← Quay lại trang sách

Chương II

Chương II

ột hôm, khi tập xong Bảo Kiện, Tân và Điệp dắt nhau dạo quanh hồ sen, Điệp tâm sự:

- Sài gòn đang biến động ngầm nên gia đình tôi tạm dừng chân chốn này, gần trọn năm nay. Vì ở trọ nhà cô họ nên chúng tôi ít giao tế với dân địa phương. Những liên lạc tối cần thiết đều qua A Phùng cả. Anh ấy là người bạn tốt, người chung chí hướng với tôi, nhưng tôi chưa dám ngỏ lời vì còn một vài vướng mắc. Từ ngày tôi mới chân ướt chân ráo đến đây, A Phùng có nói về Tân rất nhiều. Phụng, em gái của tôi háo hức muốn gặp Tân để tìm hiểu. Nó là người của hội kín. Nay, tôi thố lộ cùng bạn vì thời gian qua, tuy ngắn ngủi, nhưng mấy lần gợi ý, tôi đều thấy bạn muốn làm một cái gì trước cao trào thanh niên hiện tại. Thời gian này hỗn tạp lắm, các cuộc tranh đấu vô tổ chức và xu hướng khá nghiêng ngửa, nếu lầm lẫn thì khó thối lui.

Nếu bạn thấy thích hợp thì tìm hiểu đường lối qua A Phùng, vì ba của hắn là một cái gì trong guồng máy lớn. Nếu không thì cũng tốt, đường ai nấy đi. Tôi thố lộ mà không hối vì tôi biết, vô hình chung, đường lối mà bạn sẽ chọn sau này đều, đường nào cũng đến La Mã cả!

Phụng, em của Điệp đã thấp thoáng ngoài cổng đình. Điệp đưa Tân đến giới thiệu. Cô bé có mái tóc demi garcon đen nhánh, dáng gọn gàng, tâm tình liến thoắng, dạn dĩ.

Vừa gặp Tân, Phụng đốp chát thân mật:

- Ồ! Anh Tân, anh là người mà Phụng hằng ái mộ, do sự diễn đạt của A Phùng. Hân hạnh được gặp anh.

Nói xong, cô xông xáo đến bắt tay Tân một cách thân mật. Tân cảm động, đáp trả:

- Tôi rất sung sướng được biết cô, một người con gái chân tình, không khách sáo như nhiều cô gái Sài gòn khác.

Phụng phì cười:

- Sài gòn là nơi tụ hợp người tứ chiếng. Đời sống khó khăn nên tuyệt chiêu là phương thức giành sống, nhưng gia đình Phụng cố tránh lạm dụng sách lược đó. Phụng thích tâm tình của người vùng này. Phụng học cách đãi ngộ của người địa phương. Xin anh đừng đem Sài gòn và địa phương để đánh giá Phụng.

Tân kiếm chuyện làm quà:

- Đô thị đông vui, về đây quạnh quẽ! Có lẽ Phụng buồn lắm hở?

Phụng lắc đầu:

- Vui, buồn là do mình, do lạc thú mình chọn. Chốn nào cũng có vui, buồn lẫn lộn, không hẳn thành hay quê. Nơi nào có người cùng chia cơm xẻ áo, nơi nào có đối tượng tình thương, tình yêu, nơi đó là đất của niềm vui. Tuy nhiên, là tập hợp, con trăm cha trăm tính nên không khỏi va chạm, gây buồn phiền. Càng buồn khi được vui, cái vui có ý nghĩa càng cao! Vì thế, có kẻ đồng hội đồng thuyền, có người đồng tâm đồng chí thì mãn nguyện lắm rồi!

Phụng ngưng một tí, đoạn mỉm cười, vấn:

- Anh chọn đồng thuyền hay đồng chí?

Tân chắp tay xá và đùa:

- Thưa người ngọc, tôi chọn đồng thuyền.

Tân kề tai Phụng, nhắc nhở:

- Nói khẽ một tí người ngọc! Quê hương này bắt đầu bất ổn, mình khó biết ai bạn, ai thù.

Phụng nhoẻn miệng cười:

- Người sao mà nhát gan lắm vậy? Phụng chẳng sợ kẻ lạ, chỉ ngại người thân, nên bẻ thước để đo lòng đấy thôi.

Phụng chuyển đề:

- Hai anh rửa tay, dùng thử món khéo em học được từ địa phương này. Đó là món khoai mì hấp cách thủy, ướp với caramel làm từ mật mía và nước cốt dừa. Để tăng thêm hương vị đậm đà, em cho phủ một lớp cơm dừa khô trắng nõn nà, béo ngầy ngậy. Món ăn giản dị mà no lâu!

Tất cả quây quần vừa ăn vừa nghe Phụng ca tụng:

- Quê hương này phong phú thật! Người địa phương đổ lắm mồ hôi để vun quén những đặc sản đa dụng:

Dừa, đắc dụng từ thân cây, bẹ, lá non đến trái. Tất cả dùng để biến chế các loại thực phẩm, mỹ phẩm, kỹ nghệ phẩm.

