← Quay lại trang sách

Trên Những Nẻo Đường Sài-Gòn

SÀI-GÒN hiện hữu trong tôi. Một Sài-gòn bệnh hoạn, xanh xao! Mỗi thước đường, mỗi gốc cây, đối với tôi hình như xa lạ. Tôi nhìn Sài-gòn bằng đôi mắt vừa giận, vừa thương! Sài-gòn đó, vẫn ngần ấy thước khối bê-tông và thép, vẫn ngần ấy đại tộ, vẫn ngần ấy con hẻm và ngần ấy mái tôn, lẩn khuất đó đây! Tôi đã sống những giờ phút vô cùng trống rỗng, tưởng như lạc vào một khung cảnh xa lạ không thuộc về mình.

Trong những ngày buồn bã, tôi đạp xe, chiếc xe cũ

kỹ, lang thang trên các nẻo đường để tìm lại những gì mà trong thời gian dài xa cách mình thường hồi tưởng.

Tên đường Sàì-gòn đã được thay đổi, như Điện Biên Phủ, Xô Viết Nghệ Tĩnh, Đường ba mươi tháng tư, Đồng Khởi hay gì gì nữa, nhưng với tôi, chúng vẫn là đường Phan thanh Giản, Hồng Thập Tự, Trần quốc Toản và Tự Do! Con đường Tự Do ngày trước, con đường của son phấn lượt là! Biết bao nhiêu bàn chân thon nhỏ đã qua lại nơi này với hương thơm tỏa từ mỗi ô vuông sỏi đá! Nhưng đường Tự Do hôm nay không còn gì để nhìn ngắm, không có gì để ghi lại trong tiềm thức, dù một chút lưu luyến. Chỗ nào cũng hiện ra hình ảnh của bon chen, giành giật. Bề mặt của đường phố, phô bày một cái gì sượng sùng không thoải mái. Nhà hàng Brodard cũng như Givral không còn máỵ điều hòa không khí. Các cánh cửa kính được mở tung. Ẩm khách chẳng bao nhiêu, ngoài vài khuôn mặt xa lạ. Có lẽ, vì thiếu cái không khí cần thiết của một nơi gặp mặt mang nhiều tính chất phong lưu! Chúng đã thuộc về quốc doanh. Một quán phở hiện diện lạc lõng, không thích họp ở nơi thanh lịch này. Các cửa tiệm không có gì để nhìn, để ngắm. Căn Phòng Thông Tin trước kia, nay là nơi chuyên bán đồ tiểu công nghệ dành riêng cho ngoại kiều trả bằng đô-la. Tôi đi vơ vẩn để tiếc nhớ, để nhận về phần mình những thiệt thòi minh bạch. Sinh hoạt của Sài-gòn hôm nay mang tính cách kỳ quặc! Nó hỗn loạn, vô trật tự! Từ nơi xa, nếu nhìn thấy đám đông, chắc chắn nơi đó có nguồn lợi! Người ta chen lấn, xô đẩy, mua bán ngay tại chỗ, những gì vừa đưa ra khỏi cửa. Mỗi người, tay nắm chặt tờ hộ khẩu như nắm sinh mạng của gia đình mình vì đi đâu, làm gì, đều phải có hộ khẩu. Những người đàn bà không mang sắc mà mang bị lớn. Tiền họ không để trong ví mà nhét trong quần phía dưới bụng, nơi bất khả xâm phạm. Tôi đứng nhìn cái đám người bu kín một khung cửa hẹp, bên cạnh nhà ngủ Cửu-Long (Khách sạn Majestic cũ) như đàn kiến bu quanh cục đường, lòng thấy bồn chồn. A, đời sống! Dưới chế độ nào cũng vậy, con người đều phải lao động mới có cơm ăn, áo mặc, nhưng đặc biệt dưới chế độ cộng sản, nếu khôn ngoan, con người vẫn sống mà không cần lao động, giữa một chế độ coi lao động là vinh quang. Danh từ chuyên môn gọi là “chạy mánh”. Mỗi món hàng được mua theo giá qui định, có thể bán ra lời gấp năm, mười lần. Chưa bao giờ người dân Sài-gòn lại có thể công khai buôn bán chợ đen như bây giờ. Chính nhà nước cộng sản đã chủ mưu, làm cho đời sống mỗi ngày một đắt đỏ, dân chúng ngày càng kiệt quệ!

Đường Lê Lợi và Lê Thánh Tôn vẫn đông đảo người qua lại. Hai bên vỉa hè chật cứng quán hàng. Buôn bán bây giờ là chuyện chụp bắt, càng lừa được nhiều càng tốt, chưa bao giờ Sài-gòn có nhiều lưu manh như bây giờ. Cộng Sản đánh thuế rất nặng và tùy hứng, không có luật lệ gì. Cơ quan thu thuế là một chuyện, vấn đề tịch thu lại thuộc về cơ sở khác, do đó, không phải cứ đóng thuế là yên tâm buôn bán. Thành phố Sài-gòn hôm nay có điều tôi ưa thích vì rất ít xe hơi, đường phố thênh thang. Giai cấp xe hơi lúc này thuộc về tụi cộng sản. Dân chúng hiện chỉ còn hai phương tiện di chuyến: xe gắn máy dành cho dân chạy mánh, còn xe đạp cho công nhân viên và thường dân nhưng không phải ai cũng có xe đạp, dù xe cũ. Tôi nghĩ đến nhưng năm trước 75, mỗi buổi tan sở, kẹt xe cả tiếng. Ai muốn sang đường phải đến ngã tư chờ đèn, nếu không chẳng cách gì qua được. Nay đường phố vắng hoe. Tôi có thể vừa đạp xe vừa mơ mộng. Tôi mơ mộng những gì, tôi đang nghĩ những gì về Sài-gòn hôm nay, một Sài-gòn mất mát rất nhiều, từ nhánh cỏ tới tàng cây. Tôi đạp xe, bàn chân quay đều đều; chiếc xe đưa tôi đi thăm tất cả nơi nào tôi muốn. Tôi đi tìm lại khoảng thời gian đã mất. Đại lộ Thống Nhất vắng hoe, dinh Độc Lập trước kia sinh động, biết bao diễn tiến lịch sử đã từ nơi ấy xẩy ra, nay nó ảm đạm cô quạnh. Lá cờ đỏ nhỏ síu cắm trên cao rủ xuống như một giọt máu khô. Những thảm cỏ úa vàng, tràn ngập lá héo, Những cây khoai mì được trồng bừa bãi. A, tụi Cộng Sản hay thật dù ở nơi nào cũng vậy, luôn luôn chúng sợ đói! Từ sáng sớm mỗi ngày, đài phát thanh đã eo éo nói về, nơi này vượt chỉ tiêu, nơi kia tăng năng xuất, nơi nọ thâm canh, tăng vụ! Với thành quả như vậy, không hiểu sao, đi đến đâu nhà nước Cộng Sản vẫn xin ăn đến đấy? Quả thực, vấn đề ăn uống là vấn đề hàng đầu của nhà nước Cộng Sản Việt-Nam! Tất cả do sự thiếu lao động, mọi người chỉ muốn ăn không muốn làm.

