BÀ MẸ CỦA LÍNH
Lê Mai làm công cho một ông chủ ruộng. Chàng ăn ở ngay trong nhà của chủ.
Một hôm ra ruộng, chàng thấy một con cóc nhảy qua bờ ruộng ngay dưới chân chàng …Vừa bước qua khỏi con cóc, chàng nghe một tiếng cười trong trẻo phía sau lưng. Ngảnh lại, Lê Mai thấy một cô gái thật đẹp đang đứng mỉm cười nhìn chàng.
Cô gái hỏi chàng: “Anh Lê Mai, tại sao anh chưa cưới vợ?”
Lê Mai đáp: “Cô thiếu nữ xinh đẹp ơi, ai mà chịu cho tôi cưới? Tôi nghèo mạt rệp cho nên chẳng có cô nào thèm.”
Cô gái nói: “Thì anh cưới em đi.”
Lê Mai nghe nói thế mừng rỡ. “Thế còn gì quý hơn! Nhưng cưới nhau rồi thì chỗ đâu mà ở?”
“Có thế mà cũng lo. Anh làm việc nhiều hơn lên một chút, ngủ bớt xuống một chút thì tự nhiên đi đâu ta cũng có thể sống được”.
“Được rồi, chúng ta sẽ là vợ chồng. Nhưng bây giờ chúng ta đi đâu đây?”
“Hãy đi về dưới phố.”
Lê Mai và cô gái cùng đi. Nàng đưa chàng tới một căn nhà lá nằm về phía bên kia thành phố. Họ ở lại căn nhà, làm đám cưới và sinh sống tại đó.
Ít lâu sau đó nhà Vua đi du hành. Khi ngự giá đi ngang qua túp lều tranh, cô vợ của Lê Mai cũng chạy ra xem Vua như mọi người. Trông thấy nàng, nhà Vua lấy làm kinh ngạc:
“Sao ở đây lại có một người xinh đẹp đến thế này nhỉ?”
Vua cho ngừng xe lại, gọi vợ Lê Mai tới và hỏi:
“Nàng là ai?”
“Tôi là vợ của một anh chàng nông dân tên là Lê Mai.”
“Tại sao một người đẹp như nàng mà lại chịu đi lấy một anh nông dân? Đánh lý nàng phải lấy một vị Hoàng Đế mới phải.”
“Cám ơn lời khen ngợi của bệ hạ. Nhưng tôi thấy lấy một anh chàng nông dân cũng có hạnh phúc lắm đối với tôi rồi.”
Đức Vua nói chuyện với nàng một lát rồi lại cho xe chạy. Sau chuyến du hành, Vua trở về cung, nhưng không thể nào quên được hình bóng của cô vợ Lê Mai. Cả đêm Vua thao thức nghĩ cách chiếm nàng, nhưng không tìm ra được cách nào cả. Sáng Vua cho mời mấy ông cố vấn và nói cho họ nghe ước muốn của mình.
Mấy ông cố vấn nói: “Xin Vua ra lệnh cho đòi tên Lê Mai vào cung để làm việc. Chúng tôi sẽ bắt hắn ta làm việc thật nặng nhọc đến chết. Khi đó vợ nó sẽ là góa phụ và Bệ hạ có thể cưới nàng.”
Nghe lời cố vấn, Vua ra lệnh cho Lê Mai tới làm trong vườn ngự uyển và đem vợ tới ở ngay trong vườn.
Khi sứ giả tới nhà Lê Mai, vợ chàng nói: “Anh cứ đi vào cung làm việc đi, nhưng đến tối anh lại về đây với em.”
Lê Mai đi vào cung. Thị vệ hỏi: “Sao anh tới một mình? Còn vợ anh đâu?”
“Nhà tôi tới làm gì? Nó ở nhà.”