Mía cho đường, cho phó sản làm chất đốt lắm nhiệt năng, làm bột giấy cực mịn. Đường chế biến bằng thủ công nghệ, giữ trọn hương vị thơm ngon.

Tre, nứa, tầm vông rất dồi dào, được dùng trong mỹ nghệ, gia dụng làm bằng tay, kỹ nghệ làm giấy.

Nông phẩm súc tích, lúa tốt, ngô ngon, khoai, sắn hảo hạng. Lát cho chiếu đẹp. Dừa nước, tranh cho nhà xinh!

Lãnh địa này cùng các vùng phụ cận tạo nên các nguồn lợi dồi dào kể trên, đã xây dựng cho dân địa phương một đời sống no ấm, thanh bình vừa qua, nhưng cũng là duyên khởi đưa thổ dân vào bước đường lưu lạc giang hồ trong tương lai không xa! Thế mà...

Phụng ngập ngừng. Tân háo hức giục:

- Thế mà sao?

Phụng trở nên xa vắng, ỡm ờ:

- Vào một ngày thuận tiện, em sẽ nói rõ cùng anh.

Điệp mỉm cười ý nhị. Tân ngại ngùng chẳng hỏi thêm nửa lời.

Sau khi Tân bỏ công học bảo kiện và thu công trong một thời gian khá dài. Một hôm, Điệp buồn buồn, cật vấn:

- Tân bị đấm vào mặt một cách bất thần, có lẽ không nhận được thế trận của Côn đã dụng?

Tân suy nghiệm và cố nhớ những gì có thể nhớ. Một chặp, cậu mô tả:

- Chân trái hắn bước tới, chân phải hắn bình thế, tay mặt hắn đưa thoi, tay trái hắn thủ ngực.

Mắt Điệp sáng ngời, cậu gật gù, diễn giải:

- Ngày trước Tân suy yếu thân thể khiến tinh thần bạc nhược theo đà, lòng tự tin thiếu vắng, ý quyết thắng tất viễn du.

Thời gian vừa qua tuy ngắn, nhưng nhờ bảo kiện chuyên cần nên thu công lão luyện, giúp cho cơ thể tráng cường. Phụng đã mang đến sự sung mãn tinh thần. Bạn bè đem lại ý chí phấn đấu và lòng tự tin. Nay, Tân đã hội đủ thân tráng, chí cường, bạn chỉ cần một chiêu thức thật chính xác thì bạn sẽ đạt mộng.

Tân chăm chú. Điệp nghiêm trang, miệng đọc thiệu, toàn thân thao tác chiêu thức lý tưởng mà cậu sẽ vẽ vời cho Tân, căn cứ trên thế công của Côn đã hành:

- Đây là chiêu thức quyết định. Thế võ của ta trung hòa giữa tiến và thủ, lấy sự nhanh nhẹn để tạo bất ngờ, lấy sự chính xác làm bản năng đạt quả.

Khởi đầu, bạn xuống tấn, hai chân chùng. Tay trái là cái khiên che thân. Tay mặt là khí giới chống giặc. Thế này tương tự như mãnh xà thu hình chuyển lực, lựa nhược điểm của địch để khai thác mục tiêu tấn công.

Khi đối thủ xuất chiêu, phản ứng tức khắc của ta là chùng chân trái, đồng thời chân phải duỗi thẳng, thân ta do đấy được đưa nhanh sang trái để né đòn thù. Nhanh như chớp, tay mặt ta dùng để siết cổ tay của địch, đoạn vặn tréo cánh gà. Chân phải của ta gạt chân trái của địch, đang là chuẩn chịu sức nặng toàn thân của hắn đang ngã tới. Khi hắn vừa quỵ xuống, ta hoành thân một trăm tám chục độ, từ trái sang phải. Ta an vị trên lưng của địch thủ. Hai tay của ta giữ hai tay của hắn trên đỉnh đầu. Hắn trở thế con trâu nằm sấp. Ta đang ở thế cỡi trâu, giữ sừng. Thế này quyền môn của ta gọi là Mục Tử Chiêu Ngưu.

Điệp đình bộ, mắt hướng trời cao, đoạn dặn dò:

- Bạn hãy luyện thuần thục thế ấy, nhớ đừng để ai trông thấy! Từ đây, bạn có thể dượt bảo kiện và võ công một mình. Tuy nhiên, cần nhớ một điều: ta thắng địch bằng sức mạnh, địch sẽ trả bằng cường lực. Chuyện oan oan tương báo sẽ khó tránh. Thiết tưởng nên dụng đức để gieo duyên. Cái khéo chinh phục lòng người, tôi xin nhường cho bạn. Tôi tin bạn đủ khả năng.