Trong thời gian quản chế, không được phép ra khỏi thành phố nên Sài-gòn đối với tôi như một vòng đai hạn chế tự do, như một nhà tù lớn. Sự thực, chẳng riêng gì Sài-gòn mà cả nước Việt-Nam biến thành một nhà tù khổng lồ từ ngày có Cộng Sản, vì ngoài những người đã và đang sống trong các trại tập trung cải tạo từ Bắc vào Nam, dân chúng cũng bị tước đoạt hết quyền tự do, quyền làm người! Những khuôn mặt tôi đã gặp, đã thấy, dù quen hay lạ đều hằn lên những nét ưu tư, khổ nhục! Họ sống câm nín, thu mình trong chiếc vỏ. Có thể họ cười, có thể họ ca hát, nhưng đằng sau nụ cười, câu hát, nó chứa chấp một sự tình không thể nói ra, trừ với những ai gọi là ‘‘đồng chí.”

Chưa bao giờ người dân miền Nam lại sống giả dối như bây giờ! Họ giấu giếm, họ thì thầm, họ mưu tính những gì ít ai có thể biết. Nhà nước Cộng Sản đã dùng một lực lượng Công An đông đảo như vậy mà cũng không ngăn cản nổi những đợt sóng vượt biên cũng như hoạt động của các Lực Lượng Phục Quốc!

Tôi vừa đạp xe vừa ngó sinh hoạt hai bên lề đường. Trong các thành phố văn minh, máy móc quá, con người cũng mất đi một phần lạc thú ở đời. Nếu tôi sống ở một thành phố nào đó, con người phải chạy đua với tốc độ thời gian, chắc chẳng bao giờ tôi cảm thấy sự nhàn hạ và thích thú, một mình một ngựa, dong chơi một cách an toàn, không sợ tai nạn lưu thông!

Có buổi sáng, thức dậy sớm, chẳng biết làm gì, tôi đạp xe ra phố. Đèn đường chưa tắt, những ngọn đèn vàng khè, thấp thoáng ẩn hiện, chỗ có, chỗ không. Một vài chiếc xích-lô đạp lăn bánh từ từ đợi khách. Giai cấp xích-lô đạp hôm nay đều thuộc giới thanh niên. Họ để tóc dài lấp gáy, mặc đồ lam lũ, đôi khi là đồ của binh chủng dù. Ít khi tôi được nhìn thấy người già hoặc đứng tuổi đạp xe như khi trước. Những thanh niên này phần đông thuộc lớp tuổi trên dưới ba mươi. Có thể họ là sinh viên, là cựu chiến sĩ, có thể họ là sĩ quan cấp nhỏ được Cộng Sản tha sớm, chẳng biết làm gì để sống hơn nghề đạp xích-lô. Thành phố Sài-gòn bị giới nghiêm từ mười hai giờ đêm đến năm giờ sáng. Nhưng vì vấn đề sinh sống từ bốn giờ người ta đã nghe tiếng xe gắn máy các loại nổ chát chúa báo hiệu một ngày bắt đầu. Từ ngã tư một chiếc xe ba-gác chất đầy rau muống do một chú bé độ mười lăm tuổi đạp ì ạch với sự phụ giúp của người mẹ, cúi gập người đẩy đi. Tôi lên Sài-gòn theo ngả Võ Tánh. Tiếng chuông nhà thờ Huyện Sĩ vang vang. Trời đã gần sáng. Cơn gió sớm mai mát rượi làm tôi cảm thấy yêu đời hơn một chút. Vừa đạp, tôi vừa nghĩ tại sao mỗi sáng mình không dậy sớm, đạp một vòng xe như thế này cho khoẻ người?

Tôi đang ở đầu con đường Gia-Long, nơi trước chuyên buôn bán xe gắn máy. Tất cả cánh cửa đều đóng kín. Một vài con chó sục sạo dí mõm vào thùng rác bên lề đường. Bỗng mắt tôi hoa lên khi nhìn thấy dọc theo các mái hiên những thân người, nằm co quắp, cả già lẫn trẻ, đàn ông lẫn đàn bà. Cũng may mùa mưa đã hết, tuy trời gần cuối năm, đêm thường lạnh, họ cuốn vào người tất cả những gì họ có thể giữ yên giấc ngủ. Quả thực chưa bao giờ tôi được nhìn cảnh người ngủ đường nhiều như vậy! Tôi nghe nói trong những năm đầu “giải phóng”, Cộng Sản bắt những gia đình không có công ăn việc làm nhất định và gia đình nào có người đi cải tạo đều phải đi vùng kinh tế mới. Một số gia đình đã bị cưỡng bách đi và sau một thời gian lao động, họ cảm thấy không thể sống được với mấy củ khoai, củ sắn, họ bỏ về. Nhưng họ sẽ về đâu? Nhà cửa đã bị Cộng Sản chiếm, nên họ phải ngủ đường, dùng ngay số nhà nơi họ ngủ dưới hiên để lập hộ khẩu. Họ làm đủ nghề để sống, kể cả ăn mày, làm điếm, ăn cắp! Chưa bao giờ thành phố Sài-gòn có nhiều ăn mày như lúc này!

Con đường Gia-Long không phải con đường duy nhất có người ngủ vỉa hè mà hầu khắp khu vực xung quanh chợ Sài-gòn đều có, cũng như trong Chợ Lớn, cuối đường Nguyễn Trãi, gần bệnh viện Sùng Chính có một vỉa hè rộng, cứ chập tối từng chiếc chiếu được trải ra, mỗi chiếc một gia đình, ở đầu đường Hồng Thập Tự cũng vậy. Nơi đây họ sinh hoạt công khai, ăn ngủ, nấu nướng cả ngày lẫn đêm, coi vỉa hè như căn nhà chính thức của họ.

Trời đã sáng rõ. Tôi đạp xe như kẻ lãng du. Thành phố Sài-gòn thức dậy thật mệt mỏi, giống cô gái điếm sau đêm hành lạc. Tôi cứ để mặc cho chiếc xe muốn trôi đi đâu cũng được! Quẹo trái, quẹo phải cũng thế, nếu đi thẳng, chẳng sao! Nắng đã lên. Từng mảng ánh sáng phủ lên ngọn cây, trên tòa cao ốc. Những chiếc xe đạp túa ra đường. Tôi nhìn họ, rồi nhìn mình. Chúng tôi đều giống nhau qua hình thức. Điều làm tôi ngạc nhiên là các thiếu nữ Việt-Nam trước kia, họ phải cưỡi P.C. hoặc ngồi phía sau, nghiêng người vòng tay ôm chặt người tình trên những chiếc Vespa, Honda, Lambretta mới lịch sự. Nhưng nay, cỡi xe đạp, họ chở nhau trông cũng dễ thương không kém. Mới hay, mỗi hoàn cảnh đều có những đặc điểm riêng của nó!

