Chương 7 - Ở Giữa Sa Mạc.
Bay dọc theo Địa Trung Hải, tôi đã gặp mây thấp. Tôi hạ xuống là là hai mươi mét. Mưa xối xả chảy lên cửa kính và biển như bốc khói. Tôi phải cố gắng cùng cực để nhìn thấy, và để khỏi va vào cột buồm một chiếc tàu nào.
André Prévot, anh thợ máy của tôi, đốt thuốc cho tôi.
“Cà phê…”
Anh ta tụt vào khoang sau của máy bay và trở lại với một cái phích nước. Tôi uống. Chốc chốc tôi lại vặn tách tách cái công tắc hơi để giữ mức hai mươi vạn vòng. Tôi liếc nhìn một lượt khắp các mặt đồng hồ: bọn đầy tớ này của tôi rất ngoan, mỗi cái kim đều ở vào chỗ của nó. Tôi phóng mắt nhìn mặt biển, dưới trời mưa, bốc hơi như một chậu to nước nóng. Nếu tôi lái thủy phi cơ, tôi sẽ tiếc rằng biển “rỗng” đến thế. Nhưng tôi đang lái máy bay đậu đất. Rỗng hay không rỗng tôi cũng không đậu xuống được, và cái đó làm cho tôi cảm thấy, không hiểu sao, một cảm giác an toàn vô lý. Biển là một bộ phận của một thế giới giờ đây không phải thế giới của tôi. Ở đây, ách tắc không liên can gì đến tôi, thậm chí không đe dọa tôi: tôi tuyệt đối không được trang bị để đậu trên biển.
Bay một tiếng rưỡi thì mưa ngớt. Mây vẫn rất thấp, nhưng ánh nắng đã xuyên qua như một nụ cười lớn. Tôi chiêm ngưỡng sự chuẩn bị chậm rãi đó của một ngày tốt trời. Tôi đoán thấy bên trên đầu mình một lớp bông trắng mỏng. Tôi lái chệch sang một bên để tránh một cái chấm: không còn cần thiết đương đầu với nó nữa. Và đây, vết xé rách đầu tiên…
Tôi có linh tính điều này mà không nhìn thấy, vì hiện ra trước mặt, trên biển, một vệt xanh màu cỏ rất dài, một thứ ốc đảo lam sáng và thăm thẳm, giống màu các cánh đồng lúa mạch ngày trước làm se lòng tôi ở miền Nam Maroc ấy, khi phải vượt ba nghìn ki lô mét cát mới tới được xứ Sénégal. Ở đây tôi cũng có cảm giác mình tới một địa phương có thể cư trú được, và tôi thoang thoáng một niềm vui nhẹ nhàng. Tôi quay lại phía Prévot:
“Thế là xong, tốt lắm!”
“Vâng, tốt lắm…”
Tunis. Trong khi máy bay lấy dầu, tôi ký các giấy tờ. Nhưng ở buồng giấy bước ra, tôi bỗng nghe một tiếng “bụp!” như một tiếng rơi xuống nước. Một thứ tiếng đục, không âm vang. Ngay lúc đó tôi nhớ có nghe một tiếng y hệt như vậy. Một vụ nổ trong một nhà để máy bay. Hai người chết vì cái thứ ho khàn đó. Tôi quay lại con đường dọc theo sân bay: có một ít bụi mù, hai chiếc xe chạy nhanh đã va vào nhau, bổng nhiên sít cứng như dính chặt vào tuyết. Nhiều người chạy về hướng hai chiếc xe đó, một số người khác chạy về phía chúng tôi…
“Gọi điện thoại, mau lên… Xin bác sĩ… Cái đầu…”
Tôi thấy tím thắt lại. Trong ánh sáng lặng lẽ buổi chiều tà, số phận vừa hoàn thành một thủ đoạn của nó. Một sắc đẹp vừa bị tàn phá, một trí lực, hay một cuộc đời… Những tên cướp đã kéo đi trong sa mạc như vậy đó, và không ai nghe tiếng chúng bước nhẹ nhàng trên cát. Trong khu lều trại, vụ cướp đó gây nên một xao động ngắn ngủi. Rồi tất cả lại rơi vào trong cảnh lặng lẽ vàng óng. Cũng cái yên tĩnh ấy, cũng cái lặng lẽ ấy… Cạnh tôi, có ai đó nói có ai bị vỡ sọ. Tôi không muốn biết gì thêm về cái vầng trán đầm đìa máu và bất động ấy, tôi quay lưng đi về phía chiếc máy bay của tôi. Nhưng tôi vẫn lưu giữ trong tim một cảm giác đe dọa. Và cái tiếng động kia, một lát sau, tôi lại nhận ra. Khi tôi kéo chiếc kim trên cái mặt đồng hồ đen lên đến hai trăm bảy mươi ki lô mét giờ, tôi lại nhận ra cũng tiếng ho khàn ấy: cũng cái tiếng “bụp” ấy của số phận ở chỗ hẹn, nó đón chờ ta.
Lên đường đi Benghazi…
o O o
Lên đường. Hai tiếng ban ngày nữa. Tới Tripolitana, tôi bỏ kính râm ra. Cát vàng óng. Thượng Đế ơi, sao mà cái hành tinh này nó vắng vẻ! Một lần nữa, sông ngòi, bóng râm, nhà cửa con người ở đây đối với tôi lại như sự gặp gỡ bất kỳ. Đá và cát sao mà nhiều quá!
Nhưng tất cả cái đó đối với tôi đều xa lạ, tôi sống trong lĩnh vực của chuyến bay. Tôi cảm giác đêm đã tới, người ta tự nhốt trong đêm như trong một ngôi đền. Người ta tự nhốt, với những bí quyết của những nghi lễ căn bản, trong một suy ngẫm không phương cứu vãn. Tất cả cái thế giới ngoại đạo này đã mờ nhòa rồi và sắp biến mất. Tất cả cảnh trí này giờ còn được một thứ ánh sáng màu vàng nhạt nuôi dưỡng, nhưng một cái gì đã bốc hơi rồi. Và tôi không biết gì hết, tôi không nói gì hết: không có gì bằng cái giờ khắc này. Và những con người ấy hiểu rõ tôi, những anh em đã hứng chịu cái tình yêu không lý giải được của việc bay.
Dần dần tôi chối bỏ mặt trời. Tôi chối bỏ những bình diện óng vàng rộng lớn từng chào đón tôi mỗi lần máy bay bị hỏng… Tôi từ bỏ những tiêu điểm hướng dẫn tôi. Tôi từ bỏ cái dáng núi in trên nền trời, chúng đáng lẽ giúp tôi tránh các ghềnh đá. Tôi đi vào trong đêm. Tôi bay. Với tôi, chỉ còn những vì tinh tú…
Cái chết này của thế giới xảy ra chậm rãi. Và chính là tuần tự mà ánh sáng nhòa đi. Tuần tự đất và trời hòa lẫn. Đất ấy dâng lên và dường như lan tỏa như một thứ hơi. Những ngôi sao đầu tiên run như trong một thứ nước xanh lam. Phải đợi rất lâu nữa chúng mới biến đổi thành kim cương rắn. Tôi phải đợi lâu mới thấy được cuộc đùa chơi lặng lẽ của những ngôi sao băng. Trong nhiều đêm khuya tôi thấy những ngọn lửa nhỏ chạy phiêu bạt đến nỗi tôi ngỡ có một ngọn gió lớn thổi dậy lên giữa đám sao.
