Chương 39.
Khi tôn giáo hợp nhất luật pháp và nghĩa vụ, ngươi không bao giờ trở nên hoàn toàn có ý thức, không bao giờ nhận thức đầy đủ về chính mình. Ngươi luôn luôn kém hơn đôi chút so với một cá nhân.
- trích "Muad'Dib: Chín mươi chín điều kỳ diệu của vũ trụ" của Công chúa Irulan/p>
Xưởng khai thác hương dược của dân buôn lậu, cùng với tàu vận tải mẹ và đội tàu chim của nó, bay tới chỗ các đụn cát gồ lên, trông hệt như một bầy côn trùng nối đuôi theo con chúa. Phía trước bầy côn trùng là một trong những rặng đá thấp trồi lên từ nền sa mạc giống như những hình thu nhỏ của Tường Chắn. Những bãi đá khô cạn của rặng này đã bị trận bão vừa mới đây quét sạch.
Trong đài quan sát trong suốt hình mái vòm của xưởng khai thác, Gurney Halleck cúi về phía trước, điều chỉnh các thấu kính dầu của ống nhòm rồi khảo sát cảnh quan. Bên ngoài rặng đá, ông nhìn thấy một khoảnh tối có thể là một vụ nổ hương dược, liền phát tín hiệu cho một chiếc tàu chim đang liệng bên ngoài, ra lệnh cho nó bay đi kiểm tra.
Chiếc tàu ve vẩy cánh để cho thấy nó đã nhận được tín hiệu. Nó tách khỏi bầy, lao về phía trảng cát sẫm màu, vừa lượn vòng quanh khu vực đó vừa thò máy dò xuống lơ lửng gần mặt cát.
Gần như ngay sau đó, nó cụp cánh nhào xuống rồi lượn vòng, để cho xưởng khai thác đang chờ đợi kia biết đã tìm thấy hương dược.
Gurney đút ống nhòm vào bao, biết rằng những người khác đã nhìn thấy tín hiệu. Ông thích nơi này. Rặng đá cho nơi trú ẩn và che chở. Nơi này sâu trong sa mạc, khó lòng bị mai phục được... tuy rằng... Gurney ra hiệu cho một đội tàu bay lượn trên rặng đá, rà soát kỹ, cử quân dự bị đến cắm chốt thành đội hình quanh khu vực này - không quá cao bởi khi đó các máy dò của phía Harkonnen có thể phát hiện ra họ từ xa.
Tuy vậy, ông không tin quân tuần tiễu Harkonnen sẽ tiến xa về phía Nam đến thế. Đây vẫn là xứ sở của người Fremen.
Gurney vừa kiểm tra vũ khí của mình vừa nguyền rủa số phận vì đã khiến cho tấm chắn thành vô dụng ở đây. Bất cứ cái gì có thể vời sâu cát đến thì đều phải tránh bằng mọi giá. Ông vừa xoa xoa vết sẹo vì cây nho mực trên hàm vừa nghiên cứu quang cảnh, quyết định rằng an toàn nhất là dẫn một toán đi đường đất băng qua rặng đá kia. Thám sát bằng cách đi bộ vẫn là cách chắc ăn nhất. Chừng nào Fremen và Harkonnen vẫn còn muốn cắt cổ nhau thì có cẩn thận mấy cũng không thừa.
Ở đây chính người Fremen mới làm ông lo lắng. Họ không nề hà gì việc buôn bán hương dược với ta, ta muốn mua bao nhiêu cũng có, nhưng họ sẽ là những con quỷ sẵn sàng giao chiến nếu ta đặt chân đến nơi họ cấm ta không được tới. Hơn nữa dạo gần đây họ trở nên láu cá cực kỳ.
Sự láu cá và khéo léo trong chiến đấu của những người bản địa này, nó khiến Gurney khó chịu. Họ cho thấy sự tinh vi trong nghệ thuật chiến tranh, tinh vi chẳng kém bất cứ cái gì ông từng gặp, trong khi chính ông đã được huấn luyện bởi những chiến binh giỏi nhất trong vũ trụ, những kẻ dạn dày máu lửa trong các trận đánh mà chỉ số ít những kẻ ưu việt nhất mới có cơ sống sót.
Một lần nữa Gurney chăm chú nhìn quang cảnh, tự hỏi tại sao ông cảm thấy bồn chồn. Có lẽ đó là do con sâu cát mà họ đã thấy... nhưng ấy là ở phía bên kia rặng đá.
Một cái đầu nhô lên, tiến vào đài quan sát cạnh Gurney - chỉ huy xưởng khai thác, một tay cướp biển già độc nhãn râu rậm, cặp mắt xanh ngắt còn răng trắng như sữa do thực đơn nhiều hương dược.
"Xem ra chỗ này khẳm phết, thưa ngài," viên chỉ huy xưởng khai thác nói. "Tôi đưa người vào nhé?"
"Hãy xuống chỗ rìa rặng đá kia," Gurney ra lệnh. "Để tôi đổ bộ cùng với người của tôi. Từ chỗ đó ông có thể dùng xe tới nơi có hương dược. Chúng tôi sẽ đi kiểm tra chỗ tảng đá kia."
"Vâng."
"Nếu có chuyện gì, hãy cứu xưởng khai thác," Gurney nói. "Còn chúng tôi sẽ leo lên tàu chim."
Chỉ huy xưởng khai thác đứng nghiêm chào. "Vâng, thưa ngài." Ông ta chui xuống dưới qua cánh cửa sập.
Một lần nữa Gurney quan sát khắp đường chân trời. Ông phải lưu ý đến khả năng ở đây có người Fremen và ông đang xâm phạm nơi này. Người Fremen khiến ông lo lắng, sự bền bỉ dẻo dai của họ, hành tung khôn lường của họ. Trong chuyện làm ăn này có nhiều điều khiến ông lo lắng, nhưng phần thưởng thì lại lớn. Việc không thể cử các tàu cảnh vệ bay cao trên đầu cũng khiến ông lo lắng. Việc cần thiết phải cắt liên lạc bằng vô tuyến càng làm tăng nỗi bồn chồn bất an của ông.
Con bọ-xưởng khai thác xoay mình, bắt đầu bò xuống. Nhẹ nhàng, nó lướt dọc bãi cát khô dưới chân rặng đá. Những bước chân giẫm lên cát.
Gurney mở nắp vòm đài quan sát, tháo các đai đeo bảo vệ ra. Đúng vào lúc xưởng khai thác ngừng chuyển động thì ông bước ra ngoài, đóng sập nắp đài quan sát lại sau lưng, trèo ra trên các tấm chắn bánh xích rồi đu mình xuống cát phía bên ngoài tấm lưới dự phòng sự cố. Năm người thuộc đội cận vệ riêng của ông từ cửa sập đằng mũi chui ra ngoài cùng ông. Những người khác điều khiển cho phi đội vận chuyển của xưởng khai thác tách riêng ra. Nó tách ra, nhấc bổng lên rồi lượn một vòng thâm thấp trên đầu.
Ngay lập tức con bọ-xưởng khai thác kềnh càng lắc lư trở dậy, nhún mình rời khỏi chỏm đụn cát, di chuyển về phía trảng hương dược tối đen lộ ra trên cát.
Một chiếc tàu chim bổ xuống gần đó, khẽ trượt rồi đứng lại. Một chiếc khác theo sau, rồi thêm chiếc nữa. Chúng phun trung đội của Gurney ra rồi cất mình lên để liệng vòng xung quanh đó.
Gurney duỗi thẳng người kiểm tra các cơ bắp của mình trong bộ sa phục. Ông tháo mặt nạ lọc ra khỏi mặt, khiến hơi ẩm trong người mất đi song bù lại ông làm được điều cần thiết hơn - có được cái sức mạnh vang rền trong giọng nói một khi cần thét to ra lệnh. Ông bắt đầu trèo lên giữa các tảng đá để kiểm tra địa hình - dưới chân là sỏi và cát hạt đậu, mùi hương dược.
Địa điểm tốt để đặt căn cứ khẩn cấp, ông nghĩ. Chôn một ít đồ tiếp tế ở đây hẳn là có lý.
Ông ngoái lại, quan sát thuộc hạ của mình tản ra trong khi họ theo ông. Những người giỏi, kể cả những người mới mà ông chưa có thời gian kiểm tra. Những người thật giỏi. Không cần ông lúc nào cũng phải nhắc nhở họ hãy làm gì. Chẳng có ánh lấp lánh nào của tấm chắn trên người bất cứ ai trong số họ. Chẳng có tên hèn nhát nào trong đám người này, những thằng hèn cứ phải tha tấm chắn vào sa mạc nơi sâu cát có thể cảm thấy được tấm chắn mà mò tới cướp không chỗ hương dược họ tìm ra.