Tôi quay trở về vào khoảng gần trưa, theo đường Nguyễn Du. Tôi đi ngang qua vườn Tao Đàn. Nơi đây bây giờ trở thành khu vực sinh hoạt thường trực của thanh niên và cũng là nơi tổ chức các cuộc vui có tính cách đại chúng. Chiếc cổng sắt đóng kín, khoá chặt bằng sợi xích to, bên ngoài có kẽm gai. Người ta ra vào bằng ngả Hồng Thập Tự. Ngay trên trụ cổng, nơi có đặt tấm dalle, một đứa con gái khoảng mười tám tuổi đang nằm ngủ. Nó ngủ say sưa dưới bóng mát của tàng cây. Chiếc áo vén lên gần ngực. Một mảng trắng của da thịt lồ lộ. Tôi bàng hoàng khi chợt nghĩ, nếu ngủ mê, nó lăn xuống không khỏi gẫy tay, lọi chân. Nhưng nghĩ lại, tôi thấy mình ngớ ngẩn, vì với cơn ngủ say ấy, chắc chắn không phải giấc ngủ thứ nhất, đùa giỡn với nguy hiểm. Nó đã ngủ nhiều lần và coi đó như chiếc giường riêng. Ngay phía dưới, trước căn nhà biến điện thành phố, tôi thấy một đứa con gái, nếu nhìn mặt, vào khoảng mười lăm tuổi, đang ôm trong lòng đứa nhỏ lớn bằng củ khoai. Con bé vạch một bên vú cho con bú. Bên cạnh đấy, một gã con trai đen đủi, trông khá khoẻ mạnh đang lui cui nấu cơm. Tôi ngó sững vào đứa con gái và không thể ngờ với cái tuổi ấy đã phải mang chức phận làm mẹ! Cuộc sống lề đường đã đẩy con người vào muôn vàn khốn khó. Tôi cũng không thể hiểu được rồi mai đây, cuộc sống của họ sẽ ra sao, nếu không có phép lạ xẩy đến! Sài-gòn hôm nay nhiều chụyện phi lý, không thể tin, nhưng có thực! Tôi đạp xe mà hình ảnh hai mẹ con đứa nhỏ cứ ám ảnh hoài. Đời sống vỉa hè còn biết bao nhiêu chuyện thương tâm, nhưng vì nó xẩy ra trong bóng tối nên không ai hay biết.

Nắng dọi xuống càng lúc càng tăng. Từng vòng bánh quay, quay đều, thu ngắn dần đoạn đường đưa tôi về nhà. Mỗi con phố tôi đi qua, ít nhất cũng có một quán cà-phê dù to hay nhỏ. Quán có thể là một ngôi nhà khang trang lịch sự, có bàn ghế và băng nhạc, cũng có thể ở một vỉa hè nào đó, bầy dăm bẩy chiếc ghế gỗ thấp với vài chiếc bàn nhỏ. Tôi không hiểu sao, thanh niên uống cà-phê lại đông đảo như vậy? Họ uống sáng, uống trưa, uống tối. Họ ngồi uống để tâm sự, để nói với nhau những gì, không ai biết, nhưng qua dáng điệu và nét mặt, cũng đoán được phần nào những u uẩn trong lòng họ. Dưới chế độ Cộng Sản, thanh niên là tầng lớp gánh chịu nhiều phiền muộn nhất. Lớp bị gọi đi nghĩa vụ quân sự, lớp đi Thanh niên xung phong, lớp đi làm những công tác lao động đặc biệt. Cộng Sản đã lừa phỉnh thanh niên bằng khẩu hiệu: “Nơi nào cần, thanh niên có. Nơi nào khó, có thanh niên.” Họ sử dụng thanh niên như sử dụng một bầy nô lệ, nô lệ cho chế độ Cộng Sản. Không một ai dám cưỡng chống vì Trại Cải Tạo lúc nào cũng mở rộng cửa để đón những ai không phục tùng lệnh gọi. Các danh từ phản động, ngoan cố, chống đối chế độ được chụp lên đầu ngay và từ đó, được coi như đối tượng chính trị! Mọi người đều sợ đi cải tạo vì không có ngày về. Tất cả những ai bị bắt, bị giam giữ đều không được xét xử công khai theo pháp luật mà cứ bị giam cầm cho tới ngày nào Cộng Sản muốn tha thì được.

Hiện miền Nam có bốn loại tù, tù chính trị gồm những người thuộc chế độ miền Nam cũ và Lực Lượng Phục Quốc, tù vượt biên, tù hình sự và tù Cộng Sản, giam cầm các loại cán bộ có tư tưởng chống đối, tham nhũng và bộ đội đào ngũ!

Khi vừa quẹo xe vô ngõ, mắt tôi bỗng gặp cảnh tượng vô cùng kinh ngạc. Một người cụt hai chân tới bẹn, nằm úp sấp trên tấm ván nhỏ, có bốn bánh xe, do một em bé trạc mười hai tuổi kéo. Tuy đã cụt nửa người nhưng thân xác vẫn to lớn gân guốc. Đứa bé kéo hết sức, sợi dây căng thẳng. Tiếng bánh xe sắt nghiến vào mặt xi-măng rào rạo. Gặp chỗ mấp mô khó kéo, gã cụt dùng hai khuỷu tay có bọc hai miếng vỏ xe hơi, chống xuống đất để tăng thêm sức đẩy chiếc bàn gỗ qua khỏi chỗ khó. Tôi nhìn những giọt mồ hôi chẩy nhễ nhại trên khuôn mặt trẻ thơ, xanh xao vì thiếu dinh dưỡng. Gã cụt cất giọng thảm thiết xin ăn. Mỗi âm thanh phát ra như từng mũi nhọn xuyên vào tâm cảm người nghe. Tôi dúi vào lòng tay em bé một đồng, rồi phóng nhanh qua khỏi. Cuộc chiến đã chấm dứt từ lâu nhưng nó còn để lại trên mảnh đất này những vết tích còn lâu mới phai mờ!...

Về đến nhà với chiếc áo ướt đẫm mồ hôi, tôi cởi nhanh bước vô phòng tắm. Dòng nước mát rượi chẩy ào ạt, rửa sạch bụi đường, bực bội!

