← Quay lại trang sách

Chương II ❖ 1 ❖

Tổng thống Mỹ Johnson tuyên bố cuộc tập kích của bọn cướp trời Mỹ vào miền Bắc nước ta ngày mồng 5 tháng 8 là "để đánh trả sự xâm lược của Bắc Việt".

Sự việc trong mấy hôm đó diễn ra như sau:

Ngày mồng 2 tháng 8 năm 1964, một tàu khu trục của Mỹ tiến vào vùng biển của nước ta. Nước Mỹ ở tận bên kia biển lớn Thái Bình Dương đưa tàu chiến đến đây làm gì? Những tàu phóng ngư lôi bé nhỏ của ta đã đuổi chiếc tàu chiến Mỹ ra khỏi vùng biển miền Bắc nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa.

Ngày mồng 3 tháng 8, hai tàu khu trục của Mỹ lại tiến vào Vịnh Bắc Bộ. Lần này, chúng dừng lại ở phần biển quốc tế. Tối hôm ấy, các chiến sĩ ta tại những vọng gác tiền tiêu bỗng nhìn thấy nhiều rạch lửa hiện lên trong màn tối có pha chút sương mù trên biển. Những tiếng nổ của đại bác dồn dập dội về. Sau đó, họ nghe có tiếng máy bay. Tại khu vực đang có tiếng nổ xuất hiện nhiều chiếc pháo sáng như những ngọn đèn lớn vừa bật trên sân vận động. Những người chiến sĩ quay nhìn quầng sáng màu vàng nhạt vẫn êm đềm tỏa trên thành phố Cảng rồi lại nhìn những rạch lửa đỏ ngoài khơi, tự hỏi: Chúng đang làm gì?

Một cuộc tập trận ban đêm chăng?

Không phải một cuộc tập trận mà đó chỉ là một màn kịch. Nhà đạo diễn đã dùng ít tiếng nổ và những chùm pháo sáng để tạo nên một trận "hải chiến" lớn: Hai tàu khu trục của Mỹ ở cách bờ biển Bắc Việt Nam sáu mươi dặm có cả một tàu chở máy bay yểm trợ, đã bị năm tàu phóng ngư lôi của Bắc Việt tiến công. Tất nhiên là các tàu chiến Mỹ không bị trúng một phát ngư lôi nào. Đạo diễn chả dại gì dựng thêm tình tiết đó vừa tốn kém lại vừa làm xấu mặt lần thứ hai hải quân Huê Kỳ trên vùng biển xa xôi này. Còn những tàu tiến công thì "theo sự tính toán chính xác nhất, ít nhất là hai chiếc đã bị đánh đắm, hai chiếc khác có thể bị hư hỏng". Đó là lời công bố của nhà cầm quyển Mỹ. Có điều là sóng biển ở ngoài khơi Vịnh Bắc Bộ chỉ giữ lại những chiếc bóng đèn hỏng, những vỏ đồ hộp, những bình rượu bằng nhựa, bằng thủy tinh từ trên tàu biển ném xuống, mà vội xóa sạch mọi dấu vết của cuộc "hải chiến" kéo dài suốt từ chập tối đến nửa đêm.

Người Mỹ không làm thế nào thu lượm được một mảnh vỏ tàu hoặc một vết dầu loang của những chiếc tàu phóng ngư lôi bị đánh chìm để chứng minh cho chiến công của hải quân Hoa Kỳ.

Đó là "sự kiện Vịnh Bắc Bộ" nổi tiếng. Đó cũng là điều được gọi là "sự xâm lược của Bắc Việt".

Sự kiện ghê gớm này lập tức làm kinh động đến Nhà Trắng và Lầu Năm Góc ở cách xa nửa vòng trái đất. Theo chính lời viên đô đốc hải quân Sharp, thì "chưa đầy nửa tiếng đồng hồ sau khi đợt tiến công vào con tàu tuần tiễu kết thúc", hắn nhận được lệnh đánh phá miền Bắc Việt Nam bằng không quân.

Một hành động phiêu lưu mới của Mỹ đã mở đầu. Johnson trượt chân xuống một vực thẳm mới trong cuộc chiến tranh ở vùng Đông Nam Á và không tài nào gượng lại được cho đến hết cuộc đời tổng thống.

Ngày mồng 5 tháng 8, Hà Nội không có báo động. Không kể những nơi bị đánh phá, trừ Hải Phòng, tất cả các tỉnh trên miển Bắc đều không có báo động cho nhân dân. Chỉ có những nòng súng của các chiến sĩ pháo cao xạ lặng lẽ chĩa lên trời, chờ đợi bọn chúng. Mọi sinh hoạt vẫn bình thường. Nhưng ngày hôm sau thì đường phố của thủ đô Hà Nội bắt đầu rung chuyển. Hàng vạn, hàng vạn người nối tiếp nhau xuống đường. Những cuộc tuần hành phản đối đế quốc Mỹ, nói lên quyết tâm bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam. Không phải chỉ có những lời hô, những tấm biểu ngữ, mà cả những cây súng giơ cao.

Sau buổi mít-tinh của sinh viên, Hảo ghé lại nhà Thùy. Hai cánh cửa màu xanh khép kín, chiếc khóa móc ở ngoài. Thế là từ hôm ở Quảng Yên về, Hảo đến tìm Thùy hai lần đều không gặp. Một người bạn dạy cùng lớp với Thùy đã nói với Hảo là sáng nay Thùy ở nhà.