Viên quan trông nôm vườn ngự uyển giao cho Lê Mai công việc trong ngày, nhiều bằng hai công việc của một người. Lê Mai bắt tay vào việc. Chàng nghĩ không thể nào làm xong công việc vừa được giao phó. Ai dè đến chiều, chàng làm xong xuôi hết. Chàng cũng ngạc nhiên. Khi về đến nhà, Lê Mai thấy nhà cửa sạch sẽ tươm tất, cơm đã dọn, và vợ chàng đang vá may cho chàng. Nàng ra đón chồng, so đũa xới cơm và hai vợ chồng cùng ăn cơm. Rồi nàng hỏi chàng về công việc.
“Rất nguy em ạ. Họ cho anh công việc nhiều quá sức anh có thể làm. Họ muốn cho anh làm cho mệt tới chết.”
“Anh cứ làm mà đừng nghĩ tới công việc, đừng nhìn tới nhìn lui xem mình đã làm được bao nhiêu. Cứ thong thả mà làm, rồi công việc tự khắc sẽ xong trước giờ anh về.”
Lê Mai đi ngủ và sáng dậy chàng trở lại vườn ngự uyển. Lần này viên quan coi sóc vườn giao cho chàng công việc nhiều bằng bốn lần hôm qua. Lê Mai làm việc suốt ngày mà không cần nhìn lui. Đến chiều, nhìn lại bao nhiêu công việc mà người ta giao cho chàng, chàng đã làm xong hết, vẫn còn kịp thu xếp đồ đạc về trước khi trời tối. Mỗi ngày, người ta lại giao cho chàng công việc nhiều hơn lên, gấp tám, gấp mười sáu, gấp ba mươi hai lần. Nhưng luôn luôn Lê Mai làm xong trước giờ và về nhà trước khi trời tối.
Một tuần lễ qua đi, và mấy ông cố vấn của Vua thấy không thể nào đày đọa Lê Mai đến chết bằng công việc nặng nhọc được. Họ quyết định bắt Lê Mai phải làm những việc phải có tài nghệ mới làm được. Nhưng kế hoạch này cũng không thành công. Họ giao cho chàng việc gì, chàng làm được việc ấy: làm thợ mộc, thợ nề, lợp ngói v..v..Lê Mai luôn luôn làm xong đúng giờ và về nhà trước khi trời tối.
Một tuần lễ khác trôi qua. Nhà Vua cho đòi mấy ông cố vấn lại: “Lũ các ngươi toàn là đồ ăn hại! Hai tuần lễ đã qua mà các ngươi chẳng làm xong được công trạng gì cả! Các ngươi đã nói sẽ bắt Lê Mai làm việc thật nặng nhọc cho đến chết, nhưng chiều nào ta cũng thấy hắn huýt gió đi ngang dưới lầu của ta mà về nhà! Các ngươi muốn phạm tội khi quân hả?”
Mấy ông cố vấn bắt đầu kêu oan:
“Trước hết, chúng tôi giao cho nó thật nhiều công việc, nhưng giao nhiều đến mấy nó cũng làm xong trưới khi trời tối. Nó làm công việc mau chóng như người ta quét nhà vậy. Và nó không bao giờ biết mệt là gì. Thấy thế, chúng tôi cho nó làm những công việc mà chỉ có kẻ có tài nghệ mới có thể làm, nhưng chúng tôi cũng không thành công. Sự thực là công việc khó tới đâu nó cũng có thể làm được. Giống như là nó có phép lạ vậy. Có thể là nó, hoặc vợ nó, có biết bùa phép. Chúng tôi đã phát mệt lên vì nó rồi. Hôm nay, trước khi vào chầu Hoàng thượng, chúng tôi đã có ý định bắt nó phải xây một ngôi đền đồ sộ phía trước cung điện của haòng thượng, và ra điều kiện là phải xây một ngày cho xong. Đây là đồ án của ngôi đền. Xin bệ hạ cho gọi Lê Mai tới, bắt nó phải thi hành mệnh lệnh. Và nếu trong một ngày mà nó không làm xong thì xin bệ hạ ra lệnh chặt đầu vì tội bất tuân quân lệnh.”
Vua cho đòi Lê Mai vào chầu.
“Nghe lệnh của trẩm đây, Lê Mai. Nhà ngươi phải xây cho ta một ngôi đền thật nguy nga đối diện với cung điện, và ta hẹn cho ngươi đến chiều ngày mai phải xây xong. Đây là bản đồ án ngôi đền. Nếu ngươi làm xong trước kỳ hạn thì sẽ được ban thưởng ; còn nếu làm không xong thì sẽ bị chém đầu.”