Từ tảng đá hơi nhô ra này, Gurney có thể thấy trảng cát chứa hương dược cách mình chừng nửa cây số và thấy con bọ vừa mới mon men tới rìa bên trái của nó. Ông nhìn lên đội bay bảo vệ, ghi nhận độ cao - không cao lắm. Ông gật gù, quay sang tiếp tục leo lên chỏm cát.
Đúng vào khoảnh khắc đó, chỏm cát sụp đổ.
Mười hai tia lửa gầm vang xẹt thẳng từ dưới lên những chiếc tàu chim cùng bộ phận vận chuyển đang liệng trên cao. Từ chỗ con bọ-xưởng hương dược vang lên tiếng kim loại nổ đinh tai, và các tảng đá quanh Gurney tràn ngập những chiến binh đội mũ trùm.
Gurney còn kịp nghĩ: Thề có cặp sừng của Mẹ Vĩ đại! Tên lửa! Chúng dám dùng cả tên lửa kia à!
Rồi ông đối mặt với một người trùm đầu đang cúi thấp, con dao pha lê trong tư thế sẵn sàng. Hai người nữa đứng đợi trên các tảng đá phía trên, một bên trái một bên phải. Gurney chỉ thấy được cặp mắt lộ ra giữa mũ trùm và tấm mạng che mặt trên bộ áo choàng màu cát của tay chiến binh đứng trước mặt ông, nhưng động tác cúi mình và tư thế sẵn sàng kia cảnh cáo ông rằng đây là một chiến binh dày dạn khổ luyện. Đó là đôi mắt màu-xanh-trong-màu-xanh của người Fremen sống sâu trong sa mạc.
Gurney đưa một tay về phía dao của mình, mắt vẫn dán chặt vào con dao của đối phương. Một khi đã dám dùng tên lửa, bọn họ cũng có thể có những vũ khí phóng khác. Khoảnh khắc này đòi hỏi phải cực kỳ cẩn trọng. Chỉ cần nghe các âm thanh, ông cũng biết ít nhất lực lượng yểm trợ trên không của ông đã bị quật ngã. Có cả những tiếng càu nhàu, tiếng vật lộn ồn ĩ sau lưng ông.
Mắt của chiến binh trước mặt Gurney theo sát cử động tiến về phía con dao của bàn tay ông, trở lại nhìn xoáy vào mắt Gurney.
"Để nguyên dao trong vỏ đi, Gurney Halleck," người đó nói.
Gurney chần chừ. Giọng nói đó nghe quen thuộc đến kỳ lạ, dù đã qua bộ lọc của sa phục.
"Ngươi biết tên ta?" ông hỏi.
"Thầy không cần phải dùng dao với ta, Gurney ạ," người đó nói. Anh ta thẳng người lên, đút lại dao vào vỏ bên dưới áo choàng. "Hãy bảo người của thầy đừng kháng cự vô ích."
Người đó hất mũ trùm đầu ra sau, trật bộ lọc sang một bên.
Sự choáng váng trước những gì Gurney nhìn thấy khiến cơ bắp ông đông cứng lại. Thoạt tiên ông nghĩ mình đang nhìn bóng ma của Công tước Leto Atreides. Phải mất hồi lâu ông mới hiểu trọn vẹn sự tình.
"Paul," ông thì thầm. Rồi nói to hơn: "Có thật là Paul không?"
"Thầy không tin vào mắt mình sao?" Paul hỏi.
"Người ta nói ngài đã chết," Gurney kêu lên the thé. Ông tiến lên nửa bước.
"Bảo người của thầy đầu hàng đi," Paul ra lệnh. Chàng vẫy tay về phía những khu vực thấp hơn của chỏm cát.
Gurney quay lại, miễn cưỡng rời mắt khỏi Paul. Ông chỉ thấy vài đám đánh nhau lẻ tẻ. Những người sa mạc đội mũ trùm dường như có mặt khắp nơi. Con bọ-xưởng khai thác nằm im, người Fremen đứng trên nóc. Không có chiếc máy bay nào trên đầu nữa.
"Ngừng chiến đấu," Gurney gầm lên. Ông hít một hơi dài, khum hai bàn tay lại làm loa. "Gurney Halleck đây! Ngừng đánh nhau đi!"
Chầm chậm, đầy cảnh giác, những cặp đang giao chiến tách nhau ra. Những đôi mắt quay về phía ông, dò hỏi.
"Đây là bạn," Gurney nói to.
"Bạn tốt quá nhỉ!" ai đó hét lại. "Phân nửa người của ta bị giết rồi."
"Đó là do nhầm lẫn," Gurney nói. "Đừng làm chuyện thêm tệ hại."
Ông ngoảnh lại Paul, nhìn chằm chằm vào cặp mắt Fremen xanh ngăn ngắt của chàng trai.
Một nụ cười thoáng hiện trên miệng Paul, nhưng trong nét mặt có một sự cứng rắn khiến Gurney nhớ lại Lão Công tước, ông nội của Paul. Rồi Gurney nhận ra trong Paul có một sự khắc nghiệt đầy gân guốc vốn chưa từng thấy ở bất cứ người nào của gia tộc Atreides - vẻ thô kệch của làn da, cái liếc xéo của cặp mắt, sự tính toán trong ánh nhìn lướt qua như thể đang cân lường bất cứ cái gì trông thấy.
"Người ta nói ngài đã chết," Gurney lặp lại.
"Và dường như cứ để người ta nghĩ vậy chính là cách bảo vệ tốt nhất," Paul nói.
Gurney nhận ra đó là toàn bộ lời xin lỗi mà ông từng nhận được cho cái nỗi ông đã bị bỏ rơi phải một mình xoay xở, buộc phải tin rằng Công tước trẻ tuổi... bạn của ông, đã chết. Và ông tự hỏi liệu ở con người này có còn sót lại chút gì của cậu thiếu niên ông từng biết, từng huấn luyện theo cung cách chiến binh không.
Paul tiến một bước về phía Gurney, nhận thấy cặp mắt ông toát lên nỗi đau đớn. "Gurney..."
Như thể mọi chuyện cứ thế tự nó xảy ra: hai người ôm lấy nhau, đấm thình thịch lên lưng nhau, cảm thấy yên lòng khi tiếp xúc với thân thể rắn chắc của nhau.
"Thằng oắt con! Thằng oắt!" Gurney nhắc đi nhắc lại.
Còn Paul: "Gurney, ông bạn! Gurney, ông bạn!"
Ngay sau đó họ lùi lại, nhìn nhau. Gurney hít một hơi dài. "Vậy là nhờ ngài mà người Fremen đã đâm ra khôn ngoan đến thế trong chiến thuật giao tranh. Lẽ ra tôi phải biết mới đúng. Họ cứ làm những chuyện mà đáng lẽ chính tôi phải hoạch định ra. Giá như tôi biết..." Ông lắc đầu. "Giá như ngài nói với tôi một tiếng, chàng trai ạ. Sẽ chẳng có gì ngăn nổi tôi. Tôi sẽ chạy ào tới và..."
Một ánh nhìn trong mắt Paul khiến ông khựng lại... cái nhìn đăm đăm khắc nghiệt, tính toán.
Gurney thở dài. "Hẳn rồi, và chừng đó hẳn sẽ có người tự hỏi tại sao Gurney Halleck này sấn sổ chạy ào tới, một vài người sẽ không chỉ đặt câu hỏi mà còn làm nhiều hơn. Họ sẽ săn lùng câu trả lời."
Paul gật đầu, liếc nhìn những người Fremen đang chờ đợi xung quanh họ - những cái nhìn đánh giá đầy tò mò trên mặt các chiến binh Fedaykin. Chàng chuyển ánh mắt từ các chiến binh cảm tử sang lại Gurney. Tìm thấy thầy dạy kiếm thuật trước đây của mình khiến lòng chàng ngập tràn hoan hỉ. Chàng coi đó như một điềm tốt, một dấu hiệu cho thấy chàng đang tiến trên con đường tới tương lai nơi mọi cái đều tốt đẹp.
Có Gurney bên cạnh ta...
Paul nhìn xuống chỏm cát phía sau đám quân Fedaykin, quan sát đám buôn lậu đi cùng Halleck.
