← Quay lại trang sách

1.Kinh Tế.

Khi tôi viết những trang dưới đây, hay đúng hơn phần chính của nó, tôi sống một mình, trong rừng, cách hàng xóm gần nhất một dặm [1], trong một ngôi nhà mà tôi tự dựng lấy, bên bờ đầm Walden, ở Concord, Massachusetts, và chỉ kiếm sống bằng lao động của chính đôi bàn tay mình. Tôi sống ở đó hai năm và hai tháng. Bây giờ tôi trở lại là người cư trú trong đời sống văn minh.

Lẽ ra tôi không nên đem chuyện của mình ra làm bận tâm bạn đọc, nếu không bị những người dân thành phố tôi quá quan tâm thăm hỏi về lối sống của tôi mà một số cho là không thích đáng, mặc dù tôi chẳng thấy có gì không thích đáng, trái lại, xét theo hoàn cảnh, nó còn quá tự nhiên và thích đáng. Một số người đã hỏi tôi có gì để ăn, hỏi tôi không thấy cô đơn à, hỏi tôi có thấy sợ không, và đại loại như thế. Những người khác tò mò muốn biết tôi dành bao nhiêu phần thu nhập của tôi để làm từ thiện, và một số gia đình đông con hỏi tôi đã cưu mang bao nhiêu trẻ em nghèo. Bởi vậy tôi xin những bạn đọc nào không đặc biệt cảm thấy quan tâm đến tôi lượng thứ cho nếu tôi trả lời những câu hỏi ấy trong cuốn sách này. Trong nhiều cuốn sách, nhân vật Tôi, hay ngôi thứ nhất, thường lánh mặt; nhưng trong sách này ngôi ấy sẽ hiện diện, đứng về phương diện duy ngã, đây là điều khác biệt chủ yếu. Chúng ta thường không nhớ rằng thực ra bao giờ nhà văn cũng nói từ ngôi thứ nhất. Tôi không nên nói quá nhiều về bản thân mình nếu tôi có biết một người nào khác. Tiếc thay, tôi bị hạn chế trong chủ đề này bởi kinh nghiệm của tôi rất hẹp. Hơn nữa, đối với tôi, đòi hỏi đầu tiên hay cuối cùng của mọi người viết là mô tả đơn giản và chân thực về cuộc sống của bản thân hắn, chứ không phải chỉ những gì hắn nghe được về cuộc sống của những người khác; một sự mô tả như thế hắn có thể gửi cho người thân của hắn từ một vùng đất xa xôi; vì nếu hắn đã sống chân thành, thì theo tôi, phải là ở một vùng đất xa xôi. Có lẽ những trang này dành riêng để nói với những sinh viên nghèo thì đúng hơn. Còn về những bạn đọc khác, họ sẽ chấp nhận những phần mà họ áp dụng được. Tôi nghĩ chẳng có ai đi nối thêm vải vào chiếc áo khoác mặc không vừa, vì nó sẽ hợp với người một người khác mặc vừa nó.

Tôi muốn nói một điều gì đó, không phải về người Trung Hoa hay người dân đảo Sandwich [2], mà nói về bạn là người đọc những trang này, sống ở New England [3] này; một điều gì đó về hoàn cảnh sống của bạn, đặc biệt những điều kiện bên ngoài hay những hoàn cảnh trong thế giới này, trong thành phố này, là gì, liệu nó có đáng phải tồi tệ đến như thế không, liệu có thể cải thiện nó tốt hơn không. Tôi đã đi nhiều nơi ở Concord; và khắp nơi, đến những cửa hiệu, những công sở, những cánh đồng, những cư dân trước mắt tôi dường như đang làm phép giải tội bằng hàng ngàn cách lạ lùng. Những gì tôi đã nghe về những người Bàlamôn [4] ngồi trước bốn ngọn lửa và nhìn thẳng lên mặt trời; hoặc treo ngược người lên, hai tay thõng xuống, trên những ngọn lửa; hoặc nhìn qua vai lên bầu trời, "cho đến khi họ không thể nào trở lại tư thế tự nhiên, trong khi từ cái cổ vặn xoắn lại không có gì khác ngoài chất lỏng có thể đi vào dạ day họ”; hoặc bị trói suốt đời vào gốc cây; hoặc dùng thân mình để đo, như con sâu đo, chiều rộng của những đế quốc rộng lớn [5]; hoặc đứng một chân trên đỉnh cột, - ngay cả những hình thức sám hối tự giác này cũng chẳng khó tin hơn và đáng ngạc nhiên hơn những cảnh mà tôi chứng kiến hằng ngày. Mười hai là công của Hercules [6] cũng trở nên tầm thường nếu so với những gì mà các hàng xóm của tôi đã thực hiện; vì những kì công ấy chỉ có mười hai, và có kết thúc; nhưng tôi chưa bao giờ thấy những người ấy giết hoặc bắt sống một con quái vật nào cả, hay hoàn thành một kì công nào. Họ không có người bạn Iolas [7] để cùng nhau đốt trên thép bỏng cái gốc của đầu con rắn chín đầu Hydra [8] chặt đầu này lại mọc lên hai đầu khác.

Tôi thấy những người trẻ, những người cùng thành phố với tôi, nỗi bất hạnh của họ là đã thừa kế những trang trại, những tòa nhà, những kho thóc, trâu bò lừa ngựa, và những nông cụ; vì những cái ấy có được thì dễ mà bỏ đi thì khó. Nếu họ sinh ra trên đồng cỏ và được một con sói mẹ cho bú thì tốt hơn, vì họ có thể đã nhìn bằng con mắt sáng rõ hơn cánh đồng mà họ được gọi đến để làm lụng trên đó. Ai bắt họ làm những nô lệ của đất? Tại sao họ phải ăn sáu mươi mẫu [9], khi con người bị buộc chỉ được ăn thùng bùn đất [10] của mình? Tại sao họ phải bắt đầu tự đào mồ cho mình ngay từ khi mới sinh ra? Họ phải sống cuộc sống của con người, bằng cách đẩy tất cả những thứ trước mặt họ, và tiến lên bằng hết sức của mình. Nhiều linh hồn bất tử tội nghiệp mà tôi đã gặp, gần như bị đè bẹp dúm dó dưới gánh nặng của nó, lê lết trên đường đời, đẩy trước mặt một kho thóc dài bảy lăm rộng bốn mươi foot, những chuồng bò Augeas [11] không bao giờ được rửa sạch của nó, và một trăm mẫu đất canh tác, đồng cỏ chăn nuôi và lô đất trồng cây lấy gỗ. Những kẻ không được chia phần, họ không phải vật lộn với những thứ phiền toái được thừa hưởng không cần thiết như thế, thấy rằng lao động của họ là đủ để nuôi sống thân xác họ rồi.

Nhưng con người thường lao tâm khổ trí vì một sai lầm. Phần tốt hơn của con người đã sớm bị cày lấp dưới đất để làm phân bón. Bởi một thứ có vẻ ngoài như định mệnh, thường được gọi là tất yếu, như đã nói trong một cuốn sách cổ [12], họ bận rộn tích trữ những kho báu để mối mọt làm cho hư nát và kẻ cắp đột nhập vào lấy mất. Đó là một cuộc sống ngu xuẩn, vì họ sẽ thấy khi họ đi đến cuối đời, nếu không phải là sớm hơn. Người ta kể rằng Deucalion và Pyrrha [13] tạo ra con người bằng cách ném những hòn đá qua vai mình về phía sau:

Inde genus durum sumus, experiensque laborum,

Et documenta damus qua simus origine nati. [14]

Mà Raleigh [15] đã diễn đạt theo cách văn vẻ của ông:

Từ đó, cốt cách rắn rỏi của chúng ta, chịu đựng đau khổ và lo âu.

Chứng tỏ rằng thân thể chúng ta có nguồn gốc từ đá.

Tuân theo mù quáng một lời sấm truyền ngớ ngẩn, ném những hòn đá qua vai ra đằng sau mà không nhìn xem nó rơi vào đâu, thì thật chẳng còn gì để nói.

