Chương V
Chương V
gày 3-3-1936, tại Pháp, ba đảng Xã hội, Cấp Tiến và Cộng sản lập Mặt Trận Bình Dân. Bộ trưởng Thuộc địa Marius Moutet của đảng Xã hội Quốc tế Lao động truyền cho Toàn quyền Đông Dương Pierre Pasquier, chỉ thị cho Thống đốc Nam Kỳ Rivoal tìm nguyện vọng của dân tộc Đông Dương, hầu cải thiện đời sống của họ.
Lê Quang Liêm và đồng bọn trong Hội Đồng Quản Hạt và đảng Lập Hiến được lệnh hành động, liên hợp cùng Nguyễn Phan Long đưa tin trưng cầu dân ý về Chánh phủ Mặt Trận Bình Dân. Dân chúng hoan hô và Ủy Ban Lâm Thời tổ chức Đông Dương Đại Hội được thành hình, sĩ số là 35 người, thành phần gồm: Nhóm La Lutte, có Tạ Thu Thâu, Nguyễn Văn Tạo, Dương Bạch Mai, Trần Văn Thạch. Nhóm Phú Hào, có Nguyễn Phan Long, Lê Quang Liêm, Trần Văn Khá, Võ Hà Trị. Vai cấp khác có Trịnh Đình Thảo, Bác sĩ Tân, Nam Đình!
Khi Thống đốc Pages sang Sài gòn, ông khiển trách các thành phần hưởng lợi Pháp lại chen chân vào Ủy ban Hành động khiến nhóm Lập Hiến và Hội Đồng Quản Hạt lập Đông Dương Đại Hội lần hai. Họ lấy thỉnh nguyện từ Hội Đồng Quản Hạt, hàng tỉnh, hương chức để cấu thành Hội Nghị Dân Biểu, đề bạt đúc kết, chuyển sang cho Marius Moutet.
Ngày 14-9-1936, Nguyễn Phan Long thông tri cho Ủy ban Hành động bản đúc kết của Hội Nghị Dân Biểu. Pháp giải tán phong trào Đông Dương Đại Hội, truyền Biện lý Dissès, Bồi thẩm Estève, mật thám bắt Tạ Thu Thâu, Nguyễn An Ninh, Phan văn Hùm, Huỳnh văn Phương...
Năm 1945, Việt Minh do Trần văn Giàu thuộc nhóm Đệ Tam Quốc Tế thanh toán tất cả đoàn viên của Đệ Tứ Quốc Tế, mặc dù cùng chủ trương vô gia đình, vô tổ quốc, vô tôn giáo.
Hồ Văn Ngà nhà nghèo, chăm học, tài ba, gan dạ, chuyện phải làm là hành động bất chấp hậu quả. Ông đã từng tham gia bãi khóa tại Chasseloup Laubat đến mất học bổng. Ông sang Pháp du học Cao học Kỹ nghệ, Mỹ thuật, luôn đứng major, bị đuổi vì có khuynh hướng xã hội. Ông làm chánh văn phòng cho Khâm sai Nguyễn Văn Sâm, bị Việt Minh thủ tiêu vào 1945.
Trong đời của Ngà, có một tiểu truyện đáng lưu tâm.
Năm 1921, économe của trường Chasseloup Laubat vượt quyền trong việc nuôi ăn và tuyển sinh, khiến các nội trú bãi khóa bằng cách không trở lại trường sau khi được đưa đi dạo phố cuối tuần. Cha của Ngà hay được, từ Tân An lên Sài gòn tìm con. Ông trói Ngà, dẫn độ, trình Đốc học. Ông Đốc qui trách:
- Con của ông ngỗ nghịch, đã họp bạn bãi khóa, ông là cha, lỗi ấy về ông!
Ông lão đáp:
- Thưa quan Đốc! Quan đốc bảo thế, tôi tuy quê dốt cũng xin đỡ lời. Lúc ở nhà, tôi bảo sao, con tôi nghe vậy. Lúc ấy, tử bất giáo, phụ chi quá. Quan Đốc trách tôi là phải. Nhưng lúc đó nó biết vâng lời cha mẹ. Chỉ khi lên đây ăn học, được quan Đốc dạy dỗ, nó trở nên ngỗ nghịch. Hễ giáo bất nghiêm, sư chi noạ! Thưa quan Đốc, lỗi ấy về ai?