Những chuỗi ngày sau đó thiếu bóng Điệp và thiếu dáng Phụng. Tân cảm thấy bồn chồn tấc dạ.

Một hôm Phụng xuất hiện. Cô mang đến cho Tân hai quả cam sành cô thết Tân. Sau lúc hàn huyên, cô nói lý do đến thăm Tân vì rõ nguồn cơn về chuyện Điệp và Phùng đang hỗ trợ cho Tân báo thù Côn. Điệp bận đi xa, bỏ quên mảnh ngọc gia truyền mà anh của cô bảo là bùa hộ mạng. Cô vội trao ngọc và bảo:

- Em thường thấy anh Điệp ngậm khi luyện võ. Em chẳng biết nó hữu hiệu tới đâu. Em lại thấy các anh chùng lén bàn chuyện đánh nhau. Em e anh hoạn nạn, em mượn đỡ ngọc này cho anh. Có kiêng có lành phải không anh?

Anh à! Nhưng theo em nghĩ, gieo nhân nào gặt quả nấy. Dùng lực sẽ được trả sức, gieo ơn được đáp nghĩa. Oan oan tương báo, chi bằng giảng hòa thì hơn.

Anh nhìn lại lịch sử nước ta thì rõ. Đánh rồi hòa, hòa rồi đánh vì căn không được giải quyết hợp lý. Anh hiểu chuyện người Pháp ở xứ ta chứ?

Tân đã được nghe Điệp úp mở về Phụng. Nay Tân muốn hiểu rõ hơn nên cậu đi sâu vào vấn đề:

- Xứ ta là thuộc địa của Pháp. Đời sống vật chất, tinh thần đều do Pháp chi phối. Từ khi các hòa ước năm 1862 và 1844 ra đời, quả thực bộ mặt của xã hội Việt Nam có chút thay đổi. Nếp sống bớt nghèo nàn hơn, giao thông mở rộng, văn hóa có phần khoáng đạt và có tinh thần dân chủ nhưng chưa sâu rộng. Sự kiện này, dưới con mắt của các nhà chính trị thì, Việt Nam là một thuộc địa đắc ý nhất của Pháp. Tất cả những lạc quan mà ta gọi là tiến bộ trên, đều nhằm phục vụ quyền lợi cho người Pháp cả.

Phụng gài:

- Anh là con nhà giáo, vậy anh có dịp gần gũi với sách vở, hẳn anh rõ các cuộc chiến đấu của ta chứ?

Tân muốn Phụng nói, vì hỏi tức là biết đáp số, cậu thoái thác:

- Cha anh dạy học cho Pháp nên trọng tâm của ông là thi hành giáo dục trong khuôn khổ vạch sẵn nên anh cũng chẳng biết nhiều.

Phụng mở giọng tuyên huấn:

- Năm 1917 Lương Ngọc Quyến từ Nhật về đến Hương Cảng, đã bị bắt và giải giao về Thái Nguyên. Khi Đội Cấn khởi nghĩa, ông có tham gia nhưng thất bại.

Năm 1923 Phạm Hồng Thái ám sát hụt Toàn quyền Merlin tại Sa Diện, Quảng Châu nên trầm mình tự tử.

Năm 1924-1925 Nguyễn Ái Quốc, Lâm Đức Thụ lập Á Tế Á và thành lập một chi trong nước mệnh danh Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội.

Năm 1926 Tân Việt Cách Mạng Đảng hoạt động ở Hà Tĩnh, Sài gòn.

Năm 1927 Nguyễn Thái Học lập Việt Nam Quốc Dân đảng.

Năm 1928 Tạ Thu Thâu, Nguyễn An Ninh lập Đệ Tứ Quốc Tế.

Năm 1929 Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội đổi thành Đông Dương Cộng sản Đảng.

Năm 1930 Việt Nam Quốc Dân đảng khởi nghĩa tại Yên Bái bị thất bại, 13 liệt sĩ bị lên đoạn đầu đài, một số bị đày Côn đảo, Sơn La, Lao Bảo.

Năm 1931, 1932, khắp Nam Bắc đều có mặt Cộng sản nằm vùng.

Phụng ngừng lại, cô nhìn Tân, đoạn phê:

- Anh là trai thời loạn, em không nghĩ là anh chẳng biết chi cả. Em bạo miệng lược thuật cho anh một số hoạt động chính trị chống Pháp, tuần tự theo thời gian, để gây niềm tin, hầu được anh chỉ giáo tiếp.