"Người của thầy đứng về phe nào, Gurney?" chàng hỏi.
"Họ đều là dân buôn lậu," Gurney nói. "Nơi nào có lợi nhuận thì họ đứng về bên đó."
"Trong công việc mạo hiểm của bọn ta thì lợi nhuận chẳng có mấy đâu," Paul nói, và chàng nhận thấy cái dấu hiệu tinh tế được truyền tải chớp nhoáng cho chàng từ một ngón tay phải của Gurney - cái mật mã bằng tay quen thuộc giữa họ trong quá khứ. Có những người cần phải sợ, cần phải dè chừng trong đám buôn lậu kia.
Paul day day môi để chứng tỏ chàng hiểu, rồi ngước nhìn đám người đang đứng bảo vệ ở những tảng đá phía trên họ. Chàng thấy Stilgar ở đó. Ký ức về vấn đề chưa giải quyết với Stilgar làm nguội đi chút ít niềm hân hoan của Paul.
"Này Stilgar," chàng nói, "đây là Gurney Halleck mà tôi đã nói với ông. Bậc thầy chinh chiến của cha tôi, một trong các kiếm sư đã chỉ dạy tôi, một người bạn cũ. Tôi có thể tin cậy ông ấy trong bất cứ việc mạo hiểm gì."
"Tôi có nghe." Stilgar nói. "Anh là Công tước của ông ta."
Paul nhìn chằm chằm vào khuôn mặt tối màu ở phía trên chàng, tự hỏi lý do gì đã buộc Stilgar nói như vừa rồi. Công tước của ông ta. Có một ngữ điệu kỳ lạ phảng phất trong giọng Stilgar, như thể thật ra ông nói một điều khác. Điều đó không hợp với Stilgar, kẻ vốn là thủ lĩnh của người Fremen, một người nghĩ sao nói vậy.
Công tước của ta! Gurney nghĩ. Ông nhìn Paul theo một cách mới. Phải. Một khi Leto đã chết, tước hiệu đó chuyển sang đôi vai Paul.
Mẫu hình cuộc chiến của người Fremen trên Arrakis bắt đầu có một dạng thức mới trong trí Gurney. Công tước của ta! Một nơi vốn đã chết trong ông giờ đây lại hồi sinh. Chỉ một phần của ý thức ông tập trung vào mệnh lệnh của Paul rằng cần phải tước vũ khí toán buôn lậu trước khi tiến hành thẩm vấn.
Tâm trí Gurney quay trở lại với cái lệnh đó khi ông nghe thấy vài thuộc hạ của mình phản đối. Ông lắc đầu, quay ngoắt lại. "Các anh điếc à?" ông quát. "Đây là vị Công tước hợp pháp trị vì Arrakis. Làm theo lệnh ngài đi."
Đám buôn lậu gầm gừ quy phục.
Paul tiến lên cạnh Gurney, hạ giọng nói. "Ta không chờ đợi thầy bước thẳng vào cái bẫy này, Gurney ạ."
"Tôi đã bị trừng trị đích đáng," Gurney nói. "Tôi dám cược rằng cái mảng hương dược này của các ngài chẳng dày hơn một hạt cát, chẳng qua là miếng mồi nhử chúng tôi."
"Thế thì thầy thắng cược rồi," Paul nói. Chàng nhìn xuống đám người đang bị tước vũ khí. "Trong đám quân của thầy còn ai khác từng là thuộc hạ của cha ta không?"
"Không. Chúng tôi tản mác mỗi người một ngả. Có vài người ở chỗ các nhà buôn tự do. Hầu hết đã chi hết lợi nhuận của mình để rời bỏ nơi này."
"Nhưng thầy đã ở lại."
"Tôi ở lại."
"Bởi Rabban vẫn đang ở đây," Paul nói.
"Tôi nghĩ tôi chẳng còn việc gì ngoài trả thù," Gurney nói.
Một tiếng kêu đứt đoạn lạ lùng vang lên từ phía đỉnh rặng đá. Gurney nhìn lên thì thấy một người Fremen đang vẫy khăn tay.
"Một Ngài tạo đang đến," Paul nói. Chàng tiến lên một mũi đá, nhìn về phía Tây Nam, Gurney bám theo sau. Có thể nhìn thấy cái ụ trông như hang đùn dưới đất của một con sâu ở khoảng cách vừa phải, một đường đội cát cắt thẳng qua những đụn cát mà tiến về phía rặng đá.
"Khá to đấy," Paul nói.
Một tiếng lách cách vang lên từ chỗ con bọ-xưởng khai thác bên dưới họ. Nó xoay mình trên các bánh xích như một con côn trùng khổng lồ, ì ạch tiến về phía những tảng đá.
"Chúng ta không cứu được chiếc tàu thồ, thật dở quá," Paul nói.
Gurney liếc nhìn chàng, ngoái lại nhìn những vệt khói và đống mảnh vụn ngoài sa mạc nơi tàu thồ và những chiếc tàu chim đã bị tên lửa của người Fremen bắn hạ. Ông chợt cảm thấy nhói lòng khi nghĩ tới những người đã chết ở đó - thuộc hạ của ông, và ông nói: "Cha của ngài hẳn sẽ quan tâm nhiều hơn tới những người ông ấy không cứu được."
Paul ném cho ông một cái nhìn nghiệt ngã, khiến ông cụp mắt xuống. Ngay sau đó, chàng nói: "Họ là bạn thầy, Gurney. Ta hiểu. Tuy nhiên với bọn ta, họ là những kẻ xâm phạm, có thể nhìn thấy những cái họ không nên thấy. Điều đó thầy phải hiểu."
"Tôi hiểu khá rõ," Gurney nói. "Giờ thì tôi tò mò muốn thấy cái tôi không nên thấy."
Paul ngước lên, nhìn thấy trên mặt Gurney nụ cười toe toét như chó sói mà chàng nhớ rõ, thấy nếp nhăn của vết sẹo vì cây nho mực hằn dọc quai hàm Gurney.
Gurney gật đầu về phía sa mạc bên dưới họ. Người Fremen đang ai làm việc nấy khắp trên khu vực đó. Ông kinh ngạc nhận ra chẳng ai trong số họ tỏ ra bận tâm về chuyện sâu cát đang lại gần.
Một tiếng thì thùng vang lên từ phía các đụn cát bên ngoài trảng hương dược dùng làm bẫy - một tiếng trống sâu thẳm, dường như nghe thấy được qua chân họ. Gurney thấy người Fremen tản ra trên cát, ngay ở đó trên đường tiến của con sâu.
Con sâu xuất hiện như một con cá răng lông khổng lồ, gồ lên trên bề mặt, các đốt thân của nó gợn sóng, xoắn vặn. Trong khoảnh khắc, từ điểm nhìn thuận lợi phía trên sa mạc, Gurney chứng kiến cảnh tóm bắt con sâu - cú nhảy táo bạo của người cầm móc đầu tiên, cú vặn mình của con vật, rồi cả toán người trèo lên mạn sườn uốn cong loang loáng vảy của con sâu.
"Đó là một trong những thứ mà thầy không nên thấy," Paul nói.
"Người ta có kể chuyện, có đồn đại," Gurney nói. "Nhưng chừng nào chưa tận mắt thấy thì khó mà tin được." Ông lắc đầu. "Con vật mà bất cứ ai ở Arrakis cũng đều khiếp sợ thì các ngài sử dụng làm vật cưỡi."
"Thầy đã nghe cha ta nói về quyền lực sa mạc," Paul nói. "Nó đây. Bề mặt hành tinh này là của bọn ta. Không cơn bão nào, không sinh vật nào, không điều kiện nào ngăn nổi bọn ta."
Bọn ta, Gurney nghĩ. Ý cậu ta là người Fremen. Cậu ta nói về bản thân như thể là một trong số họ. Một lần nữa, Gurney nhìn màu xanh vì hương dược trong mắt Paul. Mắt của chính ông, ông biết, cũng nhuốm màu đó, nhưng dân buôn lậu có thể kiếm được thức ăn từ thế giới bên ngoài, và có một hàm ý phân biệt đẳng cấp tế nhị giữa dân buôn lậu với nhau dựa theo sắc độ cặp mắt. Họ nói "nét cọ hương dược" để ám chỉ một người đã trở nên quá giống dân địa phương. Và luôn luôn có một gợi ý bóng gió về sự nghi ngờ trong câu nói đó.