Nghe xong, Đốc học cầu hòa.
Hổ quay sang Côn, cậu kết luận:
- Chú thấy đó, người trọng lý, kẻ biết điều, sư và phụ đã gây cho giáo sinh thành những người hữu công để xây dựng một trật tự xã hội tuy tân tiến mà vẫn giữ hệ cấp quân, sư, phụ.
Côn ngoan cố, cãi lại:
- Lẽ của ông lão thâm trầm, nhưng tình của ông Đốc tế nhị. Chuyện đầu voi thành đuôi chuột. Nếu là tên thực dân thiếu giáo dục, tội nhỏ bãi khóa trở nên tội to xách động chính trị!
Hổ lắc đầu:
- Vấn đề đặt ra không chủ tâm lượng phải, trái mà chú trọng tính nên, hư. Ngày chú còn đóng phèn dưới quê, chú nên. Khi chú lên Sài gòn, chú sạch nước cản, chú sinh hư. Tôi lấy chuyện người để dạy đứa em lần lẫn, vì muốn em tôi nên thân!
Hổ nghiêm nghị:
- Còn nữa, thời Đông Chu, Tề Tương Công muốn tranh bá, nhưng bởi đắm sắc nàng Văn Khương, người em một cha khác mẹ, khiến thân không vẹn, quốc chẳng hưng. Công tử Tiểu Bạch nghe lời Bão Thúc Nha, khuyên cha lắm điều hay. Làm cha mà để con điểm khuyết, đó là bất xứng! Lỗ Hoàn Công vâng lịnh nhà Chu, sang lo hôn ước cho Tề Tương Công cùng nàng Vương Cơ. Thế mà Tề Hầu vì bị lộ chuyện tư thông với phu nhân của Lỗ Hầu là nàng Văn Khương, đã ra sát hại Lỗ Hầu, đó là bất nghĩa! Sau khi Vương Cơ nhìn rõ Tề Tương Công là kẻ dâm loạn, nàng sinh sầu đến thác. Tề ngại Chu chinh phạt vì ngược đãi Vệ Kiềm Mâu nên truyền Liên Xưng, Quản Chí Phủ ra trấn biên và hứa sẽ cho người hoán đổi vào mùa dưa sau. Đến hẹn, Tề Hầu vì lạc thú cùng góa phụ Văn Khương nên không giữ thệ. Đó là bất tín. Làm vua một nước mà bất xứng, bất nghĩa, bất tín thì bị tán mạng vào tay một bày tôi vô danh như Liên Xưng, quả là oan uổng cho một thời vang bóng!
Côn gầm:
- Anh hết đem chuyện nay, lại đưa chuyện xưa để ô mỵ tôi à? Anh lạc đề rồi!
Hổ lắc đầu:
- Ô mỵ? Lạc đề? Không đâu côn ạ! Anh làm nhục chú là anh tự mắng anh sao? Quyền huynh thế phụ mà! Thượng bất chính, hạ tắc loạn đấy chú! Cha lắm của, lắm quyền ở ngày còn trẻ, cha quên kiềm thúc mình. Tuy chú hiểu chuyện mà được nuông chiều nên chú không nghe lời cha. Tôi hiểu cha, tôi biết bổn phận của tôi nên tôi giữ mực thước để thay cha gìn em. Cha lầm, con lỡ thì giao nhục đấy Côn ạ!
Cha và ông Cả như nước với lửa. Cha hạ mình để tạ lỗi ông Cả, nài nỉ chú đính hôn với Minh để chính thức hóa đứa con trong bụng của Minh và ngăn con đường tình tội lỗi của chú hướng về Nguyệt. Thế mà chú làm ngơ để Minh làm sẩy thai con của chú. Chú toan dùng đòn ăn chơi để dụ Nguyệt vào tròng, khiến cha và ông Cả phải thương lượng việc gả bán với bác giáo về Tân, Nguyệt.