Chắc nó chỉ chạy quanh đâu đây. Nên đợi hay chờ một dịp khác sẽ quay lại... Chưa hiểu tình hình nay mai sẽ ra sao, nếu quay về bây giờ có thể là không biết đến bao giờ mới gặp lại mẹ con nó. Hảo khóa xe đạp, rồi lại ngồi ghé trên bức tường hoa, lấy một cuốn sách trong chiếc túi đem theo ra đọc. Muộn nhất thì tới bữa cơm là nó phải về, mình sẽ đợi đầy cho tới mười một rưỡi, cô gái nghĩ vậy.

- Ai ngồi trước cửa nhà tôi đó hả?

Hảo quay ra thấy Thùy dắt xe từ ngoài cổng đi vào. Chung Thủy ngồi trên ghế mây buộc trước yên, mặt phụng phịu. Trên giá đèo hàng là một túi gạo. Thùy dừng xe, nhìn Hảo. Hai lúm đồng tiền quá to, dài như hai vết nhăn, hiện trên đôi má lấm tấm mồ hôi.

Hảo xoa đầu Chung Thủy rồi giúp Thùy đưa cái xe chở nặng qua mấy bậc thềm gạch. Thùy dựng xe vào tường, vừa lấy chìa khóa trong chiếc túi xách tay, vừa nói:

- Biết ngay mà! Tao đang đứng ở hàng gạo bỗng nhiên thấy sốt ruột quá. Tao đoán là anh Đông về hay có thư của anh. Về đến cổng thì nhìn ngay thấy mày.

- Thế sao sáng chủ nhật vừa rồi mày không nóng ruột cho tao nhờ?

- Sáng chủ nhật cậu đến đấy ư?... Cậu tính, chỉ có hai mẹ con, thành ra mỗi ngày nghỉ, trăm thứ việc. Nó cũng phải thức khuya, dậy sớm như mình. Tiếng cậu sao khản đặc đó?

- Mình vừa đi mít-tinh tuần hành về.

- Thảo nào!

Hảo nhấc Chung Thủy ra khỏi chiếc ghế mây, hôn nó và hỏi:

- Cháu có nhớ cô không?

Con bé gật đầu, mặt vẫn phụng phịu. Hảo nhớ ra mình đã quên mua quà cho nó.

Thùy vừa xếp gọn những màn gối buổi sáng chị đi vội, còn để lung tung trên giường, vừa nói:

- Cậu đi biến đâu từ hôm đó tới giờ? Hay là cậu vẫn còn bực cái chuyện hôm đi chơi công viên?

- Mình không thích cậu nhắc lại chuyện ấy.

Thùy quay lại nhìn Hảo, miệng tủm tỉm:

- Hôm nọ mình đi xem vở kịch Cô gái đảnh trống trận. Một nhân vật trong vở kịch đã nói với người mình yêu là: "Tôi yêu cô khi cô bướng bỉnh...". Vừa nghe xong mình nhớ ngay đến cậu. Đàn ông cứ thích những cô gái bướng bỉnh hay sao ấy? Hình như cậu càng trêu chọc, càng bướng bình lại càng có thêm nhiều người thích cậu.

- Anh Đông truyền hết tính nết của anh ấy cho cậu rồi. Trước kia cậu có biết tán như thế này đâu?

- Không... không phải là tán mà mình nói thật.

Thùy lấy ra một mớ rau cải nhỏ trong cái túi xách, rồi bảo Chung Thủy:

- Con ngồi với cô Hảo nhé! Má chạy xuống bếp rửa mớ rau xong má lên ngay.

Thùy nói với Hảo về thái độ giận dỗi của con bé:

- Nó thấy hàng nhãn, đòi mình mua... Cậu tính còn chỗ nào mà để! Cậu ăn cơm với mẹ con mình. Mình sẽ đốt bếp dấu nấu ngay ở đây, vừa làm hai đứa vừa nói chuyện.

Hảo dỗ con bé:

- Chung Thủy cười đi! Lát nữa cô mua cho cháu một chùm nhãn thật to. Cười đi nào!

- Về mách bố Đông...

- Đúng rồi! Bố Đông về, cháu sẽ mách bố để bố phạt má.

- Bố gởi búp-bê... - Chung Thủy chỉ con búp-bê nhựa đặt trên bàn, khoe với Hảo.

Món quà này chắc Đông mới gửi về. Hảo nhấc con búp-bê đưa cho nó.

- Búp-bê đẹp quá! Chung Thủy bế em đi.

Mặt con bé tươi lên. Nó ngồi chơi với cô bạn gái tóc vàng.

Lần đầu tiên Hảo chăm chú quan sát mọi vật trong căn phòng.

Hai chiếc giường cá nhân kê ghép vào nhau. Một bộ bàn ghế nhỏ bằng mây. Cái bàn làm việc kê dưới chiếc giá đựng sách. Chạn đựng thức ăn để ở góc nhà được che bằng một bức màn vải hoa. Một chiếc máy thu thanh nhỏ đặt trên cái tủ con ở cạnh đầu giường. Củi đun, chậu thau, giày dép đều để cả dưới gầm giường. Rồi mình cũng phải có một gian buồng và một gia đình như thế này. Khi đó cuộc sống của mình rẽ ra sao? Dù sao, chuyện ấy đối với mình lúc này vẫn còn xa lắc.