Phần lớn người ta, ngay cả trong đất nước tương đối tự do này, quá bận tâm với những nỗi lo giả tạo và những nhọc nhằn thô lậu không cần thiết của đời sống đến nỗi những hoa trái ngọt ngào nhất của nó họ không thể nào hái được. Những ngón tay của họ, do cực nhọc quá mức, quá lóng ngóng và run rẩy để làm việc đó. Trong thực tế, người lao khổ không có thời gian nhàn rỗi để ngày qua ngày chăm sóc cho tính toàn vẹn của tâm hồn mình, anh ta không thể cố giữ được những mối quan hệ người nhất với những con người; công lao của anh ta bị coi rẻ ở thị trường. Anh ta không có thời giờ là cái gì khác không phải cái máy. Làm thế nào anh ta có thể nhớ được sự ngu dốt của anh ta - mà sự trưởng thành của anh ta đòi hỏi - ai sẽ phải sử dụng tri thức của anh ta thường xuyên đến vậy? Đôi khi chúng ta nên rộng lòng ban cho anh ta cơm ăn áo mặc, và phục hồi sức khỏe cho anh ta với những món rượu bổ của chúng ta, trước khi phán xét anh ta. Những phẩm chất tuyệt vời nhất của bản tính chúng ta, giống như nhụy hoa, chỉ có thể gìn giữ bằng cách xử lí tinh tế nhất. Thế nhưng chúng ta không đối xử với bản thân mình cũng như vói nhau một cách dịu dàng như vậy.

Tất cả chúng ta đều biết, một số người trong các bạn, là nghèo, cảm thấy sống là khó khăn, đôi khi, như đã từng xảy ra, đến thở cũng khó nhọc. Tôi không nghi ngờ gì rằng một số trong các bạn đọc cuốn sách này không đủ tiền để trả cho tất cả những bữa tối mà các bạn đã ăn, hoặc cho những áo khoác và giày dép còn bền hay đã sờn mòn mà các bạn đang mặc, và đến với những trang này bằng thời gian mà các bạn vay mượn hay ăn cắp, thó của người chủ các bạn một giờ. Thật quá rõ ràng cuộc sống mà nhiều người trong các bạn đang sống tầm thường và vụng trộm như thế nào; (vì cái nhìn của tôi đã được mài sắc bằng kinh nghiệm), luôn luôn bị hạn chế, cố gắng lao vào công việc và thanh toán được nợ nần, một nỗi tuyệt vọng rất xưa cũ - tiếng Latin gọi là aes alienum, những đồng bạc của người khác, vì một số tiền xu được làm bằng đồng - vẫn còn sống, và đang chết, và được chôn bằng những đồng bạc của người khác này; luôn luôn hứa sẽ trả, hứa ngày mai sẽ trả, nhưng chết hôm nay, không trả được; tìm cách xun xoe xin ân huệ, tìm mối hàng, bằng bao nhiêu lối, chỉ miễn là đừng phạm tội nặng để bị tù trong nhà tù của bang [16]; nói dối, xu nịnh, gợi ý, tự thu mình vào chiếc vỏ hạt dẻ [17], hoặc trở nên xởi lởi với một vẻ rộng lượng hư hư thực thực, để bạn có thể thuyết phục anh hàng xóm để bạn làm cho anh ta đôi giày, hoặc cái mũ, hoặc chiếc áo khoác, hoặc cỗ xe, hoặc nhập hàng tạp hóa; cho anh ta; làm cho bạn ốm, để bạn có thể để dành cái gì đó để phòng cho một ngày ốm, một thứ gì đó có thể giấu vào một cái hòm cũ, hay vào một chiếc bít tất đằng sau lớp vữa, hay, an toàn hơn, vào một cái kho bằng gạch; ở đâu cũng được, nhiều ít bao nhiêu cũng được.

Đôi khi tôi tự hỏi rằng chúng ta có thể phù phiếm đến thế sao? Tôi hầu như có thể nói về hình thức nô lệ thô bạo nhưng có vẻ ngoại quốc sao đó gọi là Nô lệ Da đen, có nhiều ông chủ sắc sảo và tinh tế đến nỗi bắt nô lệ cả miền Nam và miền Bắc. Khó mà có được một người giám thị miền Nam; có một người miền Bắc như thế còn khó hơn nữa, nhưng tệ nhất vẫn là bạn phải là tay quản nô của bản thân mình. Nói về tính thánh trong con người! Hãy nhìn người đánh xe trên đường quốc lộ kia, lao đến chợ ngày hay đêm; liệu có tính thần thánh nào khuấy động bên trong hắn không? Nghĩa vụ cao nhất của hắn là cho ngựa của hắn ăn và uống! Đối với hắn số phận của hắn là gì so với sự thích thú chở hàng bằng tàu biển? Hắn chẳng đánh xe cho Ông địa chủ Bắng Nhắng (Squire Make-a-stir [18]) đó sao? Hắn như thánh, hắn bất tử như thế nào? Hãy trông hắn co ro và lén lút như thế nào, cả ngày hắn sợ bóng sợ gió ra sao, không bất tử cũng không thần thánh, mà là nô lệ và tù nhân của ý kiến riêng của hắn, một thứ tai tiếng mà hành vi của hắn tự chuốc lấy. Công luận chỉ là tên bạo chúa yếu ớt so với ý kiến riêng của chúng ta [19].

Một con người nghĩ gì về bản thân hắn, đó là điều quyết định, hay đúng hơn chỉ báo số phận của hắn. Wilberforce [20] nào có thể giúp những tỉnh Tây Ấn (West Indies [21]) tự giải phóng khỏi mộng mơ và tưởng tượng? Hãy nghĩ đến những quý bà ở đất liền, vẫn đeo những chiếc độn tóc trang điểm vào ngày cuối đời, để tỏ ra không quá bận tâm đến số phận của chính mình. Như thể bạn có thể giết thời gian mà không làm tổn hại đến cái vĩnh cửu.

Phần đông người ta sống một cuộc sống tuyệt vọng trong thầm lặng. Cái được gọi là sự cam chịu là sự tuyệt vọng được xác nhận. Từ thành phố tuyệt vọng bạn đi về miền nông thôn tuyệt vọng, và phải tự an ủi mình bằng sự can đảm của chồn vizon và chuột nước [22].

Một nỗi tuyệt vọng rập khuôn và vô thức được che giấu dưới cái mà chúng ta gọi là những trò chơi và trò tiêu khiển của loài người. Chẳng có gì vui chơi ở đó cả, vì chúng đến sau khi làm việc. Nhưng đặc tính của trí khôn ngoan là không làm những điều vô vọng.