Minh nhẹ dạ để chú hành động sở khanh. Gái dại thì cam thân, có thể tạm nhận như vậy đi. Nhưng chuyện cha và ông Cả xây dựng hôn nhân cho chú và Nguyệt đâu có khó! Tại sao phải hạ mình cầu cạnh bác giáo, đem con gái quí mà gán cho thằng khờ? Bác giáo là người cao kiến và độ lượng. Cha và ông Cả là người khôn lanh. Họ biết rõ Nguyệt yêu Tân không đậm, trước sau gì cô ả cũng cho chàng Tân ôm sầu. Bác giáo cho con một bài học tình ái đầu đời, có mất mát gì đâu?
Kẻ cả chơi trò tròng tréo như vậy là tránh cho chú và Nguyệt một lỗi lầm có hại. Nhưng chờ đến kết quả hiện thực thì vừa mất giờ vừa bất trắc. Anh làm khác họ, nói xa nói gần đến chừng nào chú hiểu ý thì thôi! Côn à, chú không khờ, chú mù vì yêu thôi! Chuyện Tề Tương Công và nàng Văn Khương là đề tài không lạc đề và không nhằm ô mỵ chú chút nào hết!
Côn chớp mắt:
- Có nghĩa là...
Hổ ngắt lời:
- Hồn ai nấy giữ! Lòng ai nấy sáng! Nói ra nó làm sao ấy chú ạ! Tôi là kẻ hốt thuốc, cho toa.
Bỗng từ xa có tiếng thì thầm. Côn bảo:
- Dường như Tính, Nguyệt đang tới. Ta nên ẩn để xem họ toan tính gì!
Hổ ôn tồn:
- Anh không còn hứng thú kích người nữa. Ai làm gì mặc họ, đó là tự do cá nhân! Anh muốn gặp họ là để minh xác điều đó, bởi mình đã nghe Lương du vào chuyện gái trai một cách nhảm nhí. Không ngờ vướng vào vòng chính trị!
Bóng người càng gần. Hổ, Côn lẩn tránh. Bọn họ vẫn mổ xẻ vấn đề đang bàn cãi:
- Đang ăn yên, ở yên, sao Điệp lặng lẽ ra đi vậy? Tôi đoán cậu bị động ổ?
Điệp ôn tồn:
- Tôi thì không. Mã tà khám nhà như anh chị đã kể, là do chúng nghi cha tôi đang gieo mầm cho thanh niên. Còn tôi trở lại vì có ý tầm người yêu thôi anh Tính ạ!
Nguyệt chen vào:
- Chuyện khá hấp dẫn. Về nhà nói chẳng tiện, ta ngồi xuống đây, vừa ngắm trăng hóng gió, vừa bàn chuyện xem chúng tôi có giúp được Điệp điều gì chăng!
Tính tán đồng:
- Ý kiến hay! Hãy đề cập chuyện Thanh Niên trước để chúng tôi học hỏi. Chuyện tầm người, chắc chắn tôi giúp cậu dễ như trở bàn tay.
Điệp vấn:
- Anh, chị là người của Thanh Niên?
Nguyệt nhanh miệng:
- Không! Cao trào đang lên, hiểu rõ để đánh giá và tránh mang tiếng hủ lậu, chẳng biết gì! Mình đang tuổi thanh niên mà.
Điệp chân thành:
- Thế càng hay! Nếu anh, chị muốn rõ để học hỏi thì phải nói thời khai sinh và biến thể qua các cao trào vậy.
Năm 1940, Pháp bại trận. Tại Vichy, Thống chế Pétain lập chính phủ thân Hitler. Một mặt ông thần thánh hóa lãnh tụ để thu hút quần chúng. Mặt khác ông đoàn ngũ hóa thanh niên để làm hậu thuẫn.
Đề đốc Hải quân Decoux thay Toàn quyền Đông dương Catroux, cũng áp dụng chính sách trên, bằng cách lập phong trào Thanh Niên Thể Dục Thể Thao. Trung tâm huấn luyện đặt tại Phan Thiết. Từ đó, ngầm sinh Thanh Niên Nghĩa Dũng Đoàn, Tiền Phong Cảm Tử Đoàn, Thanh Niên Ái Quốc Đoàn...
Khi Nhật và Đồng minh khởi chiến, Thanh Niên Phòng Thủ Thụ Động ra đời, từ quận tới thị xã. Đoàn sinh mang băng tam tài, còi báo động, tập cứu thương, cứu hỏa hàng ngày...