Tân đã đủ tin cô bé. Để chứng tỏ trách nhiệm tinh thần với một người nữ có lòng với dân nước, Tân thố lộ quan điểm:

- Trước sự quá đà của thực dân Pháp, trước sự bất lực của Nam triều, năm 1925 cụ Phan Bội Châu hô hào Đông Du, mong Trung - Nhật giúp ta thoát ách nô lệ của Pháp. Luồng gió mới này gây sự chú ý của kẻ có tư tưởng muốn cải cách xã hội. Phương thức hành động của họ tùy kiến thức ái quốc và tâm địa cá nhân nên phát sinh lắm đảng, nhiều phái. Thuở ban đầu lấy chủ trương chống Thực, cứu Quốc. Về sau, do tham vọng cá nhân, ý hướng chuyển sang diệt đối lập, giành nhân dân. Trường hợp tiêu biểu là Nguyễn Ái Quốc, lợi dụng Á Tế Á, sau khi cụ Phan Bội Châu bị Pháp giam giữ, để làm bàn đạp lập Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội. Và từ đó đàn áp Tân Việt Đảng, Việt Nam Quốc Dân đảng hầu lập Đảng Cộng sản.

Phụng vấn:

- Anh luận như vậy, có nghĩa là không bao giờ theo Cộng sản?

Tân nghiêm giọng:

- Pháp cướp quyền tự do của dân, quyền dân làm chủ của nước. Nhà làm cách mạng chống Pháp với chiêu bài chống thực dân đô hộ. Cộng sản cướp quyền tự do của dân, quyền dân làm chủ của nước. Nhà làm cách mạng phải chống Cộng sản vì chiêu bài tương tự, không cần phải luận lý cao siêu. Tuy nhiên, Pháp đang bị toàn dân nổi lên đòi tự chủ. Cộng sản đang thắng thế. Là con dân, mình chưa rõ ai sẽ tròng vào cổ mình bằng chiêu bài nào! Định luật guồng máy cũng tương đương luật rừng, la raison du plus fort est toujours la meilleure. Mình thắng thì được danh vua, mình thua bị tuyên án giặc!

Phụng hãy nhìn lại xem. Năm 1940, Nhật và phục quốc quân chiếm Lạng Sơn. Ít lâu sau, Pháp điều đình với Nhật dẹp lực lượng của Trần Trung Lập. Đại Việt Dân Chính của Nguyễn Tường Tam cũng bị vạ lây. Kế đến 1944, Việt Minh lấn lướt Dân Chủ đảng, Đại Việt Quốc Gia Liên Minh, Đại Việt Quốc Dân đảng. Cuộc kháng chiến chống Pháp biến thành mặt trận thanh toán nội tình.

Phụng nhìn thẳng vào Tân, hài tội:

- Anh luận chứng thế sự rõ ràng như vậy lại bảo chẳng biết gì!

Tân giật mình:

- Anh xem trộm tài liệu của cha, xin em kín miệng.

Phụng làm già:

- Tẩy của anh em đã nắm. Hồn của anh em bắt đầu giữ rồi! Bây giờ để trọn tình trước khi giở tẩy của em, em xin hỏi anh, anh nghĩ thế nào về Việt Nam Quốc Dân đảng?

Tân tiến thoái lưỡng nan, cậu chỉ đáp gọn:

- Có tinh thần quốc gia, chống cộng triệt để.

Phụng cười:

- Anh đã rõ cương lĩnh, anh giấu đầu lòi đuôi rồi!

Tân chống chế:

- Đại khái thôi.

Phụng gật đầu:

- Em đã hiểu phần nào về anh, em đã biết tâm tình của anh đối với em, qua tiếp xúc, qua anh của em, bạn của anh. Em muốn anh là ủng hộ viên cho Đảng nên em đã chuẩn bị đầy đủ tài liệu để anh hiểu rõ hơn, thuận thì kết.

Phụng rút xấp giấy nhỏ, ngụy trang trong giỏ đồ ăn, đoạn kéo Tân lẩn khuất trong bụi trâm bầu. Tân bắt đầu đọc:

- Mộng Tiên Phạm Tuấn Tài và Nhượng Tống Hoàng Phạm Chân điều khiển Nam Đồng Thư Xã và Thực Nghiệp Thời Báo là cơ quan cổ động cho Việt Nam Quốc Dân đảng.

Tư tưởng của Đảng dựa trên cương lĩnh “Trước làm dân tộc cách mạng, sau làm thế giới cách mạng”. Họ không chấp nhận giai cấp đấu tranh của Karl Marx mà chỉ triệt hạ chế độ quân chủ chuyên chế để lập thể chế Cộng Hòa với mọi quyền tự do dân chủ, tôn trọng tín ngưỡng.

Việt Nam Quốc Dân đảng ra mắt chính trường là một hội kín do Nguyễn Thái Học và Nhượng Tống chủ trương.

Sau Mộng Tiên Phạm Tuấn Tài được sự hậu thuẫn của Hứa Gia Ngũ, đại diện Trung Hoa Quốc Dân đảng tại Hà Nội, cùng với sự đồng ý của đảng viên, Việt Nam Quốc Dân đảng thành lập vào ngày 25-12-1927.