❖ 2 ❖

Thùy là một người bạn rất thân của Hảo từ ngày học phổ thông.

Thùy quê ở khu Năm, theo chú ra Bắc tập kết, xa gia đình. Hảo mồ côi cha, ở với mẹ và dượng. Đó cũng là một lý do đã gắn bó hai người.

Hảo và Thùy cùng học với nhau suốt những năm ở cấp hai và cấp ba tại Nam Định. Sau khi tốt nghiệp lớp mười, hai người cùng lên Hà Nội thi vào đại học. Tới đây, có một chuyện không thể điều hòa được giữa đôi bạn...

Trong nhiều năm học ở phổ thông, Hảo thường được các thầy và các bạn khen mình có năng khiếu về văn. Thùy muốn sau này mình sẽ trở thành một nhà giáo. Cô yên trí bạn sẽ cùng sống chung một mái trường với mình cho hết cuộc đời học sinh. Nhưng ngoài văn ra, Hảo còn rất say mê một môn học khác, đó là môn sinh vật. Hảo muốn thi vào đại học tổng hợp để có thể theo học khoa sinh vật. Hai người bàn cãi với nhau, hờn dỗi nhau về chuyện này. Hảo khăng khăng giữ ý kiến:

"Mình biết rõ mình không có đủ những đức tính để trở thành một người giáo viên tốt. Mình rất yêu văn học, nhưng không tin có thể trở thành nhà văn. Mình bằng lòng nếu được, thì làm một người viết văn nghiệp dư thôi. Mình tự thấy có thể phục vụ bằng công tác nghiên cứu khoa học. Nếu mình chiều Thùy, chúng ta được ở gần nhau thêm bốn năm nữa, nhưng sau đó rồi sẽ ra sao? Mình sẽ phải sống suốt đời với một nghề không thích hợp với mình...". Thùy biết bạn sẽ không thay đổi ý kiến. Còn Thùy cũng không thể theo bạn vì cô có rất ít năng khiếu về khoa sinh vật. Như vậy là mỗi người thi vào học mỗi trường.

Năm học đầu tiên ở Hà Nội nhiều lúc họ cảm thấy trống trải vì vắng nhau. Họ thường tìm đến nhau vào những ngày lễ, những dịp nghỉ tết, nghỉ hè.

Sang năm thứ hai, một sáng chủ nhật, Hảo đến tìm Thùy, không gặp. Hảo biên thư để lại, yên trí tuần sau Thùy sẽ tới thăm mình. Hảo chờ suốt ngày chủ nhật ở ký túc xá, Thùy không đến. Chủ nhật sau, Hảo lại đạp xe đến trường Đại học Sư phạm. Hảo gặp Thùy đang nói chuyện với một anh bộ đội người nhỏ nhắn, có bộ mặt rất trẻ. Hai người đều tỏ vẻ lúng túng, ngượng ngập. Thùy không nhắc gì tới thư Hảo, cũng không nói vì sao tuần lễ trước mình không đến chơi. Nhìn quanh, Hảo nhận thấy các bạn ở cùng buồng với Thùy đã lảng đâu hết.

Hảo đòi về, Thùy không giữ.

Nửa tháng sau đấy, một sớm chủ nhật, Hảo hăm hở đạp xe xuống Cầu Giấy. Không cần gì trách nó về thái độ đối với mình mà phải "cạo" cho nó một chầu đến nơi đến chốn về cái chuyện sớm bước vào con đường yêu đương. Lần này, Hảo lại chạm trán anh bộ đội người nhỏ nhắn. Chỉ có mình anh trong phòng của Thùy. Anh nói Thùy đang chạy ra ngoài mua quà sáng. Anh bộ đội không giữ ý như lần trước. Có thể vi Thùy đã giới thiệu Hảo là bạn rất thân. Anh tán ra trò và thỉnh thoảng còn tỏ ra tinh quái. Hảo đoán anh ta đã "thắng lợi" rồi, và cuộc đời của bạn mình đã đi vào một bước ngoặt mới. Hảo bực với bạn và ghét lây cả anh. Thực ra thì anh chỉ muốn tỏ với Hảo một thái độ thân mật.

Thùy lễ mễ bưng về một rá bánh cuốn. Trong lúc đi lấy bát đũa thêm để mời Hảo cùng ăn, Thùy ghé vào tai: "Cậu thông cảm với mình... Anh ấy chỉ được ở nhà có hơn một tháng là lại phải đi học ở nước ngoài". Đó cũng là một lời thú nhận. Hảo phản đối cả hai người bằng cách nằng nặc đòi về. Hai người không nhận ra điều đó. Vì họ tưởng là Hảo đã thông cảm với những giờ phút gặp nhau hiếm hoi của họ.

Tết năm ấy, nhân dịp người yêu của Thùy được về nước ít ngày, họ làm lễ cưới. Rồi Thùy có con. Sau khi tốt nghiệp, Thùy nhận công tác tại Hà Nội. Bố mẹ không có ở ngoài này, chồng lại ở xa quanh năm, Thùy bận bịu suốt ngay. Có hôm chủ nhật, Hảo đến chơi, Thùy gửi con cho bạn ở nhà, chạy đi mua bán suốt cả buổi. Những câu chuyện hợp nhau như ngày xưa, ít hẳn đi. Thế là họ xa dần nhau.