Buổi tối nay trời oi ả. Tôi nhìn lên vòm cao. Màu trời đen kịt, vài ánh sao thưa thớt mờ ảo. Tôi dắt xe ra cửa. Con đường Cộng Hòa (nay là Nguyễn văn Cừ) chỗ sáng, chỗ tối vì có nhiều bóng đèn chết, không được thay. Tôi đạp về phía Lý Thái Tổ định đến thăm Trác, một ca sĩ có giọng hát trầm ấm mà tôi hằng ưa thích. Đến nơi, anh đi vắng. Trác mới được Cộng Sản thả về sau sáu năm cải tạo. Chẳng biết đi đâu, tôi cứ đạp lang thang đây đó. Đường phố Sài-gòn ban đêm càng thê thảm, nhiều bóng tối hơn ánh sáng. Đường phố hình như rộng ra vì ít xe và người qua lại. Tôi đạp mà không biết phố nào, đường nào. Trước mắt tôi chập chờn từng mảng mầu sắc loang lổ của những bức tường lâu ngày không quét vôi. Một dòng nhạc lãng đãng trôi vào khoảng trống do một quán cà-phê nào gần đó. Sinh hoạt thật trầm buồn. Tôi đã có mặt tại Chợ-Lớn, một khu trước kia vào giờ này thật nhộn nhịp. Những trà đình tửu quán ồn ào tiếng chén đĩa. Rượu được rót như dòng suối không bao giờ cạn. Những thân xác nõn nà uốn mình sau nếp lụa. Những chiếc xe hơi bóng lộn. Những dư thừa của đời sống nơi đây chẩy tràn trề, đã nuôi sống một số người đêm đêm bám vào nó. Chợ-Lớn, một thành phố trong thành phố, một dân tộc trong dân tộc! Đại lộ Đồng Khánh (nay là Trần Hưng Đạo II) đêm đêm sáng rực ánh đèn mầu, hai bên lề phố như mời mọc qụyến rũ sự ham muốn làm đẹp đời sống. Nay, cũng con đường đó, tôi chẳng nhìn thấy gì ngoài những khuôn cửa sắt khép kín và rải rác bên lề đường một vài chiếc quán nhỏ bán quà bánh thực phẩm bình dân, thuốc lá nội hoá. Những người Việt gốc Hoa có tiền bạc đã ra đi, tương đối sự ra đi của họ dễ hơn người Việt-Nam nhiều. Cách vài ngã tư, lại có một tên Công An lưu thông đứng gác. Trông hắn quê mùa, nhưng chớ lầm, nếu ai vi phạm luật lệ, đừng hòng thông cảm. Công An Việt Cộng rất cứng dắn trong vấn đề phạt vạ vì hắn được chia tỷ lệ theo số tiền phạt.

Tôi đạp xe theo những con đường lúc trước thường qua lại. Tôi dừng xe nơi công viên trước tòa Hành Chánh quận Năm. Mỗi chiếc ghế, mỗi gốc cây, từng cặp đã chiếm giữ. Họ ôm ấp, hôn hít và làm mọi cử chỉ yêu thương, đôi khi quá sỗ sàng, dưới ánh đèn, trước mặt mọi người. Rải rác chung quanh có những cô gái lượn lờ qua lại, cười chúm chím, mặt hơi cúi xuống, nhưng mắt vẫn ngước lên đưa tình! Tôi ghếch xe vào vỉa hè, ngồi im trên yên, có vẻ như chờ đợi ai đó!

Một cô qua lại trước mặt tôi vài lượt, bỗng dừng lại hỏi:

- Chào anh Hai, chờ ai đó? Tôi đáp bâng quơ:

- Có ai đâu mà chờ!

- Ủa thế mà em ngỡ!

- Ngỡ sao?

- Em cứ ngỡ anh chờ bồ chứ?

- Bồ đâu mà chờ! Lúc này đã già, đời tàn rồi, còn ai yêu nữa!

- A, anh nói giỡn dzậy đó, nếu không có ai, anh “đi” với em nhé!

Tôi sững mắt nhìn, cô gái còn trẻ lắm. Dưới ánh đèn mờ mờ, da mặt cô tái xanh. Làn môi phơn phớt hồng vì có tô son. Thân hình cô quả thực không mấy hấp dấn. Cô nhõng nhẽo:

- Đi anh, mình ra sau nhà thờ nói chuyện! Vừa nói, cô vừa giơ tay chỉ về hướng nhà thờ Cha Tam, nơi ông Diệm đã trốn ở đấy một đêm trước ngày bị giết vào cuối năm 1963.

- Đứng đây không được sao?

- Đây không tiện, ở đó vắng vẻ!

Tôi cứ ngồi trên yên xe, không nhúc nhích. Cô gái cho tay cầm lấy ghi-đông như có ý giữ tôi. Với tình thế này nếu cứ lằng nhằng khó mà dứt. Tôi nói thẳng thắn:

- Nè cô, nói thiệt, anh đi cải tạo mới về, làm gì có tiền mà chơi bời.

Vừa nghe xong cô gái trừng mắt nhìn tôi, thảng thốt. Giọng nói của cô nghẹn ngào như cố chặn tiếng khóc.

- Ủa thật dzậy sao? Trời!

Hai tay cô ôm lấy mặt, hai vai rung lên. Tôi toan nhân dịp này phóng xe đi luôn, nhưng cô gái đã bỏ tay xuống, hai mắt long lanh nhìn chằm chặp vào tôi như cố lôi ra những gì mà nhận thức cô chưa tìm thấy. Tôi bàng hoàng:

- Sao nhìn dữ vậy?

- A, em cũng có người anh đi cải tạo chưa dzề đó anh! Em còn mẹ già phải nuôi và cần tiền để mua quà gửi vào Trại Cải Tạo nên em mới...

Như không giữ nổi xúc động, cô khóc rưng rức. Tôi sợ người chung quanh nhìn, có thể gây ngộ nhận, nên nói an ủi:

- Thôi mà cô, đời như vậy đó! Nín đi, kẻo người ta hiểu lầm!

Cô vẫn khóc như giòng suối sau cơn mưa. Không cách nào hơn, tôi ấn mạnh chân vào bàn đạp. Chiếc xe nghiêng nghiêng rồi lao nhanh vào mặt lộ lấp loáng mờ ảo như trong giấc mộng.

Đêm đó, tôi không ngủ được. Hình ảnh cô gái điếm lề đường với người anh đi cải tạo và người mẹ già làm tôi nghĩ đến bao nhiêu hoàn cảnh, bao nhiêu trường hợp đau khổ mà nhiều gia đình phải gánh chịu trong bảy năm gần đây và còn đến bao lâu nữa?