Về tổ chức chia làm ba thời kỳ: Thời kỳ kết nạp đảng viên, lập cơ sở nòng cốt. Thời kỳ bán công khai, lập công đoàn, binh đoàn, nông đoàn, học sinh đoàn, phổ biến báo chí, gởi người du học quân sự, chế tạo vũ khí. Thời kỳ tổng khởi nghĩa, lập đoàn cảm tử nổi dậy ở các thị trấn.

Phương thức tổ chức: lấy Chi bộ làm gốc, mỗi Chi bộ có 19 người trở xuống; kế đến là Huyện bộ, Phủ bộ, Tỉnh bộ, Kỳ bộ, Tổng bộ.

Chi bộ bầu Chi bộ trưởng và đại biểu của Chi bộ.

Các đại biểu thành Huyện bộ. Huyện bộ bầu Huyện bộ trưởng và đại biểu Huyện bộ lên Phủ bộ và cứ như thế lên đến Tổng bộ.

Mỗi Chi bộ có bốn ban: Ban Tổ chức, tổ chức các buổi họp, liên hệ các cơ quan đảng. Ban Tuyên truyền, quảng bá lập trường, điều nghiên vận động vào đảng. Ban Tài chính, lo kinh tài, thu nguyệt liễm. Ban Trinh sát, dò xét tình hình nội, ngoại.

Kỳ bộ, Tổng bộ có 8 ban: Ban Tuyên truyền, huấn luyện đồng chí, phổ biến sách báo. Ban Tổ chức, sắp đặt các cơ quan, các buổi họp quan trọng. Ban Kinh tài, giữ tiền bạc, lo sinh lợi. Ban Trinh sát, dò xét đối phương, đảng viên. Ban Tư pháp, xử phạm luật và phản đảng. Ban Ám sát, trừng phạt các phần tử phá hoại cách mạng hại dân. Ban Quân sự, tổ chức đoàn cảm tử quân, chế tạo vũ khí. Ban Giám sát, xét công việc của đảng ở mọi cấp.

Các đảng viên khi gia nhập phải hy sinh tuyệt đối cho cách mạng. Nếu thoát ly phải chịu án tử hình. Phạm luật phải chịu phê bình. Khai trừ sẽ bị tử hình.

Sự tiến triển của phong trào khởi đi từ Bắc Ninh, Bắc Giang lan xuống Thái Bình, Hải Dương, Kiến An, Hưng Yên, Nam Định. Ở Trung gồm Thanh Hóa, Đà Nẵng, Nha Trang, Phan Thiết. Ở Nam gồm Gia Định, Thủ Dầu Một, Trà Vinh, Bến Tre, Chợ Lớn, Vũng Tàu, Sài gòn.

Năm 1928, Hội nghị Tổng bộ của Việt Nam Quốc Dân đảng họp tại Thể Giao, với 40 đảng viên, để bầu ban chỉ đạo. Thành phần gồm có: Chủ tịch Nguyễn Thái Học; Phó chủ tịch Nguyễn Thế Nghiệp; Trưởng ban Tuyên truyền Nhượng Tống; Phó trưởng ban Tuyên truyền Lê Xuân Huy; Trưởng ban Ngoại giao Nguyễn Ngọc Sơn; Phó trưởng ban Ngoại giao Hồ văn Mịch; Giám sát Nguyễn Hữu Đạt, Hoàng Trác; Ban Tài chánh Đặng Đình Điểu, Đoàn Mạnh Chế; Ban Ám sát Hoàng văn Tùng; Ban Tổ chức Phó Đức Chính, Lê văn Phúc; Ủy viên Tuyên truyền Trúc Khê Ngô văn Truyện.

Tháng 6-1928, Nguyễn Thái Học sang Thái Lan tính chuyện thống nhất cùng Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội nhưng bất thành vì nhóm này thiên tả.

Học vào Nam tiếp xúc với Nguyễn An Ninh, Đệ Tứ Quốc Tế; Trần Nguyên Phủ, Nguyễn Đình Kiên thuộc Tân Việt Đảng. Kết quả chẳng khả quan.

Tháng 12-1928, Học cho Chu Dưỡng Bình sang Quảng Tây để điều đình lập căn cứ tổng khởi nghĩa, nhưng bị từ chối.

Nguyễn Thái Học cho Đặng Đình Điểu bí mật thăm cụ Phan Bội Châu, lúc cụ bị giam ở Huế. Cụ nhận làm chủ tịch danh dự cho Đảng và khuyên nên cẩn trọng.

Tân xem đến đây, cậu e dè:

- Xem cương lĩnh của Đảng, anh rất thán phục. Xem cách tổ chức và điều hành, anh thấy hoàn bị, nhưng nghiêm nhặt quá! Tính anh lại lông bông. Em cho anh thời gian suy nghĩ đã, rồi sẽ liệu.

Cha anh có thuật chuyện Bùi Tiến Mai, làm thừa sai tại Dinh Tổng Đốc tỉnh Thái Bình. Y nhập Đảng, được Đảng tin cẩn qua nhiều công tác nên sau đó được cử làm đại biểu họp Tổng bộ. Năm 1929, y bị Pháp bắt. Y chỉ điểm các đồng chí thuộc các tỉnh Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình. Do đó y được bổ làm Tri Châu. Y bị Đảng kết án tử hình. Vụ ám sát bất thành vì người làm công tác bất cẩn.