Mùa hè năm nay, Hảo tìm tới thăm người bạn cũ.

Lần này, thấy Hảo đến, Thùy mừng rỡ một cách khác thường.

Thùy lay mãi vai bạn, hỏi:

- Tại sao lâu nay mày bỏ rơi mẹ con tao?

- Tao bận học thi - Hảo chống chế.

Thùy ngắm Hảo chằm chằm hồi lâu, rồi nói:

- Tao thành bà già rồi, mà mày thì đẹp ra ghê quá! Tao nói dối mày tao chết. Tao biết tin mày đã tốt nghiệp rồi. Thế... đã có nơi nào chưa?

Hảo lắc đầu.

- Thật không?

- Tao có nói dối mày bao giờ. Chuyện ấy với tao thì còn khoan. ít ra là ba năm nữa. Tao rút kinh nghiệm của mày đấy!

Nói xong, Hảo biết mình lỡ lời và có thể làm cho bạn buồn.

Nhưng Thùy vẫn cuống quít:

- Anh Đông mới về. Hôm nay anh ấy còn vào đơn vị. Sáng sớm mai, mày phải đến đây liên hoan với gia đình tao một bữa. Thư nào viết cho tao, anh ấy cũng hỏi thăm mày.

Thùy mở chiếc hộp sắt nhỏ, tìm mấy lá thư, đưa ra để chứng minh lời mình nói. Trong một lá thư, Đông viết:"... Cô bạn đanh đá của em dạo này ra sao rồi? Nói với cô ấy khi nào anh về nước, thế nào anh cũng sẽ tới trường thăm..!'. Những lá thư của Đông làm cho Hảo rất cảm động.

Hảo tự trách mình lâu nay đã quá thờ ơ với bạn.

Ngày hôm sau, Hảo đến sớm. Thùy đã dặn đi dặn lại Hảo là sẽ ăn cơm sớm để còn đi chơi. Đông chạy ra cửa, nắm chặt tay Hảo. Bàn tay nhỏ nhắn của anh rắn như một chiếc kìm làm cô suýt nữa phải kêu lên.

Đông xoay trần làm gà và làm lươn. Anh la hét luôn mồm cứ y như mổ bò. Mùi xào nấu từ bếp bay lên thơm nức căn phòng nhỏ.

Đông làm bếp khéo, lại nhanh và gọn. Cả Hảo và Thùy đều biến thành những người cho anh sai vặt.

Cơm nước sắp xong thì một người lạ mặt với dáng đi nhẹ nhàng bước vào nhà. Đông giới thiệu với Hảo đó là Quỳnh, bạn cùng học ở nước ngoài mới về với mình. Đứng cạnh Đông, Quỳnh cao vượt nửa cái đầu. Nước da anh mai mái. Một vầng trán cao tư lự. Cặp mắt một mí hơi xếch hay mở to như có điều gì ngạc nhiên.

Đông đẩy Hảo ra khỏi bếp, bắt lên nhà. Anh nói bữa nay Hảo cũng là khách nên phải được đối xử bình đẳng như những người khách khác.

Quỳnh có một nụ cười rất dễ thương. Nụ cười đó làm cho bộ mặt âm thầm, hơi đăm chiêu của anh (có lẽ vì tại nước da, Hảo nghĩ vậy) tươi sáng, linh hoạt hẳn lên. Hảo chỉ bắt gặp cái cười đó có một lần, lúc anh nói chuyện gì với Thùy. Quỳnh gọi Hảo khi là chị, khi là cô. Anh vừa nói chuyện vừa giở những cuốn sách trên bàn làm việc của Thùy ra xem. Toàn là sách giáo khoa và vở của học sinh Thùy mang về để chấm bài. Cuối cùng, Quỳnh ôm lấy một quyển từ điển tiếng Pháp dày cộp, mở xem hết hình ảnh này đến hình ảnh khác trong đó. Với sự nhạy cảm của một cô gái, Hảo thấy rõ anh lúng túng vì sự có mặt của mình.

Anh hỏi về quê hương và gia đình của Hảo. Đây là một điều Hảo không thích nói chuyện với người lạ. Hảo lại còn cảm thấy hình như những chuyện ấy anh đã biết rồi. Anh hỏi đến phong trào thi đua của sinh viên tại trường đại học, hỏi Hảo ra trường sắp đi công tác, có điều gì thắc mắc không... Trong một lúc Quỳnh ngồi im lặng lâu, Hảo với cuốn Anna Karênin của Thùy để ở đầu giường, kéo cái ghế ra bên cửa sổ, ngồi đọc. Sự lúng túng, ngượng nghịu của Quỳnh bỗng dưng làm cho Hảo cũng mất tự nhiên, vẻ mặt và thái độ của anh vừa dễ thương, vừa buồn cười. Sao lại có một người con trai vụng về như vậy?

Hảo mở cuốn sách ra vào đúng đoạn Lêvin đến gặp tiểu thư Kitty để cầu hôn. Cô cười thầm trong bụng: Mình cũng đang phải tiếp một ông Lêvin đây.