Căn phòng tối om. Tự nhiên trong đầu tôi chợt nhớ lại hình ảnh căn nhà trưng bày tội ác Mỹ Ngụy, với những chiếc khăn quàng đỏ của các học sinh cấp một. Cộng Sản đã tìm đủ mọi hình thức, đủ mưu mô sảo quyệt để cấy vào trí não các em nhỏ lòng câm thù chế độ cũ. Chúng lừa bịp các em nhỏ còn thơ ngây, trong trắng, bằng cách cho quàng chiếc khăn đỏ và được tuyên dương là “cháu ngoan Bác Hồ.” Mỗi sáng thứ sáu, chúng hướng dẫn lần lượt từng trường chở xe cho đến tham quan “Căn nhà tội ác”. Vì tò mò tôi cũng đã vào thăm căn nhà tội ác đó! Nhằm mục đích khích động, gây căm thù, tụi Cộng Sản đã ghi chú ở mỗi vật được trưng bầy những dòng chữ kết án chế độ cũ. Điều đó cũng dễ hiểu, nhưng với các em nhỏ trên dưới mười tuổi, làm sao các em có thể suy luận, phán đoán đâu là sự thực? Trong chiếc sân khá rộng, người xem lần lượt đi từ khẩu đại bác 175 ly nằm dài thườn thượt đến chiếc xe tăng M.48, chiếc máy chém từ hồi Pháp thuộc để lại, rồi bom bi CBU. Bên trong nhà được phân chia thành những khu riêng. Nào hình ảnh nhà tù Côn Sơn, nào chuồng cọp giam cầm các “chiến sĩ cách mạng.” Những cảnh đầy ải, bắn giết thật tàn bạo, ghê tởm do lính Mỹ cũng như Việt gây ra. Nào “văn hoá đồi trụy” với các tác phẩm của Nhã Ca, Doãn quốc Sĩ, Mai Thảo, Dương nghiễm Mậu và nhiều nhà văn khác. Nào tên Phạm Duy với các bản nhạc phản động. Nào cảnh xì ke ma túy, Cộng Sản không bỏ sổt một khía cạnh nào không khai thác về bốn diện: chính trị, kinh tế, quân sự, văn hoá. Chúng chỉ quên không nói đến những trái rốc-két đêm đêm đã rót vào các thành phố của miền Nam lúc trước, gây bao tang tóc, những trái mìn, những cảnh chém giết tập thể man rợ tại khu Đá Mài ở Huế, Tết Mậu Thân 1968 và những Trại Cải Tạo vô cùng hà khắc rải rác từ Bắc tới Nam, còn dã man tàn bạo hơn Côn Sơn, chuồng cọp nhiều, theo nhận xét của Hai Khuynh, tên Cộng Sản đã từng tham quan những Trại Cải Tạo ở miền Bắc, giam giữ sĩ quan các cấp. Hai Khuynh, trong những ngày đầu giải phóng, hắn là cán bộ văn hoá cấp cao của Mặt Trận Giải Phóng. Khi viết để chửi bới những người làm văn học nghệ thuật miền Nam, trong cuốn “Những tên biệt kích trên mặt trận văn hoá tư tưởng dưới thời Mỹ Ngụy” hắn ký là Huy Khánh.

Đêm đã vào khuya. Tất cả đều chìm vào vắng lặng. Từng cơn gió nhè nhẹ, mơn man làm dịu bớt nỗi buồn. Tôi nhắm chặt mắt cố đi vào giấc ngủ.

Tôi tỉnh dậy muộn sau một đêm trằn trọc, Sài-gòn đối với tôi bây giờ chỉ được hình dung qua mấy người bạn. Chúng tôi nhất định không chơi với tụi văn nô Cộng Sản. Chúng có thể bỏ tù, bắn giết, chửi bới, xuyên tạc nhưng chúng không có cách nào tham dự vào đời sống tinh thần của chúng tôi. Chúng tôi đều biết, bất cứ lúc nào Cộng Sản cũng có thể bắt lại chúng tôi với một lý do nào đó, nhưng những người làm văn học nghệ thuật miền Nam không vì thế mà sợ sệt. Chúng tôi không khiêu khích vì biết mình ở thế yếu, nhưng cũng không quỵ lụy cầu xin nơi Cộng Sản sự bình yên. Chúng tôi sống cách biệt, tạo ra sinh hoạt riêng, chỉ có chúng tôi thôi! Mỗi lần gặp nhau chúng tôi nói chuyện thoải mái, tha hồ tâm sự. Trong những ngày buồn, tôi và Quốc đạp xe đi xuyên suốt thành phố. Chúng tôi phác họa những dự tính mai sau, Quốc thường nói với tôi:

- Trong anh em, ông là người có hoàn cảnh hơn cả. Ông nên đi và gào to cho Thế Giới biết về cách cư xử của Cộng Sản đối với anh em văn nghệ sĩ miền Nam và đòi Cộng Sản phải cho những người đó ra đi nếu họ muốn. Lúc ấy, tôi thường nhìn Quốc với cái nhìn buồn rầu:

- Sao các ông lại quá tin tưởng vào Thế Giới Tự Do như vậy? Ông tưởng Cộng Sản nó sợ lắm sao?

Số anh em, những người còn ở lại đều mang cùng tâm trạng. Nỗi buồn của chúng tôi vơi đi mỗi lần họp mặt. Nhưng đôi lúc ngồi một mình một bóng, muốn viết không được viết, muốn vẽ không được vẽ, nhìn đời mình trôi đi, trôi đi như bèo bọt, trong lòng tôi lại dâng lên làn sóng phẩn nộ, giận hờn!

Buổi tối nay, Quốc rủ tôi đến nhà Tâm để nghe nhạc. Tâm, một ca sĩ có giọng ca nhí nhảnh vui tươi, đã có một thời vinh quang. Sống dưới chế độ Cộng Sản, Tâm vẫn son phấn lượt là! Nhìn nàng như nhìn một bó hoa lộng lẫy. Chồng nàng hiện đương bị giam cầm tại Chí Hòa vì đã hoạt đông chống đối với nhà nước Cộng Sản.

Trong một căn phòng nhỏ, trưng bầy gọn gàng, dễ thương. Một nhánh cây, một bông hoa, một cuốn sách đều được bàn tay khéo léo của Tâm chăm sóc, gây một không khí ấm cúng trong một không gian thu hẹp.

Buổi tối nay, ngoài Tâm còn có Tuấn, một nhạc sĩ Tây Ban Cầm. Tuấn rất trẻ, mái tóc bồng bềnh phủ lấp trán như che khuất đôi mắt kính cận dầy cộm. Những ngón tay dài vươn ra, lướt trên cung bậc. Ôi, những tiếng đàn, thoát ra từ lòng gỗ bay bay vào không gian như từng mũi nhọn, lút sâu vào tâm cảm. Tiếng đàn rào rạt, cuồn cuộn như dòng thác xô vào vách đá, dội lại những dư âm thật tha thiết, thật day dứt. Tiếng hát cất lên, vút cao run rẩy hòa vào âm thanh dìu nhau đi lên miền cao của nghệ thuật. Tôi và Quốc như hai sinh vật có đó mà linh hồn đã thoát xác a nhập vào vùng ánh sáng đầy hào quang do âm nhạc tạo nên; tiếng nhạc càng vào khuya càng não nề. Sau cùng Tuấn độc tấu bản Los Sitios De Zaragoza của David Mareno. Những âm thanh dồn dập như có muôn vạn bước chân đi xen lẫn tiếng kèn, tiếng trống. Tất cả mọi người có mặt như bị cuốn hút vào cơn lốc, một cơn lốc dị kỳ, ở đấy không có chi, còn chi để nuôi tiếc giận hờn! Ở giữa lòng Cộng Sản mà còn được hưởng những giây phút này quả thực hạnh phúc!

