hàng nhỏ gọi là pacotille, để bán]. Ông de Capellis nói với con rằng thằng nhỏ này là đứa tiêu tiền như phá, đi bể thì nó không có gì để tiêu xài, tiền lương rất ít, nhưng đã không phải trả tiền ăn và tiền phòng. Sau cùng, con đã quyết định giúp nó được đi xem các xứ xa xôi trong một chuyến đi hiếm hoi đưa đến một xứ sở giầu có, và tình thân của giám mục Adran có thể giúp ích rất nhiều cho nó”.

Thư thứ nhì của linh mục Vitalis, viết ngày 30/11/1787

Hai ngày sau khi viết là thư trên, linh mục Vitalis gửi cho cha lá thư thứ nhì sau đây. Thư này cũng chia làm hai phần. Phần đầu, ông tỏ ý hết sức hối hận về quyết định đã ghi tên cho em vào lính tình nguyện và nói với người cha: Nếu cha muốn thì cha có thể bãi bỏ hết:

Gửi Ông Olivier, Chưởng ấn toà Thượng thẩm Carpentras,

Đêm qua, con đã đưa em Puymanel lên xe ngựa đi Rennes và nó sẽ tới nơi trong ngày thứ năm; còn phải mất hai ngày nữa nó mới tới Lorient. Mặc dầu cha đã cho con toàn quyền đối với đứa em này, mặc dù con đã dẫn dắt nó như một người cha, nhưng ngay sau khi nhận được thư này, cha có thể viết thư cho nó, gửi tới bưu điện lưu trữ ở Lorient thì rất có thể nó còn nhận được; và cha còn kịp huỷ bỏ hoàn toàn những gì con đã làm. Con có cảm tưởng rằng chuyến đi lâu dài như thế này sẽ làm cha mẹ buồn, và nếu vì hoàn cảnh khiến cha thấy cần phá bỏ những điều con đã thoả thuận trước, con sẽ tự trách mình là đã dám trộm quyền cha mẹ để định đoạt.”

Phần kế tiếp, linh mục Vitalis mới giải thích tất cả các lý do đã khiến ông hành động như vậy, việc này liên quan tới hạnh kiểm của em ông, những lời gần như tuyệt vọng của vị linh mục sau đây nói lên những khó khăn và đau khổ của một người anh, trước một người em vô hạnh mà giáo dục gia đình đành bó tay, phải để cho trường đời dạy dỗ:

“Có những trường hợp khiến ta không thể chờ đợi lời khuyên, mà cha sẽ thấy qua câu chuyện nhỏ sau đây: Victor đi Le Havre, như cha đã biết, nó thực hứng khởi về chuyến đi này cho nên bao nhiêu lá thư với lời lẽ ngọt ngào của ông de Bonneuil, mà trong vài ngày nữa con sẽ chuyển cho cha, trong đó ông đã ca tụng tình yêu của cha mẹ, cũng chẳng làm cho nó động lòng. Đến nỗi, trong lúc ở lại tu viện này, nó còn tìm cách đánh lừa ông Bonneuil, chỉ cho ông cách xếp đặt [cho nó] về Paris, để nó trở lại tự do. Nhưng nó đã đi [Le Havre] và biết tất cả các mối hiểm nguy mà nó phơi mình, bằng cách đến nơi với ít tiền, không trương mục, không lời giới thiệu, chỉ có mưu mẹo là vài quyển sách, ít dụng cụ toán học và quần áo để bán, những nguồn lợi mà trong những xứ đắt đỏ, cách xa 2000 dặm, sẽ bị cạn kiệt. Cha xét xem, sau đó, nó đã công nhận với con những hiểm nguy đó, và con muốn tin rằng, như nó đã nói với con, là nó không dám nhìn mặt gia đình và bạn bè, sau cái việc xấu xa mà nó vừa làm, để Thượng Đế xét xử nó. Tuy nhiên de Bonneuil lại dàn xếp cho nó, và cuối cùng, nó lại trở về nhà con, con để cho nói thoải mái, cho nó bớt xấu hổ vì chuyện nó đã làm, cho nó hồi hương với những người bạn bị nó lừa. Việc dại dột phải được quên đi để sửa lỗi lầm, trong lúc con muốn thoả thuận với nó để trả ít hơn, một số hoá đơn. Con đã nói với nó rằng, những bộ quần áo đắt tiền, tiêu phí phạm, con sẽ không trả tiền cho người sản xuất, mà bắt nó phải bán lại; nó trả lời, chẳng còn bộ nào; con lờ sự bực bội của nó, đợi một lúc khác, hỏi nó về số tiền 300 ls [300 Louis] mà Thiébault nói chắc; nó bảo đảm đã đưa rồi. Con vặn hỏi, nó bối rối, sau cùng nó thú thực là nó chưa nhận được. Con nói với cha những việc này không phải để kết tội nó mà để cho cha biết, trong vòng có một tháng mà thằng này đã mất hết tính thật thà, nó đã bao lần nói dối tất cả mọi người, cả sự nó muốn cắt đứt với gia đình, nó mua một xe ngựa hai bánh giá 30 Louis để biếu BO, bán đồng hồ đeo tay 8 Louis cho BVS. Bức tranh này làm con khá đau lòng, nhưng vì cái nền [của nó] vẫn còn tốt, con nghĩ rằng cứ nhẹ nhàng [khuyên bảo], mặc dù nó có tánh quyết định và khó bảo, con hy vọng, nó sẽ trở về với những đức tính ban đầu. Chủ đích của con là thử nghiệm đắp cầu công binh với những mảnh vụn lượm lặt được…”

Lá thư kết thúc dở dang ở đây. Lời thư kín đáo quá, nhiều khi không rõ, úp mở, hoặc nói chưa hết ý, cũng cho ta mường tượng vụ trốn nhà lên Le Havre năm 1786, nhưng bị chận lại của Puymanel là nặng nề, và có những điểm không thể tha thứ được. Có thể là việc lấy trộm của gia đình vài quyển sách, ít dụng cụ toán học và quần áo để bán, và có thể, ý định sẽ từ Le Havre vượt biển đi rất xa, cho nên Vitalis mới viết: “những nguồn lợi mà trong những xứ đắt đỏ, cách xa 2.000 dặm, sẽ bị cạn kiệt”. Dù sao chăng nữa, người anh linh mục, vì mất hết tin tưởng vào em hư hỏng, nên đành phải chọn cho em con đường “lính thuỷ tình nguyện”, và cuối cùng ông đã hối hận, muốn cha quyết định lại số phận cho em.