Khi chúng ta xem xét, theo lối nói của sách giáo lí [23], mục đích chủ yếu của con người là gì, và những nhu cầu và phương tiện thật sự của đời sống là gì, có vẻ như con người đã cố ý lựa chọn lối sống thông thường bởi vì họ thích nó hơn cái khác. Tuy nhiên trong thâm tâm họ nghĩ rằng chẳng có gì để mà chọn cả. Nhưng những bản chất tỉnh táo và lành mạnh nhớ rằng mặt trời đã mọc lên sáng tỏ. Rũ bỏ những thành kiến của chúng ta thì không bao giờ là quá muộn. Không có cách nghĩ hay cách làm nào, dù cổ xưa đến đâu, có thể tin được nếu không có bằng cớ. Những gì mà mọi người lặp lại hay hôm nay im lặng chấp nhận là đúng ngày mai có thể hóa ra sai, có những ý kiến nhẹ như làn khói mà có người đã tưởng là cả đám mây có thể làm thành trận mưa tưới cho đồng ruộng của họ. Những gì mà người già bảo bạn không thể làm, bạn hãy cố thử và thấy rằng bạn có thể. Việc cũ dành cho những người cũ, việc mới dành cho những người mới. Người cũ không biết lâu lâu tiếp thêm nhiên liệu để giữ cho ngọn lửa cháy mãi; người mới đưa một mẩu củi khô vào dưới một cái nồi [24], và được chở đi vòng quanh thế giới với tốc độ của loài chim, theo cách có thể giết chết người cũ, như người ta thường nói. Tuổi già làm thầy thì không hay hơn, hiếm khi hay bằng tuổi trẻ, vì lỗ nhiều hơn lãi. Người ta có thể hầu như nghi ngờ liệu một người khôn ngoan nhất có học được điều gì tuyệt đối có giá trị từ cuộc sống mà anh ta sống. Thật ra, người già không có lời khuyên nào thật quan trọng để nói với tuổi trẻ, kinh nghiệm riêng của họ thật phiến diện, và cuộc đời họ đã thất bại thảm hại, vì những lí do riêng tư, như họ phải tin; và có thể họ có một vài niềm tin còn lại cho thấy kinh nghiệm của họ là sai, và bây giờ họ chỉ thấy họ không còn trẻ trung như trước. Tôi đã sống khoảng ba mươi năm trên hành tinh này, và tôi vẫn phải nghe lời khuyên sơ đẳng quý giá hay tha thiết của những người lớn tuổi. Họ không nói với tôi điều gì, và có lẽ không thể nói vói tôi điều gì cả, theo mục đích ấy. Đây là cuộc sống, một thử nghiệm phần lớn tôi chưa trải qua, mà việc họ đã trải qua chẳng giúp ích gí cho tôi. Nếu tôi có bất là kinh nghiệm gì mà tôi cho là có giá trị, tôi chắc chắn rằng những vị Thầy thông thái của tôi chẳng nói gì về nó.

Một nông dân nói với tôi: "Anh không thể chỉ sống bằng rau quả, vì nó không cung cấp thứ làm cho xương chắc khỏe" và như vậy ông ta thành kính dành một phần của ngày để cung cấp cho cơ thể ông ta nguyên liệu cho bộ xương; trong khi nói ông ta vẫn bước sau con bò, mà, với bộ xương làm từ cỏ, nó vẫn kéo ông ta đi phăng phăng bất chấp mọi vật cản.

Có một số thứ thật cần thiết cho đòi sống trong phạm vi nào đó, còn phần lớn thì vô dụng và không lành mạnh, ở những người này chúng chỉ là đồ xa xỉ, ở những người khác chúng hoàn toàn không được biết tới.

Đối với một số người dường như toàn bộ mảnh đất của đời người đã có người trước họ đi qua, cả những núi đồi và thung lũng và mọi vật cũng đã được quan tâm săn sóc đến. Theo Evelyn [25], "vua Solomon thông thái đã ra những sắc lệnh quy định cả khoảng cách giữa các cây, và các quan tổng trấn La Mã đã quyết định anh được vào đất của người hàng xóm bao nhiêu lần trong một tháng để nhặt những quả của anh rụng trên đó, mà không bị coi là xâm phạm, và phần dành cho người hàng xóm là bao nhiêu". Hippocrates [26] thậm chí đã để lại những chỉ dẫn chúng ta nên cắt móng tay của chúng ta như thế nào; tức là, ngang bằng với đầu mút các ngón tay, không được dài hơn hay ngắn hơn. Chắc chắn là chính sự buồn tẻ và chán ngán đã hút kiệt cái muôn màu muôn vẻ và những niềm vui của cuộc sống cũng xưa như Adam. Nhưng những khả năng của con người thì không bao giờ đo lường được, chúng ta cũng không thể đánh giá hắn có thể làm được gì bằng những gì hắn đã làm, vì ít được thử. Dù cho đến nay ngươi thất bại thế nào, "hãy đừng đau khổ, con ta, vì ai sẽ giao cho ngươi những việc mà ngươi để lại chưa làm?” [27]

Chúng ta có thể thử cuộc đời ta bằng hàng nghìn phép thử đơn giản; chẳng hạn như, cùng một mặt trời làm chín đậu của chúng ta cùng lúc chiếu cả một hệ hành tình giống như trái đất của chúng ta. Những vì sao là đỉnh của những tam giác tuyệt vời nào! Những con người xa nhau và khác nhau trong những ngôi nhà muôn hình muôn vẻ trong vũ trụ đang ngắm nguyện điều gì với cùng một đấng và trong cùng một lúc! Thiên nhiên và đời sống con người cũng đa dạng như những thể tạng của chúng ta. Ai có thể nói cuộc đời sẽ đem tương lai nào đến cho người khác? Nhìn qua mắt của nhau có làm xảy ra một phép lạ nào không, chẳng hạn? Chúng ta có thể sống mọi thời đại của thế giới này trong một giờ, hay sống trong mọi thế giới của các thời đại? Lịch sử, Thơ ca, Huyền thoại! - tôi biết việc đọc kinh nghiệm của người khác không thể cho ta ngạc nhiên sửng sốt và nhiều hiểu biết như những thứ này có thể cho ta.

Phần lớn những gì những người láng giềng của tôi cho là tốt, tôi trong thâm tâm cho là xấu, và nếu tôi ăn năn về một việc gì đó, rất có thể nó là một hành vi tốt của tôi. Con quỷ nào ám tôi mà tôi hành động tốt thế? Bạn có thể nói điều khôn ngoan nhất bạn già ạ - bạn là người đã sống bảy mươi năm [28], không phải là không vinh quang theo cách nào đó - tôi nghe một giọng nói không cưỡng lại được kêu gọi tôi tránh xa khỏi tất cả những cái (khôn ngoan) đó. Một thế hệ bỏ mặc những công trình của người khác giống như những con tàu mắc cạn.

Tôi nghĩ rằng chúng ta có thể tin một cách an toàn nhiều thứ hơn chúng ta đã tin. Chúng ta có thể thôi khỏi chăm lo quá nhiều cho bản thân khi chúng ta đến ở nơi khác một cách lương thiện. Thiên nhiên thích hợp với sự yếu đuối của chúng ta cũng như với sức mạnh của chúng ta. Sự lo lắng và căng thẳng triền miên gần như là một dạng bệnh tật không thể chữa khỏi. Chúng ta thổi phồng quá đáng tầm quan trọng của những việc ta làm, thế mà còn bao nhiêu việc chúng ta chưa làm! Và rồi, nếu chúng ta bị bệnh thì thế nào? Chúng ta thận trọng quá chừng! Nhất quyết không sống bằng tín ngưỡng nếu chúng ta có thể tránh nó; cả ngày dài tỉnh giấc, đêm đến chúng ta miễn cưỡng cầu nguyện, phó thác bản thân cho những điều không chắc chắn. Chúng ta buộc phải sống chu đáo và chân thành như vậy, sùng kính cuộc sống của chúng ta, và từ chối khả năng thay đổi. Chúng ta bảo đây là cách duy nhất, nhưng từ một tâm có nhiều cách để vẽ các bán kính. Mọi thay đổi là một phép lạ để chiêm nghiệm; nhưng phép lạ xảy ra từng giờ từng phút. Khổng Tử [29] nói: "Biết, biết là mình biết; không biết, biết là mình không biết, ấy là biết vậy". Khi một người biến một sự vật trong tưởng tượng thành điều hiểu biết của anh ta, tôi thấy trước mọi người sẽ thiết lập cuộc sống của họ trên cơ sở đó.

Chúng ta hãy xem xét một chút, phần lớn những băn khoăn và lo lắng mà tôi đã nêu ra là cái gì, và chúng ta cần phải băn khoăn hay, ít nhất, thận trọng, đến mức nào. Sống một cuộc sống nguyên thủy và ở biên cương [30] có cái lợi của nó, dù ở giữa một nền văn minh vật chất, chỉ cần biết những nhu cầu thô sơ của cuộc sống là gì, và đạt được chúng bằng những phương pháp nào; hay thậm chí nhìn qua những sổ sách cũ của các thương gia, để biết con người nói chung thường mua nhiều nhất cái gì ở các cửa hiệu, họ cất trữ gì, tức là, những tạp phẩm thô sơ nhất là gì. Vì những sự cải thiện của các thời đại đã ảnh hưởng rất ít đến những quy luật sống thiết yếu của con người; có lẽ do bộ xương của chúng ta không khác xương của tổ tiên ta là mấy.