Nhà chật. Đông bảo dẹp bàn ghế, rải chiếu ra sàn ăn cơm. Hai vợ chồng Đông cùng tranh ngồi cả đầu nồi. Hình như họ có ý để Hảo và Quỳnh ngồi cạnh nhau.

Từ đầu bữa, chỉ có Đông nói. Anh kể toàn những chuyện buồn cười. Chuyện về các phong tục, tập quán ở những nơi anh đã đi qua.

Chuyện về các học viên ta đi sắm đồ dùng tại thủ đô nước bạn. Những chuyện về quê hương, chuyện nào cũng có Quỳnh dính vào. Đông với Quỳnh vốn cùng ở Quảng Nam và cùng đi học với nhau từ lâu. Anh muốn lôi kéo Quỳnh vào câu chuyện. Nhưng Quỳnh cứ ngồi im.

Đến nửa bữa. Quỳnh bỗng nói:

- Bao giờ thống nhất, chị Hảo về quê tôi, tôi sẽ mời chị ăn một bữa cơm nấu bằng nước luộc gà.

Thùy tủm tỉm rồi hỏi:

- Phải chờ đến thống nhất kia ư! Thế ở đây anh không thể mời cô Hảo ăn một bữa cơm nấu bằng nước luộc gà hay sao?

Câu nói của Thùy làm mọi người phì cười. Riêng Quỳnh càng lúng túng. Mặt đỏ lên, Quỳnh nói để chữa ngượng.

- Mời cô Hảo ăn món này. Tôi thấy cô chưa ăn. Anh em tôi ở trường đều công nhận anh Đông chỉ có món này là xuất sắc nhất.

Hảo gắp một miếng cánh gà xào. Vừa đặt lên miệng, Hảo kêu "ối" và bỏ vội xuống. Món xào chua ngọt Đông tra nhiều ớt làm Hảo cảm thấy như bị cháy lưỡi. Vợ chồng Đông cười chảy cả nước mắt.

Thùy phải chạy vội ra bàn lấy cho Hảo một cốc nước lọc.

Sau bữa cơm, Đông rủ Hảo và Quỳnh cùng đi chơi. Thùy nói Chung Thủy đêm qua ho nên mình phải ở nhà vói con. Chỉ có hai chiếc xe đạp của Thùy và của Hảo. Đông bàn Quỳnh sẽ đèo Hảo bằng xe của Hảo vì chiếc xe của Thùy yếu.

Ba người đi về phía hồ Bảy Mẫu. Đông kể lại những kỷ niệm ngày mới quen Thùy, hai người vẫn thường cùng nhau ra chơi vườn hoa Thống Nhất.

Đi được nửa đường, Đông bỗng nhảy xuống, kêu xe bị hỏng.

Đông bảo Quỳnh:

- Chưa biết dắt đến đâu mới có chỗ chữa xe... Cậu đưa cô Hảo ra đó trước, chờ mình một lát.

Sáng chủ nhật đẹp trời, người đi chơi rất đông. Hảo nghĩ chắc nhiều người lầm mình với anh bộ đội này là một cặp vợ chồng. Quỳnh mặc thường phục, quần xanh, sơ mi trắng, đầu để trần. Dù anh ăn mặc như thế nào, người ta vẫn nhận ra đó là một anh bộ đội. Hai người cùng im lặng trên một đoạn đường dài. Quỳnh tìm cách mở đầu cầu chuyện.

Người miền Nam nói giọng Bắc bao giờ nghe cũng dễ thương.

- Mỗi lần đi ra ngoài về lại thấy đất nước mình, Thủ đô của mình rất đẹp. Tôi chưa thấy thành phố nào ở nước ngoài nhiều màu xanh và nhiều ánh sáng mặt trời như Hà Nội. Năm qua, Hà Nội thay đổi nhiều cô nhỉ?

- Tôi không đi đâu xa, ngày nào cũng nhìn thấy Hà Nội, nên không thấy có gì thay đổi - Sự lúng túng, vụng về của Quỳnh làm cho Hảo muốn trêu anh.

Đến vườn hoa Thống Nhất, Quỳnh dừng xe trước cái cổng có những cây dây leo nở hoa màu đỏ.

- Mời cô vào đầy ta ngồi chơi một lát đợi anh Đông.

- Tôi không quen ngồi chơi với ai ở công viên bao giờ - Một lần nữa, Hảo lại muốn trêu anh.

Mặt Quỳnh bỗng đỏ nhừ. Anh lúng túng không biết sử trí ra sao.

Một lát, anh quay xe lại, nói:

- Mời cô lên xe, ta về vậy.

Quỳnh đạp một mạch. Đến cửa nhà Đông, anh dừng lại. Hảo nhảy xuống. Anh trao trả Hảo chiếc xe, nói với cô gái bằng một giọng buồn rầu:

- Chào cô.

Quỳnh không vào nhà Đông, quay đầu đi thẳng. Hảo đứng nhìn theo không ngờ câu chuyện nhanh chóng xoay ra như vậy. Một lát, Hảo lên xe đạp về trường.

Ngay sáng hôm sau, Đông phóng xuống ký túc xá tìm Hảo.

Nhìn thấy anh, Hảo đoán được ngay anh đến rầy la mình về cái tội hôm qua. Hảo chuẩn bị sẵn một số câu đối đáp. Sau khi nghe Hảo nói thì Đông ngớ ra. Và anh đã nhận chuyện hiểu lầm xảy ra là tại Quỳnh. Nhưng Đông vẫn nói một hồi để giới thiệu với Hảo rằng Quỳnh là một người rất tốt, rất chân thật.