Ngày 9-3-1945, Thanh Niên Tiền Phong ra mắt quần chúng tại vườn Ông Thượng với thủ lãnh là Nguyễn Vĩnh Thạnh.
Để trắc nghiệm sự ủng hộ của quần chúng đối với Phong Trào Thanh Niên Tiền Phong, Lãnh sự Nhật là Jida cho tổ chức tiệc trà tại số 14 đường Charner và lập ra một Uỷ ban Quản trị, gồm 20 người, trong số đó có Hội trưởng Kha Vạng Cận, Thư ký Phạm Ngọc Thạch, Thủ lãnh Thể thao Nguyễn Văn Thủ, Thủ lãnh Thanh niên Thái Văn Lung. Những người còn lại phụ trách ban Huấn Luyện, Tuyên Truyền, Xã hội, Tài Chánh, Y Tế, Phụ Nữ.
Dưới Thủ Lãnh là Tráng Trưởng, Thiếu Trưởng. Đoàn viên: tráng niên trên 20 tuổi, thiếu niên dưới 20 tuổi.
Giáo điều của Thanh Niên Tiền Phong là tổ quốc, danh dự, hào hiệp, kỷ luật, trong sạch.
Đồng phục: áo sơ mi trắng ngắn tay, quần đen ngắn, nón rơm, dép. Phù hiệu nền vàng sao đỏ, có ghi T.N.T.P. Chào nhau bằng tay trái. Bàn tay đặt lên vai, đứng nghiêm. Bài ca của Đoàn là Tiếng Gọi Thanh Niên của Lưu Hữu Phước.
Thanh niên đã tận tình lao động dưới nắng mưa để cứu đồng bào bị máy bay oanh tạc, khiến họ thu phục được lòng dân. Ban Tuyên Truyền còn dạy thanh niên về chính trị, phòng thủ. Họ rỉ tai với nhân dân về thời cuộc.
Ngày 1-7-1945, Thanh Niên Tiền Phong làm lễ tuyên thệ tại vườn Ông Thượng. Người ta nhìn cờ bay trước gió, nghe bài ca Thanh Niên Hành Khúc, nhìn thanh niên diễn hành, ai cũng cảm động rơi nước mắt. Riêng thanh niên, họ tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống, họ hy vọng đưa non nước đến vinh quang.
Ngày 19-8, Phụ Nữ Tiền Phong tụ tập ở Sân Vận Động Sài Gòn. Mưa rơi, gió lạnh mà lửa ái quốc đã bùng cháy trong lòng của họ.
Ngày 23-9-1945 Sài gòn tản cư. Một số quan lại không hiểu rõ ý nghĩa của Phong Trào nên đã xuyên tạc và gây khó dễ. Thanh Niên Tiền Phong dần dần tan rã.
Tại Nam Bộ, Trần Văn Giàu lập Thanh Niên Cứu Quốc Đoàn. Nhờ khéo vận động, đám trẻ từ Thanh Niên Tiền Phong, đa số đã hưởng ứng tập đoàn này. Đồng thời Giàu cũng lôi cuốn Phụ Nữ Tiền Phong bằng cách lập Phụ Nữ Cứu Quốc Đoàn.
Tháng 9-1945, chính tình miền Nam căng thẳng giữa Pháp với các thành phần quốc gia và cộng sản. Cộng sản Đệ Tam đã phỉnh gạt được các đoàn thể miền Nam, đứng ra lập chính quyền. Tại Đông Dương, họ được Anh, Mỹ, Nga, Tàu ủng hộ bảo toàn nền độc lập.
Điệp ngưng trong giây phút, đoạn cậu kết luận:
- Thực ra, nguyên nhân thúc đẩy Thanh Niên Tiền Phong lọt vào tay Cộng sản là do Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch và Diệp Ba, là cán bộ nằm vùng trong Phong Trào. Hồ Văn Ngà là một yếu nhân trong Phong Trào bị lừa dối nên trao hết quyền hành. Do đó, Thanh Niên Tiền Phong thành công cụ của Cộng sản, gây thanh thế cho Việt Minh nắm chính quyền. Người quốc gia bị hạ sát gần hết.