Dùng chữ nhu cầu của đời sống, tôi muốn nói đến bất cứ cái gì mà con người đạt được bằng nỗ lực của chính hắn, là cái ngay từ đầu, hay qua sử dụng lâu ngày, đã trở thành quan trọng với cuộc sống của con người đến nỗi rất ít người, nếu có, hoặc man rợ, hoặc nghèo túng, hoặc triết gia, từng dám sống không có nó. Đối với nhiều sinh vật, theo nghĩa này chỉ có một thứ gọi là nhu cầu của đời sống: Thức ăn! Đối với con bò rừng bizon trên thảo nguyên, đó là vài tấc cỏ ngon, với nước để uống; trừ phi nó đi tìm chỗ trú trong rừng hoặc trong hốc núi. Không có loài vật nào đòi hỏi nhiều hơn Thức ăn và Chỗ ở. Nhu cầu đời sống của con người trong hoàn cảnh này, nói chính xác, là được phân phối Thức ăn, Chỗ ở, Quần áo và Chất đốt; vì nếu chưa bảo đảm chắc chắn những thứ này chúng ta chưa thể sẵn sàng theo đuổi những vấn đề thật sự của cuộc sống, một cách tự do và có triển vọng thành công. Con người đã sáng tạo ra, không chỉ nhà ở, mà cả quần áo và thức ăn nấu chín; và có thể từ ngẫu nhiên phát hiện thấy ngọn lửa ấm, rồi sau đó sử dụng nó, lúc đầu như một thứ xa xỉ, sinh ra cái nhu cầu ngồi bên nó. Chúng ta quan sát những con mèo con chó cũng đạt được cùng một bản chất thứ hai như thế. Bằng Nhà ở và Quần áo riêng, chúng ta giữ được một cách thích đáng nhiệt lượng bên trong chúng ta; nhưng vượt quá những cái này, với Nhiên liệu, tức là với một nhiệt lượng bên ngoài lớn hơn nhiệt lượng bên trong chúng ta, phải chăng việc nấu nướng một cách đúng đắn đã bắt đầu? Nhà tự nhiên học Darwin [31], nói về những cư dân Tierra del Fuego [32], rằng trong một bữa tiệc của chính ông, ăn mặc đầy đủ và ngồi gần lửa, quan sát những người man rợ trần truồng, ở xa ngọn lửa nên không thể nào được coi là quá nóng, và ông hết sức ngạc nhiên thấy họ toát mồ hôi thành dòng khi chịu một sức nóng như thế". Người ta nói, người New Holland [33] thì trần truồng mà không sao cả, trong khi người Âu rét run lên trong quần áo của mình. Phải chăng không thể nào kết hợp sức chịu đựng dày dạn của những người man rợ này với trí tuệ của những người văn minh? Theo Liebig [34], thân thể người ta là một cái lò, và thức ăn là nhiên liệu giữ cho sự cháy bên trong ở những lá phổi. Khi trời lạnh chúng ta ăn nhiều, và khi ấm ăn ít hơn. Nhiệt của động vật là kết quả của sự cháy từ từ, và bệnh tật và cái chết diễn ra khi nó cháy quá nhanh; hoặc do thiếu nhiên liệu, hoặc do thông gió kém, ngọn lửa tắt. Tất nhiên không nên lẫn nhiệt lượng sống (vital heat) với ngọn lửa, nhưng chúng rất giống nhau. Do đó, từ những liệt kê ở trên, hóa ra cụm từ sự sống động vật gần đồng nghĩa với cụm từ nhiệt động vật; trong khi Thức ăn có thể được coi như Nhiên liệu giữ ngọn lửa bên trong chúng ta - và Nhiên liệu chỉ giúp chuẩn bị Thức ăn đó hoặc tăng hơi ấm cơ thể chúng ta bằng cách bổ sung từ bên ngoài, - Nhà ở và Quần áo cũng chỉ giúp giữ nhiệt được sinh ra và được hấp thụ theo cách đó.

Như vậy, điều cần thiết nhất cho cơ thể chúng ta, là giữ được ấm, giữ được lượng nhiệt sống còn trong chúng ta. Chúng ta phải khó nhọc như thế nào, không chỉ với Thức ăn của chúng ta, và Áo quần, và Nhà ở, mà còn với những chỗ nằm của chúng ta, - những cái đệm ban đêm cũng làm ấm chúng ta như quần áo - bằng cách cướp tổ và lông của những con chim, để sửa soạn một tổ ấm bên trong một tổ ấm, giống như con chuột chũi có cái nệm bằng cỏ và lá cây ở cuối hang của nó! Người nghèo quen phàn nàn rằng thế giới này lạnh quá; và chúng ta quy trực tiếp phần lớn những nỗi đau khổ của chúng ta cho cái lạnh, cái lạnh xã hội không kém cái lạnh thể chất. Mùa hè, ở một số vùng khí hậu, có thể cho người ta một cuộc sống như ở thiên đường [35]. Nhiên liệu, trừ phi để nấu ăn, không còn cần thiết nữa; mặt trời là ngọn lửa của người, và nhiều thứ trái cây chín được bằng những tia của nó, trong khi Thức ăn thì đa dạng hơn nhiều và dễ kiếm hơn, và Quần áo và Nhà ở hoàn toàn hoặc có phần không cần thiết. Ngày nay, trên mảnh đất này, bằng kinh nghiệm của chính mình tôi tìm kiếm một ít đồ dùng, một con dao, một cái rìu, một cái mai, một chiếc xe cút kít, v.v. và để học hành, một ngọn đèn, ít giấy bút, và có thể tiếp cận vài quyển sách, những thứ ấy sắp xếp kế sau những nhu yếu, và có thể đạt được với cái giá tầm thường. Ấy thế mà có một số người, không khôn ngoan từng trải, đi đến phía bên kia của địa cầu, tới những vùng man rợ và độc địa, và dấn thân vào buôn bán trong mười hay hai mươi năm, để có thể sống, - tức là giữ được ấm áp dễ chịu - và cuối cùng chết ở New England. Sự giàu có xa hoa là không chỉ giữ được ấm áp dễ chịu, mà nóng một cách phi tự nhiên, như tôi đã ngụ ý trên kia, họ bị nấu, tất nhiên là à la mode[36].

Phần lớn những thứ xa xỉ, và nhiều thứ gọi là những tiện nghi của đòi sống, không chỉ không tuyệt đối cần thiết, mà còn là những trở ngại thực sự đối với sự phát triển của nhân loại, về những những thứ xa xỉ và tiện nghi, người khôn ngoan nhất sống một cuộc sống đơn giản và đạm bạc hơn người nghèo. Các triết gia thời cổ, Trung Hoa, Ấn Độ, Ba Tư, Hi Lạp, về cái giàu có bề ngoài thì không ai nghèo hơn họ, về sự phong phú trong tâm hồn thì không ai giàu hơn họ. Chúng ta không biết nhiều về họ. Điều đáng kể là như thế chúng ta cũng đã biết khá về họ. Điều này cũng đúng khi nói về những nhà cải cách và những nhà từ thiện gần đây hơn của các dân tộc. Người ta chỉ có thể là người quan sát sáng suốt và vô tư về cuộc sống con người khi đứng trên một cao điểm mà chúng ta có thể gọi là nghèo nàn tự nguyện. Kết quả của một cuộc sống xa hoa chỉ là sự xa hoa, dù trong nông nghiệp, thương mại hay văn chương nghệ thuật. Ngày nay chỉ có những giáo sư triết học, mà không có các triết gia. Nói ra điều ấy là đáng khâm phục bởi vì sống là đáng khâm phục. Là một triết gia không phải chỉ là có những tư tưởng siêu việt uyên áo, thậm chí cũng không phải là lập ra một trường phái, mà là yêu sự thông thái đến mức sống theo những tiếng gọi của nó, một đời sống đơn giản, độc lập, cao thượng, và tin tưởng. Đó là việc giải quyết một số vấn đề của cuộc sống, không phải về lí thuyết, mà về thực tiễn. Thành công của những học giả và những nhà tư tưởng lớn thông thường giống như thành công của triều thần, không phải vua, không phải thần dân. Họ sống tạm bợ chỉ bằng tuân phục, y như cha ông họ, và không hề là những người tiên phong của một giống người cao quý hơn. Nhưng tại sao con người cứ suy đồi đi? Điều gì làm các gia đình kiệt quệ? Bản chất của sự xa hoa, làm mòn mỏi và tàn phá các dân tộc, là gì? Chúng ta có dám chắc là không có phần nào của nó trong cuộc sống của chính chúng ta không? Triết gia đi trước thời đại của mình ngay cả trong hình thức bên ngoài của cuộc sống của ông ta. Ông ta không ăn, mặc, ở sưởi ấm như những người cùng thời của ông. Làm sao một người có thể là triết gia mà không duy trì cái nhiệt lượng sống của mình bằng những phương pháp tốt hơn những người khác?