Sau khi nghe lệnh Vua, Lê Mai về nhà, nói với vợ:
“Em hay sửa soạn. Chúng ta nên đi trốn ngay trong đêm nay, nếu không thì chết hết.”
“Tại sao anh lại lo lắng quá mức như vậy hả anh? Và tại sao chúnh ta phải đi trốn?”
“Làm sao mà anh không lo sợ cho được? Nhà Vua mới ra lệnh cho anh phải xây một ngôi đền nguy nga đối diện với hoàng cung trong vòng một ngày, nếu không xây xong, thì sẽ bị xử tử. Chỉ còn một nước là đi trốn. Chỉ còn một đêm nay nữa mà thôi.”
Nhưng vợ chàng không chịu. Nàng nói:
“Nhà Vua có lính rất nhiều, ta trốn đâu cho thoát. Tốt hơn là anh nên tuân lệnh.”
“Nhưng làm sao mà tuân lệnh vua được khi công việc vượt quá tầm sức của anh?”
“Anh yêu quý của em ơi, đừng có bi quan quá như thế! Anh cứ đi ăn cơm đi, rồi đi ngủ. Sánh mai, anh thức dậy sớm hơn một tí. Công việc sẽ làm xong chiều mai cho mà xem.”
“Lê Mai nghe lời vợ, ăn cơm rồi đi ngủ. Sánh mai, vợ chàng đánh thức chàng dậy và nói:
“Anh hãy đi mau tới trước hoàng cung và xây cho xong nốt ngôi đền. Anh cầm lấy chiếc búa và mấy cây đinh này. Chỉ cần độ một ngày công nữa là ngôi đền hoàn tất.”
Khi Lê Mai tới trước hoàng cung, anh thấy một ngôi đền nguy nga đã được xây dựng xong, chỉ còn vài ba chỗ cần được hoàn tất. Chàng bắt đầu công việc, và đến chiều, trước khi trời tối, công việc của chàng đã xong xuôi.
Khi đứa Vua thức dậy và nhìn ra cửa sổ thì đã thấy ngôi đền sừng sững rồi. Vua rất ngạc nhiên thấy Lê Mai đi đi lại lại, đóng them một cây đinh chỗ này, một cái đinh chỗ kia. Vua không vui mừng gì hết khi thấy ngôi đền. Trái lại Vua rất bực mình vì không có lý do gì mà chém đầu Lê Mai để chiếm lấy cô vợ của chàng.
Vua bèn triệu tập mấy ông cố vấn: “Lê Mai đã xây xong ngôi đền trong một ngày, ta không có lý do gì để chém đầu nó. Công việc này đối với nó cũng không nặng nhọc gì lắm. Bây giờ các ngươi phải đề nghị phương pháp khác hưũ hiệu hơn. Cố mà suy nghĩ cho ra kẻo ta sẽ chém đầu các ngươi trước khi ta chém đầu nó.”
Lần này mấy ông cố vấn đề nghị Vua ra lịnh cho Lê Mai đào một con sông đi vòng quanh cung điện trên đó có tàu bè qua lại. Vua liền cho triệu Lê Mai vào và giao cho chàng trách vụ mới:
“Nhà ngươi có thể xây dựng ngôi đền trong vòng một đêm thì cũng có thể làm được việc này. Ngày nai, nếu không xong, ta sẽ chém đầu.”
Lê Mai thất vọng quá, chàng buồn rầu tìm về nhà.
“Sao anh buồn quá vậy? Vua bắt anh phải làm một cái gì khác nữa phải không?
Lê Mai nói cho vợ chàng nghe về lệnh mới của vua, và kết luận: “Chúng at phải trốn.”
“Chúng ta không trốn thoát đâu. Trốn đi đâu thì lính của Vua cũng tìm bắt được. Anh vâng lệnh Vua thì hơn.”
“Nhưng làm sao mà vâng cái lịnh ấy cho nổi?”