"Trước đây bọn ta không cưỡi Ngài tạo dưới ánh sáng ban ngày ở vùng này," Paul nói. "Nhưng Rabban hiện còn quá ít không lực nên hắn không thể phí phạm nó vào việc tìm dăm ba dúm hương dược ở trong cát." Chàng nhìn lên Gurney. "Chiếc tàu của các người đã khiến cho bọn ta ở đây choáng váng."
Cho bọn ta... cho bọn ta...
Gurney lắc đầu để gạt bỏ những ý nghĩ đó. "Sự choáng váng chúng tôi gây ra cho các ngài không bằng của các ngài gây ra cho chúng tôi đâu," ông nói.
"Ở các sink và làng mạc người ta nói gì về Rabban?" Paul hỏi.
"Họ nói họ đã xây các làng graben kiên cố đến nỗi các ngài sẽ không làm hại họ nổi. Họ nói họ chỉ cần ngồi trong hầm bảo vệ trong khi các ngài tự làm hao mòn lực lượng mình bởi cứ tấn công vô ích."
"Nói gọn, họ án binh bất động," Paul nói.
"Trong khi các ngài thì có thể đi đâu tùy thích," Gurney nói.
"Đó là một chiến thuật ta học được từ thầy," Paul nói. "Họ đã mất quyền chủ động, nghĩa là họ đã thua trong cuộc chiến này."
Gurney mỉm cười, một nét biểu hiện chậm rãi, ra vẻ hiểu biết.
"Kẻ thù của bọn ta ở đúng nơi ta muốn hắn tới," Paul nói. Chàng liếc nhìn Gurney. "Nào, Gurney, thầy có đầu quân cùng ta trong đoạn kết của chiến dịch này không?"
"Đầu quân?" Gurney nhìn chàng đăm đăm. "Bẩm Chúa công, tôi chưa bao giờ thôi phụng sự ngài. Chính ngài mới là người khiến tôi... nghĩ rằng ngài đã chết. Và tôi, bị bỏ rơi, lang thang phiêu bạt, tôi thệ nguyện trung thành được với ai thì cứ thệ nguyện trung thành, trong khi đợi đến lúc có thể bán cuộc đời mình để lấy điều đáng giá với nó: cái chết của Rabban."
Một nỗi im lặng đầy bối rối xâm chiếm lấy Paul.
Một phụ nữ trèo lên các tảng đá về phía họ, đôi mắt lộ ra giữa mũ trùm của bộ sa phục và chiếc mặt nạ lọc liếc nhanh từ Paul sang người đang đứng cùng chàng. Nàng đứng lại trước mặt Paul. Gurney để ý đến vẻ sở hữu toát ra từ nàng, cung cách nàng đứng cạnh chàng.
"Chani này, đây là Gurney Halleck," Paul nói. "Em đã nghe anh kể về ông ấy."
Nàng nhìn Halleck, rồi nhìn lại Paul. "Em có nghe."
"Mấy người kia cưỡi Ngài tạo đi đâu?" Paul hỏi.
"Họ chỉ đánh lạc hướng nó để chúng ta có thì giờ cứu thiết bị."
"Vậy thì..." Paul ngừng lời, ngửi ngửi không khí.
"Gió đang tới đấy," Chani nói.
Một giọng vang lên từ đỉnh rặng đá trên đầu họ. "Này, kìa - gió đấy!"
Gurney thấy chuyển động của những người Fremen trở nên nhanh hơn - lăng xăng hơn, gấp gáp hơn. Sự xuất hiện của con sâu không kích động nổi họ như nỗi sợ trước cơn gió. Con bọ-xưởng khai thác ì ạch trèo lên bãi đá khô bên dưới họ và một con đường đã được mở ra cho nó giữa những tảng đá... rồi các tảng đá khép lại đằng sau nó kín bưng đến nỗi mắt ông không nhìn ra được cái lối đi kia.
"Các ngài có bao nhiêu nơi ẩn nấp như vậy?" Gurney hỏi.
"Vô số," Paul nói. Chàng nhìn Chani. "Tìm Korba đi. Bảo anh ta, Gurney đã cảnh báo anh rằng trong đám buôn lậu này có những người không đáng tin cậy."
Nàng nhìn nhanh sang Gurney, quay lại Paul, gật đầu, rồi tụt xuống các tảng đá, nhảy thoăn thoắt như con sơn dương.
"Cô ta là người đàn bà của ngài," Gurney nói.
"Mẹ của đứa con đầu lòng của ta," Paul nói. "Có một Leto nữa trong gia tộc Atreides."
Gurney chấp nhận điều đó chỉ bằng một cử chỉ mở to mắt.
Paul quan sát những hoạt động quanh họ bằng cái nhìn phán xét. Một màu cà ri giờ đây thống trị bầu trời phía Nam và những luồng gió giật từng cơn quất bụi mù mịt quanh đầu họ.
"Cài kín sa phục vào," Paul nói. Và chàng buộc chặt mặt nạ cùng mũ trùm quanh mặt.
Gurney nghe theo, thấy biết ơn vì có những bộ lọc.
Paul nói, giọng nghẹt đi vì bộ lọc: "Ai trong đám thuộc hạ của thầy là người thầy không tin cậy, hở Gurney?"
"Có vài người mới tuyển," Gurney nói. "Những kẻ từ thế giới ngoài..." Ông ngập ngừng, đột nhiên thấy băn khoăn về chính mình. Kẻ từ thế giới ngoài. Từ đó đã bật ra từ lưỡi ông quá dễ dàng.
"Rồi sao?" Paul nói.
"Họ không giống đám người chuyên săn lùng của cải mà chúng tôi thường tìm được," Gurney nói. "Họ dày dạn hơn."
"Gián điệp của Harkonnen?" Paul hỏi.
"Bẩm Chúa công, tôi cho rằng chúng chẳng thưa thốt gì với Harkonnen cả. Tôi ngờ chúng là người của Mật vụ Hoàng gia. Chúng có gì đó hao hao Salusa Secundus."
Paul nhìn ông một cái sắc như dao. "Sardaukar?"
Gurney nhún vai. "Có thể, nhưng được ngụy trang khéo."
Paul vừa gật đầu vừa nghĩ, Gurney đã quay trở lại cung cách của một lão bộc nhà Atreides dễ dàng đến thế nào... nhưng với sự dè dặt tinh vi... khác biệt tinh vi. Arrakis đã làm thay đổi cả ông ấy nữa.
Hai người Fremen đội mũ trùm nhô lên từ tảng đá vỡ bên dưới họ, bắt đầu trèo lên. Một trong hai người vác trên vai một cái bọc to màu đen.
"Người của tôi giờ đâu rồi?" Gurney hỏi.
"Đang an toàn trong các tảng đá phía dưới chúng ta," Paul nói. "Bọn ta có một hang ở đây - Hang Chim. Sau khi bão tan bọn ta sẽ quyết định làm gì với họ."
Một giọng vang lên từ trên đầu họ: "Muad'Dib!"
Paul quay về phía tiếng gọi thì thấy một vệ sĩ Fremen đang ra dấu bảo họ đi xuống hang. Paul ra hiệu rằng đã nghe thấy.
Gurney chăm chú quan sát chàng với một vẻ mặt mới. "Ngài là Muad'Dib?" ông hỏi. "Ngài là ý-chí-của-cát?"
"Đó là tên Fremen của ta," Paul nói.
Gurney quay đi, lòng nặng trĩu một linh cảm chẳng lành. Nửa số thuộc hạ của ông đã chết trên cát, nửa còn lại thì bị bắt. Ông không quan tâm đến đám quân vừa mới tuyển, những kẻ khả nghi, nhưng trong số còn lại đó có những người tốt, có bạn bè ông, những người ông cảm thấy mình phải có trách nhiệm. "Sau khi bão tan bọn ta sẽ quyết định làm gì với họ." Paul đã nói thế, Muad'Dib đã nói thế. Và Gurney nhớ lại những chuyện người ta kể về Muad'Dib, về Lisan al-Ghaib - ông ta đã lột da một sĩ quan Harkonnen để làm màng bịt trống, rằng quanh ông ta là Fedaykin, những chiến binh cảm tử, những kẻ xông vào trận đánh miệng hát vang bài hát về cái chết.
Ông ta.
Hai người Fremen đang trèo lên các tảng đá nhẹ nhàng nhảy sang một thềm đá trước mặt Paul. Người có khuôn mặt sạm màu nói: "Tất cả an toàn, thưa Muad'Dib. Tốt nhất chúng ta hãy xuống dưới bây giờ."
"Phải."