Tuy nhiên, Puymanel chính thức được nhận vào lính tình nguyện binh nhì ngày 15/12/1787, như vậy, cha đã đồng ý với người anh linh mục, không sửa đổi chương trình sang Ấn Độ và Nam Hà của Puymanel, nhưng tàu chưa khởi hành ngay, phải đợi một tháng sau mới đi được, vì không thuận gió mùa.

Thư của Gabriel Olivier viết ngày 21/12/1787

Lá thư, do người anh cả Gabriel Olivier viết cho cha ngày 21/12/1787, sau thư của linh mục Vitalis gần một tháng, cho biết đến ngày 21/12/1787, Victor vẫn chưa đi vì tàu còn phải đợi cơn gió Bắc, thuận chiều, mới có thể giong buồm khởi hành. Trong thư, đoạn đầu, viết về sự hồ hởi của Victor về chuyến đi này, và an ủi cha, rằng ông de Kersaint đã đưa nó đi, thì thế nào cũng phải đưa nó về tới bến, đó là bổn phận của người thuyền trưởng, vv…

Đoạn sau ông viết:

“Đúng là Victor có dự định ở lại Nam Hà để tìm một sự thăng tiến lớn nhất. Nó đã hứa với con là chỉ dừng lại ở đấy, nếu nó chắc chắn bảo đảm là kiếm được của cải. Tuy nhiên, để theo đúng ý cha, con đã nhờ ông de Capelis [Capellis] viết thư cho ông de Kersaint dặn ông này -là người chỉ huy thuỷ thủ đoàn, không ai được rời tàu mà không có nghiêm lệnh của ông- chỉ cho phép nó [rời tàu] trong trường hợp có sự thăng tiến lớn lao và bảo đảm mà người ta cống hiến cho nó. Một mặt khác, con còn nhân danh cha, viết thư cho Giám Mục Adran, để năn nỉ ông theo đúng như ý cha, mà khuyên nhủ nó. Ở đầu kia trái đất, nó vẫn còn giữ được mối liên lạc với quyền uy hoà dịu của cha là điều rất tốt cho nó, dù xa xôi cách trở hai ngàn dặm”… (Taboulet, I, t. 246).

Lá thư này nói rõ quyết định của Puymanel đi Nam Hà là để tìm cải. Người anh cả, không rõ lắm về quy chế lính tình nguyện: bởi nếu Puymanel đã đăng lính tình nguyện rồi, thì không thể tới nơi nào, có việc tốt, muốn xuống thì xuống. Vì vậy, khi đến Côn Lôn, Puymanel xuống cùng với những người trong nhóm pháo binh, và ở lại, anh sẽ trở thành lính đào ngũ.

Ngày khởi hành

Ngày tàu Dryade khởi hành, ngoài sổ hành trình của tàu, còn được xác nhận qua hai thư sau:

Thư ông Thévenard gửi bộ trưởng Montmorin, viết từ Lorient ngày 28/12/1787:

“Hai tàu Méduse và Dryade cuối cùng đã khởi hành hôm qua, vào lúc 2giờ 30 chiều, theo ngọn gió đông bắc đầu tiên, và chắc nó sẽ tiếp tục thổi mạnh.

Đức giám mục Adran, hoàng tử Nam Hà, phân đội pháo binh và những hành khách khác cùng với hành lý, đều có mặt trên hai tàu này đúng như chỉ thị của ông [bộ trưởng].” (Launay, III, t.178).

Thư Bá Đa Lộc ngày 14/4/1788:

“Tôi vừa tới Ile de France, sau 102 ngày vượt biển… Tàu Méduse đi cùng với chúng tôi đến Hảo Vọng Các (Cap de Bonne-Espérance), rồi đi trước để đưa tin, thế mà vẫn chưa đến. Chúng tôi sợ nó đã bị buộc đỗ lại ở Hảo Vọng Các…” (Launay, III, t. 178).

Như vậy, ta biết chắc Puymanel khởi hành từ Lorient (Bretagne) ngày 27/12/1787, trên tàu Dryade, như binh nhì tình nguyện. Trên tàu, ngoài phái đoàn Bá Đa Lộc và hoàng tử Cảnh, còn có một phân đội pháo binh. Chính những người lính trong đội pháo binh này, sẽ chỉ dẫn cho Puymanel biết về ngành pháo, việc này sẽ giúp đỡ rất nhiều cho anh, khi đến giúp vua Gia Long. Một số trong bọn họ sẽ đào ngũ cùng Puymanel ở Côn Lôn tháng 9/1788.

Hải trình của tàu Dryade và sự tiến thân của Olivier de Puymanel

Theo sự ghi chép của Faure, thì, tàu Dryade do hải quân đại tá hiệp sĩ Kersaint điều khiển, rời Lorient ngày 27/12/1787, chở Hoàng tử Cảnh và giám mục Bá Đa Lộc cùng đoàn tùng về Pondichéry. Sau đây là sổ hành trình của tàu Dryade, từ 27/12/1787, khởi hành ở Lorient, đến 23/8/1790 về tới Brest:

Đi từ Lorient ngày 27/12/1787, đến Ile de France và ở lại từ (8-26/4/1788). Đến Pondichéry, ở lại từ (18/5- 15/8/1788). Để giám mục Bá Đa Lộc và hoàng tử Cảnh ở lại. Ba tháng sau, đi Côn Lôn và ở lại từ (15-19/9/1788). Olivier và 8 pháo binh đào ngũ tại đây. Tàu Dryade tiếp tục hành trình đi Phi Luật Tân, đỗ ở Cavite và Manille (7/10-29/11/1788). Về Macao (13-29/12/1788). Được lệnh Conway từ trước, [thư Conway gửi bộ trưởng Luzerne, Launay, III, t. 192] tàu sẽ từ Macao về Nam Hà để do thám tình hình: Tới Đà Nẵng (8-13/1/1789); Cham-Callao [Cù Lao Chàm] (14-16/1/1789); Cham-Chen [?] (17-18/1/1789); Cambir [?] đất liền (18-19/1/1789); Côn Lôn và Phú Quốc (24-27/1/1789); Poulo-Yang (28/2-1/2/1789); Côn Lôn (10-20/2/1789). Tới Malacca (19-22/2/1789); Pondichéry (13/3-12/4/1789); Trinquemale (12/4-15/5/1789); Pondichéry (37/5-11/7/1789); Ile de France (3/8-6/12/1789); Brest (23/8/1790) (Faure, t. 242).

