← Quay lại trang sách

VÀI LỜI CUỐI CÙNG

Sau khi lật trang cuối cùng miêu tả cuộc phiêu lưu của Gôriunôp và các bạn của anh ta trong vùng đất Xannhicôp, bạn đọc trẻ sẽ có lý khi hỏi tác giả: có thật có một vùng đất như vậy, bị mất đi ở Bắc Băng Dương không? Tựu trung, bạn đọc trẻ có thể hỏi, cuốn sách này có phải là một cuốn tiểu thuyết khoa học viễn tưởng không?

Vâng, đây là một cuốn tiểu thuyết khoa học viễn tưởng và cuộc hành trình đến vùng đất chưa từng biết này đã được tưởng tượng ra.

Ngày nay vấn đề có Vùng đất Xannhicôp hay không đã được một số cuộc thám hiểm mới của Liên Xô về Bắc Băng Dương trả lời. Bây giờ người ta tin rằng vùng đất này đã có từ một trăm năm nay. Những điều quan sát của Xannhicôp và Tôn đã cung cấp bằng chứng, nhưng gần đây nó đã biến mất. Các nhà thám hiểm Bắc cực Xô viết đã phát hiện ra một số đảo nổi trên phần phía đông của Bắc Băng Dương. Những sự nghiên cứu mới đây của các nhà khoa học Xô viết khẳng định kết luận do đô đốc Xtêpan Ôxipôvich Macarốp rút ra năm 1899 nói rằng có những đảo băng trôi trên Bắc Băng Dương. Về phía bắc của đảo lớn Xpitxbecghen, Macarốp thấy một đảo chưa hề biết giữa băng. Những người cùng đi với đô đốc tìm thấy những tảng đá và những hòn đá nhỏ; nước tan từ băng trên đảo hóa ra là nước ngọt chứ không phải là nước biển. Macarôp kết luận: đó là một núi băng khổng lồ, rõ ràng đã tách khỏi các Xpitxbecghen, ở đó nó đã tạo thành một phần cuối của một băng hà.

Người ta biết rằng ở Bắc Băng Dương có nhiều đảo lớn, núi non lởm chởm, có băng hà trườn xuống biển. Trong mùa hè, khi băng vỡ, các núi băng được tạo thành và bị các dòng nước cuốn trôi từ chỗ này đến chỗ kia. Chẳng hạn, người ta đã nhận thấy hai núi băng lớn ở phía bắc đảo Hăngrietta năm 1939, và trong năm 1946, 1948, 1950, các phi công Xô viết ở Bắc cực khám phá ra ba đảo băng trôi khổng lồ với những đồi và núi băng cũng như nhiều sông hồ hiện ra khi băng tuyết tan, và cả những tảng đá lớn, những băng tích. Các nhà thám hiểm Xô viết đã có những bằng chứng để chứng minh rằng những núi băng vỡ ra từ các băng hà trên vùng đất Phơranxơ Dôdep, Vùng đất bắc và quần đảo Canada và những dòng nước cuốn chúng đi một vài năm cho đến khi chúng tan ra.

Chúng ta có thể nghĩ rằng Vùng đất Xannhicôp cũng là một đảo băng tự tách khỏi một băng hà, trên vùng đất bắc. Rõ ràng nó bị mắc cạn ở trên miền đất phía bắc quần đảo Nôvôsibirơxcơ và ở lại đây hơn 10 năm, vì năm 1811 Iacôp Xannhicôp nhận thấy đảo này ở tây-bắc đảo Côtennưi. Vào một ngày quang đãng năm 1886, cũng ở chỗ ấy, Eđua Tôn thấy bốn ngọn núi hình nón có đỉnh bằng phẳng với những chân đồi tiếp giáp với chúng ở về phía đông. Tuy nhiên, có thể là hai nhà thám hiểm này thấy không phải cùng một hòn đảo mà là hai hòn đảo khác nhau, và chúng đã bị mắc cạn hầu như ở cùng một chỗ, trong những năm khác nhau chúng được tạo thành.

Những đảo băng nổi như những đảo này dĩ nhiên không có thể trở thành nơi cư trú của những người Ônkilôn bị người Tructri đuổi từ bờ biển phía bắc của miền đông Xibiri. Không có cỏ cây mọc trên những đảo nổi này.

Những đảo này cũng không hấp dẫn những bầy chim đậu xuống làm tổ. Chúng ta có thể cho rằng những con chim di cư bay từ phía nam chỉ tìm cách làm tổ để ấp trong những chỗ chắc chắn hơn. Có khá nhiều chỗ như thế ở những quần đảo trong Bắc Băng Dương.

Nói chung, có nhiều đảo lớn và đảo nhỏ suốt trong vùng Bắc Băng Dương bao quanh bờ biển châu Âu, châu Á và châu Mỹ. Đá của núi lửa có thể tìm thấy trên nhiều đảo này; còn một vài hòn đảo như Aixơlan chẳng hạn, có những núi lửa đang hoạt động. Điều này chứng tỏ rằng giả thuyết của tác giả về sự tồn tại của Vùng đất Xannhicôp không phải tất cả đều là thiếu sự thật hoàn toàn.

Những sự nghiên cứu về địa chất đã chứng tỏ rằng ở đầu đệ tứ kỷ, toàn bộ miền đông Bắc Băng Dương, từ bán đảo Taimurơ đến đảo Vranghen và từ phía bắc đến vĩ tuyến thứ 80 là phần đất của Bắc Xibiri. Điều này được xác nhận bằng những di tích của những con thú lớn: voi ma-mút, tê giác lông len, bò và ngựa trên những đảo này. Những di tích này sẽ không có ở đây nếu đầu đệ tứ kỷ các đảo không thuộc phần đất liền của Xibiri. Những cuộc thám hiểm cũng đã phát hiện trên một vài đảo vẫn còn có những lớp băng dày là tàn tích của băng hà đã từng nằm trên những phần cao hơn của vùng đất này.