Prévot thử lại các đèn cố định và đèn cấp cứu. Chúng tôi bọc các bóng đèn bằng giấy đỏ.
“Phải dày thêm tí nữa…”
Anh ta bồi thêm một lớp giấy nữa, mở công tắc. Máy còn sáng quá. Sáng thế, nó sẽ che khuất, như ở trong nghề chụp ảnh, cái hình ảnh nhợt nhạt của thế giới bên ngoài. Nó sẽ phá mất cái cùi mỏng manh đôi khi ban đêm còn gắn vào mọi vật. Đêm đã cấu tạo rồi. Nhưng vẫn chưa phải là cuộc sống thật. Còn sót một vầng trăng lưỡi liềm. Prévot đi khuất vào phía sau rồi trở lại với một chiếc bánh kẹp. Tôi nhấm một chùm nho. Tôi không đói. Tôi không đói cũng chẳng khát. Tôi không cảm thấy mệt mỏi gì cả, tôi có cảm giác như tôi vẫn bay như vậy trong mười năm.
Bây giờ vầng trăng đã tắt.
Benghazi ra hiệu trong đêm đen. Benghazi nằm yên dưới đáy một bóng tối sâu đậm đến nỗi nó không viền được chút hào quang nào. Chỉ khi hạ xuống gần nó tôi mới nhìn thấy thị trấn. Tôi đang tìm sân bay thì chợt ngọn đèn đỏ của nó thắp lên. Các ngọn đèn cắt tách ra một hình chữ nhật màu đen. Tôi nghiêng cánh. Ánh sáng một ngọn đèn pha quét lên trời chĩa thẳng đứng như luồng lửa của một đám cháy, xoay tròn và vạch lên sân bay một đường vàng. Tôi chao nữa để thấy cho rõ các chướng ngại. Trang bị ban đêm của trạm nghỉ này thật tuyệt. Tôi hãm bớt và bắt đầu lao xuống như phóng trong nước đen.
23 giờ giờ địa phương lúc tôi hạ cánh. Máy bay của tôi lăn đến chỗ ngọn đèn pha. Sĩ quan và lính lịch sự nhất đời từ bóng tối bước ra ngoài ánh sáng chói chang của ngọn đèn pha, lúc nhìn thấy họ, lúc không. Người ta thu giấy tờ của tôi, bắt đầu bơm xăng. Việc tôi bay qua giải quyết trong hai mươi phút.
“Lượn một vòng và bay trên đầu chúng tôi, nếu không làm thế, chúng tôi không thật rõ là anh có cất cánh an toàn không.”
Lên đường.
Tôi cho máy bay lăn bánh trên con đường vàng ấy, lao vào một lỗ hổng không có gì chướng ngại. Máy bay của tôi, loại hình “Simoun”, nhấc bổng thân lên khi hãy còn khoảng đất trống. Cái đèn pha theo dõi tôi và tôi thấy khó mà ngoặt được. Sau, nó buông tôi ra, chắc người ta e tôi quáng. Tôi quay ngoặt máy bay thẳng đứng, vừa lúc ánh sáng đèn pha lại quất vào mặt, nhưng vừa chạm tôi nó liền tránh đi, hướng ra nơi khác cái ống sáo vàng rất dài của nó. Tôi cảm thấy, dưới mọi nương nhẹ đó, những cử chỉ vô cùng lịch thiệp. Và giờ đây, tôi rẽ ngoặt tiếp về phía sa mạc.
Các đài khí tượng Paris, Tunis và Benghazi có báo cho tôi một ngọn gió hậu từ ba mươi đến bốn mươi ki lô mét giờ. Tôi thì tin vào tốc độ bay ba trăm ki lô mét giờ. Tôi nhắm thẳng chấm giữa đường nối Alexandria với Cairo trên bản đồ. Như vậy tôi sẽ tránh được các khu cấm ở ven biển, và mặc dù có thể có những trôi dạt không định trước, tôi sẽ bám theo hoặc bên phải hoặc bên trái, ánh đèn của một trong những thành phố đó hoặc, thường hơn, ánh đèn vùng thung lũng sông Nil. Tôi sẽ bay trong ba tiếng hai mươi phút nếu gió không thay đổi. Ba tiếng bốn mươi lăm phút nếu gió yếu đi. Và tôi bắt đầu nuốt một nghìn năm mươi ki lô mét sa mạc.
Không còn trăng. Một thứ nhựa đen phồng trào lên tận các vì sao. Tôi sẽ không nhìn thấy một đốm lửa, không được thừa hưởng một tiêu điểm nào, không có vô tuyến điện, tôi sẽ không nhận được một tín hiệu nào của con người trước khi đến được sông Nil. Tôi cũng không mưu toan nhìn cái gì khác ngoài cái com pa và cái đồng hồ đo độ cao của tôi. Tôi không còn chú ý tới cái gì khác, ngoài thời gian phập phồng chậm chạp, trên mặt số sậm của vật dụng này, một đường quang tuyến hẹp. Khi Prévot đứng lên đi tới đi lui, tôi nhẹ nhàng điều chỉnh đường định tâm. Tới chỗ nào mà người ta báo là gió thuận, tôi vọt lên đến hai nghìn. Chốc chốc rất lâu tôi bật một ngọn đèn để xem các mặt đồng hồ, không phải cái nào cũng dạ quang, nhưng phần lớn thời gian, tôi đắm chìm trong tối đen, ở giữa các vì tinh tú li ti của tôi, chúng cũng tỏa lan một ánh sáng tựa khoáng chất như các vì sao, cũng một ánh sáng vô ích và thầm kín ấy, nói cùng một ngôn ngữ ấy. Tôi cũng vậy, như các nhà thiên văn, tôi đọc một cuốn sách cơ học về bầu trời. Tôi cũng vậy, cũng cảm thấy mình chăm chỉ và trong sạch. Ở thế giới bên ngoài, cái gì cũng tắt rồi. Có Prévot cưỡng lại không được đang thiu thiu ngủ kia, và tôi càng thấy thấm thía niềm cô quạnh của mình. Có tiếng máy rền rĩ nhè nhẹ và trước mặt tôi, trên bản đồ bay, tất cả những vì sao lặng lẽ kia.
Tuy vậy, tôi vẫn suy ngẫm. Chúng tôi tuyệt không có cái thuận lợi của trăng sáng, lại không có người phụ trách vô tuyến. Không có một dây nhợ nào, dù mỏng manh đến đâu, còn nối liền chúng tôi với thế giới cho tới khi nhìn thấy cái lưới ánh sáng của sông Nil. Chúng tôi ở bên ngoài tất cả mọi sự, chỉ cái động cơ này nó đang treo chúng tôi lơ lửng, kéo dài chúng tôi trong chất nhựa này. Chúng tôi vượt qua cái thung lũng đen lóa của những câu chuyện thần tiên, thung lũng của thử thách. Ở đây tuyệt chẳng có sự tiếp cứu nào. Ở đây tuyệt chẳng có dung tha nào cho những lỗi lầm. Chúng tôi tự giao phó tùy lượng Thượng Đế.