Hảo cảm thấy vợ chồng Đông có một ý định gì đối với mình và Quỳnh. Cô nghĩ bụng: Thì ra nó không hiểu gì mình! Hảo đã biết Đông và Quỳnh là hai chiến sĩ lái máy bay chiến đấu. Cha mình trước kia cũng là bộ đội và đã hy sinh tại mặt trận. Mình là một dòng máu của bộ đội. Mình rất kính trọng và yêu mến các anh ấy. Nhưng chồng mình phải là một người hiểu biết về công việc của mình, tốt nhất là một người có thể giúp đỡ mình trong công tác sau này. Hảo chưa hề nghĩ chồng mình sẽ là một anh bộ đội...

Cô cũng không thích đến với tình yêu theo con đường mối lái.

Mình sẽ biết tìm lấy cho mình người mà mình yêu. Tuy vậy, Hảo cảm thấy ân hận về thái độ đối với Quỳnh. Cô nghĩ cần phải rút kinh nghiệm cái lối đùa nghịch quá trớn, có phần hơi tàn nhẫn ấy. Nhưng cả với Đông, Hảo cũng không muốn thú nhận điều đó.

Rồi Hảo về Nam Định thăm mẹ và các em. Chừng nửa tháng sau, một buổi sáng, Hảo trở lại nhà Thùy. Không ngờ cô lại gặp cả Đông và Quỳnh. Hai người đang chuẩn bị đi chuyến tàu liên vận buổi trưa. Nét mặt Quỳnh ánh lên vẻ mừng rỡ. Đôi mắt một mí của anh không tránh cái nhìn của Hảo như lần gặp trước. Anh nói với Hảo:

- Tôi đã có linh tính thể nào hôm nay cũng gặp lại cô.

Người lúng túng lần này lại chính là Hảo. Cô không biết làm gì trong lúc cả Đông, Quỳnh và Thùy cùng tíu tít chuẩn bị cho chuyến đi.

Hai chiếc va li mặc dù khá lớn không sao chứa nổi những gói to, nhỏ chắc là quà của các gia đình gửi cho những người thân năm nay không được về phép. Quỳnh bàn:

- Bọc thêm một bọc nữa để ngoài, lát nữa nhờ cô Hảo đèo giúp ra ga. Dù cô Hảo không muốn thì cũng phải đi tiễn chúng tôi... Đó là quyền đòi hỏi của những người đi xa đối với những người ở lại.

- Tôi đang lo các anh không cho tôi đi tiễn - Hảo nói - May mà tôi đến vừa kịp lúc các anh lên đường.

Quỳnh cố thu xếp hành lý cho nhanh rồi quay lại bàn nói chuyện với Hảo. Anh không lúng túng như lần trước vì đã sẵn có một đề tài: anh sắp ra đi. Và có lẽ cũng vì anh sắp ra đi nên anh dễ trở nên bạo dạn, hoạt bát.

- Cô Hảo à, thực ra thì với một chuyến đi như thế này, chúng tôi không có quyền đòi phải có người đưa tiễn.

- Sao anh lại nói thế?

- Vì nó không phải là một chuyến đi xa như chúng ta vẫn gọi.

Danh từ ấy là để dành cho những chuyến đi ra tiền tuyến, còn chúng tôi chỉ là những người đang đi sâu về hậu phương.

- Chúng tôi không phải là những người đi nên không phân biệt như anh. Phải không Thùy nhỉ?

- Hảo nó nói đúng đấy anh Quỳnh ạ.

Điều Hảo nói ra lần này không phải để trêu trọc Quỳnh, cô thành thật nghĩ như vậy. Lòng cô gái nao nao lên khi nghĩ đến chuyện Đông và Quỳnh sắp phải trải qua một thời gian đằng đẵng sống xa quê hương.

- Bọn tôi vốn sinh ra không phải là để ngồi trên ghế nhà trường.

Một năm đi học thế này dài bằng mấy năm công tác ở nhà...

Họ nói chuyện với nhau thân mật. Đôi khi cũng có một cái nhìn hay một câu nói không được thật tự nhiên. Nếu họ nhắc lại được với nhau một đôi câu về cái việc hai tuần trước thì câu chuyện sẽ thoải mái hơn.

Sau khi những chiếc toa đen của chuyến tàu liên vận khuất ở đầu ghi, Hảo vội nói với Thùy mình có việc phải về trường ngay. Cô không muốn phải nhắc lại lúc này câu chuyện giữa mình và Quỳnh bữa trước.

Cô chia tay với bạn như một người chạy trốn. Từ đó đến nay, đôi lúc Hảo bất chợt nghĩ tới Quỳnh. Cô nhớ lại những cử chỉ mềm mại, những câu nói thật thà, vụng về của anh, nhớ tới cái cười tươi sáng, vẻ mặt buồn rầu của anh khi hai người đứng trước cửa nhà Thùy, nhớ tới bộ mặt anh tái đi khi bắt tay mình trên sân ga... Và cô cảm thấy bâng khuâng. Nhưng rồi cô lại tự bảo mình hãy để cho chuyện đó qua đi, đừng nhớ tới nó làm gì nữa...