Riêng các đảng phái quốc gia đã lập xong Mặt Trận Quốc gia Thống Nhất, nhưng vì mặc cảm thân Nhật và tưởng rằng Việt Minh được Đồng minh yểm trợ. Họ là kẻ yêu nước chân thành nên ngả theo phong trào Thanh Niên Tiền Phong để Việt Minh hoàn toàn thao túng.
Điệp nhìn sang Tính và Nguyệt, dặn dò:
- Phong trào Thanh niên hiện tại đã nhuộm hồng, xin anh, chị hãy cẩn trọng!
Hổ và Côn nghe đến đấy, vội lẳng lặng lùi vào bụi rậm, bỏ đi. Tính, Nguyệt cũng lờ, chuyển sang đề tài khác. Tính mở lời:
- Tôi thì không mê nhập Phong Trào Thanh Niên. Tôi biết Nguyệt có vẻ thích thú nên tìm hiểu. Nay thấy rõ vấn đề nên càng phải lánh. Có lẽ tôi cũng tìm cách khuyên Nguyệt nên từ. Còn chuyện bạn tình của Điệp ra sao cứ thẳng thắn trình bày, may ra tôi tìm được! Vùng này, tôi là thổ địa đó!
Điệp dè dặt khởi đầu:
- Anh có thân thiện với A Phùng và Tân không?
Tính hỏi vặn:
- Cậu thân tình với hai người ấy?
Điệp tránh né:
- Cha chúng tôi mới thâm tình, tôi thì không! Chỉ sơ giao với A Phùng và Tân mà thôi.
- Không thân mà tìm. Vậy là họ có ân oán với cậu? Hai gã ấy đều bảnh trai, học giỏi, gia đình thuộc thành phần khá giả, rất có thể là tình địch của cậu. Các ông cha, kẻ theo Quốc Dân đảng, người theo Thiên Địa hội. Vậy kẻ cả của cậu là chính khách? Cậu hãy thú nhận những liên hệ đó thì manh mối sẽ ra.
Điệp cười:
- Nếu hai đứa mình không phải là đồng môn thì tôi nghi anh là mật thám hoặc đoàn viên của Thanh Niên Cứu Quốc mất rồi! Thôi, để tôi khai!
Tính trấn an:
- Tôi và Điệp học chung trường. Thân thiện nhưng giữ kẽ với nhau. Nay, cậu thố lộ tâm tình, là bạn thân mà không giúp thì còn chi là tình!
Nếu gia đình Điệp là hội viên thờ Tam Thánh thì xác suất tìm duyên rất cao. Làng tôi đông dân, đa đảng. Đa số công nông, cha mẹ chuộng Đệ Tam, Đệ Tứ Quốc Tế; con cái thích Thanh Niên, Phụ Nữ Cứu Quốc. Thành phần còn lại, phần đông là giáo phái Phật, Hòa Hảo, Cao Đài. Một số gia nhập Quốc Dân đảng, Nghĩa Hòa Đoàn. Một số theo Tân Việt Cách Mạng.
Trong số gia đình theo Thiên Địa hội, một gia đình thuộc đoàn viên của Nghĩa Hưng Đoàn. Họ từ Hậu Giang đến đây lập nghiệp. Nội thất có hai cô gái rất xinh. Một gia đình khác theo Nghĩa Hòa Đoàn. Họ từ miền ngoài đến đây lập nghiệp đã lâu đời. Nội thất có một trai đĩnh ngộ, một gái thiên hương. Bạn hãy kiểm chứng xem sao!
Điệp hé màn:
- Thời ông cố của Điệp có kết giao với một người Hoa là bạn cùng chiến tuyến chống Pháp. Người này theo Thiên Địa hội. Sau khi giải giới, người lính nhà Thanh đó lưu lại xứ ta, lập nghiệp dưới sự giúp đỡ của ông tôi. Tình thân từ đó trưởng thành.
Tính chận lại, hỏi dồn:
- Người Hoa theo Thiên Địa hội? Còn kẻ cả nhà Điệp như thế nào?