Gurney lưu ý thanh điệu trong giọng người này - nửa ra lệnh, nửa yêu cầu. Đó là người tên Stilgar, một gương mặt khác trong các truyền thuyết Fremen mới.
Paul nhìn cái bọc mà người Fremen thứ hai vác trên vai rồi nói: "Korba, cái gì trong bọc vậy?"
Stilgar đáp: "Nó ở trong con bọ. Nó có chữ viết tắt tên của bạn anh đây, bên trong đựng một cây đàn baliset. Đã nhiều lần tôi nghe anh nói về tài nghệ chơi baliset của Gurney Halleck."
Gurney quan sát người đang nói, nhìn thấy mép bộ râu đen nhánh lộ ra phía trên chiếc mặt nạ sa phục, cái nhìn như của chim ưng, cái mũi như chạm bằng đục.
"Ngài có một bạn đồng hành biết suy nghĩ, thưa Chúa công," Gurney nói. "Cám ơn ông, Stilgar."
Stilgar ra hiệu cho người đi cùng trao cái bọc cho Gurney rồi nói: "Cám ơn Công tước của ông thì đúng hơn. Nhờ có ngài chấp thuận mà ông mới được kết nạp vào đây."
Gurney nhận cái bọc, bối rối bởi cái hàm ý khắt khe trong cuộc đối thoại này. Có một vẻ thách thức ở ông ta, và Gurney tự hỏi liệu đó có thể là một cảm giác ghen tị ở người Fremen này không. Đây là một người có tên Gurney Halleck, kẻ từng biết Paul thậm chí từ trước thời Arrakis, người từng chia sẻ với Paul một tình đồng chí keo sơn mà Stilgar không bao giờ có thể xâm phạm được.
"Các ông là hai người mà tôi muốn làm bạn," Paul nói.
"Stilgar, người Fremen, là một cái tên lừng lẫy," Gurney nói. "Bất cứ ai giết bọn Harkonnen, tôi đều sẽ lấy làm vinh hạnh được kể là bạn tôi."
"Ông có bắt tay với Gurney Halleck bạn tôi không, Stilgar?" Paul hỏi.
Chầm chậm, Stilgar chìa tay ra, siết chặt những nốt chai sần trên bàn tay cầm gươm của Gurney. "Ít ai chưa từng nghe tên Gurney Halleck," ông nói, rồi thả lỏng tay ra. Ông ngoảnh lại Paul. "Bão đang ập tới đấy."
"Xuống ngay," Paul nói.
Stilgar quay đi, dẫn họ xuống dưới qua những tảng đá, một lối đi lắt léo nhiều khúc ngoặt đâm vào một khe nứt khuất trong bóng tối dẫn tới cửa hang thấp. Những ngọn đèn cầu soi rõ một khoảng không thoáng đãng có mái vòm, một bên có gờ nhô cao, từ gờ đó có một hành lang dẫn đi nơi khác.
Paul nhảy lên cái gờ, dẫn đường vào hành lang đó, Gurney theo sát đằng sau. Những người khác tiến về phía một hành lang khác đối diện cửa hang. Paul dẫn đường ngang qua phòng đợi, tiến vào một gian phòng mà bốn phía tường treo những bức rèm màu rượu vang sẫm.
"Ở đây chúng ta có thể được chút riêng tư trong chốc lát," Paul nói. "Những người khác sẽ tôn trọng..."
Tiếng chũm chọe cảnh báo ở phòng ngoài kêu lanh lảnh, theo sau là tiếng la hét và vũ khí chạm nhau chan chát. Paul quay ngoắt lại, chạy ngược ra phòng đợi, trèo lên gờ phía trên của sảnh ngoài. Gurney theo sát chàng, vũ khí rút ra khỏi vỏ.
Trên nền hang bên dưới họ là những dáng người xoáy tít vào nhau trong cuộc hỗn chiến. Paul đứng nhận định tình thế trong một thoáng, phân biệt người Fremen với các đối thủ thông qua áo choàng của họ. Các giác quan mà mẹ chàng đã huấn luyện sao cho phát hiện ra những manh mối nhỏ nhất liền nhặt ra được một chi tiết hệ trọng: người Fremen đang đánh lại những người mặc áo choàng của dân buôn lậu, nhưng đám buôn lậu này né đòn theo từng nhóm ba người, khi bị đánh rát thì lui về phòng thủ theo đội hình tam giác.
Thói quen cận chiến đó là dấu hiệu rành rành để phân biệt đội quân Sardaukar của hoàng gia.
Một chiến binh Fedaykin trong đám đánh nhau trông thấy Paul, và tiếng hô chiến trận của anh ta được nâng lên thành tiếng vọng vang khắp căn phòng: "Muad'Dib! Muad'Dib! Muad'Dib!"
Một con mắt khác cũng đã phát hiện ra Paul. Một con dao đen tuyền được ném thẳng cánh vào chàng. Paul lách tránh, nghe tiếng con dao chạm đánh choang vào vách đá sau lưng, chàng liếc lại thì thấy Gurney rút nó ra.
Các nhóm ba người giờ đang bị ép về phía sau.
Gurney giơ con dao lên trước mắt Paul, chỉ vào cái vòng cuộn màu vàng mảnh như sợi tóc mang màu của Đế quốc, chiếc gia huy hình sư tử vàng, những con mắt đa diện trên cái núm tròn ở chuôi dao.
Chắc chắn là Sardaukar.
Paul bước lên mép gờ đá. Chỉ còn sót ba tên Sardaukar. Những đống vải đẫm máu của cả Sardaukar lẫn Fremen lẫn lộn khắp nền phòng.
"Dừng lại!" Paul thét. "Công tước Paul Atreides ra lệnh các người dừng lại!"
Những cặp đánh nhau dao động, ngần ngừ.
"Sardaukar các ngươi!" Paul hét lên với nhóm còn lại. "Các ngươi theo lệnh ai mà dám đe dọa một Công tước đang trị vì?" Và, nhanh như cắt, khi thuộc hạ của chàng bắt đầu sấn lại vây quanh đám Sardaukar: "Dừng lại, ta đã bảo!"
Một trong ba kẻ đang bị dồn vào chân tường thẳng người dậy. "Ai bảo chúng tôi là Sardaukar?"
Paul cầm con dao từ tay Gurney, giơ cao. "Cái này cho biết các ngươi là Sardaukar."
"Vậy ai nói anh là một Công tước đang trị vì?" người đó hỏi.
Paul ra hiệu về phía các chiến binh Fedaykin. "Những người này nói ta là Công tước trị vì. Chính hoàng đế của các ngươi đã trao Arrakis cho Gia tộc Atreides. Ta là Gia tộc Atreides."
Những tên Sardaukar đứng im, bồn chồn.
Paul quan sát kỹ người đó: cao lớn, nét gì cũng nhẵn thín, một vết sẹo bệch bạc hằn ngang má trái. Cơn giận dữ và bối rối lộ rõ trong dáng điệu của y, nhưng ở y vẫn có cái vẻ kiêu hãnh mà nếu thiếu nó thì một chiến binh Sardaukar chẳng khác gì không mặc áo quần, còn nếu có nó thì dẫu trần truồng y vẫn có vẻ như mặc đủ quần áo.
Paul quay sang một trong các sĩ quan Fedaykin của chàng, nói: "Korba, sao họ lại có vũ khí?"
"Chúng giấu dao trong mấy cái túi may rất khéo trên sa phục của chúng," viên sĩ quan nói.
Paul kiểm tra những người chết và bị thương nằm la liệt giữa phòng, rồi lại hướng sự chú ý vào viên sĩ quan. Không cần phải nói gì. Viên sĩ quan cụp mắt xuống.
"Chani đâu?" Paul hỏi, nín thở đợi câu trả lời.
"Stilgar đã bí mật đưa cô ấy tránh ra chỗ khác." Anh ta gật đầu về phía hành lang bên kia, nhìn lại những người chết và bị thương. "Chính tôi chịu trách nhiệm về lỗi lầm này, thưa Muad'Dib."
"Có bao nhiêu tên Sardaukar, Gurney?" Paul hỏi.
"Mười."
Paul nhẹ nhàng nhảy xuống nền phòng, sải bước tiến lại, đứng trong tầm tấn công của tên Sardaukar vừa nói.
Không khí căng thẳng bao trùm đám quân Fedaykin. Họ không thích chàng phơi mình ra trước hiểm nguy như vậy. Đây là điều họ đã thề ngăn chặn, bởi người Fremen muốn giữ gìn sự thông tuệ của Muad'Dib.