Faure cho biết thêm chi tiết về những người lính đào ngũ ở Côn Lôn:

Olivier de Puymanel, tình nguyện binh nhì (chức nhận ngày 15/12/1787), đào ngũ ở Poulo-Condor (Côn đảo) ngày 19/9/1788, cùng với: Pierre-Marie, lính pháo hạng hai (2e canonier); Lemerle (François), thuỷ thủ (matelot), Maume (Dominique), thuỷ thủ; Lauzy (Charles), thuỷ thủ khuân vác; Le Tousse (Charles), thủy thủ coi buồm; Quermorvant (Francçois), thuỷ thủ khuân vác; Corré (Corentin) thuỷ thủ khuân vác; Terray (Jean-Baptiste) thuỷ thủ nhỏ (Faure, t. 242- 243).

Về Olivier de Puymanel, Faure viết:

“Tàu Dryade tới Côn Lôn ngày 15/9/1788, để lại đây cha Paul Nghị [Hồ Văn Nghị], người thân cận của Bá Đa Lộc và 10 lính thuỷ Nam Hà được đưa [từ Pondychéry] về xứ. Tàu cũng để lại một ngàn súng được mua từ Pháp cho vua Nam Hà. Tàu mất ở đây một lính tình nguyện binh nhì, ông Olivier de Puymanel đào ngũ cùng mấy thủy thủ pháo binh. Người lính tình nguyện trốn thoát ngày (19/9/1788) ở Côn Lôn, chẳng bao lâu sẽ nổi tiếng ở Nam Hà, sẽ trở thành Vệ uý Olivier de Puymanel.” (Faure, t.199).

Đó là những thông tin đứng đắn, có thể tin được; nhưng Faure còn đưa ra những tin hoàn toàn dựng đứng, như: “người [Bá Đa Lộc] không ngần ngại trao cho anh [Olivier] những nhiệm vụ quan trọng của vị Tham mưu trưởng quân đội Nam Hà” (Faure, t. 200); “Sau [khi đã thành lập xong] hải quân, đức giám mục Adran lo tổ chức quân đội Nam Hà, tới lúc đó chỉ là những băng đảng. Người thanh niên Olivier, về mặt này, là đại diện đặc trách và trực tiếp những quyết định của Đức Cha, một loại Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội dưới quyền điều khiển của Đức Cha“ (Faure, t. 221).“Olivier de Puymanel lại hân hạnh được đức cha chọn điều khiển trường võ bị tổng hợp này, ở đó phát xuất những sĩ quan và hạ sĩ quan người bản xứ, đã học về quy luật trận địa, họ sẽ thể hiện giá trị và kinh nghiệm ấy trên chiến trường” (Faure, t. 221-222).

Những lời lẽ biạ đặt này, sẽ được người ta chép lại dưới hình thức này hay hình thức khác, và sẽ đi vào “lịch sử”.

Trở lại với thực tế của Olivier:

1- Trên đường đến Nam Hà, Olivier de Puymanel may mắn đã được gặp linh mục Hồ Văn Nghị. Hồ Văn Nghị, như chúng tôi đã nhiều lần nhắc đến, là người thân cận của Bá Đa Lộc, đã cứu Nguyễn Ánh thoát chết khỏi tay Nguyễn Huệ ngày trước, cho nên ông là người thân tín của cả Bá Đa Lộc lẫn vua Gia Long. Trong suốt thời gian Bá Đa Lộc đem hoàng tử Cảnh sang Pháp, ông đã được vua sai đi về nhiều lần giữa Macao và Ấn Độ, để săn tin hoàng tử và làm những nhiệm vụ khác như mua vũ khí cho vua. Khi tàu Dryade chở hoàng tử và Bá Đa Lộc về đến Pondichéry, linh mục Hồ Văn Nghị cũng đã ở đấy.

Chắc chắn rằng, với chủ đích sang Nam Hà để tìm của, Puymanel đã làm quen với Hồ Văn Nghị trong thời gian ba tháng tàu đỗ ở Pondichéry. Ngoài ra, trước khi rời Pháp, Olivier còn được người anh Gabriel, thay cha, viết thư gửi gấm cho giám mục Bá Đa Lộc; vậy cũng có thể chính vị giám mục đã “gửi gấm lại” Puymanel cho Hồ Văn Nghị. Con đường tiến thân mà người anh linh mục Vitalis mong cầu cho em mình, đã không xa sự thực.

2- Cái may thứ nhì của Olivier, là tàu Dryade, khi đi từ Pondichéry về Côn Lôn, từ 15/8 đến 15/9/1788, lại chở cả linh mục Hồ Văn Nghị cùng với 10 lính thủy Nam Hà và “tàu cũng để lại một ngàn súng được mua từ Pháp cho vua Nam Hà”. 1000 khẩu súng này chắc chắn do Hồ Văn Nghị mua của đại lý Pháp ở Pondichéry về cho Gia Long. Như vậy, ngoài chuyện quen được Hồ Văn Nghị, Puymanel còn may mắn đi cùng tàu với Hồ Văn Nghị về Côn Lôn.

3- Ngày 19/9/1788, Olivier cùng 8 lính khác, đào ngũ và ở lại Côn Lôn.

4- Tại Côn Lôn, đã có sẵn đường dây do Nguyễn Ánh thiết lập từ trước, giao cho Hồ Văn Nghị trông nom, để hướng dẫn và giúp đỡ những thuyền bè ngoại quốc tìm lối vào Gia Định.

5- Vì thế, Puymanel khi đào ngũ, đã có đường tiến thân trực tiếp với vua Gia Long, và chắc chắn rằng: chính Hồ Văn Nghị đã thu nhận Puymanel và những người lính đào ngũ; đã đưa Puymanel về Sài Gòn yết kiến vua Gia Long, như một thanh niên con nhà gia thế, được đức giám mục Bá Đa Lộc bảo lãnh.

Phần II: Sự nghiệp

Chức vụ và nhiệm vụ của Olivier de Puymanel được Thực Lục và Liệt truyện nhắc đến bằng những hàng:

“Mạn Hoè, Đa Vật, Va Nê E, Ô Ly Vi (tức tên là Tín) và Lê Văn Lăng, đều là người Phú Lang Sa” (LT, II, t. 506). “Đa Vật, Va Nê E, Lê Văn Lăng và Ô Ly Vi, 4 người ấy theo Đa Lộc từ Tây Dương tới Gia Định, xin ở lại làm thân bộc, đều bổ làm cai đội” (TL, II, t. 507). “Ô Ly Vi làm đến vệ uý vệ ban trực hậu quân thần sách” (LT, II, t. 507).