Điệp ôn tồn:
- Ông của Điệp, thân không nên, danh không đạt, nhưng giao tình rất rộng, nhờ đó trở nên giỏi võ, thông chữ Hán, sành ngôn ngữ Miên, Lào. Sự kết bạn với các tay hảo hớn của nhiều chủng tộc lan tràn, ngày càng lún sâu vào thương, chính!
Nguyệt chen vào:
- Ông nhà đã gia nhập Thiên Địa hội của người bạn cố tri?
Điệp gật đầu. Nguyệt tiến thêm bước nữa:
- Tiểu sử của Hội như thế nào?
Điệp diễn giải:
- Người Hoa tại Việt Nam có lập chi nhánh Thiên Địa hội, lệ thuộc Nghĩa Hòa Đoàn mà địa bàn chính ở tỉnh Sơn Đông.
Nam Kỳ Nghĩa Hòa Đoàn chi hội thuộc Thiên Địa hội ở Mã Lai, Nam Dương, hoạt động dưới hình thức tôn giáo. Họ thờ Tam Thánh: Quan Vân Trường, Văn Thiên Tường, Nhạc Phi.
Hội gây quỹ phù Minh diệt Thanh, chủ trương nội đồng lao, ngoại hành hiệp.
Nhập hội là hành vi tự nguyện, ứng sinh phải trải qua nhiều thử thách về lòng can đảm.
Công tác nguy hiểm được giao phó phải cố đảm nhận, hoàn thành tốt. Hội viên thường được thử thách hành vi anh hùng, sẽ trở thành hội viên thực thụ.
Tính cật vấn:
- Tổ chức có hoàn bị như Quốc Dân đảng không?
Điệp ôn tồn diễn giải tiếp:
- Về tổ chức, trên hết là ông chủ, dưới là Kèo. Mỗi Kèo điều động 50 hội viên. Hội viên không cần tiếp xúc với Kèo. Địa điểm họp không nhất định. Sổ sách không cần lập. Họ nhận nhau bằng ám hiệu. Họ trao đổi tin tức bằng tiếng lóng. Kẻ phản đảng sẽ bị xử tử.
Tính hỏi thêm:
- Ảnh hưởng ra sao?
Điệp ôn tồn:
- Thiên Địa hội lôi cuốn sâu rộng đồng bào Nam Trung Bắc để chống Pháp. Pháp đã thẳng tay trừng trị. Pháp đàn áp khá hữu hiệu, nên Hội phân hóa thành nhiều hội kín khắp Biên Hòa, Gia Định, Bến Tre, Sóc Trăng, Long Xuyên, Châu Đốc.
Tính tiếp nối:
- Tại Sài gòn, Phan Phát Sanh lấy danh nghĩa hậu duệ của Nam triều, tự xưng Phan Xích Long hoàng đế, khởi nghĩa từ 1913 đến 1918 thì bị dẹp tan.
Hội kín lúc bấy giờ đa dạng, nhưng vẫn lấy châm ngôn “hoạn nạn tương cứu, sinh tử bất ly” để làm tôn chỉ hoạt động. Có đúng thế không?
Điệp điểm nụ cười mỉa:
- Anh còn sành hơn cả hội viên!
Điệp chắp tay xá:
- Em xin bái phục huynh trưởng.
Tính cười xòa:
- Đồng hội đồng thuyền là thế đấy!
Điệp cười và bày tâm tưởng:
- Điệp luôn luôn duy tâm. Điệp tin, mọi chuyện trên đời đều do con tạo xoay vần. Lớp lang nằm trong trật tự đã được an bày, đầy đủ éo le, gay cấn. Kẻ mất, ôm niềm cay cú. Người được, bộc lộ hân hoan. Thiên đàng, địa ngục cân phân, đang mở cửa chực chờ. Tình cảm đa cung đa bậc, thúc giục âm nhạc nảy sinh, cuồng nộ khơi mầm, điều lành ban bố, tội ác phô trương, đạo pháp ra đời, luật người khởi động...
Tính trêu:
- Khá khen cho cậu thông minh, nhưng lém vặt! Cậu đã đoán tôi là ai, nên cậu mới phơi bày tâm khảm. Cậu thân với Tân và A Phùng mà cậu giấu nhẹm tông tích. Cậu liên kết chặt chẽ với thân phụ của họ mà ém cung. Cậu đi công tác mà dám bảo chỉ tầm người!
