Phần thứ nhất “... Áo vải, cờ đào...”
“Mà nay áo vải, cờ đào,
Giúp dân dựng nước, xiết bao công trình!
Cũng dường ấy mà nhân dường ấy.
Cõi thọ sao hẹp bấy hóa công?...”
Ngọc Hân công chúa - (Ai Tư Vãn)
Họ Hồ tại Nghệ An
Võ Tư Nhượng
Không hiểu vì lý do nào thân sinh Đại đế Quang Trung đã lấy họ mẹ, họ Nguyễn, lúc định cư tại Bình Định. Tổ tiên của ngài vốn họ Hồ, sinh quán tại phủ Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Hưng Nguyên vốn là vùng “tranh đất giành dân” Trịnh Nguyễn.
Vị đứng đầu ngành họ Hồ tại Bình Định lúc di cư theo quân Nguyễn vào Nam vẫn giữ họ Hồ. Đó là vị mà Đại đế Quang Trung gọi bằng ông: Cụ Hồ Phúc.
Nhưng gốc chính họ Hồ của ngài lại ở huyện Quỳnh Lưu, một huyện cạnh bờ biển ở phía Bắc Hưng Nguyên độ năm mươi cây số.
Theo các vị lão thành thì họ Hồ này vốn có gốc ở Tàu, có lẽ đã di dân vào Việt Nam theo đường biển: Quỳnh Lưu là một cửa bể giàu, nổi danh vì nước mắm và mắm tôm. Nhà cách mạng Cao Bá Quát lúc phê bình hội thơ của triều Nguyễn đã có câu:
Chán thay cái mũi vô duyên,
Câu thơ Thi Xã con thuyền Nghệ An.
Nghệ An đây chỉ Quỳnh Lưu lúc các lái buôn ngược dòng sông Hồng Hà lên Nam Định, Hà Nội bán hàng.
Họ Hồ tại Nghệ An là một dòng họ danh tiếng. Chính dòng họ này đã cho dân tộc Việt Nam những nhân vật lừng lẫy.
Trước tiên là Trạng nguyên Hồ Tôn Thốc. Ngài là vị Trạng nguyên đầu tiên vào đời Trần. Ngài nổi danh - cố nhiên - vì ngài chiếm Đệ nhất giáp, Đệ nhất danh, tên được viết vào đầu rồng (Bảng nhãn viết vào thân rồng, Thám hoa viết vào đuôi rồng), một địa vị khiến các công chúa thi nhau thả tú cầu.
Thi sĩ Xuân Diệu nhớ tới hình ảnh quan trạng:
Gió bay hương cúc vàng quanh dậu,
Sắc mạnh huy hoàng áo trạng nguyên
Hay hình ảnh đẹp như vẽ:
Bạch mã bên thành nhớ trạng nguyên
Khuyết danh
Chắc chắn Trạng nguyên Hồ Tôn Thốc được cưỡi bạch mã, thưởng hoa dưới những cặp mắt trìu mến của các công chúa.
Ngài còn nổi danh trong lịch sử vì chuyến đi sứ sang Tàu. Dã sử chép lúc ngài đi qua một bến đò khá rộng, ngài thấy trước khi lên đò ngang ai cũng vào một cái miếu nhỏ cạnh bến đốt vàng mã, khấn vái. Ngài thấy miếu đề thờ Hạng Vũ rất thiêng, ai sang sông không đốt vàng mã, khấn vái thì lập tức gió to, sóng lớn và đò bị lật. Biết chuyện, ngài nổi giận. Không ngờ một tay cái thế anh hùng như Hạng Vũ, với cây phương thiên họa kích, cưỡi ngựa Ô Truy, người đẹp Ngu Cơ trong trướng, một chân đạp đổ nhà Tần mà lúc chết lại có thái độ nhỏ nhen như vậy. Ngài lập tức đề vào bài vị Hạng Võ:
“Quân bất quân hề, thần bất thần
Như hà miếu mạo tại Giang Tân
Giang Đông tích nhật do hiềm tiểu
Hà tất thiên tiêu bách vạn câu”
Trạng nguyên Hồ Tôn Thốc
Phỏng dịch:
Vua chẳng phải vua, thần chẳng phải thần
Cớ sao có miếu tại Giang Tân
Giang Đông một giải xưa chê nhỏ
Nay tiếc tro tàn mấy vạn câu
Võ Tư Nhượng
Và ngài thét: “Ta không đốt vàng, ta không khấn nhà ngươi, ta cứ sang sông, xem ngươi làm gì được ta”.
Ngài xông thẳng xuống thuyền, thưởng thật hậu cho ông lái, và ngài sang sông không một gợn sóng, trước sự kinh hoàng của người trên bến. Từ đấy miếu Hạng Vũ hết thiêng.