Một tia sáng luồn qua một mạch nối của bảng điện. Tôi đánh thức Prévot dậy để anh ta tắt nó đi. Trong bóng tối, Prévot hùng hục như một con gấu, thở phì phò, bước tới. Anh nín thinh loay hoay vừa kết hợp chiếc khăn với một tờ giấy đen thế nào đó. Cái tia sáng của tôi đã biến mất. Cái tia sáng đó là thành phần rạn nứt trong cuộc đời này. Nó tuyệt không cùng chất lượng với ánh sáng quang tuyến nhợt nhạt và xa xôi kia. Nó là một ánh sáng của hộp đêm chứ không phải là ánh sáng của tinh tú. Nhưng mà nó làm tôi quáng lên, nó xóa nhòa mọi ánh sáng khác.
Ba giờ bay. Tôi thấy một ánh sáng chói chang tóe ra ở bên phải tôi. Tôi nhìn. Một vệt sáng dài móc vào ngọn đèn cuối cánh, cho tới lúc đó, tôi không thấy nó. Đó là một ánh sáng cách kỳ, lúc tỏ lúc mờ: tôi vào trong một đám mây đây mà. Chính là đám mây phản chiếu ngọn đèn của tôi. Cạnh các tiêu điểm của tôi, lẽ ra tôi thích một bầu trời trong sáng hơn.
Dưới ánh hào quang, cánh máy bay rực lên. Ánh sáng đến tọa vị, và ở lại đó, và tỏa sáng và làm nên ở đằng kia một bó hoa màu hồng. Tôi bị lắc lư bởi những luồng xoáy sâu. Tôi bay đâu đó trong luồng gió của một đám mây tích tụ dày bao nhiêu tôi không rõ. Tôi lên cao đến hai nghìn lẻ năm vẫn không trồi ra được khỏi đám mây. Tôi lại hạ xuống đến một nghìn mét. Bó hoa vẫn đó, không cử động, ngày càng rực rỡ hơn. Được. Tốt. Mặc kệ. Tôi nghĩ đến chuyện khác. Để rồi xem khi nào thì mình ra khỏi. Nhưng tôi vẫn không ưa được cái thứ ánh sáng của quán ăn tồi tàn ấy.
Tôi tính: “Ở đây mình phải nhún nhảy một chút, nhưng cũng bình thường thôi, song dọc đường đi, trời thì trong mà độ cao nào cũng nhiều xoáy quá. Gió không hề lặng, mình phải vượt lên trên tốc độ ba trăm ki lô mét giờ.” Sau rốt, tôi tuyệt không rõ cái gì thật chính xác nữa, tôi chỉ thử định hướng xem khi nào thì mình ra khỏi mây. Và ra khỏi mây. Bó hoa đột nhiên tan biến. Chính vì nó tan biến mà tôi đoán biết sự việc sắp xảy ra. Tôi nhìn ra phía trước và nhác thấy, tưởng hầu như là không thấy gì, một thung lũng hẹp trên trời và tường vách của một đám mây tích tụ sắp tới nữa. Bó hoa lúc trước đã lại thấy rực lên rồi.
Chỉ cần có mấy giây là tôi không bao giờ còn ra khỏi thứ nhầy dính này nữa. Sau ba giờ rưỡi bay, chất nhầy dính đó bắt đầu làm cho tôi lo lắng vì nếu tôi vẫn bay tới như tôi tưởng thì lúc này tôi đã ở gần sông Nil rồi. Có lẽ may ra, qua các hành lang, tôi sẽ có thể nhìn thấy sông Nil, nhưng các hành lang đâu có nhiều. Tôi vẫn chưa dám hạ thấp bởi vì nếu, biết đâu đấy, không phải là mình đã bay nhanh như mình tính thì bây giờ dưới bụng máy bay vẫn còn là những vùng đất cao.
Tôi vẫn không thấy lo lắng gì, chỉ ngại có thể mất thì giờ. Nhưng tôi cũng định một ranh giới cho sự thanh thản của tôi: bốn giờ mười lăm phút bay. Sau thời gian đó, cho dẫu gió không chuyển động, mà không chắc là không chuyển động, tức là tôi đã vượt thung lũng sông Nil rồi.
Khi tôi bay chạm các vành mây, bó hoa ném ra những ngọn lửa, những ngọn lửa ấy lúc bật sáng, lúc tối kịt, sáng tối sáng tối mỗi lúc mỗi gấp rồi bỗng nhiên tắt ngấm. Tôi không ưa cái lối thông tín bằng mã số ấy với các con quỷ của đêm tối.
Một ngôi sao lam thoắt hiện trước mặt tôi, rực rỡ như một ngọn đèn pha. Nó là sao hay là đèn pha? Tôi cũng không ưa cái ánh sáng ma quỷ đó, cái tinh tú đạo sĩ đó, sự mời mọc nguy hiểm đó.
Prévot thức dậy và soi các đồng hồ của các động cơ. Tôi gạt tất cả ra, cả anh ta lẫn cái đèn. Tôi vừa chạm vào cái kẽ nứt giữa hai đám mây và tôi thừa dịp nhìn xuống bên dưới. Prévot ngủ lại.
Nhưng có gì để nhìn đâu.
Bay được bốn giờ năm phút. Prévot tới ngồi cạnh tôi:
“Đáng lẽ tới Cairo rồi…”
“Mình cũng nghĩ thế…”
“Kìa, sao hay đèn pha thế?”
Tôi đã giảm bớt máy và chính vì thế mà Prévot thức dậy. Anh ta rất thính với mọi tiếng động trong lúc bay. Tôi bắt đầu hạ xuống chậm rãi, mong chuồi xuống bên dưới khỏi mây.
Tôi vừa xem lại bản đồ xong. Cách nào thì tôi cũng đã đi vào vùng bờ biển. Ồ, sẽ không có gì rủi ro hết. Tôi xuống nữa, và quay ngoặt thẳng chính Bắc. Như vậy, tôi sẽ thấy, ngang cửa sổ máy bay, các ngọn đèn thành phố. Chắc là mình đã vượt quá các thành phố ấy rồi. Chúng sẽ hiện ra ở phía trái. Bây giờ tôi bay dưới các đám mây tích tụ. Nhưng lại đi dọc theo một đám mây khác đang hạ thấp hơn ở phía trái tôi. Tôi rẽ ngoặt để khỏi sa vào lưới của nó, lấy hướng Bắc Đông Bắc.
Đám mây ấy chắc chắn đang hạ thấp xuống nữa và ngáng mắt tôi không cho thấy chân trời. Tôi không dám hạ nữa. Tôi đã xuống tới cốt 400 của thước đo độ cao, nhưng lại không rõ áp lực. Prévot nghiêng ngó. Tôi hét cho anh ta nghe: “Mình vù tới biển đây. Cần thì mình cho rơi xuống biển để khỏi tan xác…”
Nhưng lại không có gì chứng tỏ rằng bên dưới tôi không phải là biển. Dưới đám mây này là tối đen dày đặc. Tôi dán chặt người vào thành cửa sổ, tìm cách nhận ra bên dưới là gì, mong phát hiện ra đèn và tín hiệu. Tôi là một người đi đào xới tro tàn. Tôi là một người cố đi tìm những đốm lửa của cuộc sống trong tận cùng một cái bếp lò.
“Một ngọn hải đăng!”