Không ngoái lại, Paul nói với sĩ quan của chàng: "Thương vong của chúng ta bao nhiêu?"
"Bốn bị thương, hai chết, thưa Muad'Dib."
Paul thấy có động tĩnh đằng sau tên Sardaukar. Chani và Stilgar đang đứng ở hành lang phía bên kia. Chàng lại chú ý vào nhóm Sardaukar, nhìn chòng chọc vào lòng trắng của thế giới khác trong đôi mắt kẻ phát ngôn. "Ngươi, tên ngươi là gì?"
Gã đàn ông cứng người lại, liếc trái, liếc phải.
"Đừng cố làm thế," Paul nói. "Ta thấy rành rành là các ngươi nhận lệnh truy tìm rồi tiêu diệt Muad'Dib. Ta bảo đảm rằng các ngươi chính là kẻ đã đưa ra ý tìm hương dược trong vùng sa mạc sâu."
Tiếng Gurney thở gấp sau lưng Paul khiến một nụ cười nhạt nở trên môi chàng.
Máu dồn lên mặt tên Sardaukar.
"Kẻ mà ngươi đang thấy trước mặt ngươi không chỉ là Muad'Dib," Paul nói. "Bảy người bọn ngươi đã chết để đổi lấy hai người bọn ta. Ba đổi một. Địch lại Sardaukar thế cũng không tồi, hử?"
Gã đàn ông nhón chân lên, rồi lại hạ xuống khi quân Fedaykin sấn tới.
"Ta hỏi tên ngươi," Paul nói, rồi chàng huy động những tinh vi của Giọng nói: "Nói ta nghe, ngươi tên gì."
"Đại úy Aramsham, Sardaukar Hoàng gia!" y bật ra. Hàm y trễ xuống. Y nhìn Paul chằm chằm, bối rối. Cái dáng điệu của y mà ban nãy khiến cái hang này trở thành một chốn man rợ, giờ đã tan biến.
"Được rồi, đại úy Aramsham," Paul nói. "Nhà Harkonnen sẽ trả giá cao để biết được điều mà lúc này anh biết. Còn Hoàng đế, ông ta sẽ không từ cái gì để biết được rằng một người của gia tộc Atreides hiện vẫn sống mặc cho sự phản bội của ông ta."
Viên đại úy liếc trái, liếc phải về phía hai người còn lại bên y. Paul hầu như thấy được những ý nghĩ đang quay cuồng trong đầu kẻ này. Quân Sardaukar không đầu hàng, nhưng Hoàng đế phải biết về mối đe dọa này.
Vẫn sử dụng Giọng nói, Paul nói: "Hàng đi, Đại úy."
Người đứng ở bên trái viên đại úy bất ngờ nhảy phóc về phía Paul, nhưng liền lãnh trọn vào giữa ngực mũi dao nhanh như cắt của chính kẻ chỉ huy hắn. Kẻ tấn công ngã vật xuống sàn như một đống thịt đầy nước, mũi dao vẫn còn cắm trên người.
Viên đại úy đối mặt với kẻ đồng hành duy nhất còn lại. "Tôi là kẻ quyết định làm gì để phụng sự tốt nhất cho Hoàng thượng," y nói. "Hiểu chưa?"
Vai tên Sardaukar kia rũ xuống.
"Hạ vũ khí xuống," đại úy nói.
Tên Sardaukar tuân lời.
Viên đại úy quay lại về phía Paul. "Tôi đã giết một người bạn vì ngài," y nói. "Chúng ta hãy luôn nhớ điều đó."
"Các ngươi là tù binh của ta," Paul nói. "Các ngươi đã đầu hàng ta. Các ngươi sống hay chết không quan trọng." Chàng ra hiệu cho vệ sĩ đưa hai tên Sardaukar đi, ra dấu cho viên sĩ quan trước đó đã lục soát các tù nhân.
Các vệ sĩ tiến vào, đẩy hai tên Sardaukar đi.
Paul nghiêng người về phía viên sĩ quan Fedaykin.
"Muad'Dib," anh ta nói. "Tôi đã làm ngài thất vọng vì..."
"Lỗi do ta, Korba ạ," Paul nói. "Lẽ ra ta nên cảnh báo anh phải tìm cái gì. Sau này, mỗi khi khám xét quân Sardaukar, hãy nhớ điều này. Cũng hãy nhớ rằng mỗi tên đều có một, hai cái móng chân giả có thể kết hợp với các thứ bí mật khác giấu trong người chúng để làm thành một máy phát tín hiệu hiệu quả. Chúng sẽ có nhiều cái răng giả chứ không chỉ một. Chúng mang những vòng shigaware trong tóc, mảnh đến độ anh khó mà phát hiện được, nhưng vẫn đủ chắc để thắt cổ một người cho đến khi cứa đứt đầu. Với bọn Sardaukar, anh phải rà soát từng li từng tí một - cả bằng tia phản xạ lẫn tia cường độ mạnh - phải chẻ từng mẩu lông mẩu tóc ra. Mà ngay cả khi đã khám xét tận chân lông kẽ tóc như vậy rồi, hãy tin chắc rằng anh vẫn chưa phát hiện được tất cả mọi thứ."
Chàng ngước nhìn Gurney, ông đã lại gần để nghe.
"Thế thì tốt nhất là giết quách chúng đi," viên đại úy nói.
Paul lắc đầu, mắt vẫn nhìn Gurney. "Không, tôi muốn họ thoát."
Gurney nhìn chàng chằm chặp. "Chúa công..." Ông thở ra.
"Sao?"
"Người của ngài nói đúng đấy. Hãy giết ngay các tù binh kia. Tiêu hủy mọi bằng chứng về chúng. Ngài đã làm nhục quân Sardaukar của Hoàng gia! Khi Hoàng đế biết được điều đó, ông ta sẽ ăn không ngon ngủ không yên chừng nào chưa nướng ngài chín từ từ trên ngọn lửa liu riu."
"Hoàng đế hẳn không đủ sức làm vậy với ta đâu," Paul nói. Chàng nói chậm rãi, lạnh lùng. Có cái gì đó đã xảy ra bên trong chàng trong khi chàng đối mặt với quân Sardaukar. Một tổng số của nhiều quyết định đã tích lũy lại trong ý thức chàng. "Gurney," chàng nói, "có bao nhiêu người của Hiệp hội xung quanh Rabban?"
Gurney thẳng người lên, mắt nheo lại. "Câu hỏi của ngài không..."
"Có không?" Paul gắt.
"Arrakis đầy nhóc gián điệp của Hiệp hội. Họ lùng mua hương dược như thể nó là thứ quý nhất trong cả vũ trụ. Chứ ngài nghĩ vì lý do nào khác mà chúng tôi liều đi xa đến nhường này để..."
"Nó chính là thứ quý nhất trong toàn vũ trụ," Paul nói. "Với họ."
Chàng nhìn về phía Stilgar và Chani lúc này đang băng qua phòng tiến về phía chàng. "Và chúng ta làm chủ nó, Gurney ạ."
"Bọn Harkonnen mới làm chủ nó!" Gurney phản đối.
"Kẻ nào có thể hủy diệt một thứ, kẻ đó là người làm chủ nó," Paul nói. Chàng phẩy tay để Gurney thôi đừng bình luận gì nữa, rồi gật đầu với Stilgar lúc này đã đứng trước mặt chàng, bên cạnh là Chani.
Paul cầm con dao Sardaukar bằng tay trái, chìa ra cho Stilgar. "Ông sống vì lợi ích của bộ tộc," Paul nói. "Ông có thể lấy máu cuộc sống của ta bằng con dao đó không?"
"Vì lợi ích của bộ tộc," Stilgar lầm bầm.
"Vậy hãy dùng con dao đó," Paul nói.
"Anh đang thách đấu tôi đấy à?" Stilgar hỏi.
"Nếu làm vậy, ta sẽ đứng đó, không vũ khí, để mặc cho ông giết ta."
Stilgar hít một hơi gấp gáp.
Chani nói: "Usul!" rồi liếc sang Gurney, lại nhìn Paul.
Trong khi Stilgar vẫn còn cân nhắc lời mình, Paul nói: "Ông là Stilgar, một chiến binh. Khi quân Sardaukar bắt đầu đánh nhau ở đây, ông không ở hàng đầu cuộc chiến. Ý nghĩ đầu tiên của ông là bảo vệ Chani."