Nhiều ngà voi ma-mút được chôn trên băng hóa thạch của đảo Liakhôpxki lớn. Các thợ săn từ đất liền đi tìm ngà mamút đầu mùa xuân khi chúng bị nước biển vỗ vào lộ ra ở thế kỷ trước. Có từ 1 đến 2 nghìn pút ngà hàng năm được chở đến chợ Iacutxcơ. Điều này chứng tỏ rằng có hàng trăm con vật lớn sống ở đây vào đầu đệ tứ kỷ khi vùng này thuộc đất liền. Sở dĩ có rất nhiều voi ma-mút trên những đảo nhỏ này là do những đảo ấy vốn là những phần cao hơn của vùng đất trước đây và khi vùng đất bắt đầu chìm xuống biển thì chúng đã tìm đến đây để ẩn nấp. Như vậy chúng ta có bằng chứng là ở vùng này, trước kia thuộc miền bắc Xibiri, có những núi lửa, băng hà và những bầy voi ma-mút lớn và chúng ta có thể xác định thời kỳ mà vùng đất này chìm sâu xuống biển. Điều này đã xảy ra trong hoặc gần cuối thời kỳ băng hà cuối cùng. Sự phát hiện những bức tranh voi ma-mút do các nghệ sĩ nguyên thủy vẽ, đã xác nhận rằng vùng đất này cũng có người ở.

Như vậy, giả thuyết là từ cuối thời kỳ băng hà voi ma-mút và những người nguyên thủy còn sống sót trên một đảo lớn chơ vơ ở Bắc Băng Dương đã từng là miệng của một núi lửa lớn và chưa hoàn toàn ngừng hoạt động, cũng có căn cứ. Một đảo phong phú như vậy giữa băng Bắc cực cũng có thể có những người Ônkilôn ở. Họ vốn ở Alatxca và có họ hàng với người da đỏ châu Mỹ, bị người Tructri buộc phải rút về những đảo trên Bắc Băng Dương.

Vấn đề về sự mất tích của người Ônkilôn rất đáng được Viện nghiên cứu lịch sử văn hóa vật chất, hoặc Viện lịch sử của Viện hàn lâm khoa học Liên Xô nghiên cứu để giải thích lịch sử của dân tộc này ở miền bắc Xibiri, nó đã từng tồn tại 300 hoặc 400 năm về trước. Di tích của những căn nhà độc đáo của họ được tìm thấy trong quần đảo Nôvôsibirơxcơ.

Sự kiện này chứng tỏ rằng những người trong bộ lạc này đã sống trên đảo trong một thời gian nào đấy. Tuy nhiên, người ta không biết gì thêm về họ. Những nhà thám hiểm ở thế kỷ XIX không tìm thấy họ trên những đảo này và không ai có thể bảo rằng những người Ônkilôn không bị một thứ bệnh dịch nào giết sạch hoặc bị chết trong khi vượt từ đảo này sang đảo khác bằng xuồng hoặc qua lớp băng mới được tạo thành về mùa thu.

Vấn đề còn chưa rõ ràng về những con chim bay đến phương bắc vào mùa xuân và trở về đất liền vào mùa thu, là một đề tài được đề cập đến trên báo chí. Để giải thích vấn đề này cần phải:

1) Dò hỏi tỉ mỉ dân cư các vùng bờ bắc Xibiri, bắt đầu từ cửa sông Ôleneka và sông Lêna ở phía tây, đến cửa sông Côlưma ở phía đông, cũng như những người cư trú mùa đông ở các đảo Nôvôsibirơxcơ và Vranghen để họa may biết được về mùa xuân những con chim còn tiếp tục bay về phương bắc tới đó nữa không và về mùa thu chúng bay trở lại, và nếu như còn tiếp tục thì số lượng là bao nhiêu và gồm thành phần nào, có nghĩa là những loài chim nào mà họ quan sát được khi các bầy chim đang bay và phần lớn là loài chim gì.

2) Nếu chim vẫn còn tiếp tục bay, thì các máy bay thực hiện các chuyến bay khác nhau hàng năm, trên vùng biển đóng băng để nghiên cứu số lượng của chúng và sự hoạt động trong sự liên hệ với các vấn đề đã đạt được của ngành hàng hái trên đường biển phía bắc, phải thường xuyên lưu ý đến sự tồn tại của các vùng đất chưa biết đến giữa băng và hướng dẫn sự quan sát, để cuối cùng tìm thấy được khuôn khổ, địa hình và tất cả các đặc tính. Năm 1938, các nhà thám hiểm ở trên đảo Hăngrietta nhận thấy những đàn chim di cư về phía bắc, điều đó chứng tỏ rằng năm ấy một lục địa thích hợp để cho chim qua mùa hè và làm tổ trên mặt đất có ở đây giữa vùng băng giá. Nhưng vị trí của đảo này ở về phía đông làm cho người ta ngờ rằng những con chim này bay đến vùng đất Xannhicôp vốn có ở về phía tây (nếu nó tồn tại năm 1938). Do đó, năm 1938, có thể có lục địa ở phía bắc quần đảo Đơlông. Những đàn chim có thể ở đây qua mùa hè.

Có lẽ một trong những bạn đọc trẻ của cuốn sách này, sau khi đã trở thành một phi công bay ở Bắc cực, sẽ tìm cách giải đáp câu đố về Vùng đất Xannhicôp, phát hiện nó dưới màn sương mù giữa băng giá, thám hiểm nó và báo cho chúng ta biết ngày nay vùng đất ấy như thế nào.