Chúng tôi cùng một lúc đều trông thấy cái cạm bẫy thoạt sáng, thoạt tối đó! Thật là điên rồ! Mà nó đâu rồi, cái ngọn đèn ma ấy, cái hư cấu ấy của đêm tối? Bởi vì chính vào giây phút mà Prévot và tôi nghiêng ngó để tìm nó, ba trăm mét dưới cánh, bỗng nhiên…
“Ái!”
Tôi nhớ là không có nói gì khác. Tôi nhớ là không cảm thấy gì khác ngoài một tiếng vỡ dữ dội lay động tất cả thế giới chúng tôi từ dưới đáy. Trong lúc đang bay hai trăm bảy mươi ki lô mét giờ chúng tôi đã chạm đất.
Tôi nhớ rõ là mình không có chờ đợi gì khác, vào cái phần trăm giây đồng hồ tiếp theo sau, ngoài cái ngôi sao màu tía vĩ đại của vụ nổ sẽ hòa nhập cả hai đứa chúng tôi vào. Cả Prévot lẫn tôi đều không cảm thấy mảy may xúc động. Tôi chỉ nhận thấy trong tôi một đợi chờ căng thẳng, đợi chờ ngôi sao sáng rực rỡ mà trong tích tắc đó chúng tôi sẻ tan biến vào nó. Nhưng chẳng có ngôi sao màu tía nào cả. Chỉ có một cái lắc như một cơn động đất nố tàn phá buồng lái của chúng tôi, bứt vứt các cửa kính, ném các miếng tôn ra xa một trăm mét, một cơn động đất làm đầy ứ đến ruột non ruột già chúng tôi tiếng ầm ầm của nó. Chiếc máy bay rung lên như một lưỡi dao từ xa phóng cắm vào gỗ cứng. Và hai chúng tôi bị nháo nhào bởi sự giận dữ này. Một giây, hai giây… Chiếc máy bay vẫn rung lên, và tôi chờ đợi, sốt ruột kinh khủng, chờ đợi kho năng lượng dự trữ sẽ làm cho nó nổ tung lên như một quả lựu đạn. Nhưng những chuyển động bên dưới lan tiếp nhau mãi mà không kết thúc với một cơn nổ hoàn toàn. Tồi chẳng hiểu tí gì về cái công việc vô hình ấy. Tôi không hiểu tí gì về cơn động đất ấy, cả nỗi giận dữ ấy, cả cái thời gian như không bao giờ dứt ấy… năm giây, sáu giây… Và, đột ngột, chúng tôi có cảm giác như bị lật ngược lại, một cái chạm mạnh bứt các điếu thuốc lá của chúng tôi ra ngoài cửa sổ, cánh máy bay bên phải vỡ tan tành, rồi không xảy ra điều gì nữa. Không có gì nữa ngoài một sự bất động lạnh lẽo. Tôi hét bảo Prévot:
“Nhảy ra, mau lên!”
Cùng lúc, anh la:
“Lửa!”
Và chúng tôi đã đu ra khỏi cái cửa sổ đã mất cánh. Chúng tôi đứng cách mặt đất hai mươi mét. Tôi nói với Prévot”
“Không đau ở đâu chứ?”
Anh trả lời tôi:
“Chẳng đau ở đâu cả!”
Nhưng anh lại xoa đầu gối.
Tôi bảo anh:
“Cậu nắn người xem, cử động xem có bị thương ở đâu không?”…
Và anh trả lời tôi:
“Không hề gì, va cái bơm cấp cứu đấy thôi mà…”
Tôi thì nghĩ anh ta sắp đột ngột lăn đùng ra đây, toác đôi ra từ đầu cho đến rốn, nhưng hai mắt không động đậy, anh lặp lại:
“Chỉ là cái bơm cấp cứu thôi mà!”
Tôi thì tôi nghĩ: anh ta lên cơn điên rồi, anh ta sắp nhảy múa đây…
Nhưng, sau cùng, hai mắt không nhìn chiếc máy bay nữa, chiếc máy bay, bây giờ biết là thoát không bị cháy rồi, anh ta nhìn tôi và lặp lại:
“Chẳng có gì. Chỉ là cái bình cứu hỏa nó ngoặc vào đầu gối mình mà thôi!”
o O o
Không thể nào giải thích được việc chúng sống sót. Cầm chiếc đèn bấm trong tay, tôi đi ngược lại theo vết chiếc máy bay trên mặt đất. Hai trăm năm mươi mét cách chỗ nó dừng hẳn, đã thấy những mảnh sắt cong queo và những vụn tôn mà nó đã bắn tóe suốt lượt trên mặt cát. Khi trời sáng, chúng tôi sẽ biết rằng chúng tôi đã va phải hầu như thành một đường tiếp tuyến một triền dốc thoải trên đỉnh một cao nguyên vắng vẻ, Ở chỗ va chạm là một cái lỗ trên cát dốc như vết một lưỡi cày.
Chiếc máy bay, không bị lật nhào, vẫn giận dữ tiến tới bằng bụng, với những cử động giống như đuôi rắn. Nó đã bò sát với tốc độ hai trăm bảy mươi ki lô mét giờ. Chúng tôi thoát chết có lẽ nhờ các đá đen và tròn kia, chúng lăn tự do trên cát giống như một cái bàn bi.
Prévot rứt các bình ắc quy ra để tránh một vụ cháy có thể xảy ra sau đó, do cầu chì. Tôi tựa vào động cơ và suy nghĩ: trên độ cao, tôi đã phải chịu trong bốn giờ mười lăm phút một ngọn gió năm mươi ki lô mét giờ, tôi tất bị xao động. Nhưng nếu ngọn gió đã chuyển hướng ngay sau khi vừa dự báo xong, tôi đã không biết tí gì về hướng đi của nó. Như vậy là tôi đã lọt vào trong một hình vuông mỗi bề bốn trăm ki lô mét.
Prévot đến ngồi cạnh tôi và nói với tôi:
“Ta còn sống, phi thường thật đấy!”
Tôi chẳng trả lời gì, cũng chẳng cảm thấy vui chút nào. Tôi bỗng nảy ra một ý nhỏ, cái ý đó nó đã manh nha trong đầu tôi và làm tôi hơi xúc động.
Tôi yêu cầu Prévot bật đèn để định tiêu điểm, và cầm chiếc đèn bấm trong tay, tôi cứ đi thẳng về phía trước mặt. Tôi nhìn mặt đất chăm chú. Tôi chậm rãi bước tới, quét ánh sáng thành một nửa vòng tròn, nhiều lần thay hướng. Tôi vẫn tìm kiếm trên mặt đất như thể đang tìm một chiếc nhẫn bị đánh rơi. Lúc nãy, như vậy đó, tôi đã tìm đốm lửa. Tôi vẫn bước tới trong tối đen, cúi xuống khoảng sáng trắng mà tôi lia đi lia lại. Đúng thế… đúng thế… Tôi chậm rãi đi ngược đến chiếc máy bay. Tôi ngồi xuống cạnh buồng lái và suy nghĩ. Từ nãy tôi tìm một lý lẽ để hy vọng và tuyệt chẳng tìm thấy. Tôi tìm một dấu hiệu từ cuộc sống, nhưng cuộc sống tuyệt chẳng hề ra hiệu cho tôi.
“Prévot! Mình chẳng thấy một lá cỏ nào…!”