Như vậy, chức vụ đầu tiên của Olivier là Cai đội; nhận chức này ngày nào, hiện chưa biết rõ; theo một vài thư sai phái, thì Olivier giữ chức Khâm sai cai đội. Đó là về chức.

Còn công việc đầu tiên để lại dấu vết là gì?

Qua những chứng từ có được, chúng tôi tạm kê khai những nhiệm vụ sau đây:

1- Nhiệm vụ thứ nhất: Viết thư hỏi tin Quang Trung đại phá quân Thanh, qua lá thư Olivier viết cho M. Létondal, quản thủ tu viện Macao:

Từ Sài Gòn ngày 15/7/1789

Thưa cha,

Con tiếc hoài đã không ở Macao, nơi con có thể làm hết sức mình để xứng đáng được cha tin cậy. Mấy ông kia đã đem tới lá thư cha viết cho con, làm con rất hân hạnh; những câu chuyện các ông ấy kể, lại càng làm con thêm hối tiếc. Mấy ông này đã may mắn đến đây [Sài Gòn] ngày 3/3 [1789], họ lại đi tuốt luốt đến tận Hà Tiên mà không biết. Nhà vua rất ngạc nhiên thấy chiếc thuyền bé mà họ dám leo lên để đi, ngài cũng tiếp đón tử tế nhưng chưa đủ nồng hậu để giữ tình thân. Nhà vua hiện đã lấy lại được ba tỉnh của ông, lại vừa bắt được một tướng ngụy, từ Huế gửi vào, mới đầu ông tha tội, sau rồi có điều nghi ngờ, ông đã sai chém đầu, [chắc nói về Phạm Văn Tham, ra hàng, được tha, sau bị giết vì bị kết tội liên lạc với Nguyễn Huệ]. Nhà vua đang nóng lòng đợi tàu Pháp đem con ông về. Từ lâu bên địch đã biết rằng nước ta phải giúp ông hoàng này và con đồ rằng sự sợ hãi những tàu Pháp từ Macao đến mà ở trên bờ biển nhìn thấy, đã ngăn cản bọn ngụy ở Huế gửi quân xuống đây đầu năm nay, [sau đó đến câu này, không hiểu Puymanel muốn nói gì: comme il avoit coutume de le faire une flotte, pour enlever ledit, le roy n'eut pu y résister]; còn một lý do khác đã ngăn taison [Tây Sơn] là chiến tranh với người Tàu, vì muốn biết rõ chi tiết về cuộc chiến mới đây mà hôm qua Hoàng Thượng bảo con viết thư này, nhân dịp đại úy Antonio Vincenti [sang Macao]; Hoàng Thượng muốn biết những gì đã xảy ra trong cuộc chiến tranh này, những mưu toan của người Tàu, sức mạnh của họ như thế nào, Hoàng Thượng chắc rằng với những điều cha biết về người Tàu, cha có thể cho ngài những tin tức chắc chắn hơn là những điều mà ngài đã biết qua các ngả khác, như thế, cha giúp Hoàng Thượng nhiều lắm mà cũng giúp cả con nữa.

Con xin bày tỏ lòng biết ơn…” (Cadière, Les français au service de Gia Long, Leur Correspondance, BAVH, 1926, IV, t. 363).

Lá thư này cho biết:

- Ngày 15/7/1789, Olivier đã ở Sài Gòn, và đã được vua sai viết thư cho giáo sĩ Létondal ở Macao, để hỏi về việc Quang Trung đánh nhau với quân Thanh.

- Trong thư, Olivier nói đến những chuyện xảy ra từ tháng 3/1789 ở Sài Gòn, và chính anh cũng nhận được thư ông Létondal gửi cho anh vào lúc đó. Như vậy, chắc rằng, chỉ ít lâu sau ngày đào ngũ (19/9/1788), Olivier đã được Hồ Văn Nghị đưa về Sài Gòn yết kiến Gia Long.

- Chúng ta tạm coi lá thư này, là chứng từ về nhiệm vụ đầu tiên Gia Long giao cho Puymanel: viết thư hỏi Macao về việc Quang Trung đại phá quân Thanh.

2- Nhiệm vụ thứ nhì: đặt súng đại bác

Faure cho biết khi tàu Méduse chở Bá Đa Lộc và Hoàng tử Cảnh về Sài Gòn, qua Côn đảo, đã đỗ lại từ ngày 19 đến 23/7/1789, và có giao súng đại bác mà Nguyễn Ánh mua; Puymanel và các bạn nhận việc bố trí: “Tàu Méduse, đỗ lại ở Côn Lôn từ 19 đến 23/7, để lại những khẩu đại bác để phòng vệ bến tàu, rồi ông Olivier de Puymanel và mấy người lính pháo đã đào ngũ năm trước, từ tàu Dryade, đặt vào vị trí ngay.” (Faure, Monseigneur Pigneau de Béhaine, t. 205).

Nếu lời Faure viết trên đây là đúng, thì có thể Puymanel đi đi về về giữa Côn Lôn và Sài Gòn, trong thời gian từ tháng 9/1788 đến tháng 7/1789, cho nên khi tàu Méduse “chở mấy khẩu súng đại bác” về cho Nguyễn Ánh, thì chính Puymanel và những pháo binh đào ngũ, đã nhận lệnh đặt đại bác vào đúng vị trí phòng thủ bến tàu. Điều này ăn khớp với việc tàu Dryade chở một đội pháo binh từ Lorient đi (thư ông Thévenard, Launay, III, t. 178). Olivier chắc đã học nghề pháo trong thời gian ở trên tàu với đội ngũ pháo binh này.

3- Nhiệm vụ thứ ba: chế tạo các hạng hoả xa

Liệt Truyện, mục từ Trần Văn Học, có ghi một vài việc quan trọng liên quan đến Olivier:

“Năm Đinh Mùi [1787], Học đã đến Tiểu Tây [Ấn Độ], lại đáp tàu nước Tây mang tờ biểu về tâu, về đến Ma Lặc [Malacca] gặp thuyền binh nước Đại Tây [Pháp] cùng nhau đều về, đến đảo Côn Lôn đem việc ấy [việc nước Bồ Đào Nha muốn giúp] tâu lên, vua bèn sai Trương Phúc Luật đến tiếp, bỗng Học đi thuyền nước Tây gặp gió dạt sang Lã Tống [Phi Luật Tân], hơn một năm mới về đến Gia Định, từ đó Học ở lại theo hầu, đem thông ngôn nước Tây, cùng với Ô-Ly-Vi (người Tây) phiên dịch chữ tiếng Tây, và chế tạo các hạng hoả xa, chấn địa lôi, binh khí.