“Anh yêu quý của em ơi,đừng có lo. Cứ ăn cơm đi, rồi đi ngủ. Ngày mai dậy sớm hơn chút xíu, rồi công việc sẽ hoàn thành kịp lúc.”
Lê Mai đi ngủ. Sáng sớm vợ chàng thức chàng dậy và nói: “Anh đi tới hoàng cung đi. Tất cả đều đã xong xuôi. Phía mé dưới, đối diện hoàng cung còn một mớ đất trên bến chưa bang ra. Anh cầm cái thuổng này và bang mớ đất ra là xong.
Lê Mai ra đi. Khi đến thàng phố, chàng thấy một dòng sông uống quanh hoàng cung, trên sông có thuyền bè qua lại. Chàng tới bên mé mô đất đối diện hoàng cung và thấy mô đất.
Khi đức Vua thức dậy, ông ta thấy một con sông có tàu bè qua lại. Nhưng Vua đã không mừng mà còn tức giận nữa, Vua cũng không có lý do để xử tử chàng Lê Mai. Vua nghĩ:
Không có việc gì mà nó không làm được. Bây giờ phải làm như thế nào?
Vua liền triệu tập các ông cố vấn để bàn luận. Vua nói: “Các ngươi phải tìm ra một công việc ngoài khả năng của Lê Mai.”
Các ông cố vấn suy nghĩ nát óc, cuối cùng một ông tâu Vua: “Xin bệ hạ đòi Lê Mai và ra lệnh như sau: Mi phải đi tới chốn chẳng ai biết là chốn nào và lấy cho ta vật chẳng ai biết là vật gì. Nó sẽ không bao giờ làm được việc đó. Hễ nó đi tới chốn nào thì ta cũng có thể nói là không phải chốn ấy. Hễ nó lấy bất cứ vật gì đem về ta cũng có thể nói là không phải vật ấy. Sau đó bệ hạ có thể chặt đầu nó và chiếm lấy cô vợ.”
Vua cả mừng nói: lần này các khanh đã nghĩ ra một kế thật hay.”
Nói xong, Vua cho triệu Lê Mai vào chầu và nói:
“Nhà ngươi hãy đi tới chốn chẳng ai biết là chốn nào và lấy về cho trẫm vật chẳng ai biết là vật gì. Nếu nhà ngươi không đem về cho ta được vật đó thì ta sẽ chém đầu.”
Lê Mai về nhà nói cho vợ nghe về cái lệnh mới này của Vua. Vợ chàng ngồi suy nghĩ rồi nói:
“Lần này họ nghĩ ra một cái mưu khá thâm độc. Ta phải suy nghĩ kỹ và hành động cho sáng suốt mới được. Nàng ngồi suy nhgĩ thêm hồi lâu nữa rồi nói:
“Anh phải tìm cho được bà mẹ quê, mẹ của lính, và là bà ngoại của em, để cầu cưú. Nếu bà đưa cho anh một vật gì thì anh phải mang vật ấy về thẳng hoàng cung. Em sẽ có mặt ở đấy, bởi vì họ sẽ cho người tới bắt em sau khi anh đã đi. Nhưng sẽ không bị giam giữ lâu đâu. Nếu anh làm theo đúng lời dặn của bà ngoại thì anh sẽ cưú em ra sớm.”
Nói xong, nàng xếp đặt hành lý cho chồng. Nàng trao cho chàng một chiếc khăn gói đựng vật dụng và một chiếc thoi, dặn chàng:
“Anh đưa cho ngoại chiếc thoi này thì tức khắc ngoại biết anh là chồng của em.”
Nàng chỉ đường cho Lê Mai và chàng lên đường. Sau khi rời khỏi thành phố, chàng đi tới địa phận luyện tập của binh lính. Chành dừng lại để nhìn xem lính tập trận. Khi lính mệt ngồi nghỉ thì Lê Mai đi đến gần họ mà hỏi:
“Các anh có biết cách đi về chốn chẳng ai biết là chốn nào để lấy cái vật vật chẳng ai biết là vật gì không? Xin chỉ cho tôi với.”