Khi một người được sưởi ấm bằng nhiều cách thức mà tôi đã mô tả, hắn sẽ muốn gì tiếp theo? Chắc chắn không phải là muốn ấm hơn, theo cùng một cách, như thực phẩm phong phú hơn, những ngôi nhà nguy nga và tráng lệ hơn, áo quần đẹp hơn và thừa thãi hơn, nhiều ngọn lửa nóng hơn và không bao giờ tắt, và những thứ tương tự. Khi hắn đã có được những thứ cần thiết cho đòi sống, sẽ có lựa chọn khác hơn để đạt được những sự thừa thãi; và đó là, để phiêu du trên cuộc sống, từ nay hắn bắt đầu thôi không phải làm những công việc nặng nhọc tầm thường hèn mọn nữa. Đất có vẻ như đã thích hợp với hạt giống, vì những rễ con đã đâm sâu xuống, và bây giờ có lẽ những mầm chồi cũng vươn lên với đầy tự tin. Tại sao con người cứ bám rễ chắc vào đất, trong khi hắn cũng có thể vươn lên trời với cùng tầm như thế? - vì những cây quý đươc quý do hoa trái của nó sinh ra trong không khí và trong ánh sáng, xa mặt đất, và không bị đối xử như những thứ ăn được tầm thường, là thứ mà, dù có thể hai năm mới ra một lần, chỉ được trồng đến khi bộ rễ của chúng đã hoàn thiện, và thường bị bấm ngọn để ra rễ, khiến cho người ta hầu như không biết đến chúng trong mùa ra hoa của chúng.

Tôi không có ý định đề ra những quy tắc cho những bản chất mạnh mẽ và can trường, những người bận tâm về chuyên của họ trên thiên đường hay dưới địa ngục, và những người sống trong cảnh tráng lệ hơn, ăn tiêu phung phí hơn những người giàu nhất mà không sợ bị khánh kiệt (tôi không biết họ sống như thế nào nếu quả thật có những người như thế, như người ta thường tưởng tượng); cũng không cho những ai tìm thấy sự khích lệ và cảm hứng trong chính hoàn cảnh hiện tại này, và yêu nó bằng tình yêu và nhiệt tình của người đang yêu; - và, trong chừng mực nào đó, tôi cũng kể bản thân tôi trong số này; tôi không nói với những người được sử dụng tốt, trong bất kì hoàn cảnh nào, và họ biết họ có được sử dụng tốt hay không; mà chủ yếu nói với phần lớn những người bất mãn, và lười nhác ngồi than thở về số phận khắc nghiệt của họ, hay về sự khó khăn của thời thế, trong khi họ có thể cải thiện nó. Có một số người than phiền một cách hăng hái và không nguôi về bất cứ chuyện gì, bởi vì, như họ nói, họ đang làm bổn phận. Tôi cũng nghĩ đến những kẻ giàu có bề ngoài, nhưng lại là tầng lớp thật sự bần cùng hơn cả, những kẻ đã tích góp rác rưởi, nhưng không biết sử dụng nó, hay tống khứ nó đi, và họ đã quên đi những xiềng xích bằng vàng hay bạc của họ như vậy.

Nếu tôi cố gắng kể tôi đã muốn sống cuộc đời tôi thế nào trong những năm qua, có lẽ nó sẽ làm ngạc nhiên những ai trong số bạn đọc của tôi đã ít nhiều quen với câu chuyện thực của nó; chắc chắn nó sẽ làm sửng sốt những ai không biết gì về nó. Tôi sẽ chỉ gọi qua về những nỗ lực mà tôi đã quý trọng.

Trong bất kì thời tiết nào, vào bất kể giờ nào ngày hay đêm, tôi đã lo lắng tận dụng từng mẩu thời gian, và khắc cả lên cây gậy của tôi nữa; đứng vào vạch xuất phát tại điểm gặp gỡ giữa hai vĩnh cửu, quá khứ và tương lai, chính xác là thời khắc hiện tại. Bạn hãy bỏ quá cho tôi vài chỗ tối nghĩa vì trong công việc của tôi có nhiều bí mật hơn của phần lớn những người khác, và tuy không tự ý giữ, nhưng không tách rời khỏi chính bản chất của nó. Tôi sẽ vui lòng kể lại tất cả những gì tôi biết về nó, và không bao giờ kẻ dòng chữ "KHÔNG ĐƯỢC VÀO" lên cổng nhà tôi.

Cách đây đã lâu tôi bị mất một con chó săn, một con ngựa tía, và một con bồ câu [37], và tôi vẫn còn đang truy tìm theo dấu vết của chúng. Nhiều du khách từng được tôi kể cho nghe về chúng đã mô tả những vết tích của chúng và chúng đáp lại kêu gọi nào. Tôi đã gặp một hoặc hai người đã từng nghe tiếng con chó săn, và tiếng bước chân nặng nề của con ngựa, và thậm chí đã thấy con chim câu mất hút sau một đám mây, và họ lo đến chuyện tìm lại chúng như thể chính họ đã đánh mất chúng vậy.

Thấy trước, không chỉ mặt trời mọc mặt trời lặn, mà cả bản thân Tự nhiên nữa, nếu có thể. Bao nhiêu buổi sáng, mùa hè và mùa đông, trước khi bất kì anh hàng xóm nào lăng xăng với công việc của anh ta, tôi đã lo đến công việc của tôi. Chắc chắn có nhiều người cùng phố với tôi đã gặp tôi trở về từ công việc bận rộn ấy, những nông phu bắt đầu đi Boston từ lúc còn tờ mờ đất, hay những thợ đốn gỗ đi làm công việc của họ. Đúng là tôi chưa bao giờ giúp cho mặt trời mọc lên, nhưng chắc chắn có mặt lúc mặt trời mọc là vô cùng quan trọng.

Nhiều ngày mùa thu hay mùa đông, tôi ra ngoài thành phố, nghe ngóng tin tức, nghe ngóng và nhanh chóng loan truyền! Tôi gần như ném tất cả vốn liếng của tôi vào nó, đứt hơi vì nó, chạy chọt xoay xở. Nếu nó có liên quan đến một đảng phái chính trị nào đó, phụ thuộc vào nó, chắc nó đã xuất hiện trên tờ Công báo với tin tức tình báo sớm nhất. Vào thời gian khác nhìn từ đài quan sát của một vách đá hay một cái cây, đánh điện tín báo tin mới đến, hay ban tối từ trên những đỉnh đồi đợi cho trời sập xuống, để tôi có thể bắt được cái gì đó, mặc dù tôi chưa bao giờ bắt được cái gì, và đó, cái trí khôn như lộc trời [38] ban xuống, lại tan biến ngay dưới ánh mặt trời.

Trong một thời gian dài tôi làm phóng viên cho một tờ báo, phát hành không rộng rãi lắm, tổng biên tập của nó chưa bao giờ thấy phần lớn những gì tôi viết đáng để in, và, như rất thường xảy ra với những người cầm bút, để đền bù cho những cố gắng của tôi chỉ có công việc giao cho tôi nặng nề hơn. Nhưng trong trường hợp này, những cố gắng của tôi chính là phần thưởng cho chúng.