"Nó là cháu tôi," Stilgar nói. "Nếu như tôi có chút hoài nghi gì về chuyện quân Fedaykin của ngài xử bầy cặn bã đó..."
"Tại sao ông nghĩ tới Chani trước hết?" Paul hỏi gặng.
"Không phải về nó."
"Ồ?"
"Mà về anh," Stilgar thú nhận.
"Ông có nghĩ mình có thể động thủ chống lại ta không?" Paul hỏi.
Stilgar bắt đầu run rẩy. "Đó là phong tục," ông lẩm bẩm.
"Phong tục là giết chết những kẻ lạ từ thế giới khác đến mà ta gặp trong sa mạc, lấy nước của họ như một món quà của Shai-hulud," Paul nói. "Thế nhưng một đêm nọ ông đã cho phép hai kẻ như vậy sống, mẹ ta và ta."
Trong khi Stilgar vẫn nhìn chàng trân trân, lặng thinh, rúng động, Paul nói: "Phong tục có thể thay đổi đấy, Stil ạ. Chính ông đã thay đổi chúng."
Stilgar nhìn xuống cái biểu tượng màu vàng trên con dao đang cầm trên tay.
"Khi ta là Công tước ở Arrakeen với Chani bên cạnh, ông nghĩ ta sẽ vẫn có thời gian để quan tâm tới từng chi tiết nhỏ trong việc cai quản sietch Tabr sao?" Paul hỏi. "Bản thân ông có quan tâm tới những vấn đề nội bộ trong từng gia đình không?"
Stilgar vẫn nhìn con dao chăm chăm.
"Ông nghĩ rằng ta muốn chặt cánh tay phải của ta sao?" Paul hỏi.
Chầm chậm, Stilgar ngước lên nhìn chàng.
"Ông!" Paul nói. "Ông nghĩ rằng ta muốn tước mất của chính ta hay của bộ tộc ta tài trí và sức mạnh của ông sao?"
Stilgar khẽ nói: "Chàng trai của bộ tộc tôi mà tôi biết rõ tên, chàng trai đó tôi có thể giết trên sàn thách đấu, ấy là ý của Shai-hulud. Còn Lisan al-Ghaib, người đó tôi không làm hại được. Ngài đã biết điều đó khi trao con dao này cho tôi."
"Ta biết," Paul tán thành.
Stilgar xòe bàn tay ra. Con dao rơi đánh cách xuống sàn đá. "Phong tục có thể thay đổi," ông nói.
"Chani," Paul nói. "Hãy đến chỗ mẹ anh, dẫn người tới đây để ta có lời khuyên của người trong..."
"Nhưng anh đã nói chúng ta sẽ đi về phía Nam," nàng phản đối.
"Anh đã lầm," chàng nói. "Bọn Harkonnen không có ở đó. Cuộc chiến không ở đó."
Nàng hít một hơi sâu, chấp nhận điều đó như một phụ nữ sa mạc chấp nhận mọi điều thiết yếu giữa một cuộc sống song hành cùng cái chết.
"Em hãy cho mẹ ta biết một thông điệp, chỉ riêng bà thôi." Paul nói. "Bảo bà rằng Stilgar thừa nhận anh là Công tước Arrakis, nhưng phải tìm được cách nào đó sao cho đám thanh niên chấp nhận điều này mà không giao chiến."
Chani liếc nhìn Stilgar.
"Làm như anh ấy nói đi," ông lẩm bẩm. "Hai chúng ta đều biết anh ấy có thể đánh bại ta... và ta không thể động thủ chống lại anh ấy... vì lợi ích của bộ tộc."
"Em sẽ cùng mẹ quay lại đây," Chani nói.
"Mời mẹ anh tới," Paul nói. "Bản năng của Stilgar đúng đấy. Khi em được an toàn thì anh mạnh mẽ hơn. Em sẽ ở lại trong sietch."
Nàng toan phản đối, nhưng kìm lại.
"Sihaya," Paul nói, dùng cái tên thân mật với nàng. Chàng quay ngoắt về bên phải, bắt gặp ánh mắt trừng trừng của Gurney.
Cuộc trao đổi giữa Paul với người Fremen lớn tuổi hơn như thể đã trôi trong một làn sương bao quanh Gurney từ khi Paul nhắc tới mẹ chàng.
"Mẹ ngài," Gurney nói.
"Idaho đã cứu mẹ con ta trong cái đêm bị địch đột kích," Paul nói, còn lơ đãng vì chia tay với Chani. "Ngay bây giờ chúng ta đã..."
"Duncan Idaho thì sao, thưa Chúa công?" Gurney hỏi.
"Anh ấy chết rồi, đổi lấy chút thì giờ cho mẹ con ta thoát."
Mụ phù thủy vẫn sống! Gurney nghĩ. Kẻ mà ta thề báo thù, vẫn sống! Và rõ ràng Công tước Paul không biết cái thứ sinh vật gì đã đẻ ngài ra. Con mụ quái ác! Bán đứng chính phụ thân Công tước cho bọn Harkonnen!
Paul bước qua trước mặt ông, nhảy lên gờ đá. Chàng ngoái lại, nhận thấy những người chết và bị thương đã được đưa đi, và chàng cay đắng nghĩ rằng ở đây lại có thêm một chương trong truyền thuyết về Paul Muad'Dib. Thậm chí ta không hề rút dao ra, nhưng người ta sẽ nói ngày hôm nay một tay ta đã giết hai mươi tên Sardaukar.
Gurney bám theo cùng Stilgar, bước đi trên cái mặt sàn mà thậm chí ông không cảm thấy. Cái hang với ánh sáng đèn cầu màu vàng này đã bị cơn phẫn nộ gạt phăng ra khỏi ý nghĩ của ông. Mụ phù thủy vẫn sống trong khi những kẻ bị mụ phản bội chỉ còn là nắm xương trong những nấm mồ đơn chiếc. Ta phải tính cách sao cho Paul biết được sự thật về mụ trước khi ta giết mụ.
Thường hay có chuyện cơn thịnh nộ của kẻ đang giận dữ phủ nhận những gì mà bản ngã nội tại của anh ta đang nói với anh ta.
- "Tuyển Dụ ngôn của Muad'Dib" của Công chúa Irulan
Đám đông trong phòng họp của hang toát ra cái cảm giác bầy đàn mà Jessica đã cảm thấy vào hôm Paul giết chết Jamis. Có sự bồn chồn trong những giọng thì thầm. Từng nhóm nhỏ tụ lại như các điểm nút giữa những bộ áo choàng.
Jessica nhét một cái hộp hình trụ chứa thư vào dưới áo choàng khi từ khu nhà riêng của Paul tiến ra chỗ gờ đá. Bà cảm thấy thư thái sau chuyến đi dài từ phía Nam về, nhưng vẫn day dứt bởi Paul vẫn chưa cho phép họ dùng các tàu chim bị tịch thu.
"Chúng ta không hoàn toàn kiểm soát được bầu trời," chàng đã nói. "Và nữa, chúng ta không được trở nên phụ thuộc vào nhiên liệu từ thế giới ngoài. Cả nhiên liệu lẫn tàu, chúng ta đều phải thu thập và giữ lại cho tới cái ngày cần huy động tối đa."
Paul đứng cùng một nhóm thanh niên trẻ hơn gần chỗ gờ đá. Ánh đèn cầu nhợt nhạt khiến cho quang cảnh nhuốm chút gì đó không thực. Nó như một bức tranh, song là bức tranh được bồi thêm kích thước của mùi hang trong lòng đất, những tiếng thì thầm, tiếng bước chân qua lại.
Bà quan sát kỹ con trai, tự hỏi tại sao nó vẫn chưa trưng ra cho mọi người thấy cái sẽ khiến họ ngạc nhiên - Gurney Halleck. Ý nghĩ về Gurney khiến lòng bà xáo động bởi những ký ức về một quá khứ thanh thản hơn, những ngày tràn ngập tình yêu và cái đẹp bên người cha của Paul.
Stilgar đợi cùng một nhóm thuộc hạ của mình nơi đầu kia gờ đá. Có một vẻ đường hoàng như vẫn luôn thấy ở ông, ở cách ông đứng mà không trò chuyện với ai.
Chúng ta không thể mất người đó được, Jessica nghĩ. Kế hoạch của Paul phải thực hiện được. Bất cứ điều gì khác đều sẽ là bi kịch khủng khiếp.
Bà sải bước dọc gờ đá, ngang qua trước mặt Stilgar mà không nhìn ông, bước xuống đám đông. Người ta mở lối cho bà khi bà tiến tới chỗ Paul. Và theo gót bà là sự im lặng.