Prévot nín thinh, tôi không rõ anh có hiểu tôi không. Ta sẽ nói lại chuyện đó khi màn đêm rút đi, khi ngày trở lại. Tôi cảm thấy vô cùng mệt mỏi, tôi nghĩ thầm: “Ngót bốn trăm ki lô mét, trong sa mạc!” Bỗng tôi nhảy lên:
“Ôi, nước!”
Các bình xăng, bình dầu đã vỡ. Các đồ chứa nước cũng thế. Cát đã uống hết. Chúng tôi chỉ tìm lại được có một nửa lít cà phê ở đáy một cái phích vỡ, một phần tư lít vang trắng ở đáy một cái phích vỡ khác. Chúng tôi lọc hai thứ nước ấy và trộn lẫn lại. Chúng tôi cũng tìm được mấy quả nho và một quả cam. Nhưng mà tôi tính: “Đi năm tiếng, dưới nắng, trong sa mạc, hết ngay mà…”
Chúng tôi vào buồng lái đợi sáng. Tôi duỗi người sắp ngủ. Vừa thiu thiu, tôi vừa nhẩm kể lại việc xảy ra với chúng tôi, hơn thiệt thế nào. Chúng tôi không biết gì hết về vị trí của mình. Chúng tôi không có đến một lít nước uống. Chúng tôi rơi xuống đây, nếu ở trên tuyến thẳng, tám ngày người ta mới tìm thấy chúng tôi, khó lòng mong sớm hơn, và như vậy là chậm quá. Nếu thật mà chúng tôi đã lái chệch đường, thì sáu tháng người ta mới tìm ra. Không thể trông vào các máy bay được: chúng sẽ phải lục tìm chúng tôi dọc ba nghìn ki lô mét.
“Ôi, đáng tiếc…” Prévot nói.
“Lúc này mà chết được ngay, hay hơn biết bao!”
Nhưng không nên khước từ sự sống sớm thế. Prévot và tôi, chúng tôi trấn tĩnh lại. Không nên để mất cơ hội, dẫu mong manh đến đâu, được cứu một cách kỳ diệu bằng đường không. Cũng không nếu ở yên một chỗ bỏ lỡ mất cái ốc đảo có thể ngay gần đây. Hôm nay chúng tôi sẽ đi cả ngày. Và chúng tôi trở lại chiếc máy bay của chúng tôi. Trước khi đi, chúng tôi sẽ ghi trên mặt cát, bằng chữ hoa to chương trình của chúng tôi.
Thế là tôi cuộn tròn người lại và ngủ cho đến sáng. Và tôi rất lấy làm thích được ngủ. Tôi mệt mỏi đến nỗi có cảm giác như có đông người xung quanh mình. Tôi không một mình trong sa mạc, giấc ngủ lơ mơ của tôi đầy các giọng nói, đầy kỷ niệm, đầy lời tâm sự thì thào. Tôi chưa cảm thấy khát, tôi thấy mình khoan khoái, tôi tự phó thân cho giấc ngủ như cho cuộc phiêu lưu. Hiện thực lùi bước trước sự mơ màng…
Ôi! Khi ngày trở lại, mọi việc thật là khác hẳn!
o O o
Tôi rất yêu Sahara. Tôi đã sống nhiều đêm ở đất loạn. Tôi thức dậy trong dải cát bao la màu vàng này nơi gió để lại những vệt sóng như trên mặt biển. Ở đấy tôi ngủ rúc dưới cánh tay mình mà đợi cấp cứu, và cái đó tuyệt không có gì so sánh được.
Chúng tôi bước đi trên sườn những ngọn đồi cong. Đất gồm có cát hoàn toàn bị bao phủ bởi một lớp độc nhất sỏi sáng và đen. Trông như là những chiếc vẩy bằng kim khí, và tất cả các mái vòm bao bọc chúng tôi đều rực chói như những áo giáp. Chúng tôi rơi vào trong một thế giới khoáng chất. Chúng tôi bị nhốt trong một cảnh trí bằng sắt.
Vượt qua một đỉnh đồi đầu tiên, xa hơn đã thấy báo hiệu một đỉnh đồi nữa giống như vậy, chói sáng và đen. Chúng tôi vừa bước đi vừa dùng chân nạo đất phía dưới, để tạo thành một cái rãnh dẫn đường, hòng sau này còn biết lối mà trở về. Chúng tôi nhắm vầng dương trước mặt mà đi. Thật là trái với mọi lẽ phải, việc tôi quyết định đi về hướng chính Đông, vì tất cả xui tôi nghĩ rằng tôi đã vượt qua sông Nil: khí tượng, thời gian bay. Nhưng tôi có thử đi một quãng về hướng Tây và tôi cảm thấy khó chịu mà không giải thích được vì sao. Vậy nên tôi dành lại hướng Tây cho ngày mai. Và tôi cũng tạm thời bỏ hướng Bắc, tuy hướng Bắc dẫn ra biển. Ba ngày sau, khi chúng tôi quyết định, trong cơn nửa còn tỉnh, nửa đã mê, rời bỏ hẳn chiếc máy bay của chúng tôi, và đi thẳng trước mặt cho đến cuối, cũng vẫn là hướng Đông mà chúng tôi đi. Đúng hơn, hướng Đông-Bắc-Đông. Và cái này cũng ngược với mọi lẽ phải, cũng như ngược với mọi hy vọng. Và chúng tôi khám phá thấy, một khi được cứu sống, rằng chẳng có hướng nào khác có thể cho phép chúng tôi trở lại, vì về hướng Bắc, kiệt sức, chúng rôi tất cũng chẳng tới được biển đâu. Nói thì vô lý, nhưng bây giờ nhớ lại, vì chẳng có chỉ dẫn gì mà chỉ dựa vào lựa chọn, tôi đã chọn cái hướng ất chỉ vì lẽ nó đã cứu anh bạn thân Guillaumet của tôi trong dãy Andes nơi tôi từng tìm kiếm anh biết bao. Cái hướng đó đã trở nên, đối với tôi, một cách mơ hồ, cái hướng của sự sống.
Sau năm tiếng đi bộ, cảnh vật thay đổi. Một dòng sông cát như chảy vào trong một thung lũng và chúng tôi men theo lòng thung lũng đó. Chúng tôi bước rảo, vì phải đi thật xa rồi trở lại trước khi trời tối nếu không phát hiện được gì. Và bỗng nhiên tôi dừng lại:
“Prévot này.”
“Cái gì?”
“Vết chân…”
Đã bao lâu rồi chúng tôi quên không lấy chân cào đất kéo dài vết chúng tôi đi? Không tìm lại được cái vệt ấy là chết.
Chúng tôi quay ngoặt lại, nhưng lại đi chéo sang phía phải. Chúng tôi đi khá xa rồi mới quay thẳng góc với hướng đi ban đầu, và chúng tôi mới lại gặp dấu vết của chúng tôi, ở nơi mà chúng tôi còn đánh dấu.