Trong nhiều năm tôi là một viên thanh tra tự bổ nhiệm, của những trận bão tuyết và những cơn bão nước, đã thi hành bổn phận của mình một cách trung thực; viên thanh tra, nếu không phải của những xa lộ, thì cũng của những con đường rừng, những con đường xuyên qua các lô đất, và những khe núi có cầu bắc qua và có thể qua lại cả bốn mùa, nơi mà những gót chân khách thập phương đã minh chứng cho ích lợi của chúng.

Tôi đã chăm nom cho bầy thú hoang của thành phố, cái lũ thường nhảy qua các hàng rào gây cho một người chăn dắt tận tâm quá nhiều phiền phức; và đã để mắt tới những xó xỉnh ít ai lui tới của nông trại; mặc dù tôi không phải lúc nào cũng biết Jona hay Solomon làm việc trong một mảnh ruộng cụ thể nào; đó không phải là việc của tôi. Tôi đã tưới nước cho cây việt quất đỏ, anh đào trên cát và cây tầm ma, cây thông đỏ và cây tần bì đen, cây nho trắng và viôlet vàng, nếu không chúng đã khô héo trong những mùa khô.

Tóm lại, tôi tiếp tục như thế trong một thời gian dài (tôi nói điều đó không hề khoác lác), tôi lo lắng cho công việc của mình một cách tận tâm, cho đến khi, cuối cùng ngày càng rõ ra là những người dân thành phố tôi không chấp nhận tôi vào danh sách những quan chức của thành phố, cũng chẳng cho tôi một chức vụ suông [39] với khoản tiền trợ cấp vừa phải. Những tài khoản của tôi, mà tôi có thể thề là tôi đã giữ một cách trung thực, thật ra tôi chưa bao giờ phải kiểm toán, ít thu, ít chi, và ổn định. Tuy nhiên, tôi không để tâm nhiều vào chuyện đó.

Cách đây không lâu, một người da đỏ bán hàng rong đến bán rổ ở nhà một luật sư nổi tiếng trong khu vực của tôi. "Ông có muốn mua rổ không?", anh ta hỏi. "Không, chúng tôi không cần rổ rá gì cả", là câu trả lòi. "Cái gì!" người da đỏ la lên khi ra khỏi cổng, "ông muốn chúng tôi chết đói hả?". Vốn thấy những người da trắng trong vùng cần cù sống sung túc, đứng theo dõi thấy người luật sư chỉ có đan những luận cứ của ông ta mà giàu có kì lạ, anh ta tự nhủ: ta sẽ lao vào làm ăn; ta sẽ đan những chiếc rổ, đó là việc ta làm được. Anh ta nghĩ rằng khi làm xong những chiếc rổ là anh ta đã xong phần việc của mình, và bây gờ việc của người da trắng là mua chúng. Anh ta chưa khám phá ra rằng anh ta cần phải làm ra chúng sao cho đáng cho người ta mua, hay ít nhất làm cho người ta nghĩ là đáng mua, hay làm cái gì khác đáng cho người ta mua. Tôi cũng vậy, cũng đan một loại rổ bằng một nghệ thuật đan rất tinh tế, nhưng tôi chưa làm cho người ta thấy đáng mua chúng. Tuy nhiên trong trường hợp của tôi, ít nhất tôi nghĩ tôi đã bõ công đan chúng, và thay vì nghiên cứu xem làm thế nào để người ta thấy đáng mua những chiếc rổ của tôi, tôi đã nghiên cứu xem làm thế nào để tránh cần phải bán chúng [40]. Cuộc sống mà người ta ca ngợi và coi như thành công chỉ là một loại. Tại sao chúng ta lại quá đề cao một loại nào đó mà hạ thấp những loại khác?

Thấy rằng những người dân thành phố của tôi không muốn cho tôi bất kì chỗ đứng nào trong tòa án, hay chức cha phó hay sống ở nơi nào khác, nhưng tôi phải tự chuyển hướng cho mình, tôi quay đầu hướng về rừng một cách quả quyết hơn bao giờ hết, ở đó tôi được biết rõ hơn. Tôi quyết định lao vào làm ăn ngay, và không đợi có được số vốn thông thường, chỉ dùng những phương tiện ít ỏi mà tôi đã có. Mục đích của tôi khi đi đến Đầm Walden không phải để sống tằn tiện hay sống xa hoa ở đó, mà để giải quyết một số việc riêng [41] với ít trở ngại nhất; bị trở ngại không hoàn thành được, vì thiếu một chút lương tri, một chút tài năng kinh doanh và lập nghiệp, tỏ ra không tệ như một thằng ngu.

Tôi đã luôn cố gắng để có những thói quen kinh doanh nghiêm ngặt; chúng là vô cùng cần thiết cho mọi người. Nếu bạn giao dịch buôn bán với Trung Hoa [42] (Celestial Empire), thì cần đặt một phòng tài vụ nho nhỏ trên bờ biển, trong một bến cảng Salem [43] nào đó là đủ. Bạn sẽ xuất khẩu những mặt hàng nào mà đất nước có thể làm được, những sản phẩm thuần túy nội địa, kim cương và gỗ thông nguyên cây, và một ít đá hoa cương, luôn luôn trong những bụng tàu bản địa. Đó sẽ là những dự án tốt. Tự bản thân bạn phải thấy trước mọi chi tiết; vừa làm thủy thủ vừa là thuyền trưởng, là ông chủ và người bảo hiểm; mua và bán và giữ sổ sách kế toán; đọc mọi bức thư nhận được, viết hay đọc mọi bức thư gửi đi, giám sát hàng nhập ngày và đêm; ở trên nhiều phần của bờ biển hầu như cùng một lúc; - những chuyến hàng giàu nhất thường bốc dỡ trên một bờ của đảo Jersey; - là điện báo viên của chính bạn, đưa mắt không mệt mỏi quét lên đường chân trời, nói chuyện với tất cả những tàu bè vượt qua ranh giới hải phận; duy trì việc gửi hàng đều đặn để cung cấp cho những thị trường xa xôi và đắt giá; luôn luôn nắm tin tức về tình hình các thị trường; những triển vọng chiến tranh và hòa bình ở khắp nơi, và đoán trước các xu hướng của thương mại và văn minh, - tận dụng các kết quả của mọi cuộc thám hiểm khám phá, sử dụng những con đường và những cải tiến mới trong ngành hàng hải, - nghiên cứu những hải đồ, nắm vững vị trí của những dải đá ngầm và những đèn biển và những phao mới, luôn luôn và luôn luôn, hiệu chỉnh các bảng tính logarit, vì chỉ cần một vài phép tính sai con tàu lẽ ra có thể đến được bến cảng thân thiện thì lại va vào đá tan xác, - hãy nhớ đến số phận bí hiểm của La Perouse [44]; - phải theo dõi sát sao các kiến thức khoa học phổ thông, nghiên cứu cuộc đời của tất cả những nhà phát minh lớn và những nhà hàng hải lớn, những nhà thám hiểm lớn và những nhà buôn lớn, từ Hanno [45] và Phoenicia [46] đến tận thời đại chúng ta, thường xuyên kiểm kê kho hàng để biết bạn có bao nhiêu. Đó là một công việc để giao cho một người đàn ông - những vấn đề đòi hỏi kiến thức phổ thông như lỗ và lãi, lợi tức, bao bì và chiết khấu, và các phép đo lường.

Tôi nghĩ rằng Đầm Walden sẽ là nơi tốt cho kinh doanh, không chỉ vì có đường sắt và buôn bán kim cương; nó còn đem đến những thuận lợi mà khôn ngoan thì không nên nói ra; nó là một cái cảng tốt và một cái nền tốt. Không phải lấp những đầm lầy rộng như sông Neva [47]; mặc dù chỗ nào bạn cũng phải xây nhà trên những cột trụ bằng sức mạnh của chính bạn. Người ta bảo triều cường cùng với gió tây, và băng trên sông Neva, có thể quét bay St. Petersburg khỏi mặt đất.