Năm Canh Tuất [1790] đắp thành đất Gia Định, Học nêu đo phân đất và các ngả đường, rồi cùng người Tây là bọn Nguyễn Chấn [Vannier] trông coi chiếc thuyền lớn bọc đồng, theo quan quân đánh giặc.” (LT, II, t. 281-282).

Đoạn Liệt Truyện này đã soi tỏ một số vấn đề:

- Ta có thể chắc chắn rằng, nhiệm vụ thứ ba mà Olivier thực hiện, là cùng với Trần Văn Học phiên dịch chữ tiếng Tây, và chế tạo các hạng hoả xa, chấn địa lôi, binh khí.

- Nhưng khi Trần Văn Học được giao việc đo đạc để đắp thành đất Gia Định (vào khoảng cuối năm 1789) thì Olivier không tham dự, bởi không thấy Liệt Truyện nói gì cả.

- Nhờ việc chế tạo các hạng hoả xa, chấn địa lôi, binh khí. Mà Olivier được tuyển vào đội quân Thần Sách, đúng hơn là ngành pháo binh của quân Thần Sách.

Các ngòi bút thuộc địa gán cho Puymanel việc xây thành Gia Định

Để gán cho Olivier việc xây thành Gia Định, các sử gia thuộc địa dùng nhiều thủ pháp mà chúng tôi đã trình bày cặn kẽ trong những chương trước, ở đây chỉ xin tóm tắt lại:

1- Cadière dựng đứng câu chuyện: “Theo chính sử biên niên đời Gia Long, ông [Olivier] bắt đầu xây thành Gia Định tháng 3-4 năm 1790″ (Xem chương 15, Cadière).

2- Những người khác dựa vào câu của de Guignes: “Các ông Olivier và Le Brun, sĩ quan Pháp, đã cho ông ta [vua Gia Long] một cái bản đồ thành đài.” Và nhà vua vội vã xây ngay, phải sách nhiễu dân chúng nên mới có loạn, khiến “Olivier và Le Brun, hai tác giả công trình này cũng bị vạ lây. Giám mục Bá Đa Lộc, phải đưa hai ông về trốn ở nhà mình mới tránh khỏi tai nạn này.” (Báo cáo của de Guignes gửi Bộ trưởng Ngoại giao ngày 29/12/1791, Faure, t. 214).

Chúng tôi đã chứng minh những lời trên đây của de Guignes đều bịa đặt cả: chẳng hề có loạn ở thời kỳ đắp thành đất Gia Định, trong 10 ngày. Le Brun không thể “vẽ” bản đồ thành bát quái, cũng không thể “cho” Gia Long bản đồ để xây thành bát quái, lại càng không thể cùng Olivier “xây” thành bát quái, vì: Thành bát quái Gia Định đắp bằng đất, bắt đầu từ ngày 19/3/1790 (theo Trịnh Hoài Đức), mà ngày 13/1/1790 Le Brun mới tới Macao, rồi đào ngũ và ở lại, sau mới tìm cách sang Nam Hà. Thời đó, đi từ Macao sang Nam Hà, không phải cứ muốn là đi được ngay, còn phải chờ có chuyến tàu, rồi chờ thuận gió, yếu tố thuận gió vô cùng quan trọng. Vậy Le Brun không thể tới Nam Hà kịp thời để “vẽ bản đồ” hay để “cho” vua bản đồ, và vua đem ra “xây ngay” ngày 19/3/1790. Luận điệu này không thể dùng được.

Về phần Olivier, trước khi đến Việt Nam, anh chỉ là cậu công tử ăn chơi không chịu học hành gì cả, chữ Pháp viết chưa thông, nói chi đến chuyện “kỹ sư”, chuyện “xây thành Vauban”.

Sự chán nản của người lính xa nhà

Lá thư Olivier viết cho hai người bạn Lewet và Roland ngày 16/4/1793, mà anh gọi là “sĩ quan của vua Nam Hà”, khuyên hai người này nên xưng tội, đã nói lên tâm trạng hoang mang, mất niềm tin của những người lính trẻ, phiêu du vào vùng đất lạ, không được tin tức gia đình trong khi đất nước của họ đang lâm vào tình trạng khủng hoảng sau cách mạng 1789:

Ông Olivier de Puymanel gửi các ông Lewet và Roland, sĩ quan của vua Nam Hà ở Sài Gòn,

Vì tôi sẽ đi làm việc ở bên ngoài cả ngày, nên không thể kiếm các anh để báo rằng M. Labousse [giáo sĩ] sẽ đến đây trong ngày, và sẽ trở về thứ bảy hoặc chủ nhật. Vậy tùy các anh có muốn nhân cơ hội này để xưng tội như các anh từng ngỏ ý với tôi.

Các anh chưa biết rằng tôi hết sức thoả mãn về ý tốt này của các anh như thế nào, và tôi tin rằng chỉ trong ít ngày, các anh sẽ cảm thấy sự êm dịu trong lòng mà lương tâm cho ta, tôi đã cảm thấy từ mấy ngày nay rồi, và tin tôi đi, tôi thề vời các anh đó, trạng thái này tốt hơn hết tất cả những gì mà ta thường gọi là khoái lạc.

Tôi cũng xấu hổ vì nhiều khi đã làm gương xấu cho các anh, và tôi muốn sữa lỗi đó, vì tôi tin chắc rằng sự chơi bời dẫn đến sự vô đạo (irréligion) và sự vô đạo quá mức – nếu các anh đã được đọc mấy tờ báo từ Âu châu gửi sang năm nay, các anh sẽ không khỏi khóc nức lên vì buồn, vì xấu hổ, thấy những tội ác dã man mà đồng bào ta phạm phải; nếu so sánh [những kẻ ấy] với những người mà, trước đây ta thấy ở công trường hành hình [Place de la Concorde ngày nay], thì họ đều là những người lương thiện, và nếu ta có thể làm họ sống lại và [tổ chức] một nghị viện với họ, thì sẽ không ai bầu cho việc xé xác hay thiêu sống. Những kẻ Ăn thịt người ngày hôm nay, không bị trừng phạt ở Pháp, đừng có tưởng rằng tình yêu tự do dẫn đến những tàn khốc như thế, đó chỉ hoàn toàn là sự thù oán một đạo giáo thần thánh không có chút tội lỗi nào.