Khi nối lại được với đường dây ấy, chúng tôi lại đi. Nắng lên, và cùng với nắng, các ảo ảnh nảy sinh. Nhưng hãy còn là những ảo ảnh sơ đẳng. Những cái hồ lớn hợp và tan khi chúng tôi tiến tới. Chúng tôi quyết định vượt qua cái thung lũng cát, và trèo lên vòm đồi cao nhất để quan sát chân trời. Chúng tôi đã đi sáu tiếng rồi. Bước những bước sải dài, ắt chúng tôi đã đi ba mươi nhăm ki lô mét. Chúng tôi đã lên tới chóp của cái chỏm tròn màu đen đó, rồi lặng lẽ ngồi xuống. Cái thung lũng cát của chúng tôi, ở dưới chân, tiếp nối một sa mạc toàn cát không có đá, ánh sáng trắng rực rỡ nhìn muốn cháy mắt. Xa tít tắp, ấy là khoảng không. Nhưng ở chân trời, các trò chơi của ánh sáng đã cấu thành những ảo ảnh còn làm rối trí hơn nữa. Thành lũy và giáo đường, các khối nhà cửa có những đường thẳng đứng. Tôi cũng nhìn một vệt đen lớn giả làm cây cối nhưng bên trên lại có một đám trong những đám mây ban ngày đã tan đi đến chiều tối mới hình thành lại. Đó chỉ là cái bóng của một đám mây tích mà thôi.
Không cần đi tới nữa, mưu toan này chăng dẫn đến đâu. Phải trở lại chỗ chiếc máy bay, chiếc phao đỏ và trắng đó, có lẽ các bạn hữu sẽ nhìn thấy nó. Cho dẫu tôi tuyệt không xây niềm hy vọng của tôi trên các cuộc tìm kiếm đó, đối với tôi, các cuộc tìm kiếm đó lúc bấy giờ vẫn là cơ hội được cứu thoát duy nhất. Nhưng nhất là chúng tôi còn để lại trong máy bay những giọt nước cuối cùng của chúng tôi, và chúng tôi đã thấy nhất thiết phải uống rồi. Cần phải trở lại để mà sống. Chúng tôi là tù binh của cái vòng tròn bằng sắt ấy: tính chất ngự trị ngắn ngủi của cơn khát nơi chúng tôi.
Nhưng khi người ta tưởng người ta đang đi về phía cuộc sống, quay trở lại thật khó làm sao! Bên kia các ảo ảnh, chân trời có lẽ lại giàu có những thành phố thật giàu có những lạch nước ngọt và những bãi cỏ. Tôi biết là tôi có lý để mà trở lại. Tuy vậy, tôi vẫn có cảm giác như chìm đắm khi tôi hạ quyết định dữ dội phải chuyển hướng.
Chúng tôi nằm cạnh chiếc máy bay. Chúng tôi đã đi hơn sáu mươi ki lô mét. Chúng tôi đã uống hết các loại nước của chúng tôi.
Về hướng Đông, chúng tôi không tìm thấy gì hết, và không một người bạn nào đã bay trên vùng đất này. Chúng tôi còn chịu được bao lâu nữa? Chúng tôi đã khát quá thế này…
Chúng tôi cất một đống củi lớn có mượn một số mảnh vỡ của cái cánh đã tan tành. Chúng tôi đã tưới xăng vào, chất thêm các miếng tôn dạ quang sẽ cháy lên một ánh sáng trắng và sắc. Chúng tôi đợi thật tối kịt mới đốt bùng đám cháy của chúng tôi… Nhưng mà loài người, nào biết họ ở đâu?
Bây giờ ngọn lửa vút lên. Một cách thành kính, chúng tôi nhìn ngọn đèn hiệu ấy của mình bùng lên trong sa mạc. Chúng tôi nhìn ngời lên trong đêm cái thông báo lặng lẽ và chói rực của mình. Và tôi nghĩ rằng nếu nó có mang đi một lời kêu gọi tha thiết thì nói cũng mang đi rất nhiều tình yêu. Chúng tôi yêu cầu được uống nhưng chúng tôi cũng yêu cầu được giao tiếp. Được thấy một ngọn lửa khác cháy lên trong đêm, chỉ loài người là sử dụng lửa thôi, và loài người hãy trả lời chúng tôi!
Tôi thấy lại đôi mắt vợ tôi. Tôi sẽ không còn thấy gì khác ngoài đôi mắt ấy. Hai mắt ấy đang hỏi. Tôi thấy lại mắt của những ai, có lẽ, thiết tha nhìn tôi. Và những cặp mắt ấy đang hỏi. Tất cả bao nhiêu ánh nhìn tụ hội đang trách móc sự im lặng của tôi. Tôi trả lời đây! Tôi trả lời đây! Tôi trả lời với tất cả sức lực của mình, tôi không thể ném được ngọn lửa nào chói rực hơn trong bóng tối!
Tôi đã làm tất cả những gì có thể. Chúng tôi đã làm tất cả những gì có thể: sáu mươi ki lô mét hầu như không uống. Bây giờ chúng tôi không uống nữa. Nếu chúng tôi không đợi được lâu hơn nữa, có phải tại chúng tôi không? Đáng lẽ chúng tội chỉ nên ngoan ngoãn nằm đó mà mút chiếc bi đông của chúng tôi. Nhưng từ cái giây phút mà tôi rít cái đáy bầu bằng thiếc, một cái đồng hồ đã bắt đầu hoạt động. Từ cái giây mà tôi hút giọt nước sau chót, tôi bắt đầu lăn xuống một sườn dốc. Tôi làm thế nào cưỡng lại khi thời gian cuốn tôi như cuốn một con sông? Prévot khóc. Tôi vỗ về anh ta. Tôi nói để an ủi anh ta:
“Đi tong thì đằng nào cũng là đi tong.”
Anh ta trả lời tôi:
“Anh tưởng là tôi khóc về tôi hay sao…”
Ấy, hẳn chứ, tôi đã khám phá ra điều hiển nhiên ấy. Không gì là không thể chịu được. Ngày mai, ngày kia, tôi sẽ biết quyết không gì là không thể chịu được. Tôi chỉ tin có một nửa vào sự đày đọa. Tôi đã suy nghĩ như thế. Một hôm tôi đã tưởng tôi chết đuối rồi, bị nhốt trong buồng lái và tôi không đau đớn nhiều lắm. Đôi khi tôi tưởng bị vỡ mặt và cái đó tuyệt cũng không phải là sự việc gì quan trọng lắm. Ở đây cũng thế, tôi tuyệt sẽ không biết nỗi tuyệt vọng đâu. Ngày mai, về vạn vật, tôi sẽ còn biết nhiều việc kỳ lạ hơn nữa. Và có Thượng Đế mới biết, cho dẫu đốt ngọn lửa này to lên tôi có thôi không để cho loài người còn nghe tiếng mình không!…
“Nếu anh tưởng là tôi khóc về tôi…” Phải, phải chính đó là điều không thể chịu nổi. Mỗi lần tôi nhìn thấy lại những cặp mắt đang chờ đợi, tôi cảm thấy lòng rát bỏng. Tôi đột ngột muốn đứng lên và chạy thẳng ra đằng trước. Ở đằng xa kia, người ta kêu cứu, người ta đang chìm đắm!
Ấy là một cuộc thay bậc đổi ngôi kỳ lạ, song tôi vẫn nghĩ rằng bao giờ nó cũng là thế. Tuy vậy, tôi, phải có Prévot để vững tin hoàn toàn điều đó. Phải, Prévot cũng sẽ không biết tới cái tuyệt vọng trước cái chết mà người ta nói đi nói lại mãi với chúng tôi. Nhưng có một cái gì đó mà anh không thể gánh chịu được, tôi cũng không chịu được.