Chúng tôi ra về. Mặt đường loáng nước sau cơn mưa, không khí dịu hẳn xuống. Tôi và Quốc bước những bước chân chầm chậm. Chúng tôi chưa muốn về nhà. Tôi kéo Quốc vào quán Cà-phê bên lề đường. Hai người tìm một chỗ khuất. Giờ này quán đã vắng khách. Một ngọn đèn bão treo lơ lửng dưới chiếc mái, che bằng tấm bạt nhà binh cũ, vì tối nay khu này bị cúp điện. Chủ quán, một người đàn bà tuy chưa già nhưng không còn trẻ. Đôi mắt sâu thăm thẳm lẫn vào bóng đêm. Giờ này, chính thực không phải giờ uống cà-phê, nhưng uống chỉ là cái cớ để chúng tôi ngồi nói chuyện. Chúng tôi nhắc đến những nổi nhục nhằn đã gánh chịu, đến những bạn văn nghệ giờ đây còn bị giam cầm trong các Trại Cải Tạo. Câu chuyện tuy đã được nói nhiều lần, nhưng mỗi lần gợi lại, vết thương tự nhiên lại tấy lên! Cái hố ngăn cách giữa Cộng Sản và chúng tôi như không có cách gì lấp nổi! Trong lúc chúng tôi đang thì thầm, bỗng từ ngoài đi vào hai tên bộ đội. Người đàn bà đon đả:

- Dạ, mấy anh dùng chi?

- Cho hai cốc nước chanh!

Trong khi chờ đợi, họ nói chuyện. Tôi không muốn nghe, không muốn nhìn, đứng dậy toan trả tiền, nhưng Quốc đã níu tay kéo xuống:

- Hãy còn sớm mà!

Tôi gieo mạnh người xuống ghế. Một trong hai tên bộ đội quăng gói thuốc lá trên bàn rồi đăm đăm nhìn nhau:

- Bao giờ cậu đi? - Mai! - Cậu đi đoàn nào? K.242! - Mặt trận “K" căng đấy! - Từ ngày vào, cậu “lơn” được đào nào chưa? - Chưa, con gái miền Nam “nạ” quá, tụi nó không thích bộ đội! - Tại cậu không chịu bám trụ - Bám cái đéo gì, chưa nhìn, nó đã quay đi, bám vào đâu?

Tiếng cười khục khục âm âm trong bóng tối. Lời đối thoại, tuy nhỏ, nhưng lúc này quán vắng nghe khá rõ.

Tôi cương quyết đứng dậy. Quốc đứng theo. Chúng tôi đi với nhau một đoạn đường rồi chia tay.

Buổi sáng hôm sau, nhìn lịch, tôi chợt nhớ hôm nay thứ sáu, ngày họp mặt thường lệ mỗi tuần giữa tôi và hai người bạn chí thiết: Lê và Văn. Lê không phải nhà văn. Hắn là người dùng văn, còn Văn nhà trang trí. Mỗi thứ sáu, chúng tôi gặp nhau ở nhà Lê để uống café và đấu láo. Lê biết rất nhiều chuyện về Cộng Sản. Khi tôi đến, Văn đã có mặt.

- Sao, đến muộn vậy? Tối qua chắc lại bê bối ở đâu rồi!

Tôi cười tỏn tẻn:

- Lấy đâu khả năng mà bê bối. Hồi hôm đi với Quốc đến nhà Tâm nghe nhạc.

Lê cười, một nụ cười soi mói:

- Cái tên này nói, khó tin như Cộng Sản vậy! Này, hỏi thật, cậu có muốn đi tắm hơi không?

Tôi ngó Lê, hắn vẫn cười. Văn tiếp:

- Lê nó nói đứng đắn đó! Chẳng những tắm hơi mà còn chơi bời, xem phim con heo, và uống rượu ngoại quốc nữa. Cậu muốn thứ nào cũng có, từ Napoléon, Courvoisier, Whisky đến Champagne, miễn phải chi hơi nặng.

Tôi hỏi ngu ngơ:

- Chừng bao nhiêu? - Cái đó còn tùy, nhưng căn bản là hai ngàn đồng. Tôi lè lưỡi: - Sao đắt vậy? Số tiền đó, sống được hai tháng, mấy cha!

Lê trừng mắt nhìn tôi:- Đ. mẹ, giữa cái “thành phố của già Hồ” dầy đặc Công An này mà được chơi những thứ đó là nhất thế giới rồi còn gì nữa, mà chê đắt với rẻ!

Tôi ngó Lê: - Ai tổ chức? - Còn ai vào đấy nữa, chỉ có tụi nó mới dám làm, có xe hơi đưa cậu đi về, an toàn, khỏi lo bị bắt!

Tôi cười nghi hoặc:

- Thôi cha, nhỡ nó giăng lưới thì bỏ mẹ, con ngán nhà tù lắm rồi!...

Chúng tôi vừa uống café vừa nói đủ mọi thứ chuyện ngoài Bắc trong Nam tới gần trưa. Vì biết tôi sắp vượt biên, Lê bảo:

- Chiều mai cậu lên nhà thằng Văn nhậu chơi để anh em tâm sự cho hết, kẻo cậu đi rồi, lại hối tiếc! Vợ tôi sẽ nấu nồi cháo gà. Sở dĩ phải tổ chức ở nhà thằng Văn vì nó còn giữ được cái máy lạnh!

Tôi hỏi: - Có rượu không? Văn cười: - Cậu khỏi lo, thằng Lê lo cháo, tớ lo rượu! Tôi hỏi móc: - Nhưng cậu có rượu gì mới được chứ? Đ. mẹ dưới chế độ Cộng Sản, rượu nếp than là nhất rồi. Nếu cậu có thứ gì hơn cứ việc mang đến! Đếch uống được bao nhiêu, cứ nói phét!

Cả ba chúng tôi cười trước khi chia tay.

Do đó đời sống của chúng tôi, những người làm văn học, nghệ thuật tại miền Nam vẫn có những giây phút vui tươi. Chưa bao giờ chúng tôi thấy thương yêu nhau hơn bây giờ, nói như vậy không tuyệt đối, vì tôi biết, có người đã đầu hàng, đã tình nguyện làm tay sai cho Cộng Sản, bán xác anh em như tên Dũng Dakao chẳng hạn!