May cho cậu đấy! Cậu gặp tôi, cậu không vướng họa mà lại được ngọc. Đó là phước đức lập trùng.
Điệp mừng rỡ:
- Thế anh là...
Tính tiếp lời:
- Cậu hữu lý lắm! Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ. Đã mấy thế hệ trôi qua. Hai họ của chúng ta lưu lạc giang hồ. Tìm người như thể tìm chim. Thế mà chúng ta từ bể bắc lại trùng phùng bể nam.
Nguyệt chen vào, chúc tụng:
- Điệp hòa Mỹ, đúng là châu hoàn Hiệp Phố!
Điệp hân hoan:
- Người ngọc của Điệp tên Mỹ? Người hẳn đẹp như tên?
Tính nghiêm nghị:
- Gia phả đã rõ, nhưng chứng tích có chăng?
Điệp lo lắng:
- Có. Nhưng Phụng, em gái của Điệp, đã trộm ngọc trao cho Tân nên Điệp mới tìm Tân để xin lại.
Tính dò xét:
- Tôi thì không đặt thành vấn đề, nhưng cha mẹ tôi thì trọng nghi thức. Hơn nữa, Mỹ thấy ngọc trong tay Tân, nó nghĩ Tân là ý trung nhân của nó, nó đã cảm nhưng muốn xác tín để nó sẵn sàng trao thân, nó giục tôi khám phá.
Nếu ngọc vào tay Tân, cậu có cam lòng để cho Mỹ cùng Tân nên duyên cầm sắt không?
Điệp phân vân:
- Tôi không muốn mất Mỹ mà cũng không muốn làm mất lòng Tân. Tân là người trung tín, đáng quí. Nhất là Phụng rất thương Tân. Nó không muốn Tân bị mất sỉ diện.
Nguyệt bàn:
- Cậu mâu thuẫn mất rồi, cân phân không hợp lý. Cậu phải bằng mọi giá giữ lấy Mỹ, đưa Tân về với Phụng. Đôi đàng đều đẹp cả!
Điệp cúi đầu:
- Chỉ còn cách chinh phục Mỹ quên ngọc. Tòng phu chứ đâu tòng ngọc!
Nhưng không sao! Tân rất quân tử, tôi nói phải, tất anh ấy sẽ nghe.
Tính thách đố:
- Nếu Tân đánh mất ngọc hay quyết giữ lấy thì sao?
Điệp tươi nét mặt:
- Nếu Tân mất ngọc thì trời giúp tôi. Tôi hơn Tân về gia phả. Tân không hoàn ngọc, đó là hành vi tự giết chết tình yêu giữa Mỹ và Tân.
Điệp tỉnh ngộ:
- Dù cho cầm ngọc di chứng trong tay hay không, mình vẫn lợi thế hơn Tân. Vậy mà cứ nghĩ quanh. Yêu nên sinh mù!
Nguyệt an ủi:
- Ngưu lang nên đến gặp Chức nữ thì vừa!
Đợi bọn họ đi xa, Tân dìu Mỹ ra khỏi nơi ẩn. Hai người chỉnh trang y phục. Tân toan thốt lời nhận tội, hối tiếc những việc đã làm đời Mỹ mất mát. Mỹ đưa ngón tay giữ miệng người yêu. Cô ôm Tân hôn nhẹ, mắt long lanh, cô nhìn trân trối, trao ngọc, dặn dò:
- Cái gì của anh là của anh vĩnh hằng!
Tân nhìn theo Mỹ cho đến khi hồng nhan khuất bóng. Tân quay về, ngang qua đình làng. Cuộc vui vẫn liên tục nhưng lòng Tân mang nặng một nỗi sầu tư. Cảm giác ngây ngất lúc hai đứa tay trong tay, thân kề thân còn vương vấn. Hương mái tóc mềm còn thoang thoảng đâu đây. Nụ hôn cuối còn nghe ấm. Lời thệ nguyện của nhau vĩnh hằng, nhưng thân xác của nhau sẽ nghìn trùng xa cách. Một thứ tình yêu thật lãng mạn, nhưng để làm gì chớ? Tại sao không bên nhau suốt đời mà lại cách nhau vĩnh viễn? Cậu ngậm ngùi: “Người đâu gặp gỡ làm chi!” Một phút lỡ lầm, trăm năm vương hận.