Chúng ta hãy cố gắng làm tròn bổn phận mà đạo này dạy ta, chúng ta đã uổng công hết lòng phụng sự vua Nam Hà, làm sao ông ta có thể đền bù sự hy sinh tính mạng của chúng ta cho ổng, vậy chúng ta hãy hy sinh cho thượng đế và sẽ được trả công gấp trăm lần.

Kẻ hèn phục vụ và tuân lệnh các anh.

Victor Olivier (Cadière, Les français au service de Gia Long, Leur correspondance, BAVH, 1926, IV, t. 365).

Lời thư nói lên sự chán nản của người thanh niên đối với bản thân: sau thời gian sống trác táng là sự “xưng tội”. Lời thư nói lên sự tuyệt vọng về thời cuộc trên quê hương anh, đang ở trong thời đại Kinh Hoàng (La Terreur) sau Cách Mạng 1789. Lời thư nói lên sự cay đắng, liều thân giúp Nguyễn Ánh mà không được “trả công đúng mức”, và hy vọng nếu “giúp” Thượng Đế, thì sẽ được trả công gấp trăm lần! Lời thư thực ngây thơ mà cũng thực tội nghiệp của người con trai 25 tuổi, xa gia đình, không có đường về, không biết tin tức mẹ cha; còn của cải và kho tàng mà anh mơ tưởng ngày đi, thì chưa hề thấy. Trước mắt: anh chỉ là một người lính đánh thuê.

Olivier lập công trong trận đánh Quy Nhơn lần thứ nhất, 1793

Xin nhắc lại, từ tháng 5-6/1792, có nhiều chuyện không hay xảy ra cho Nguyễn Ánh: Một mặt, Dayot thâm lạm ngân quỹ trong chuyến đi Manille làm vua nổi giận đuổi hết lính Pháp. Một mặt, Bá Đa Lộc hay tin Nguyễn Huệ đánh xuống miền Nam, qua ngả Lào, cũng xin đi, lấy cớ về Pháp thăm nhà. Vua cho phép, rồi sau đổi ý. Tháng 6-7/1792, Nguyễn Huệ liên kết với 40 thuyền Tề Ngôi (giặc biển) tấn công miền Bình Khang, Bình Thuận. Cùng lúc ấy, Nguyễn Ánh được cấp báo Nguyễn Nhạc đóng nhiều thuyền chiến đậu ở cửa Thị Nại, sửa soạn chinh phục Gia Định, Nguyễn Ánh bèn quyết định đánh trước.

Về phiá Olivier, Thực Lục việc tháng 7-8/1792 ghi: lấy khâm sai cai đội là Ôlivi làm Vệ Uý ban trực tuyển phong hậu vệ Thần sách (TL. I, t. 286).

Trận Thị Nại tháng 7-8/1792, xảy ra cùng với thời điểm Olivier được thăng Vệ Uý, nhưng chắc Olivier không dự, vì Nguyễn Ánh chỉ dùng quân cảm tử và thuỷ binh, như chúng tôi đã trính bày trong chương 16 viết về Dayot.

Ngược lại, Olivier có tham dự cuộc tấn công Quy Nhơn lần thứ nhất tháng 5-6/1793. Theo thư Le Labousse viết cho Boiret ngày 26/6/1793: “… Nhà vua vừa đi với bộ binh và thủy binh để đánh Qui Nhơn [...] Các ông Dayot, de Rhedon, Vannier d’Auray, cùng đi với tàu của họ. Ông Olivier quê Carpentras, và đội ngũ của ông cùng vài người Âu khác, đi trong đoàn bộ binh…” (Cadière BEFEO, Documents relatifs à l’époque de Gia Long, t. 29).

So với Thực Lục, Le Labousse viết không sai:

Sau khi Nguyễn Huệ mất, Nguyễn Ánh được tin Quang Toản và Nguyễn Nhạc nghi kỵ nhau, bèn quyết định đánh Quy Nhơn. Đây là chiến dịch đánh lớn và đánh lâu, từ tháng 5-6/1793 đến tháng 10/1793, Nguyễn Ánh thắng một số trận, Nguyễn Nhạc cầu cứu Quang Toản, thấy quân cứu viện vào, Nguyễn Ánh cho quân rút về Diên Khánh và đắp thành Diên Khánh. Olivier lúc đó làm Vệ uý trong đội Thần Sách, trực thuộc bộ binh, dưới quyền điều khiển của các đại tướng: Tôn Thất Hội, Võ Tánh, Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Văn Thành.

Thực Lục ghi lại hai chi tiết đáng chú ý sau đây:

1- Khi vây thành Quy Nhơn: “Vua muốn dùng phép “thả diều phóng lửa” của nước Tây để đánh đốt thành giặc. Nhưng lại lo cho nhân dân trong thành, phần nhiều bị giặc ức hiếp bắt theo, sợ khi “thành cháy vạ lây” có chỗ không nỡ. Sắc cho các quân không nên đánh gấp, để cho dân tự ra” (TL, I, t. 296).

2- Vây Quy Nhơn nhưng ngại không dùng phép “thả diều phóng lửa” sợ chết dân, Nguyễn Vương bèn rút quân và ra lệnh dùng “hoả xa đại bác”:

“Vua lại đem quân về cửa biển Thị Nại, rồi đến cầu Thạch Yến hạ lệnh cho quân các đạo dùng súng hoả xa đại bác (đại bác của người Tây có bánh xe để di động như xe) đánh thành Quy Nhơn. Quân giặc trong thành ấy còn hơn 10.000 người. Nguyễn Văn Nhạc cố chết giữ, đánh mãi không hạ được thành” (TL, I, t. 297).

Ở đây, chúng ta có thể chắc chắn Olivier de Puymanel là một trong những tác nhân về “hoả xa đại bác”. Liệt Truyện cũng xác nhận: Olivier cùng với Trần Văn Học chế tạo các hạng hoả xa, chấn địa lôi, binh khí. Nhưng Vũ Viết Bảo cũng là một trong những chuyên viên về “hoả xa đại bác”. (LT, II, t. 321). Riêng phép “thả diều phóng lửa” của nước Tây thì chưa biết là phép gì, cần phải điều tra kỹ hơn.