Sự vui chơi của chúng tôi được khép kín, dù tổ chức dưới hình thức nào, chúng tôi luôn luôn đề phòng cảnh giác! Trên các nẻo đường Sài-gòn, tôi đã gặp lại, sau những năm dài xa cách, thực sự biến đổi. Nó không còn mang nhưng nét duyên dáng của Sài-gòn hôm trước. Nó tiều tụy, tả tơi, nghèo nàn trong mọi sinh hoạt. Càng đi sâu để tìm hiểu, tôi càng cảm thấy đời mình bị mất mát quá nhiều. Thời gian cứ phai đi một dòng tẻ nhạt, nếu không có những cuộc gặp gỡ giữa anh em. Trác, người danh ca mới nhận được gói quà từ ngoại quốc gửi về. Anh có nhã ý mời vui một bữa, gồm một số anh em làm văn nghệ, hầu hết đã sống trong các trại tù Cộng Sản. A, từ lâu lắm, tôi mới được uống một ly Cognac, hút thuốc lá Mỹ. Trác đã mượn một căn phòng khá rộng, khá kín đáo, gần trường đua Phú Thọ để làm nơi họp mặt. Những món nhậu ngon lành, do vợ con anh thực hiện bầy la liệt dưới sàn gạch. Tôi chợt nghĩ đến sự đói khát thiếu thốn trong thời gian ở tù. Cầm ly rượu mạnh trong tay, tôi nhấp từng ngụm nhỏ. Đã gần bảy năm, cơ thể tôi mới lại tiếp thu chất men ngọt lịm từ từ thắm qua cuống họng trôi xuống, làm mạch máu rạo rực xôn xao, như kẻ khao khát tình yêu được gặp lại người tình mơ ước! Nhã, một nhà văn phái nữ đã bị tù, bị Cộng Sản kết án là phản động, đồi trụy là một trong “Những Tên Biệt Kích trên Mặt Trận Văn Hóa Tư Tưởng dưới thời Mỹ Ngụy” nhìn tôi trách:

- Nhã đến thăm anh mấy lần, không gặp đó!

Tôi cười xòa xin lỗi. Nghiễm ngồi gần dấy chêm:

- Tìm ông anh là khó lắm! Từ ngày được tha về, ông anh thủ trên lầu. Dưới nhà bảo đi vắng. Đạp xe hộc máu mồm, đến nơi không gặp, bố ai dám lại!

Nghiễm cười tinh quái. Tôi cũng lảng sang chuyện khác:

- Nhã này, khi ở trong tù, cô dữ lắm hả? Anh nghe nói tụi nó gọi cô là hổ cái, có đúng không? Nhã cười:

- Nhã chửi tụi nó tùm lum anh ơi! Sợ gì? Mình có tội gì đâu mà nó bắt mình nhận tội. Nhã bảo thẳng cho tụi nó biết, tôi có xe hơi, nhà lầu là do sức lao động trí óc của tôi tạo ra, chứ có bóc lột của ai đâu? Mới bể bầu được năm ngày đã cắm đầu viết, viết suốt ngày đêm mới có đó, chứ không ăn bám như tụi mấy anh! Nó tức quá, nhốt Nhã vào cát-sô. Được ít hôm, nó thả, Nhã không chịu ra, tụi nó hỏi, tại sao? Nhã trả lời: - Mấy anh tha, mai tôi lại chửi, mất công nhốt lại, vì vậy để tôi nằm đây cho tiện! Nói xong Nhã cười, nụ cười tự tin, bất cần đời!

Hiện Nhã có hai đứa con đang bị nhốt về tội vượt biên và chồng Nhã, một thi sĩ bị bắt từ năm 76 đến nay theo diện nhà văn, còn bị giam giữ tại Pleiku. Nhã nói cho tôi nghe một lần đi thăm chồng, đang ngồi chờ, một tên Công An đã đến ngồi trước mặt, cho chân khoèo chân nàng dưới gậm bàn để gỡ gạc vì Nhã trông còn trẻ khi trang điểm. Nhã tức giận hét to:

- Nè, tui nói cho cậu biết, cậu đáng tuổi con tôi, sao lại giở cái trò khốn nạn đó ra. Tui vào báo cáo với Ban Giám Thị ngay, nếu cậu còn tiếp tục cái trò mất dạy! Tên Công An bẽn lẽn lủi đi cái một! Đó, anh thấy không, tụi nó cũng khốn nạn lắm. Cách mạng cái khỉ khô gì?

Qua thái độ của Nhã, tôi cảm thấy hổ thẹn, khi biết những người tù đã từng chỉ huy, đã từng vào sinh ra tử mà không giữ được nhân cách và tinh thần bằng một nữ nhi khi sa cơ!...

Căn phòng lúc này ồn ào đầy tiếng cười nói qua khói thuốc. Giọng nói của Hiếu lè nhè vì rượu đã ngấm. Hiếu, một nhà văn có kiến thức rộng và có lối viết châm biếm, cay độc. Lại còn Cường, còn Ngọc, còn Thủy và cụ Vũ, nhà văn lão thành ngoài bảy mươi tuổi, có màu da hơi tối. Lúc trẻ, cụ có làm bạn với ả phù dung nhưng cụ đã vĩnh biệt nàng từ lâu. Nhã hỏi khẽ:

- Ông cụ kia, có phải là người Chà không anh? Tôi cười, nói cho Nhã biết ông cụ đó là nhà văn Vũ Bằng thuộc thế hệ tiền chiến. Nhã cười: - Nghe tiếng ông cụ từ lâu, hôm nay mới biết!

Nhưng cuộc vui nào rồi cũng phải tàn, chúng tôi như một bầy chim no mồi, bay về những chiếc tổ riêng biệt từ cuối đến đầu thành phố.

Hơi rượu mạnh ngấm vào máu chưa hả hết. Tôi đạp lảo đảo trên con phố rộng nhưng không có ánh sáng.

Tin Tuyền được tha làm anh em vui mừng hết sức. Tuyền, nhà thơ, nhà văn rất sợ cô đơn nên lúc nào cũng tỏ ra mình không còn cô độc. Có một thời gian, vào năm 1977- 78, tôi và Tuyền cùng ở chung trại tại biên giới Việt Hoa. Chúng tôi đã chia sẻ với nhau từng điếu thuốc lào. Quốc đến rủ tôi đi thăm Tuyền bên miệt Gia-Định, Quốc cho biết, Thanh con chim họa mi cũng muốn đi. Chúng tôi đến nhà Thanh, gần chợ Thái Bình từ sớm, leo những bực thang dốc ngược. Căn nhà Thanh ở, giống chiếc tổ chim. Dù ở trên lầu cao, Thanh cũng cố tạo cho mình một khung cảnh nên thơ, thích hợp với tâm hồn nghệ sĩ. Một giàn thiên lý ngát hương, những dò phong lan thả từng chiếc lá xanh dài với chùm hoa tím ngắt. Những chậu kiểng xinh xinh đặt rải rác đó đây. Một chiếc ghế xích-đu để sẵn như mời mọc! Thanh đang sửa soạn. Người đàn bà nào cũng vậy, bao giờ họ cũng cần một thời gian để làm đẹp. Thanh không còn trẻ nhưng vẫn duyên dáng. Tuổi đời và hoàn cảnh riêng tư đã làm mái tóc nàng phai xanh. Tôi ngồi ngắm Thanh trang điểm như ngắm một tác phẩm. Tôi biết nàng đang gìn giữ ở trong cuống họng một giòng suối âm thanh mà thời gian hình như bất lực trước thiên bẩm.