Vì tôi khởi sự kinh doanh mà không có số vốn thường lệ, có lẽ bạn đọc khó đoán tôi kiếm đâu ra những phương tiện không thể thiếu được đối với mọi công cuộc như thế. Nói ngay đến phần thực tiễn của vấn đề, như Quần áo chẳng hạn, có lẽ lòng yêu chuộng cái mới, và xem xét ý kiến của mọi người thường xuyên dẫn dắt chúng ta nhiều hơn là cái tiện dụng thật sự. Kẻ nào đang muốn may sắm hãy nhớ lại rằng mục đích của quần áo, một là để giữ lượng nhiệt-sống-còn, và hai là, trong bình diện xã hội, để che thân khỏi lõa lồ; và anh ta có thể suy xét việc may sắm ấy quan trọng hay cần thiết đến mức nào để không phải tăng thêm tủ quần áo của anh ta. Các đức vua và hoàng hậu vận một bộ trang phục, dù được may bởi thợ may chuyên may những bộ triều phục cho hoàng gia, không thể biết được cái thoải mái của một bộ quần áo mặc vừa vặn. Trông họ không khác nào những con ngựa gỗ để người ta mắc những bộ quần áo sạch lên. Những bộ quần áo chúng ta mặc hằng ngày ngày càng bị đồng hóa với chính chúng ta, nhận lấy dấu ấn tính cách của người mặc chúng, cho đến khi chúng ta miễn cưỡng lìa bỏ chúng, mà không kéo dài tuổi thọ của chúng bằng cách chữa trị, can thiệp y khoa hay những cách trang trọng khác, giống như đối với cơ thể của chúng ta. Tôi không đánh giá ai thấp hơn vì có một miếng vá trên quần áo, tuy nhiên tôi chắc chắn rằng thông thường người ta lo lắng nhiều về việc có những bộ quần áo hợp thời trang, hay ít nhất sạch sẽ và lành lặn, hơn là có một lương tâm trong sạch. Nhưng cho dù chỗ rách không được vá lại, có lẽ tật xấu tệ hại nhất là không biết lo xa. Tôi đôi khi thử những người quen của tôi như thế này; - ai có thể mang một miếng vá, hay chỉ là hai miếng may chần ("pich kê"), trên đầu gối? Phần lớn hành xử như thể tin rằng tiền đồ cuộc sống của họ có thể bị hủy hoại nếu họ dám làm thế. Đối với họ thà đi tập tễnh trên phố với một cái chân gẫy còn hơn là với một chiếc quần rách. Thông thường nếu tai nạn xảy ra với đôi chân của một quý ông, có thể chữa lành chúng; nhưng nếu tai nạn tương tự xảy ra với chiếc quần chẽn của ông ta, thì chẳng có cách gì, vì ông ta quan tâm không phải cái gì thật sự đáng tôn trọng, mà là cái gì được tôn trọng. Chúng ta chỉ biết một số ít đàn ông, nhưng một số lớn áo choàng và quấn ống túm. Bạn hãy mặc bộ quần áo bạn vừa thay ra cho một thằng bù nhìn giữ dưa, rồi lóng ngóng đứng bên cạnh, hỏi ai mà không mau mắn chào thằng bù nhìn trước? Hôm nọ đi qua một cánh đồng ngô, gần bên một chiếc mũ và một áo khoác trên một chiếc cọc, tôi nhận ra người chủ của trang trại. Ông ta chỉ hơi sạm nắng hơn khi tôi gặp lần trước. Tôi đã nghe kể về một con chó sủa tất cả người lạ quần áo chỉnh tề đến gần cơ ngoi của ông chủ nó, nhưng dễ dàng ngừng sủa trước một kẻ trộm trần truồng. Có một câu hỏi thú vị là con người còn giữ được tôn ti đến mức nào nếu họ bị lột bỏ toàn bộ quần áo? Trong trường hợp như thế, bạn có thể nói chắc chắn về tình bạn của những con người văn minh thuộc về một giai cấp đáng kính nào không? Khi Madam Pfeiffer [48] trong những chuyến phiêu lưu vòng quanh thế giới của bà, từ đông sang tây, đã về gần đến nhà, đến phần châu Á của nước Nga, bà nói bà cảm thấy cần mặc những bộ quần áo không phải trang phục du hành, khi bà đến gặp những nhà cầm quyền, vì bà lúc nay đang ở một nước văn minh, nơi...con người được đánh giá bằng quần áo của họ". Ngay cả trong những thành phố New England dân chủ của chúng ta, sự sở hữu tài sản ngẫu nhiên, và sự biểu lộ của nó chỉ qua quần áo và đồ đạc, đem lại cho chủ nhân của nó sự kính trọng hầu như phổ biến. Nhưng những người giành được sự kính trọng như thế, dù đông đảo, trong mức độ nào đó vẫn là những kẻ ngoại đạo, và cần gửi đến cho họ một đoàn truyền giáo. Ngoài ra, quần áo mở ra sự khâu vá, một loại công việc có thể nói là bất tận; ít ra, một bộ váy áo phụ nữ là chưa bao giờ được hoàn thành.

Một người đàn ông cuối cùng đã tìm thấy công việc của đời mình sẽ không cần một bộ quần áo mới để mặc khi làm công việc đó, đối với ông ta quần áo cũ cũng được, bộ quần áo đã nằm trong bụi bặm trên gác xép một thời gian vô hạn. Những đôi giày cũ sẽ phục vụ cho một nhân vật quan trọng lâu hơn chúng đã phục vụ cho người đầy tớ của ông ta - nếu nhân vật ấy có một đầy tớ - những bàn chân trần cũ hơn những đôi giày, và ông ta có thể khiến chúng làm thế. Chỉ có những người đến các buổi dạ hội và những tòa nhà lập pháp mới phải có những áo choàng mới, những áo choàng thay đổi liên tục như người mặc chúng. Nhưng nếu áo vét và quần của tôi, mũ và giày của tôi, là thích hợp mặc để thờ phụng Chúa, thì chúng là tốt, sao không? Có ai từng xài quần áo cũ của mình, chiếc áo choàng cũ chẳng hạn, đến nát bươm, đến mức đem cho một người nghèo, rồi người này có thể lại đem cho một người khác còn nghèo hơn cũng không thể coi là một việc làm từ thiện, hay chúng ta có thể nói: người giàu hơn là người cần ít hơn? Tôi khuyên bạn, hãy cẩn thận với những công việc cần những bộ quần áo mới, chứ không phải với người mới mặc những quần áo ấy. Nếu không có một người mới, thì những bộ quần áo mới được làm ra cho ai? Nếu bạn phải làm một công việc gì quan trọng, hãy thực hiện nó trong bộ quần áo cũ của bạn. Tất cả những gì người ta muốn, không phải là cái mà người ta làm với nó, mà là cái mà người ta làm hay đúng hơn là cái mà người ta là. Có lẽ, dù quần áo cũ rách hay bẩn đến đâu chúng ta cũng chỉ nên sắm một bộ mới, khi mà trong hành xử chúng ta luôn cảm thấy mình như những con người mới trong bộ quần áo cũ, và như thế việc giữ lại những quần áo ấy chẳng khác nào đựng rượu mới trong bình cũ [49]. Mùa thay lông đổi cánh của chúng ta, giống như ở loài chim, phải là một bước ngoặt lớn trong cuộc sống của chúng ta. Khi thay lông, con chim lặn gavia rút lui về những cái đầm cô đơn để sống qua mùa ấy. Rắn cũng lột da của nó, con sâu bướm lột lớp vỏ sâu của nó như vậy, bằng một hoạt động ráo riết và nở ra bên trong, vì quần áo chỉ là lớp biểu bì ngoài cùng của chúng ta. Nếu không, người ta sẽ thấy chúng ta đang bay lượn trong màu cờ sắc áo của người khác, và cuối cùng đằng nào cũng phải trút bỏ đi, theo ý kiến của chính chúng ta, hay của người khác.