Xét như vậy, anh thấy đường lối hay, kỷ luật nghiêm, nhưng sự bành trướng quá nhanh. Thành phần đảng viên hơi phức tạp, bí mật do đấy không trọn. Phụng cho anh thời gian tìm hiểu sâu xa hơn, Phụng và anh sẽ sát cánh. Phụng đã theo gương cô Bắc, cô Giang thì anh là trai cũng cần suy gẫm lại.

Hôm ấy sau khi từ giã Phụng, tâm tư Tân rối bời. Chuyện gì cậu tính cũng chưa ngã ngũ. Bí quá, tâm tính dị đoan lại thắng. Cậu thúc Phượng, em gái của cậu, đưa cậu đến nhà bạn của cô ấy để cầu cơ. Cô bảo chuyện tình duyên khá éo le. Xin xăm thì được quẻ thượng. Cậu chẳng biết đâu mà lường.

Chuyện thù tạc chưa đến đâu thì A Phùng, mặt rầu rầu, đến thông báo:

- Gia đình của Điệp đã lặng lẽ dọn đi nơi nào không rõ.

Tân bàng hoàng nửa lo cho người, nửa sợ cho mình. Cậu trách số phận của mình sao quá hẩm hiu. Lúc nào cũng vậy, hễ duyên vừa bén thì tình vội lìa; hễ công vừa chớm thì danh đã đi!

Tân hứa với Phụng để cùng sánh vai lập chí nhưng vào buổi cơm, cha đã thông báo Đệ Nhị Thế Chiến bùng nổ! Đức Nhật đang đương đầu với Đồng Minh. Pháp bắt giam các quốc sự phạm.

Ở Nam, Lê Hồng Phong và Nguyễn thị Minh Khai đã hô hào quần chúng khởi nghĩa.

Ở Đô Lương, Đội Cung điều động lính Bảo An chống lại Pháp.

Phục quốc quân hoạt động ở Lạng Sơn. Dân chúng khắp nơi đang khốn khổ nghèo đói vì phải phục vụ kỹ nghệ chiến tranh cho cả Pháp lẫn Nhật. Nạn đói đang hoành hành khắp nơi.

Những tin dồn dập do cha kể làm Tân sầu lo cho Phụng và Điệp. Nay, A Phùng đã mang tin chẳng lành, đúng như cậu dự đoán.

A Phùng cắt luồng cảm nghĩ của Tân:

- Chuyện ân oán giang hồ nị tính sao?

Tân chán ngán:

- Ngộ không nghĩ đến nữa! Buồn quá đi! Buồn cho ngộ thì ít mà buồn cho anh em của Điệp thì nhiều. Họ tốt với ngộ, ngộ đã mất họ rồi!

Tân mân mê miếng ngọc gia bảo. Cậu chẳng rõ đây là kỷ vật Phụng trao hay là món nợ phải mang để chờ ngày hoàn trả. Tìm người như thể tìm chim, biết đâu mà lường!

A Phùng lại vấn:

- Nị học võ của A Điệp đến đâu rồi?

Tân nhún vai:

- Ngộ học võ tuy có một, nhưng học nết của anh em nhà ấy đến mười, học khôn đến trăm, học làm người đến ngàn. A Phùng làm thế nào quen được họ?

A Phùng lắc đầu:

- Họ đến làm quen với ngộ, khi biết ông già ở trong Thiên Địa hội. Nó lém lắm! Ngày lại ngày, đến giả vờ xin xem mạch, mua thuốc, mua hàng. Sau đó, chuyện vãn với tính cách kính lão đắc thọ. Khi thấy ông già treo hình Tôn Văn, cờ thanh thiên bạch nhật, nó lại la cà nói chuyện chính trị. Đến khi ông già mến tánh, nó kết bạn với ngộ, nhưng nó chỉ chơi đá gà với ngộ thôi, chuyện hệ trọng thì không!

Tân lại hỏi:

- Nị có biết gia cảnh của họ không?

A Phùng trầm ngâm:

- Ngộ có hỏi, nó nói gia đình nó là thương gia trên Sài gòn. Ba nó xuống đây nghiên cứu thị trường dừa khô. Họ muốn lập kỹ nghệ dầu để ứng chế xà bông với cát lồi ở Phan Rang.

Tân lắc đầu:

- Tất cả đều nói khéo cả! Điều hay nhất, từ đây mình học phép không thấy, không nghe, không nói trước người lạ.

A Phùng gật đầu, đoạn nói:

- Chuyện gái ghiếc nị cũng tính gạt qua bên luôn?