Quốc mời Thanh ngồi đằng sau xe nhưng nàng từ chối. Thanh cười bải lải:

- Xa quá mà anh, chở gì nổi! Để em đi xích-lô.

Nhà Tuyền nằm trong một ngõ hẻm khá sâu. Nếu không có Quốc, khó mà tìm! Tuyền đã chờ chúng tôi ở đầu ngõ. Tôi và Tuyền xa nhau từ giữa năm 1979, tới nay mới gặp lại. Gần ba năm xa cách, Tuyền vẫn vậy, có phần mập ra. Đôi lông mày xếch ngược như hai nét mác, làm nét mặt Tuyền có vẻ dữ, nhưng sự thực Tuyền rất hiền. Trong những ngày bị giam cầm, Tuyền vẫn làm thơ, những vần thơ tủi nhục. Tuyền ôm tôi trong vòng tay thắm thiết. Chúng tôi nói chuyên những câu chụyện vui không thuộc kỷ niệm trong tù. Một ấm trà vừa pha, một đĩa bánh ngọt. Tuyền rót nước, mời chúng tôi ăn bánh. Nhìn thấy cây đàn treo trên vách, Thanh đứng lên gỡ xuống ôm chặt vào lòng. Tiếng đàn rung lên từng cung ngắn ngủi. Tôi nhìn, nhìn từng ngón tay thon hồng vuốt nhẹ những sợi tơ. Thanh nghiêng đầu. Mái tóc nàng xõa xuống, mềm nhẹ. Chiếc cổ trắng ngần nâng khuôn mặt khả ái, đôi môi nàng không tô son đỏ thắm mà phơn phớt như cánh hoa phù dung lúc xế trưa.

Tiếng đàn xô cuốn dồn dập. Đôi mắt Thanh chìm lắng vào dòng mộng. Đột nhiên tiếng hát cất cao. tôi nghe thấy một rừng chim đua nhau hót, có lúc, tôi mường tượng thấy muôn ngàn dòng suối tự triền cao trút xuống, trút xuống từng chuỗi thanh âm dào dạt, len lách qua bao nhiêu phiến đá, qua bao nhiêu khu rừng hoang dã, qua bao nhiêu miền thung lũng xanh tươi. Thanh hát. Căn phòng của Tuyền hình như không còn đủ dung tích để chứa đựng hết khối lượng âm thanh, nó muốn vỡ toang để hòa vào dòng nhạc. Tiếng hát như có ma lực hút cuốn tất cả những gì đang hiện diện xung quanh nó để tạo nên một không khí đặc thù, chỉ riêng Thanh mới có đủ tài năng hình thành. Thanh hát, ôi tiếng hát đã cho tôi tìm thấy một khoảng đời đã mất, đã cho tôi quên đi hiện tại, đã hòa tan hồn tôi vào một thế giới huyễn hoá, vô thường. Các ca khúc của Phạm Duy, Cung Tiến lần lượt được cất cao, cao vút giữa một không gian ứ đọng, nghẹn ngào!

Chẳng biết từ bao giờ, người lối xóm đã đứng ôm cứng ngoài hàng ba nhìn vô. Thanh buông đàn. Hình như nàng chưa ra khỏi dòng mộng, đôi mắt nàng chìm lắng, đôi môi hé nở như để cho những dư âm cuối từ cuống phổi thoát ra ngoài. Quả thực tiếng hát của Thanh đã vượt thời gian. Với tuổi đời xấp xỉ năm mươi, tiếng hát vẫn còn đủ uy lực làm chết sững bao nhiêu tâm hồn yêu ca nhạc.

Chúng tôi ra về khi mặt trời đứng bóng. Buổi trưa Sài-gòn đang ở cao độ. Ánh sáng phả xuống mặt đường bốc hơi làm rát mặt. Tôi gò lưng đạp, cố gắng leo hết con dốc Cầu Bông. Chiếc áo đã ướt đẫm mồ hôi. Tôi nhìn Quốc cũng vậy. Đến đầu ngã tư, mỗi người đi về một phía. Trước khi chiếc xe đưa Thanh quẹo ngả khác, nàng chìa tay ra phía ngoài vẫy vẫy, Tôi nhìn qua ánh nắng, từng ngón, từng ngón thon dài lấp lánh như ảo ảnh.

Buổi trưa nay, chưa muốn về nhà, tôi đạp ra thẳng bờ sông. Bến Bạch Đằng vào giờ này không có ai rong chơi. Sông Sài-gòn, nước đang lên. Dòng nước chảy chầm chậm. Những con tàu đậu sát bờ làm tôi nghĩ đến con tàu vượt biên. Tôi biết, một ngày nào đó, có thể chính dòng nước này sẽ đưa tôi đi tìm Tự Do, đưa tôi thoát khỏi một cuộc sống tù ngục, dù Sài-gòn đã buộc chặt tôi bằng rất nhiều kỷ niệm! Tôi đạp xe dọc theo con lộ. Tôi và dòng nước vẫn nhìn rõ nhau. Một chiếc đò máy đang chạy giữa dòng. Tiếng máy nổ âm vang truyền đi từ mặt nước vọng đến tai nghe rất rõ. Tôi nghĩ, tại sao mình không có nó trong tay? Tại sao giữa một cuộc sống khốn khó như vậy, con người có thể gánh chịu được và gánh chịu đến bao giờ? Tôi biết, một ngày nào mình đi, sẽ bỏ lại Sài-gòn với những con đường, những gốc cây, những chiếc cột đèn, những kiến trúc và còn những gì nữa đã in sâu vào tiềm thức từng phân vân, từng niềm vui quá khứ! Tôi nhìn dòng sông như nhìn một người tình mơ ước. Ngày nào đó, tôi sẽ ôm theo trong tôi hình ảnh đứa bé cho con bú ở cổng vườn Tao Đàn, những thân xác khốn cùng, sống vất vưởng hằng đêm trên hè phố, hình ảnh cô gái bị hoàn cảnh xô đẩy đến đường cùng phải đi làm điếm, gã cụt chân với em bé, những khuôn mặt bạn bè và tiếng hát!...

Mồ hôi chảy đầm đìa trên khuôn mặt, tôi đưa tay lên vuốt xuống. Mắt tôi cay sè chấp chới qua ánh nắng gay gắt trải dài trên con lộ không cây.

Sungei Besi 9-1-1982.