Chúng ta mặc hết quần áo này đến quần áo khác, như thể chúng ta lớn lên như những cây ngoại sinh [50] mà không thêm thứ gì. Quần áo bên ngoài của chúng ta thường mỏng và kì cục, là biểu bì hay lớp da giả của chúng ta, chúng không tham dự vào sự sống của chúng ta, và ở chỗ này chỗ kia có thể lột bỏ chúng mà không gây thương tích trầm trọng; những quần áo dày hơn, liên tục mòn đi, là lớp vỏ tế bào, nhưng những chiếc áo sơ mi của chúng ta là lớp vỏ cây thật sự, không thể bị cởi ra mà không lột đi lớp vỏ quanh thân cây và như vậy phá hủy thân người. Tôi tin rằng tất cả mọi giống người trong một số mùa mang một thứ gì đó tương đương với áo sơ mi. Điều đáng mong muốn là một người đàn ông phải ăn mặc đơn giản đến mức anh ta có thể đặt tay lên thân mình trong bóng tối, và trong mọi phương diện anh ta sống cũng phải đơn giản để sẵn sàng đến mức nếu một kẻ thù chiếm thành phố, anh ta có thể, giống như một nhà triết học già, tay không bước ra khỏi cổng không hề lo sợ. Trong khi một bộ quần áo dày, hợp với phần lớn mục đích, tốt gấp ba lần một bộ quần áo mỏng, và quần áo rẻ tiền có thể kiếm được với những cái giá thật sự phù hợp với các khách hàng; trong khi một áo choàng dày có thể mua với năm đô la, có thể dùng nhiều năm, chiếc quần dày với hai đô la, đôi giày da bò một đô la rưỡi, một chiếc mũ mùa hè hai mươi lăm xu, và chiếc mũ ấm mùa đông sáu mươi hai xu rưỡi, hay một chiếc tốt hơn làm ở nhà với giá không đáng kể, ở đâu mà anh ta nghèo đến nỗi, mặc bộ quần áo như thế, bằng tiền anh ta kiếm được, mà không thể tìm thấy những người đàng hoàng tỏ lòng kính trọng anh ta?

Khi tôi yêu cầu may một bộ quần áo có dạng đặc biệt, chị thợ may của tôi nói với tôi giọng nghiêm trọng, "bây giờ người ta không mặc những thứ ấy", không nhấn mạnh chữ "người ta" như thể chị ta dẫn lời một uy quyền cũng vô nhân xưng như thần Định mệnh [51], và tôi thấy khó mà đặt làm được cái tôi muốn, đơn giản bởi vì chị ta không tin rằng tôi đã nói điều tôi định nói, rằng tôi thiếu suy nghĩ đến vậy. Khi nghe câu tối nghĩa này, trong một lúc tôi bị chìm đắm trong suy nghĩ, nhấn mạnh cho tôi từng từ tách biệt để tôi có thể tìm đến ý nghĩa của nó, để tôi có thể tìm ra người ta và tôi có quan hệ họ hàng gần gũi đến mức độ nào, và họ có quyền gì đối với một công việc tác động đến tôi sát sườn như thế, và, cuối cùng, tôi sẵn sàng trả lời chị ta bằng một câu bí ẩn ngang như thế, và cũng không hề nhấn mạnh chữ "người ta" - "Đúng đấy, gần đây người ta không mặc những thứ ấy, nhưng bây giờ họ mặc". Đo người tôi thì có tác dụng gì nếu chị ta không đo tính cách của tôi, mà chỉ đo bề rộng của đôi vai tôi, như thể nó là một cái mắc áo để mắc cái áo choàng lên đó. Chúng ta không thờ nữ Thần sắc đẹp [52], cũng không thờ thần Định mệnh [53], mà thờ nữ thần Thời trang. Nàng xe và dệt và cắt với đủ uy quyền. Con khỉ đầu đàn ở Paris đội chiếc mũ của khách qua đường lên đầu, và tất cả mọi con khỉ ở Mĩ làm theo y hệt. Đôi khi tôi muốn có được một cái gì đó hoàn toàn đơn giản và ngay thật được làm ra trong thế giới này bởi con người, nhưng tôi thất vọng. Họ đáng phải cho qua một máy ép mạnh, để ép cho những khái niệm cũ kĩ bật ra khỏi người họ, sao cho họ không thể lại đứng lên trên hai chân ngay, rồi trong bọn lại có kẻ có một con mọt ở trong đầu, nở ra từ một quả trứng vùi ở đó không ai biết từ bao giờ, vì lửa cũng không diệt được nó, và thế là mọi nỗ lực của chúng ta sẽ uổng công. Nhưng chúng ta không nên quên rằng một số hạt lúa mì đã được trao lại cho chúng ta hôm nay bởi một xác ướp Ai Cập.

Về tổng thể, tôi nghĩ rằng không thể cho rằng việc ăn mặc, ở nước này hay bất cứ nước nào khác, đã vươn tới giá trị của một nghệ thuật. Ngày nay con người dùng để mặc những gì mà họ có thể kiếm được. Giống như những thủy thủ đắm tàu, họ mặc lên người bất cứ thứ gì họ có thể tìm thấy trên bãi biển, và ở một khoảng cách ngắn, về không gian hay thời gian, cười những thứ giả trang của nhau. Mọi thế hệ cười những mốt cũ, nhưng theo mốt mới một cách sùng tín. Nhìn những bộ trang phục của Henry VII. hay Nữ hoàng Elizabeth, chúng ta cũng thích thú như những bộ trang phục của Hoàng đế hay Nữ hoàng Quần đảo Cannibal. Mọi thứ quần áo rời khỏi con người đều là đáng khinh hoặc kệch cỡm. Chỉ khi người mặc nó có con mắt nghiêm túc và cuộc sống thành thật, mới có thể chống chọi lại tiếng cười và làm cho quần áo của họ thành tôn nghiêm. Hãy tưởng tượng một Harlequin trong cơn đau bụng, trang phục của gã cũng sẽ phải giúp biểu lộ sự quằn quại của gã. Khi người lính trúng mảnh đại bác, thì những mảnh áo rách bươm cũng phù hợp như quần chầu áo tía [54].

Sở thích ấu trĩ và hoang dại của đàn ông và đàn bà về những mẫu mới khiến nhiều người phải xoay và nheo mắt ngắm qua những kính vạn hoa để tìm ra những hình mẫu đặc biệt mà thế hệ ngày nay đòi hỏi. Các nhà chế tạo mẫu biết rằng sở thích này chỉ là tưởng tượng mà thôi. Trong hai mẫu khác nhau chỉ vài đường chỉ, cái này sẵn sàng để bán, cái kia còn nằm lại trên giá, mặc dù rất thường xảy ra là sau một mùa cái thứ hai trở thành thời thượng nhất. Nói một cách tương đối, xăm mình không phải là một tập tục đáng ghét như người ta nói. Nó không dã man chỉ vì hình in ăn sâu vào da và không thay đổi được.

Tôi không thể tin rằng những hệ thống xưởng máy của chúng ta là phương thức tốt nhất nhờ nó con người có quần áo mặc. Điều kiện của công nhân đang trở nên ngày càng giống với điều kiện ở Anh [55]; và người ta không thể ngạc nhiên về điều đó, vì, trong phạm vi tôi đã nghe và thấy, mục tiêu chủ yếu của nó không phải là để cho loài người được ăn mặc tốt và trung thực, mà, chắc chắn là để cho các công ti có thể làm giàu hơn. Trong dài hạn con người chỉ đạt những gì mà anh ta nhằm tới. Do đó, cho dù anh ta có thể thất bại ngay, anh ta cũng nên nhằm tới một cái gì cao hơn.

Còn về Nơi ở, tôi không phủ nhận rằng ngày nay nó là một nhu cầu của đời sống, mặc dù có những trường hợp con người đã sống không cần đến nó trong những khoảng thời gian dài trong những nước còn lạnh hơn thế này. Samuel Laing [56] nói rằng "những người Láp [57] trong n