Ôi, tôi sẵn sàng thiếp ngủ, ngủ qua đêm hay ngủ qua nhiều thế kỷ. Tôi ngủ thì tôi cũng tuyệt không phân biệt được. Và thật êm ả biết bao! Nhưng những tiếng mà người ta sắp thét lên ở đằng kia, những ngọn lửa thất vọng to lớn kia… hình ảnh chúng, tôi không chịu được. Tôi không thể khoanh tay trước những chìm đắm đó! Mỗi giây im lặng ám hại một ít những người tôi yêu thương. Và một con giận dữ dội rẽ lối đi vào trong tôi: vì sao có những xiềng xích ngăn cản không cho tôi đến kịp cấp cứu những ai chìm đắm? Tại sao đám lửa của chúng tôi không mang được tiếng kêu của chúng tôi đến được đầu kia thế giới? Hãy kiên nhẫn… Chúng tôi đang tới đây! Chúng tôi đang tới đây! Chúng tôi là những người đi cứu!
Ma giê đã được đốt hết và ngọn lửa của chúng tôi đỏ quạch. Ở đây đủ còn một đống tro than mà chúng tôi khom lưng vào sưởi. Hết rồi, cái thông báo lớn ngời sáng của chúng tôi, nó phát động được cái gì ở trên đời này? Ôi, tôi biết rõ là nó không phát động được cái gì. Nó chỉ là một lời khẩn cầu chẳng được ai nghe.
Thôi được, tôi đi ngủ đây.
o O o
Mờ sáng, chúng tôi vét được, bằng cách dùng một mảnh giẻ lau cánh, một ít nước sương lẫn sơn và dầu đựng được một đáy cốc. Thật khổ tâm. Nhưng chúng tôi đã uống thứ nước ấy. Cũng chẳng còn gì tốt hơn, ít ra chúng tôi cũng đã thấm được môi. Sau bữa tiệc đó, Prévot bảo tôi:
“Cũng may, còn khẩu súng ngắn.”
Bỗng nhiên tôi trở nên hung hăng, tôi quay lại phía Prévot, thấy giận và ghét anh ta. Trong lúc này, tôi không thù gì hơn sự sa sút tinh thần. Tôi đang cần vô cùng thái độ cho rằng mọi việc đều đơn giản. Đơn giản, việc ta sinh ra. Đơn giản, việc ta lớn lên. Và đơn giản, việc ta chết khát.
Tôi liếc nhìn Prévot, nếu cần tôi sẵn sàng đánh anh ta cho anh ta im đi. Nhưng Prévot nói với tôi giọng bình thản. Chỉ là anh ta luận về một vấn đề vệ sinh. Anh ta đề cập tới vấn đề đó giống như anh ta bảo tôi: “Ta phải đi rửa tay đi.” Thế là chúng tôi đồng ý với nhau. Tôi đã suy ngẫm hôm qua khi nhìn thấy cái bao da. Những suy nghĩ của tôi hợp lý nhưng không tình cảm. Chỉ cái gì đó có tính chất xã hội mới tình cảm. Cái bất lực của chúng ta khi muốn làm yên tâm những con người mà chúng ta chịu trách nhiệm. Chứ không phải là khẩu súng ngắn.
Người ta vẫn không tìm kiếm chúng tôi, hay đúng hơn, có lẽ người ta đang tìm kiếm chúng tôi ở chỗ khác. Chắc là ở vùng Ả Rập. Vậy là trước ngày mai, chúng tôi sẽ không nghe tiếng máy bay của chúng tôi rồi. Chỉ một chiếc bay qua thôi mà còn xa như thế thì trông mong gì. Là những chấm đen lẫn trong nghìn chấm đen trong sa mạc, chúng tôi chẳng thể mong gì được ai nhìn thấy. Chẳng gì là chính xác trong số những suy nghĩ mà về sau người ta có thể gán cho tôi trong cái nhục hình này. Tôi sẽ không chịu một nhục hình nào hết. Những kẻ đi cứu, đối với tôi, họ như đang đi, về trong một thế giới khác.
Phải đến mười lăm ngày lùng sục mới tìm lại được trong sa mạc một chiếc máy bay mà người ta chẳng biết chút tăm hơi, cách gần ba nghìn ki lô mét: mà chắc lúc này người ta lại đi tìm chúng tôi ở quãng từ Tripolitaine đến Ba Tư. Tuy vậy, cả cho đến bây giờ, tôi vẫn dự trữ cho cái may ít ỏi đó, trong lúc không còn cái may nào khác. Thế là đổi chiến thuật, tôi quyết định đi thám hiểm một mình. Prévot sẽ nhen một ngọn lửa và sẽ thổi to lên nếu có người tới, nhưng sẽ chẳng ai tới thăm chúng tôi đâu.
Thế là tôi đi và cũng không rõ là rồi mình có đủ sức trở lại không. Vụt hiện lại trong trí nhớ những điều tôi biết về sa mạc Libya. Trong sa mạc Sahara có bốn mươi phần trăm ẩm, trong khi ở đây chỉ có mười tám phần trăm. Cuộc sống bốc hơi như một thứ hơi. Người dân tộc Bedouin, những khách du lịch, các sĩ quan thuộc địa, họ cho biết rằng người ta có thể chịu khát được trong vòng mười chín tiếng. Sau hai mươi tiếng, mắt người ta quáng hẳn và sự kết thúc bắt đầu: cuộc hành trình của cái khát nhanh như sấm chớp.
Nhưng mà cái gió Đông Bắc này, cái gió không bình thường nó lừa dối chúng tôi, trái với mọi dự tính, nó đã đóng đinh chúng tôi trên cái cao nguyên này, cái gió ấy bây giờ có lẽ kéo dài sự sống cho chúng tôi. Nhưng nó cho chúng tôi bao nhiêu thời gian trước giờ những ánh sáng quáng mắt đầu tiên ập tới?
Vậy là tôi ra đi, nhưng tôi có cảm giác như mình đi ca nô trên biển lớn.
Tuy, nhờ bình minh, cảnh trí này đối với tôi bớt ảm đạm chết chóc hơn. Và tôi đi, thoạt tiên còn như một đứa toan hái trộm, cho tay vào túi. Chiều qua, chúng tôi có đi đặt một ít dây nhợ ở lỗ ra vào một vài hang ổ bí mật, và cái anh săn bắn nghiệp dư ở trong tôi thức dậy. Trước tiên, tôi đi xem lại các bẫy: chúng trống trơn.
Vậy là chẳng có tí máu nào mà uống. Thật ra tôi cũng không mong.
Tôi không hề thất vọng, trái lại, tôi thấy mình hơi tò mò. Những con vật ấy, ở sa mạc, chúng sống bằng gì cơ chứ? Có lẽ đó là những con cáo cát mà người ta gọi là phê nếch, loại thú rừng nhỏ ăn thịt chỉ lớn bằng loài thỏ, tai rất to. Tôi không cưỡng lại được ý muốn của minh và đi theo vết chân một con. Các vết chân dẫn tôi đến một dòng sông cát hẹp, ở đây tất cả các vết chân đều rõ mồn một. Tôi thấy xinh quá ba vệt ngón chân xòe cánh quạt giống hình lá cọ. Tôi tưởng tượng người bạn nhỏ của tôi vừa nhảy lúp xúp nhẹ nhàng vào lúc bình minh vừa liếm sương trên các tảng đá. Tôi thấy, các vết chân thưa hơn: con phê nếch của tôi chạy mà! Ở đây, một thằng bạn đã tới gặp cậu ta và hai con đã lúp xúp nhảy cạnh nhau. Thế đấy, tôi dự vào cuộc dạo chơi ấy của buổi sáng với một niềm vui lạ kỳ. Tôi yêu cái tín hiệu ấy của cuộc sống. Và tôi quên đi trong giây lát rằng tôi đang khát…
Sau cùng tôi đến chỗ những chạn thức ăn của lũ cáo. Sát mặt cát, cứ một trăm mét, lại trồi lên một thân cây con khô cỡ một cái liễn canh, cành nhánh chi chít những con sên nhỏ vàng óng. Mỗi rạng sáng con phê nếch đi kiếm thức ăn. Và ở đây, tôi va phải một bí mật thiên nhiên lớn.