❖ 3 ❖

Thừy vừa chuẩn bị bữa ăn, vừa hỏi Hảo:

- Hôm tiễn các anh ấy đi, vội quá chưa kịp hỏi cậu. Giờ cậu nói cho mình nghe bữa ấy cậu làm thế nào mà anh Quỳnh phải bỏ về...?

Không đợi Hảo trả lời, Thùy nói tiếp:

- Hôm vừa rồi, anh Quỳnh viết thư về gửi lời mình hỏi thăm cậu.

Mình nói thực nhé! Anh Đông cứ bàn với mình giới thiệu anh Quỳnh với cậu. Các anh ấy thì tốt thật! Nhưng khổ cái là xa. Vì thế nên mình chưa nói chuyện với Hảo. Cậu xem hoàn cảnh mình. Anh Đông đi quanh năm. Thời gian ở bên nhau có thể tính từng ngày. Anh ấy dành cho mình tất cả, chỉ trừ thời gian. Hòa bình mà riêng các anh thì vẫn sống y như hồi kháng chiến.

- Cũng lại bắt đầu kháng chiến nữa rồi? - Giọng Hảo bâng khuâng.

- Mình có nghĩ đến ba má ở trong kia. Ở trong đó có được ngày hòa bình nào đâu! Nhưng mình trót yêu anh Đông thì mình phải chịu.

Mình không muốn Hảo cũng phải chịu đựng như mình. Mình thấy phương hướng lựa chọn hiện giờ của Hảo là rất đúng.

Hảo nhướn cặp lông mày đen như hai nét vẽ nhìn Thùy, đôi mắt long lanh:

- Phương hướng nào?

- Cậu làm công tác nghiên cứu khoa học mà xây dựng với một cán bộ giảng dạy là rất tốt.

- Cán bộ giảng dạy nào? - Hảo hỏi dồn.

- Bữa trước anh Tùng có tâm sự với mình là rất có cảm tình với Hảo.

- Lại chuyện cái ông ấy ư? Cậu thấy ông ấy hợp với mình à? Còn mình thì... nếu phải lựa chọn giữa việc lấy ông ấy và ở vậy thì mình xin ở vậy suốt đời.

Bữa ăn đã dọn xong. Một bát canh rau cải, một đĩa trứng tráng và mấy chiếc bánh mì.

Một cô gái mặc áo sơ mi xanh đẩy cửa, lao vào như một cơn gió.

Cô chạy lại kéo cái ghế trống, ngồi bên cạnh Thùy, kêu lên:

- Cho em ăn với!

Những giọt mồ hôi lấm tấm trên bộ mặt đỏ gay.

- Chị không có quạt máy à? - Cô gái vừa hỏi vừa vung chiếc nón quạt phành phạch. Mặt cô gái như đang bốc lửa.

Hảo đưa cho cô áo xanh chiếc quạt giấy. Bấy giờ cô gái mới nhận ra có một người lạ đang ngồi ngay trước mặt mình. Cô lại kêu lên:

- Ấy chết! Em chào chị. Em quáng mắt không nhìn thấy chị.

Thùy giới thiệu hai người với nhau. Liễu làm thợ ở nhà máy dệt kim Đông Xuân, nơi Thùy vẫn đến để dạy bổ túc văn hóa buổi tối.

Liễu nói tíu tít:

- Em vừa ở quê đạp thẳng một mạch ra đây. Em đi nghỉ phép mới được nửa thời gian. Sốt ruột quá, phải phóng ra. Về để bảo vệ nhà máy chứ chị nhỉ? Em tưởng Hà Nội thế nào rồi, hóa ra vẫn bình tĩnh quá!

Thùy mỉm cười nhấc chai nước lọc đặt ở góc bàn viết, giọng dịu dàng:

- Ở quê cô thì sao?

- Em nghe đài nói Mỹ ném bom, rồi thấy máy bay về.

- Máy bay Mỹ cũng bay qua chỗ cô ư?

- Không... Máy bay của ta ấy chứ! Các chị chưa biết máy bay ta đã về à?

Thùy dừng tay rót nước, ngước mắt nhìn Liễu. Thùy biết nhà Liễu ở gần một sân bay quân sự mới được xây dựng. Nhưng Thùy vẫn nửa tin nửa ngờ. Chị nói:

- Ta bây giờ thiếu chi máy bay. Cô có biết máy bay vận tải và máy bay chiến đấu khác nhau như thế nào không?

- Để em uống cốc nước đỡ khát rồi em kể cho mà nghe...

Liễu cầm cốc nước lọc uống ừng ực một hơi. Cô gái thở phào, cười để lộ cả hàng lợi đỏ hồng.

Đúng ngày mồng 5 tháng 8, Liễu được về quê nghỉ phép năm.

Tối hôm đó, một người bạn gái của Liễu đi họp về, chạy vào thì thào với Liễu: "Xã đội phổ biến ngày mai nếu thấy máy bay bay ở vùng này thì tuyệt đối không được bắn". Lát sau, Đài Tiếng nói Việt Nam báo tin máy bay địch trưa nay đánh phá Hồng Gai, Nghệ An và Quảng Bình.