Những người lính nhìn anh kinh ngạc:
“Ai sai anh đi làm việc ấy?”
“Nhà Vua”
“Từ ngày chúng tôi bắt đầu đi lính cho tới bây giờ, không lúc nào mà chúng tôi không đi về chốn chẳng ai biết là chốn nào mà chưa bao giờ tới được chốn ấy, để đi tìm vật chẳng ai biết là vật gì mà chưa bao giờ tìm được vật ấy. Thế thì làm sao chúng tôi có thể chỉ cách cho anh được?
Lê Mai ngồi chơi với bọn lính một hồi rồi tiếp tục cuộc hành trình của mình. Chàng đi, đi mãi cho đến khi chàng tới một khu rừng. Trong khu rừng có một túp nhà lá ; trong nhà có một bà lão rất già, bà mẹ của lính, đang ngồi vừa quay tơ vừa khóc. Thấy Lê Mai bà la lên:
“Ngươi đến đây làm gì vậy?”
Lê Mai đưa cho bà chiếc thoi và nói với bà rằng: vợ chàng bảo chàng tìm đến bà. Thấy chiếc thoi, bà lão lập tức tỏ vẻ ngọt ngào trìu mến và bắt đầu hỏi chuyện chàng. Lê Mai nói cho bà nghe về cuộc đời mình, về cuộc gặp gỡ giữa chàng và vợ chàng, về việc Vua bắt chàng tới làm việc trong vường ngự uyển, bắt chàng làm một ngôi đền trong một đêm, rồi bắt chàng làm một con sông chảy quanh trong một ngày,và cuối cùng bắt chàng phải đi tới chốn chẳng ai biết là chốn nào để tìm vật chẳng ai biết là vật gì.
Nghe xong bà lão không khóc nữa. Bà lẩm bẩm:
“Đúng là đã đến lúc. Này con, hãy ngồi xuống đây và ăn cơm cho no bụng.”
Sau khi Lê Mai ăn no, bà lão bảo chàng: “Con hãy cầm trái banh này và lăn nó về phía trước mặt. Hễ nó lăn đi đâu thì con chạy theo nó tới đó. Con sẽ đi rất xa, ra tận tới biển cả. Khi tới bờ biển, con sẽ vào một thành phố lớn. Con vượt qua thành phố và xin ngủ lại một cái nhà ở phía chót cùng bên kia thành phố. Tại đó con sẽ tìm ra được vật con cần.”
“Như làm sao con biết được vật con cần là gì?”
“Khi con thấy vật gì mà người ta nghe theo còn hơn cả nghe theo cha và nghe theo mẹ người ta nữa, thì đúng là vật ấy đấy. Con hãy lấy vật đó đem về cho Vua. Ông ta sẽ nói vật đó không phải là vật ông ta muốn tìm. Khi đó con sẽ nói rằng: “Nếu không phải là vật mà Vua muốn tìm thì tôi phải đập bể đi.” và con sẽ đập vào vật ấy, mang nó xuống mé sông, đập nát nó ra và quăng những mảnh vụn xuống dòng sông. Làm như vậy, con sẽ tìm lại được vợ của con và sẽ làm cho ráo nước mắt của ngoại.
Lê Mai chào bà lão và bắt đầu chạy theo trái banh. Trái banh lăn, lăn mãi cho đến khi đưa chàng tới bờ biển. Gần bờ biển có một thành phố lớn, và qua khỏi thành phố, Lê Mai thấy có một ngôi nhà cao. Chàng bèn gõ cửa xin nhủ lại. Chủ nhà ưng thuận cho chàng tá túc. Chành nằm xuống ngủ. Sáng sớm chàng nghe người cha đánh thức người con dậy để đi rừng đốn củi. Nhưng người con không chịu nghe lời.
“Còn sớm lắm mà cha.”
Từ phía giữa nhà, chàng nghe người mẹ nói vọng sang: “Con ơi, dậy đi đốn củi đi con. Cha mày đau lưng, không lý mày bắt cha mày đi làm thay mày sao hả con?”