Khi đến nhà, Tân đẩy cửa bước vào. Cậu thấy cha còn ngồi bên án thư đọc sách. Đúng là cha đang chờ mình. Tân mặc cảm tội lỗi, cậu bày tỏ cảm tưởng:
- Con đi hoang để cha ngồi đợi, con cảm thấy áy náy vô cùng!
Cụ Chánh trấn an bằng lời dò hỏi đẩy đưa:
- Có lẽ con trải qua nhiều trò chơi hào hứng nên vết hằn còn đậm châu thân?
Tân che giấu bộ mặt đưa đám, cậu cười cầu tài:
- Cuộc chơi nào cũng thường để lại hoài cảm vui buồn lẫn lộn cả cha ạ! Con xin phép đi tắm gội.
Cụ Chánh gỡ kính, mỉm cười, truyền:
- Hãy ngồi xuống ghế để cha kiểm chứng bài học vỡ lòng khi con hạ san!
Cụ đi quanh Tân, vừa quan sát vừa điểm khuyết:
- Đầu bù tóc rối, áo ngoài để lại cho người! Quần ống thấp ống cao, bám đầy bụi bẩn!
Cụ nhích gần Tân hơn, và tiếp tục kiểm điểm:
- Thân thể thoang thoảng hương lài, pha mùi ammoniac, mùi xà phòng nội hoá!
Cụ đứng hơi xa, soi mói nét mặt:
- Nụ cười gượng gạo, ánh mắt thoáng sầu.
Cụ quay lại án thư và trầm giọng:
- Con mất mẹ lúc tuổi hồng, con gần gũi cha nên cha rõ con khôn từ tuổi lên ba.
Trong giai đoạn tuổi xanh, con tỏ ra đa sầu đa cảm. Cha đoán vào tuổi thanh, con sẽ vướng hận tình! Vì vậy khi con xin trẩy hội, cha giả vờ trao cẩm nang để nhắc khéo con nên cẩn trọng khi giao du với bạn gái, phải chân tình đãi ngộ bạn trai. Hời hợt trong hai phương diện đó sẽ gánh hậu quả mâu thuẫn về tâm tình.
Cha nói thế, con nghĩ thế nào?
Tân than thân:
- Có lẽ con sinh ra nhằm vì sao xấu nên thường gặp cảnh phước bất trùng lai, họa vô đơn chí.
Cụ Chánh ngăn lại:
- Ở tuổi thanh xuân ôm nỗi bi quan chỉ làm tổn hại ý chí tiến thủ mà thôi!
Phước bất trùng lai khiến Tái Ông vừa chuốc họa con bị té ngựa và mất ngựa, nhưng nhờ thế mà quí tử khỏi cảnh da ngựa bọc thây ngoài chiến tuyến. Như thế, không hẳn họa vô đơn chí hoàn toàn xấu!
Đời người cũng không hẳn thiếu song hỷ. Đây là biện chứng:
Vương An Thạch, thời Bắc Tống, lúc còn là thư sinh, trên đường kinh thí, khi dừng chân tại quán trọ của viên ngoại họ Mã, thấy chiếc đèn kéo quân kén rể có câu: “Tẩu mã đăng, đăng tẩu mã, đăng tức, mã đình bộ”, có nghĩa đèn kéo quân, quân kéo đèn, đèn tắt, quân ngừng bước.
Thạch đắm sắc tiểu thư nhà họ Mã nhưng không đối đáp được, đành lên đường dự thí.
Tại trường thi, Thạch ngang điểm cùng hai thí sinh khác. Để lấy điểm phúc khảo, giám quan nhìn lá cờ có tượng hổ, ứng khẩu: “Phi hổ kỳ, kỳ phi hổ, kỳ quyển, hổ tàng thân”, có nghĩa: cờ bay hổ, hổ bay cờ, cờ cuốn, hổ tàng hình. Vương An Thạch lấy câu xuất của viên ngoại họ Mã để họa câu xướng của giám quan.
Sưu tầm: casau
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 21 tháng 6 năm 2014