Có lẽ tay anh hùng bạt tụy đất Giang Đông hổ thẹn trước chính khí cao ngất của ngài.
Người thứ hai nổi danh của dòng họ Hồ Đại Đế Quang Trung là Hồ Quý Ly. Sử sách các triều cũ khép tội ông cướp ngôi và gọi ông “giặc Hồ”. Theo tôi nghĩ ngài là một nhà cách mạng. Cuối đời Trần các vua bắt đầu hèn yếu, việc nước bê trễ nên Hồ Quý Ly đã đứng lên đạp đổ ngôi nhà Trần mục nát lập nên nước “Đại Ngu”.
Tuy làm vua một thời gian ngắn nhưng những quan niệm của ông về một quốc gia tân tiến đã làm rạng rỡ nòi giống Việt Nam. Trong thời kỳ ông làm vua, phần lớn các cường quốc văn minh ngày nay hoặc chưa có, hoặc đang ở tình độ bộ lạc. Nước Pháp chỉ thành một quốc gia sơ sài, sau khi vua Henri IV lên ngôi nghĩa là thế kỷ 14.
Nhà Hồ lên ngôi lúc Trần mạt vào năm cuối thế kỷ 14, năm 1400.
Vừa mới lên ngôi, vua Hồ Quý Ly đã có những cải cách thật táo bạo. Vua chế bạc giấy với những hình ảnh đặc biệt cho mỗi loại để người dân không biết chữ cũng dùng được đúng giá trị. Ông hô hào dùng tiếng Việt làm ngôn ngữ chính. Tiếc vì những sáng kiến của ông đi quá xa sự hiểu biết đương thời nên bị giới trí thức chống đối. Chống đối vì một phần không hiểu, một phần vì ích kỷ.
Người họ Hồ thứ ba làm rạng rỡ dân tộc là một cân quắc anh thư: Thi sĩ Hồ Xuân Hương.
Nói về Hồ Xuân Hương, giáo sư G. Cordier một giáo sư văn chương người Pháp, giỏi chữ Hán hơn các bậc đại khoa thời xưa, nói tiếng Việt chính xác hơn một người Việt có học thức cao phê bình: Bà Hồ Xuân Hương chiếm một vị trí đặc biệt trong văn đàn Việt Nam và văn đàn thế giới. Trong lịch sử thi ca của nhân loại không có hai người như bà. Ngôn ngữ của bà vừa chính xác vừa tả chân không ai bì kịp. Đã có ai tả được một cảnh núi non vắng lặng như bà:
Đường đi xiêu vẹo quán cheo leo,
Những lời phê bình này, giáo sư nói lại với một vị đại khoa (Tiến sĩ) vừa là một Y sĩ Đông Dương (Médecin Indochinois) trong lúc đàm đạo về văn chương Việt Nam. Ông cũng nói về cụ Nguyễn Du nhưng câu chuyện này tôi không kể lại trong bài này.
Theo tôi trong thi ca Việt Nam có ba nhà thơ rất giỏi dùng âm vận để tả nội cảnh (Harmonie Imitative) đó là Đặng Trần Côn, Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương.
Theo giáo sư Cordier, thi hào Hồ Xuân Hương đã mở một môn phái chưa có trong văn chương Việt Nam: Môn phái tả thực.
Theo tôi bà Hồ Xuân Hương lại còn là một thi sĩ có tư tưởng cách mạng. Bà mạnh dạn đòi nam nữ bình quyền đầu tiên tại Đông Phương. Dưới nền luân lý cổ truyền người đàn bà Việt Nam bị bó buộc đủ điều: con gái không được học cao, không được dự thi cử, ít được ra đường, thật là:
Gác kín, buồng sâu khóa ước mơ.
(Khuyết danh)
Trong lúc đó các bậc mày râu có đủ quyền lợi: năm thê bảy thiếp, uống rượu ngâm thơ, vác lều chõng đi thi cho đến già mà vẫn được hầu hạ. Thậm chí đàn bà ăn nói phải mực thước, không được cười to nơi đông người, còn các bậc nam nhi trí thức?
Dài lưng, tốn vải, ăn no lại nằm.
Bà Hồ Xuân Hương đã vùng dậy. Không muốn cho con gái học lên cao, bà làm thơ để chứng tỏ thơ của bà còn hay hơn của nhiều đấng nam nhi. Muốn đàn bà sống như một cái bóng? Bà làm thơ với ngôn ngữ thật táo bạo mà không ai bắt bẻ gì được, trái lại còn phải tán thưởng thơ bà bằng những trận rung đùi, vỗ tay đen đét.
Phê bình võ công của Sầm Nghi Đống, bà dám hạ bút:
Thân này ví thử làm trai được.
Thì sự anh hùng có bấy nhiêu?
Đây là một cuộc cách mạng về ý thức khác bà Đoàn thị Điểm trong Chinh Phu ngâm, bà Huyện Thanh Quan qua những vần thơ đường luật.