Nhưng đứa con chỉ chắt lưỡi và ngủ lại. Một lát sau, có tiếng tung tung ngoài đường. Lập tức đứa con chổm dậy, mặc áo vào chạy theo.Lê Mai cũng chồm dậy chạy theo. Bởi vì chàng thấy các tiếng tung tung đó chính là cái vật mà người con nghe theo còn hơn cả nghe theo lời cha mẹ.
Chàng thấy một người đang đi trên đường, mang theo một vật trên bụng và dùng hai chiếc dùi nhỏ đánh vào mặt vật đó kêu tung tung. Vật ấy tròn, hai đầu có bịt da. Chàng hỏi vật đó là vật gì, người ta nói:
“Đó là một cái trống.”
“Cái trống ấy rỗng ruột phải không?”
Đúng rồi, cái trống rỗng ruột.”
Lê Mai ngạc nhiên. Chàng bảo người kia đưa trống cho chàng, nhưng người kia không đưa Lê Mai bèn lẳng lặng đi theo người đánh trống. Chàng đi cả ngày. Đến khi người đánh trống mệt nằm xuống nghỉ chàng mới le làng tới ôm lấy cái trống và chạy.
Chàng chạy mãi cho đến khi về tới nhà. Chàng tưởng là sẽ gặp vợ ở đấy, ai ngờ nàng không có mặt. Người ta bảo là nàng đã bị lính Vua tới bắt giải đi rồi.
Lê Mai tới hoàng cung và nói với lính gác báo cho Vua biết là chàng đã về.
“Xin bác tâu với Vua rằng tôi đã tới chốn chẳng ai biết là chốn nào và đã tìm được đem về cho Vua vật chẳng ai biết là vật gì.”
Lính báo với nhà Vua, nhưng Vua truyền lịnh ra báo với Lê Mai sáng mai hãy đến. Lê Mai không chịu:
“Bác tâu với Vua rằng tôi đã đem tới cho Vua vật mà Vua đã truyền cho tôi đi lấy. Nếu Vua không ra gặp thì tôi sẽ vào gặp Vua.”
Nhà Vua bèn ra gặp chàng.
“Nhà ngươi đã đi tới chốn nào?” Vua hỏi.
Lê Mai thuật cho Vua chốn mà chàng đã đến.
“Sai rồi, không phải là chốn mà ta bảo ngươi đến. Còn ngươi đem về vật gì đó?”
Lê Mai định đưa trống cho Vua xem, nhưng Vua từ chối không muốn nhìn. Vua nói:
“Sai rồi, không phải vật mà ta bảo ngươi đi tìm.”
“Nếu không phải là vật mà Vua bảo tôi đi tìm thì tôi phải tiêu hủy nó mới được.”
Nói xong, chàng bước ra khỏi cung điện, hai tay đánh vào chiếc trống. Lập tức bao nhiêu quân lính của nhà Vua đều tập họp lại, chào chàng và đợi lịnh chàng.
Từ cửa sổ của mình, nhà Vua hét to bảo quân lính không đượ theo lịnh cụa Lê Mai, nhưng lhông ai tuân lời Vua cả, và mọi người tiếp tục đi theo tiếng trống của Lê Mai. Thấy cơ sự xẩy ra như thế Vua liền ra lịnh thả vợ của Lê Mai ra và trả về cho chàng. Rồi Vua yêu cầu Lê Mai trao cái trống cho Vua.
Lê Mai nói: “Tôi không thể trao nó cho Vua được. Tôi đã được lịnh tiêu huỷ nó và liệng những mảnh vụn xuống sông.”
Chàng đi ra bờ sông, vừa đi vừa đánh trống, và toàn thể binh đội nghiêm chỉnh đi theo chàng. Tới bờ sông, chàng đập nát cái trống và liệng những mảng vụn xuống dòng sông. Lập tức quân đội chạy tứ tán ai về nhà nấy. Không còn quân đội. Không còn một người lính nào nữa. Lê Mai cũng đưa vợ về nhà.
Từ hôm đó về sau, nhà vua không còn làm khó dê chàng nữa và chàng cùng vợ sống một cuộc đời hạnh phúc hoàn toàn.
LEO TOLSTOY 1891