Bà biết ý nghĩa của sự im lặng đó - những câu hỏi không được nói ra của đám đông, nỗi kính sợ Mẹ Chí tôn.
Đám thanh niên lùi lại khỏi Paul khi bà lại gần chàng, và trong khoảnh khắc bà thấy mình mất hết tinh thần khi nhận thấy sự tôn kính mới mẻ này của họ đối với Paul. "Tất cả những ai nằm dưới vị trí của mi đều thèm địa vị của mi," châm ngôn Bene Gesserit nói vậy. Nhưng bà không thấy sự thèm thuồng nào ở những khuôn mặt đó. Họ được giữ cách xa một quãng bởi nỗi kích động mang tính tôn giáo xung quanh địa vị thủ lĩnh của Paul. Và bà nhớ lại một châm ngôn Bene Gesserit khác: "Các nhà tiên tri có một cách để chết do bạo lực."
Paul nhìn bà.
"Đến lúc rồi," bà nói, rồi trao cho chàng hộp trụ mang thư.
Một trong các chiến hữu của Paul, táo bạo hơn những người khác, liếc ngang về phía Stilgar, nói: "Người có thách đấu ông ta không, Muad'Dib? Chắc chắn giờ đã đến lúc rồi. Người ta sẽ nghĩ người là tên hèn nhát nếu..."
"Ai dám gọi ta là tên hèn nhát?" Paul hỏi. Nhanh như chớp, bàn tay chàng tìm đến cán dao.
Im lặng như tờ trùm xuống toán người, lan ra đám đông.
"Có việc cần phải làm," Paul nói trong khi người kia lùi khỏi chàng. Paul quay đi, len qua đám đông tiến về phía gờ đá, nhẹ nhàng nhảy lên đối diện với đám đông.
"Làm đi!" ai đó thét to.
Những tiếng lẩm bẩm thì thầm dậy lên đằng sau tiếng thét đó.
Paul chờ sự im lặng. Nó đến từ từ, giữa những tiếng chân xê dịch và tiếng ho rải rác. Khi trong hang đã yên lặng, Paul hất cằm, nói bằng một giọng vang đến tận những góc xa nhất.
"Các người đã mệt mỏi vì chờ đợi," Paul nói.
Một lần nữa, chàng đợi cho đến khi những tiếng thét đáp lại lặng đi.
Quả thật họ đã mệt mỏi vì chờ đợi, Paul nghĩ. Chàng nhấc chiếc hộp trụ đựng thư lên, nghĩ về cái đựng bên trong nó. Mẹ chàng đã đưa nó cho chàng xem, giải thích rằng nó đã được lấy từ một kẻ đưa thư Harkonnen.
Thông điệp rất rõ ràng: Rabban đang bị bỏ rơi, bị để mặc cho xoay xở một mình ở Arrakis này! Hắn không thể kêu ai giúp đỡ hay cứu viện!
Một lần nữa, Paul cất cao giọng: "Các người nghĩ đã đến lúc ta thách đấu Stilgar và thay đổi quyền lãnh đạo bộ tộc!" Họ chưa kịp trả lời thì Paul đã quát lên với họ đầy giận dữ: "Các người nghĩ Lisan al-Ghaib ngu xuẩn đến thế sao?"
Im lặng sững sờ bao trùm.
Nó đang chấp nhận cái biểu tượng tôn giáo, Jessica nghĩ. Nó không được làm vậy!
"Phong tục là thế!" ai đó la to.
Paul nói khô khan, thăm dò những cảm xúc ngấm ngầm ở đám đông. "Phong tục có thể thay đổi."
Một giọng giận dữ cất lên từ góc hang: "Chúng tôi mới có quyền nói cái gì thay đổi!"
Đây đó trong đám đông vang lên tiếng hò la tán thành.
"Tùy các người," Paul nói.
Và Jessica nghe thấy những ngữ điệu trầm bổng tinh tế khi chàng sử dụng quyền lực của Giọng nói mà bà đã dạy chàng.
"Các người sẽ nói," chàng đồng ý. "Nhưng trước hết các người phải nghe ta nói."
Stilgar đi dọc theo gờ đá, bộ mặt râu ria lộ vẻ bình thản. "Đó cũng là phong tục," ông lên tiếng. "Tiếng nói của bất cứ người Fremen nào cũng được lắng nghe ở Hội đồng. Paul Muad'Dib là người Fremen."
"Lợi ích của bộ tộc, đó là điều quan trọng nhất, phải không?" Paul hỏi.
Cũng bằng giọng đều đều điềm nhiên, Stilgar nói: "Bước đi của chúng ta được dẫn dắt bằng cách đó."
"Được," Paul nói. "Vậy thì, ai cai trị chúng dân bộ tộc chúng ta, ai cai trị mọi bộ tộc và mọi đội quân bằng những chiến thuật mà chúng ta đã rèn luyện theo phương pháp huyền thuật?"
Paul đợi, nhìn khắp trên đầu đám đông. Không có tiếng trả lời.
Ngay sau đó, chàng nói: "Có phải Stilgar cai trị tất cả không? Chính ông nói là không phải thế. Ta cai trị ư? Kể cả Stilgar cũng có lúc vâng lệnh ta, và các nhà hiền triết, thông thái nhất trong những người thông thái cũng lắng nghe ta và kính trọng ta ở Hội đồng."
Đám đông im lặng, rục rịch bồn chồn.
"Vậy đó," Paul nói. "Mẹ ta có cai trị không?" Chàng chỉ xuống Jessica đứng giữa đám đông, mặc áo choàng nghi lễ màu đen. "Hầu như trong mọi quyết định hệ trọng Stilgar và mọi thủ lĩnh khác của bộ tộc đều xin lời khuyên của bà. Các người biết điều đó. Nhưng Mẹ Chí tôn có cưỡi cát hay cầm đầu một cuộc razzia chống lại bọn Harkonnen không?"
Những nét cau mày hằn lên trán đám người nằm trong tầm mắt Paul, nhưng vẫn có những tiếng thì thầm giận dữ.
Làm cách này nguy hiểm quá, Jessica nghĩ, nhưng bà nhớ lại chiếc hộp trụ đựng thư cùng ý nghĩa bao hàm trong nó. Và bà nhận ra ý định của Paul: tiến thẳng đến tận đáy sâu tính không kiên định của họ, sử dụng nó, rồi mọi chuyện khác tự khắc phải đi theo.
"Không ai công nhận kẻ làm thủ lĩnh nếu không thử thách và không quyết đấu, phải không?" Paul hỏi.
"Phong tục là vậy!" ai đó hét.
"Mục đích của chúng ta là gì?" Paul hỏi. "Lật đổ Rabban, con thú dữ Harkonnen, và tái tạo thế giới của chúng ta thành nơi chúng ta có thể nuôi gia đình mình trong hạnh phúc giữa cơ man nào là nước - có phải đó là mục đích của chúng ta?"
"Nhiệm vụ nặng nề thì cần những cách thức nặng nề," ai đó hét.
"Các người có đập nát con dao của mình trước một trận đánh không?" Paul hỏi vặn. "Ta nói điều này như một thực tế, chẳng hề có ý khoe khoang hay thách thức: không một ai ở đây, kể cả Stilgar, có thể địch được với ta trong một cuộc đấu tay đôi. Chính Stilgar thừa nhận như vậy. Ông ta biết điều đó, các người cũng biết."
Một lần nữa, những tiếng thì thầm giận dữ dậy lên từ đám đông.
"Nhiều người trong các người từng đấu tập với ta," Paul nói. "Các người biết đây chẳng phải khoe hão. Ta nói vậy vì đó là một thực tế ai cũng biết, và nếu chính ta không nhận thấy thì ta là kẻ thậm ngu. Ta bắt đầu rèn luyện theo những phương pháp đó sớm hơn các người, và thầy dạy ta là những kẻ dạn dày hơn bất cứ ai các người từng gặp. Các người thử nghĩ xem, nếu không vậy thì làm sao ta thắng được Jamis khi ta ở độ tuổi mà con trai các người vẫn chỉ đang đánh trận giả?"
Nó dùng Giọng nói khá tốt, Jessica nghĩ, nhưng với những người này thì chừng đó chưa đủ. Họ có độ cách ly khá tốt chống lại sự khống chế thông qua âm thanh. Nó còn phải chinh phục họ bằng cả logic nữa.
"Vậy nên chúng ta đi đến điều này," Paul nói. Chàng nhấ