Tân gật đầu, cậu lặp lại lời khuyên của Điệp:

- Trước khi gặp ngộ lần cuối, anh ấy khuyên ngộ nên có tinh thần hướng thượng để nhắc khéo ngộ đừng lụy sắc, nuôi thù.

A Phùng soi mói:

- Nị định chuyển hướng ra sao?

Tân xa vắng:

- Ráng lập thân. Khi nị xong chương trình căn bản, ngộ lấy xong certificat d’études primaires, mình lên tỉnh hoặc thủ đô học tiếp.

A Phùng bắt tay cam kết. Họ chia tay bỏ cờ bạc, bỏ đá gà, chăm học hành.

Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng. Tuổi thơ tính tu thân thiếu chững chạc, tật hư vẫn hoàn hư!

Một hôm, Tân lại bị bọn của Côn quấy rầy bằng lời trêu, trên thơ rơi: “Tưởng dung, sinh mộng đá vàng; gặp nhau, huyết lệ tuôn tràn, lỡ đôi!”

Tay cầm mảnh giấy mà lòng bứt rứt. Sau cùng, cậu quyết định gặp bọn Côn để cầu hòa, hầu yên để học. Cậu phúc thư: “Làm trai nặng nợ tang bồng; sá chi một mảnh má hồng hận nhau!”

Thế rồi họ gặp nhau ở đất thù ngày cũ. Vừa thoáng thấy Tân, Mỹ vội đến bên, ngăn:

- Anh đau chưa phục sức, chỉ đem thân làm bia thịt cho Côn nó dần như ngày trước! Cho em can!

Tân chạm tự ái, nhưng kịp nghĩ nên thú thực:

- Tôi đến đây với chân tình giao hòa mà thôi.

Côn nghe thấy, càng tự đắc:

- Lần trước lỗ mũi ăn trầu, lần này cái đầu sẽ xỉa thuốc. Già lấy gì để hoà?

Tân kiên nhẫn:

- Bạn đánh tôi đau thì sinh hận, tôi đánh bạn ngã cũng sinh thù. Oan oan tương báo, làm sao yên để học hành, để nên người đây Côn?

Côn vênh váo:

- Nếu tôi thắng già, tôi dần già bầm mình, già không được kêu oan. Ngược lại, già thắng tôi, già bảo gì tôi cũng tuân lệnh.

Tân nghiêm mặt:

- Quân tử nhất ngôn! Tôi xin bạn bè, người thân, người tình của bạn làm chứng lời nói của bạn hộ tôi! Tôi chấp thuận điều kiện của bạn. Nào, xin ra tay!

Tân ngậm ngọc, thủ thế. Mỹ thấy mảnh ngọc, cô toan tiến đến hỏi căn, thì Minh, em của Nguyệt, đẩy Côn về hướng Tân đang xuống tấn. Nguyệt ra dấu bảo Tân đi về, cô có vẻ lo lắng cho Tân.

Côn hứng chí, quen thói xưa, cậu cung tay, đưa thoi. Tân vội rùng chân trái, duỗi thẳng chân phải, lách mình sang trái né đòn. Nhanh như chớp, cậu nắm cổ tay của Côn xoay cánh gà, hoành thân, hất chân trái của Côn làm Côn té xấp. Tân ngự trên lưng Côn. Tay Côn bị khóa chặt trên đỉnh đầu của cậu.

Tân phủ dụ:

- Cực chẳng đã, tôi phải ra tay theo qui ước. Tôi mong Côn đừng nghĩ đây là sự phục hận. Côn đừng tự ái với bạn bè xung quanh. Tôi muốn kết thâm tình cùng Côn. Cha ông chúng ta đều giao hảo tốt, ta là con cháu, nên noi gương.

Nói xong, Tân đỡ Côn ngồi dậy, tuy nhiên cậu vẫn dự phòng.

Côn chưa kịp phản ứng gì thì Minh và Nguyệt đến bên Côn, khẽ bảo:

- Trò chơi của chúng ta kể ra tạm đủ. Côn đã hứa. Tân đã chí tình. Thôi thì cùng giữ hòa khí với nhau vậy!

Hai nàng con gái điều Côn đi xa.

Mỹ rụt rè đến bên Tân, làm lành:

- Lọ Mực của em cho em chất vấn đôi điều?

Tân cười hiền:

- Giậu Mồng Tơi của tôi cứ hỏi.

Mỹ cợt:

- Không phải Giậu Mồng Tơi mà là Giàn Thiên Lý.

Tân trả đũa:

- Bây giờ đã chấp nhận Giàn Thiên Lý rồi à?

Mỹ thẹn:

- Thêm một điều kiện.

Tân hân hoan:

- Có khó lắm chăng?

Mỹ cười duyên dáng:

- Dễ ợt! Anh cho em xem ngọc gia truyền đi nào.

Tân bối rối, nhưng kịp trấn tĩnh:

- Nó là bùa hộ mạng, kỵ âm, xin Mỹ cảm thông.