Người nổi danh thứ tư của họ Hồ này là cụ Hồ Ngọc Lãm. Trong lịch sử cận đại có một sự nhầm lẫn vô cùng quan trọng. Đó là tên “Hồ Chí Minh” tên này là bí danh của cụ Hồ Ngọc Lãm. Cụ cũng người Quỳnh Lưu thuộc dòng họ Hồ với Đại đế Quang Trung lúc cụ theo phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục sang Tàu cùng cụ Phan Bội Châu (cùng quê) cụ theo học trường Võ bị Hoàng Phố. Sau cụ làm đến cấp bậc đại tá trong quân đội Trung Hoa Quốc gia. Lúc gần xảy ra thế chiến II, các đoàn thể cách mạng trong và ngoài nước (cả Cộng sản) tôn cụ lên làm minh chủ một tổ chức thống nhất:
“Việt Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội”
Cụ lấy tên Hồ Chí Minh. Không may cụ bị bạo bệnh (lại bạo bệnh) chết. Tất cả mọi người đang thương tiếc con chim đầu đàn gãy cánh thì Lý Thụy (Cộng sản) chiếm ngay tên hiệu Hồ Chí Minh của cụ. Tất cả các đoàn thể đều biết chuyện gian lận ấy nhưng ai cũng nghĩ “Miễn cách mạng thành công là được, không nên vạch áo cho người xem lưng”. Còn Lý Thụy thì bẻm mép: “Tôi lấy tên này để dễ giao thiệp với chính quyền Tưởng Giới Thạch”. Và ai cũng chặc lưỡi: cũng được. Lúc đó chưa ai hiểu ra cái nguy hiểm Cộng sản.
Đoạn này Bác sĩ Trần Trọng Thức (cùng quê) viết rất rõ trong quyển hồi ký “42 năm hải ngoại” xuất bản tại Sài gòn vào khoảng 1970. Tiện đây tôi xin giới thiệu một vài nét về Bác sĩ Trần Trọng Thức. Tên thật của cụ là Nguyễn văn Lực, lúc cụ xuất dương theo cụ Phan Bội Châu, cụ mới lập gia đình và có một người con trai tám tháng đầu lòng. Đúng là:
Hành nhân trọng pháp khinh ly biệt
Chinh Phụ ngâm - Đặng Trần Côn
Dịch:
Phép quan là trọng miền tây xá nào
Đoàn thị Điểm
Tướng quân phụng mệnh đâu cần biệt ly
Võ tư Nhượng
Sinh viên Nguyễn văn Lực tốt nghiệp Võ bị Hoàng Phố, rồi tốt nghiệp Lục Quân Học Hiệu Nhật Bản. Bị Nhật đuổi cùng đám Đông Du, cụ trở lại Tàu học trường Đại học Sư Phạm, đi dạy học nuôi đồng chí. Xảy ra Thế giới Chiến tranh thứ I, cụ theo lệnh cụ Phan Bội Châu sang Đức vận động chống Pháp. Cụ tốt ngbiệp Bác sĩ tại Đức (sinh viên đầu tiên tốt nghiệp tại Đức) cụ kể lại lúc cụ học tại Đức, Nguyễn Ái Quốc (Lý Thụy) đi cùng một người Nga đến xin gặp cụ, cụ từ chối. Lúc trở về Tàu cụ làm việc với chính phủ Nam Kinh. Lúc bị Trung cộng bắt làm tù binh cụ được làm quân y. Sau Cộng sản Tàu cho trở về Việt Nam, cụ theo ngả Hồng Kông. Lấy tư cách đồng hương chúng tôi tới thăm cụ tại Nha Trang (1962) người con trai độc nhất của cụ đã trở thành một nhà thầu khoán giàu có.
Tôi kể qua, nếu quý vị muốn biết rõ thêm, xin liên lạc với “Thư viện Quốc Gia Hoa Kỳ”, hiện có năm quyển nói trên.
Sở dĩ tôi biết rõ vì thân phụ tôi là học trò của cụ Sơn Phòng Sứ (tôi quên tên) tức thân sinh B.S Trần Trọng Thức, Hồ Tùng Mậu, Hồ Hán Sơn mà ông Cửu Giang viết trong hồi ký “Những bí ẩn dưới triều Ngô Đình Diệm” cũng thuộc họ Hồ này
Nói tổng quát, họ Hồ của Đại đế Quang Trung đã cho dân tộc Việt Nam những vĩ nhân không kém các vĩ nhân khác của thế giới:
Hồ Tôn Thốc
Hồ Quý Ly
Hồ Xuân Hương
Hồ Ngọc Lãm
Cố nhiên Đại đế Quang Trung chiếm công đầu.
Tây Sơn Xuân Canh Ngọ (1990) Tr.70-76