Tóm lại, công lao của Olivier trong ngành pháo binh là thực sự và có thành quả, đã được Thực Lục và Liệt truyện ghi lại. Olivier cũng là người Pháp được ghi công nhiều nhất trong thời gian 6 năm, từ 1793 đến khi anh mất, năm 1799.

Việc gán cho Olvier xây thành Diên Khánh

Việc này chúng tôi cũng đã trình bày kỹ trong chương 12: Huyền thoại Puymanel và Le Brun xây thành Gia Định và Diên Khánh và chương 13: Tôn Thất Hội, Trần Văn Học, Vũ Viết Bảo, những người giúp vua Gia Long trong việc đắp thành đất Gia Định và Diên Khánh; ở đây chỉ vắn tắt lại mấy nét chính:

Học giả Cadière xác quyết việc Olivier “xây” thành Gia Định bằng câu: “theo chính sử biên niên đời Gia Long, ông [Olivier] bắt đầu xây thành Gia Định tháng 3-4 năm 1790″, câu này hoàn toàn sai. Rồi ông lại xác quyết Olivier “xây” thành Diên Khánh bằng một câu khác của Lavoué: “Nhà vua… mượn ông Olivier, sĩ quan Pháp, xây cho ông một thành phố theo kiểu Tây phương ở một trong những vùng mà ông vừa chiếm được. Thành phố vừa xây xong thì bốn mươi ngàn ngụy quân đã quyết định trèo lên nhưng vô hiệu” để đưa đến kết luận: “Thành bị bao vây vào tháng 5-6/1794, vậy thành này được xây vào cuối năm 1793, đầu năm 1794″ (Cadière, Nguyễn Suyền, note 26, BAVH, 1926, III, t. 264).

Lập luận của Cadière sai từ đầu đến cuối, bởi vì:

1- Thành Diên Khánh được đắp chính xác vào tháng 10/1793, khi Nguyễn Ánh rút quân từ Quy Nhơn về Diên Khánh, đắp một tháng xong. Tháng 11/1793, Nguyễn Ánh trở về Gia Định (TL, I, t. 299), thành này do Tôn Thất Hội và Vũ Viết Bảo phụ trách (LT, II, t. 78 và t. 321).

2- Thực ra câu của Lavoué đầy đủ là như thế này: “… Vua về lại Gia Định [tức là tháng 11/1793] mà ông đã chiếm. Ông xây thành đắp lũy kiên cố hơn, đóng tàu, vv… và mượn Olivier, sĩ quan Pháp, xây cho ông một thành phố theo kiểu Tây phương ở một trong những vùng mà ông vừa chiếm được. Thành phố vừa xây xong thì bốn mươi ngàn ngụy quân đã quyết định trèo lên nhưng vô hiệu” (Thư viết ngày 13/5/1795 gửi Boiret và Descourvières, BEFEO, Doc. Rel, Cadière, t. 33). Cadière đã bỏ câu đầu: “Vua về lại Gia Định”, vì nếu để câu này, thì cái chứng mà ông đưa ra là hỏng cả. Bởi vì:

Khi Nguyễn Ánh trở về Gia Định, tháng 11/1793, nếu có “mượn Olivier, sĩ quan Pháp, xây cho ông một thành phố theo kiểu Tây phương ở một trong những vùng mà ông vừa chiếm được”, thì phải là một thành khác, không phải Diên Khánh, vì Diên Khánh đã đắp xong từ tháng 10/1793 rồi; hơn nữa, Lavoué cũng chỉ nói bâng quơ, chứ không chỉ rõ tên thành là Diên Khánh.

Đại Nam Nhất Thống Chí viết: “Năm Quý Sửu (1793) quân nhà vua tiến đánh Qui Nhơn, lúc trở về, xa giá dừng ở Diên Khánh, xem xét thế đất, sau nhân bảo [đồn] cũ Hoa Bông đắp thành bằng đất, thành mở 6 cửa, đều có nhà lầu, 4 góc thành có núi đất, ngoài thành đào hào, ngoài hào có trại; các cửa đều có cầu treo để qua hào, trước sau có núi sông bao bọc, thật là nơi thiên hiểm” (ĐNNTC, III, t. 93). Lê Văn Định cũng mô tả Diên Khánh là một thành chiến đấu, có ít dân và càng không phải là một “thành phố theo lối Tây phương”. Một số người khác, lại quy câu “thành phố theo lối Tây phương” này vào thành Gia Định, càng sai nữa, vì Gia Định đã đắp xong từ tháng 4/1790.

Để kết luận, chúng ta có thể xác định gần như chắc chắn rằng, Olivier có mặt ở vùng Quy Nhơn-Diên Khánh trong hai năm 1793-1794, đã góp phần đắc lực trong các trận chiến với tư cách là Vệ uý trong đội quân Thần Sách. Nhưng Olivier không hề “xây” thành Diên Khánh vì không phải là chuyên môn của anh, Olivier chuyên về ngành pháo, việc đắp thành đất Diên Khánh là việc của người Việt, chuyên về thành trì Đông phương.

Olivier tham dự trận Diên Khánh 1794

Tháng 11/1793, Nguyễn Ánh rút về Gia Định, để Nguyễn Văn Thành ở lại trấn Diên Khánh, nhưng tháng 12/1793, lại gọi Nguyễn Văn Thành về và sai Đông cung Cảnh (13 tuổi) trấn giữ Diên Khánh cùng các tướng Phạm Văn Nhân, Tống Phước Đạm, Mạc Văn Tô, Nguyễn Đức Thành và các thầy dạy học Bá Đa Lộc, Trịnh Hoài Đức, Ngô Tòng Châu… Đến tháng 2/1794, Chưởng dinh hữu quân Nguyễn Huỳnh Đức cũng xin ở lại Diên Khánh để giúp Đông cung. Có lẽ vì biết tin Đông cung (mới 13-14 tuổi) trấn giữ Diên Khánh, nên tháng 4/1794, Trần Quang Diệu và Nguyễn Văn Hưng lại đem đại binh thủy bộ vào đánh. Được tin, Nguyễn Ánh truyền cho Đông Cung phòng bị. Nguyễn Văn Hưng đem 40.000 quân bộ đánh Phú Yên, quân Nguyễn phải rút lui. Tháng 5/1794, thuỷ binh của Trần Quang Diệu tiến vào cửa biển Nha Trang, bộ binh của Nguyễn Văn Hưng cũng tiến đến Bình Khang, họp quân ba mặt vây thành Diên Khánh. Trong nhiều ngày, súng đại bác hai bên bắn ra như mưa, quân Tây Sơn bị thương rất nhiều nhưng thành kiên cố không thể tiến vào được. Nguyễn Ánh phải thân chinh cử thuỷ binh giải vây, với Tôn Thất Hội tiên phong, Võ Tánh tập hậu, Võ Di Nguy, hộ giá. Nghe tin đại binh Nguyễn Ánh đến, Trần Quang Diệu rút về Quy Nhơn, Nguyễn Văn Hưng lui về Phú Yên.