Mỹ có âm mưu nên đẩy đưa qua lề:

- À, em đoán đúng! Nhờ ngọc nên anh thắng. Em giả vờ để kiểm chứng thôi.

Tân làm già:

- Bây giờ đến phiên anh đáp lễ. Nguyệt và Côn liên hệ có sâu đậm lắm không?

Mỹ sa sầm nét mặt. Cô hờn giỗi một cách bóng gió:

- Giữa Giậu Mồng Tơi và Giàn Thiên Lý đã có ong bướm giao hương nên giữ! Còn chuyện ai đó, mặc họ!

Tân không hiểu mật ý của Mỹ nên cậu bật mí:

- Cha anh đã mở cửa cho trăng gieo ánh ngà rồi!

Mỹ run run làn môi, bênh vực tâm tình mình:

- Em không tin như thế! Cụ Cả đã kết, nhưng bác giáo thì tuyệt đối không, huống hồ Nguyệt cự tuyệt.

Tân phì cười, nói lóng:

- Đêm trăng tròn, cậu bé nhìn trăng soi, cậu chạy tới chạy lui và reo cùng cha, “con đi đâu, trăng cũng đeo đuổi cha ạ!”

Mỹ hết kiên nhẫn, cô bảo thẳng:

- Dù Nguyệt có mê mệt anh đi nữa, anh đã có tình ý với ai đó, thì cũng nên lánh cho trọn thủy chung với người ta, huống hồ...

Mỹ ngưng ngang, cô chuyển đề:

- À! Theo phép lịch sự anh hỏi về sự liên hệ giữa Côn và Nguyệt, thì em cũng thưa thốt một cách khách quan. Bởi lẽ, em không muốn chen vào đời tư của người ta.

Tuy nhiên Nguyệt và Côn đều là bạn thân của em, nên em thấy nói thật cũng vô hại. Nguyệt đãi Côn là muội huynh, bởi Côn lớn tuổi hơn và giữa họ dường như có ẩn tình.

Tân chưa cam lòng, cậu bắt cầu:

- Nguyệt quên ý niệm lửa gần rơm, hay sao?

Mỹ khoan hòa, nhẫn nhục trả lời:

- Côn thì say, Nguyệt lạnh lùng nên sơn keo chẳng đến.

Sơ ngộ, mình trao nhau ý tứ như vậy cũng tạm đủ. Anh cho phép Mỹ cáo từ.

Mỹ ôm uất ức quay về. Tân si tình đứng ngẫm: “Kẻ mình si không đến, cô bé miệng còn hôi sữa lại kề, thế mới hiểu ngang trái là chi! Mối tình tay ba đã đến!”

Tình son trẻ mau đến rồi mau quên. Thời gian trôi, gia đình A Phùng chuyển lên tỉnh để mở mang thương nghiệp. Điệp và Phụng bặt tin nhàn, cá. Tân sau khi lấy certificat d’études élémentaires cậu được phép lên thành học tiếp. Tinh thần cầu tiến khiến thế hệ thanh niên ganh đua học tập, những thói hư tật xấu cũng lẽo đẽo theo sau. Những thiếu niên ngày xưa nay đã thành nam thanh nữ tú. Một số lăn xả vào chính trường. Một số tham gia hội kín. Một số lang bạt giang hồ...

Riêng Tân, từ ngày lên thành, cậu giao tiếp rộng rãi với bạn bè; thu thập kinh nghiệm qua người khôn, kẻ dại, qua báo chí, qua thời cuộc. Cậu bị lôi cuốn hết đảng phái này đến hội đoàn nọ. Bạn có, thù có. Tuy nhiên Tân biết mình khờ vẫn khờ nên hoa hòe ngoài miệng, nhưng trong lòng ngán ngẩm tình người, tình nước. Cậu mang mặc cảm thân phận vô dụng cho nước, cho đời, nhưng trò chơi với lửa, cậu không đủ khả năng vượt thoát. Tân dật dờ như bóng ma hoang. Hè là thời gian để Tân lùi sâu dưỡng trí, để sống lại với những kỷ niệm đẹp ngày thơ.

Ba tháng hè năm đó, cậu được hưởng một ân huệ khó quên trong đời.

Quê hương của Tân may mắn chưa bị khổ nạn như các vùng chung quanh. Sự cần cù của người địa phương đã mang lại sự no ấm, thịnh vượng chung. Dân no, chính vững, Hội Tề cũ sáng kiến trấn an quần chúng trước thời cuộc đang rối ren, bằng tổ chức một lễ cúng đình rất trọng thể để tạ ơn thần thánh cho an bình, tạo cơ hội dưỡng dân, ủy lạo tinh thần đồng lao sản xuất. Việc tổ chức vui chơi đặt trên căn bản phép vua thua lệ làng: công thưởng, tội trừng, phân theo luật, pháp theo lệ, xử theo khoan hòa.

Sưu tầm: casau
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 21 tháng 6 năm 2014