Chiều hôm sau, Liễu đang dọn giúp mẹ cái chuồng lợn thì nghe một tiếng đánh "xoẹt" ngay trên đầu. Con lợn đực hoảng hốt nhảy bung ra khỏi chuồng. Liễu nhìn lên trời, chẳng thấy gì. Cô đang định đi đuổi con lợn về chuồng thì lại nghe đánh "xoẹt" một tiếng nữa. Tiếng trẻ con reo ầm: "Máy bay ta! Máy bay ta". Chợt nghe tiếng súng nổ. Liễu đang phân vân không biết nên chạy ra sân xem máy bay hay chạy xuống hầm, thì nghe tiếng ông xã hội thét ở bên cạnh nhà: "Đồng chí điên à? Nói cả đêm qua rồi, tại sao lại bắn máy bay của ta?".

Chả là ngày hôm trước cậu con trai ông hàng xóm ra Hà Nội nên không được phổ biến lệnh này. Thế là cả Liễu và cậu ta cùng phóng vội lên quả đồi ở cuối làng. Đứng ở đây, nhìn ra sân bay rất rõ. Họ thấy những chiếc máy bay màu trắng, cánh quặt về phía sau, đầu tù, nối nhau sà xuống sân bay nhẹ nhàng như những con chim. Cậu hàng xóm của Liễu đứng xem, mặt tái mét. Khi thấy tất cả các máy bay đã xuống sân yên ổn rồi, cậu ta chúc đầu xuống cỏ lộn luôn mấy vòng, rồi kêu lên: "Ông xã đội chỉnh oan tôi... Tôi thấy máy bay ta về tôi bắn súng chào đấy chứ!".

Thùy nói khe khẽ với Hảo:

- Cô ấy nói đúng đó. Máy bay chiến đấu phản lực của ta trông giống hình con én. Các anh ấy vẫn gọi những chiếc máy bay của mình là "con én bạc" mà...

Chị chăm chú nhìn Liễu như khuyến khích cô gái còn chuyện gì thì cứ kể tiếp đi.

Liễu không biết chồng Thùy là chiến sĩ lái máy bay, vẫn nói bằng một giọng hồn nhiên:

- Sáng hôm qua, con bạn em rủ em bám xe của các cô công trường để qua sân bay. Em đi luôn. Được xem bằng thích các chị ạ.

Trông trên trời thì cái máy bay rất dữ nhưng nhìn nó nằm ở mặt đất thì coi bộ nó rất hiền...

- Có thấy phi công của ta không? - Thùy sốt sắng hỏi Liễu.

- Bọn em đã nói với nhau là thích xem mây bay thì ít mà thích xem người thì nhiều... Trông thấy người đứng lố nhố ở cạnh máy bay, đứa bảo là người ta, đứa cãi là không phải. Có một anh to lắm, cả người em dễ thường chỉ bằng cái đùi của ông ấy thôi. Người nào cũng cao và to.

Con bé "cường điệu" rồi, Thùy nghĩ thầm, có anh cũng chỉ bằng cô thôi.

Liễu nói tiếp:

- Toàn mặc quần xanh lá cây, ống "tuýp", có "phéc-mơ- tuya", trông cứ như con ếch.

Thùy và Hảo cùng phì cười.

- Em nói với các chị không sai một câu nào. Có một anh đứng bên máy bay, người rất cao, mặt đỏ hồng, mắt xếch. Chúng nó cứ cãi nhau mãi là người ta hay người nước bạn. Thế là một con nó gọi to:

"Anh ơi?" Mấy anh ngó nhau. Rồi một anh tre trẻ nói: "Cô gọi tôi phải không?". Tất cả bọn em sướng quá, cười ầm lên. Con bé nói luôn:

"Vâng, anh cho em hỏi một tí?". Anh ấy lộp cộp chạy lại, đi ủng mà!

Nó chìa tay ra và nói: "Cho em bắt tay anh một cái". Anh ấy cười bắt tay nó. Tất cả bọn con gái trong xe nhao nhao lên: "Anh cho em đi máy bay một lúc". Anh ấy nói: "Máy bay của chúng tôi chỉ có một chỗ ngồi. Nếu các cô muốn đi máy bay này, các cô phải học bay". Đứa nói:

"Cho em đi học bay". Đứa nói: "Cho chúng em ngồi ở cánh". Cậu lái xe không dám dừng xe lâu, bọn em đành chia tay...

Thùy nhìn Hảo mỉm cười. Đôi mắt của Thùy trở nên mơ màng.

Chỉ có Hảo mới hiểu cái cười và cặp mắt ấy. Đúng là các anh ấy đã về rồi. Không những các anh ấy đã về mà lại còn ở ngay một sân bay nằm sát với Thủ đô.

- Các chị này, như thế là sắp đánh nhau rối, các chị nhỉ? Các anh bộ đội có nói gì với chị không?

- Mình chưa được nghe các anh ấy nói gì thêm. Tối nay nhà máy có mít-tinh, cô về chắc sẽ biết tình hình mới. Nhưng thôi, phải vừa ăn vừa nói chuyện, cháu cứ nhìn chòng chọc mãi vào đĩa trứng kia kìa!

Chỉ đánh ở miền Nam còn thua, huống hồ lại đánh rộng ra cả miền Bắc!

Má con mình càng chóng gặp lại ngoại, con nhỉ? - Thùy nựng con.

Không hiểu tại sao từ lúc nghe Liễu nói chuyện đến giờ, Hảo cảm thấy trong lòng cứ xốn xang lên.