Olivier có dự trận Diên Khánh 1794 này, Thực Lục việc tháng 7/1794, ghi: “Sai Vệ uý Phan Văn Triệu, Ôlivi, Trần Văn Tín, Lê Văn Duyệt, Cao Văn Lý, cùng Cai đội quản Xiêm binh Nguyễn Văn Tổn và Cai cơ Trương Văn Phụng, đều đem quân bộ thuộc theo Đông Cung điều bát [điều khiển trừ khử] đánh giặc.” (TL, I, t. 309). Nhưng Thực Lục không mô tả chi tiết về trận Diên Khánh. Nhờ thư của giáo sĩ Lavoué viết cho quản thủ Letondal ngày 29/5/1794 (Launay, III, t. 233-234), chúng ta biết thêm những chi tiết sau đây, về trận Diên Khánh 1794 như sau:

“Ngày 29/5/1794,

Ngày 28/4, thủy quân [Tây Sơn] hiện ra ở cửa bể Nha Trang. Lúc đó tôi [Lavoué] đang bận nghe các trẻ em ở Lam-toun [?] vùng đạo gần biển, xưng tội; ngày hôm sau, 29, chúng sung sướng được nhận lễ chịu thánh thể đầu tiên.

Có ông Boisserand do tôi mời đến giúp lễ và có một bữa ăn nhỏ tiếp theo sự tái nguyện lễ rửa tội. Xong xuôi, ông Boisserand và tôi lui về gần thành hơn, vì sợ có kẻ báo cho địch quân biết chúng tôi ở gần, đến đêm sợ họ sẽ lẻn vào bắt. Buổi sáng chúng tôi đã leo lên một ngọn núi nhỏ, ở đó nhìn thấy rõ thuỷ quân Tây Sơn mà chúng tôi đoán có đến khoảng 300 thuyền buồm. Thực khó mà điễn tả được nỗi đau đớn của giáo dân khi họ biết chúng tôi sẽ rút lui, họ gào thét, van xin chúng tôi ở thêm với họ một ngày nữa; nhưng xét kỹ lại, chúng tôi thấy nếu chiều theo sự nài nỉ của họ là bất cẩn.

Ngày hôm sau, 30, chúng tôi vào thành và đến ở nhà ông Olivier, ông đã tiếp đãi chúng tôi rất ân cần. Ngày 2/5 chúng tôi được tin bộ binh [Tây Sơn] nghe nói đến 30.000 người và 50 thớt voi; nhưng quân Nam Hà [Nguyễn Ánh] gia tăng luôn… Ngày 15, họ vẫn tiếp tục pháo kích…

Tôi và ông Boisserand cũng không lo gì lắm bởi vì chúng tôi ở trong hố sâu dưới sự che chở của giàn súng đại bác; ở đó chín, mười ngày không dám ra, trừ trường hợp thật cần.

Sáng 16, tôi ra khỏi lỗ một lúc; ông Boisserand cũng vậy; nhưng địch quân lại tiếp tục pháo kích, chúng tôi lại bắt buộc phải trở xuống hầm; suýt nữa thì tôi trúng đạn đại bác 12 [?] đã nẩy lên nẩy xuống cách tôi có hai pied [1 pied=0,3048m] đục thủng tường bếp nhà ông Olivier, may mà không trúng ai.

Ngày 21, chúng tôi lại leo ra, đi về phía các đại đồn của địch, họ công kích ngay; cả hai bên đều chiến đấu can đảm; phiá chúng tôi có hơn 60 người bị thương, 7, 8 người ở lại trận tiền đầy xác quân Tây Sơn.

Sự thất bại này làm cho quân Tây Sơn chưng hửng khiến họ giải vây và rút đi, ngày 23. [Theo Thực Lục, Tây Sơn rút quân vì thấy Nguyễn Ánh kéo đại binh tới giải vây Diên Khánh].

Hôm sau, 24, tất cả các toán quân của ta kéo ra khỏi thành, đi về hướng Bình Khang. Đức ông và Hoàng tử bé cũng đi theo. Ngày 25, tôi được tin là họ đã đến Bình Khang vô sự.

Có ba họ đạo của chúng tôi bị thiệt hại, người thì bị mất nhà, những người khác bị mất đồ dùng, còn rất nhiều người không bị thiệt hại gì cả. Nói chung, những tướng Tây Sơn đã sử sự

rất đàng hoàng, họ cấm cướp bóc” (Launay, III, t. 233-234).

Lá thư này không những nói rõ về trận Diên Khánh mà còn cho biết Olivier đóng tại đây và có nhà ở trong thành; việc này phù hợp với những điều ghi trong Thực Lục: “Sai Vệ uý Phan Văn Triệu, Ôlivi, Trần Văn Tín, Lê Văn Duyệt, Cao Văn Lý… đem quân bộ thuộc theo Đông Cung điều bát đánh giặc.” (TL, I, t. 309).

Mặc dù Trần Quang Diệu đã rút quân về Quy Nhơn, nhưng Nguyễn Ánh thấy lực lượng chưa đủ mạnh để tấn công Quy Nhơn, nên cũng rút về Diên Khánh, sửa sang đắp lại Diên Khánh, để Võ Tánh thay Đông Cung làm trấn thủ và rút quân về Gia Định, đó là tháng 9-10/1794.

Trận Diên Khánh 1795

Tháng 10-11/1794, Trần Quang Diệu và Lê Trung lại đem quân thủy bộ đánh Phú Yên. Tháng 1-2/1795, Trần Quang Diệu, cắt đứt đường nước vào thành Diên Khánh, sai quân lăn sát trèo lên thành, bị súng bắn chết rất nhiều, sai đắp lũy cao vây bốn mặt thành. Võ Tánh cố thủ. Nguyễn Ánh gửi thư dặn Võ Tánh kiên quyết giữ, đợi mình chuẩn bị xong ghe thuyền sẽ tiến