ĐOẠN KẾT
Bây giờ là mùa mưa thứ hai kể từ ngày gia đình tôi dọn lên ở xóm này. Dù đã được đặt hệ thống cống thoát nước, dù đã xây tường quanh các đường hẻm, thỉnh thoảng, khi trời mưa thật lớn, nước mưa vẫn tràn ứ qua những bức tường ngăn, ào vào nhà chúng tôi. Những lần như thế, chúng tôi lại phải tát nước, lau nhà như trước. Nhưng không phải chúng tôi làm việc dưới ánh đèn dầu lờ mờ nữa, mà dưới ánh đèn điện sáng choang.
Những buổi chiều mưa, nước đằng cổng chợ vẫn ngập ứ, xe cộ vẫn chết máy la liệt. Có khác năm trước một điều là tôi đã vào được đệ thất trường công trên tỉnh, không còn cái thú về học, lội nước ngang vùng ấy nữa. Nhưng bù lại, với chiếc xe đạp cũ của bố tôi, bố tôi đem sơn lại cho tôi đi học, một lúc nào hứng chí, tôi chở cái Trâm hay cái Loan chạy ngoài đường, len lỏi giữa những chiếc xe lam, những chiếc xe hơi chết máy. Để nhớ lại một hôm xa xưa, bố tôi chở tôi về học. Để co chân thật cao mỗi khi xe đảo vào chỗ nước ngập. Để nghe tiếng nước rẽ rèn rẹt dưới bánh xe...
Gia đình tôi không một ai còn tỏ ý than thở về những tiện nghi thiếu thốn trong khu xóm nữa. Cũng không ai hối hận chút nàovề quyết định ở lại đây. Chúng tôi đã tham gia vào sinh hoạt của khu xóm, đã thực sự trở thành dân xóm.
Bố tôi vẫn đi bán phở, mẹ tôi vẫn trông sạp báo và vé số. Tối đến, hôm nào không có bài vở phải soạn hay học, tôi theo bố tôi đi bán phở. Không còn một chút mặc cảm trong tôi. Tôi vui vẻ và hãnh diện khi bưng phở vào nhà khách. Dĩ nhiên, càng bán phở lâu, tôi càng sợ mùi phở, nhưng tôi yêu cái tên quen thuộc của tôi mà người trong xóm đã gọi “thằng con ông bán phở”
Vâng, tôi yêu những tiếng thương mến đó. Như yêu căn nhà chật hẹp của gia đình tôi. Như yêu những con ngõ rác rưới, ổ gà, nhô ra, thụt vào. Như yêu những chiều mưa ngập lụt.
Tôi yêu xóm nhỏ của tôi vô cùng.
Phúc Hải, mùa mưa 1971
NGUYỄN THÁI HẢI