Không phải bạ gặp cây con nào, con phê nếch cũng dừng lại. Có những cây đầy sên mà nó chẳng thèm dừng. Có cây nó đi vòng quanh và rõ ràng thận trọng. Có cây nó ghé đến nhưng không phá hoại. Nó chỉ rứt vài ba cái vỏ ốc rồi đi tới hàng quán khác.
Có phải để cho cuộc dạo chơi buổi sớm mai được thích thú lâu dài mà nó nhấm nháp mỗi nơi mỗi tí không? Tôi không cho là thế. Trò chơi của nó thật phù hợp với một chiến thuật cần thiết. Nếu con phê nếch ăn bằng thích những thực phẩm cái cây con gặp đầu tiên, chỉ cần hai, ba bữa, cái cây con đó tất trụi mất cái kho hàng nuôi sống nó. Và cứ thế, hết cây con này đến cây con khác, nó sẽ hủy hoại đàn vật chăn nuôi. Mà con phê nếch cũng gìn giữ để khỏi cản trở việc nhân giống. Một bữa ăn, nó nhấm nháp ở hàng trăm cái bụi màu nâu đó, mà còn không bao giờ ăn một lúc hai vỏ ốc nằm kề nhau ở một cành. Mọi việc diễn ra như là nó có ý thức về sự cơ nhỡ. Nếu nó cứ ăn no mà không phòng xa, rồi sẽ chẳng có sên nữa. Nếu tuyệt không có sên, cũng sẽ tuyệt không có phê nếch.
Các vết chân đưa tôi đến hang cáo. Con phê nếch đó, có lẽ nó đang đứng nghe chừng tôi, hốt hoảng bởi bước chân thậm thịch của tôi. Và tôi bảo nó: “Chú cáo nhỏ của tôi ạ, tôi đi tong rồi, nhưng mà lạ quá, tôi vẫn quan tâm đến vui buồn của chú đấy…”
Rồi tôi đứng yên đó mà mơ màng và tôi thấy như là con người ta thích ứng với tất cả. Ý nghĩ rồi ba mười năm nữa mình sẽ chết, ý nghĩ ấy không làm cho một con người mất vui. Ba mươi năm, ba ngày… cái đó chỉ là một vấn đề phối cảnh xa gần.
Nhưng ta cần quên một vài hình ảnh…
Bây giờ tôi đi tiếp con đường của tôi và, cùng với sự mệt nhọc, trong người tôi đã có một cái gì biến đổi. Những ảo ảnh, nếu khách quan không có, thì tôi cũng hư tạo ra.
“Ô hê!”
Tôi vừa hét vừa đưa hai tay lên trời nhưng cái người đang múa may kia chỉ là một tảng đá đen. Bây giờ trong sa mạc cái gì cũng hừng lên. Tôi muốn đánh thức anh thổ dân Bedouin đang ngủ kia, anh liền biến thành thân cây đen. Thành thân cây ư? Việc ở đây có cây làm tôi kinh ngạc và tôi cúi xuống. Tôi muốn nhấc lên một cành gãy: nó thật ra là cẩm thạch! Tôi đứng lên và nhìn xung quanh, tôi thấy nhiều cẩm thạch đen khác. Một khu rừng hồng hoang để lại trên mặt đất lởm chởm những khoảnh gốc vỡ. Khu rừng sụp đổ như một cái nhà thờ, đã mười vạn năm nay, dưới một cơn bão tố nguyên thủy. Và các thế kỷ đã lăn đến tận chân tôi các khoảnh cột khổng lồ, bóng nhoáng như là những vật bằng thép, cô đặc, bóng như gương, màu mực đậm. Tôi còn phân biệt được đâu là các khuỷu cành, tôi thấy mọi xoắn vặn của đời, tôi đếm các vành thân. Khu rừng này vốn đầy chim và ca nhạc, đã bị trừng phạt và biến thành muối. Và tôi có cảm giác cái cảnh trí này đối với tôi hiềm khích. Còn đen hơn cái áo giáp sắt ấy của các ngọn đồi, di tích uy nghi ấy từ khước tôi. Tôi là một con người sống, tôi có việc gì ở đây, giữa các tảng cẩm thạch bất tri này? Tôi, một sinh vật khả diệt, tôi, mà thân thể sẽ tan biến đi, tôi có việc gì ở đây trong vĩnh cửu?
Từ hôm qua, tôi đã đi ngót tám mươi ki lô mét. Cái choáng váng này cùa tôi chắc là do khát thôi. Hay là do mặt trời. Mặt trời chiếu lên các thân cây kia, chúng bóng nhoáng như ướp dầu. Nó chiếu trên cái vỏ cứng này của thế giới. Ở đây không có cát cũng không có cáo. Ở đây chỉ là một cái đe mênh mông. Và tôi đang bước đi trên cái đe này. Và tôi cảm giác như mặt trời âm vang trong đầu tôi. Ôi, kia kìa…
“Ô hê! Ô hê!”
“Chẳng có gì ở đằng kia đâu, đừng rối lên, mày mê sảng đấy.”
Tôi bảo tôi như vậy, vì tôi cần viện đến lý trí của mình. Từ khước cái mình thấy, đối với tôi, thật là khó. Thật là khó, đối với tôi, đừng chạy đến đoàn người và lạc đà đang đi kia… Kìa… Mày thấy rõ đấy!
“Đồ ngốc, mày biết rõ là chính mày hư tạo ra nó…”
“Thế thì ở đời chẳng gì là thật cả…”
Chẳng cái gì là thật, nếu không phải là cái chữ thập cách tôi hai mươi ki lô mét trên đồi. Chữ thập đó, hay cái đèn pha đó…
Nhưng hướng này không phải là hướng biển. Vậy đó là chữ thập. Suốt đêm tôi đã nghiên cứu bản đồ. Công việc của tôi vô ích, bởi tôi không rõ mình đang đứng ở đâu. Nhưng tôi cúi xuống tất cả mọi dấu hiệu chỉ cho tôi sự có mặt của con người. Và, đâu đó, tôi có phát hiện một đường tròn nhỏ trên có một chữ thập y như vậy. Tôi nhìn xuống chú giải và đọc: “Tu viện”. Cạnh chữ thập, tôi thấy có một chấm đen. Tôi lại nhìn xuống chú giải và đọc: “Giếng vĩnh cửu.” Tim tôi giật một cái mạnh, và tôi đọc to: “Giếng vĩnh cửu… Giếng vĩnh cửu… Giếng vĩnh cửu!” Ali Baba và các kho vàng, cái đó bây giờ nào có nghĩa gì trước một cái giếng vĩnh cửu? Xa hơn một chút, tôi chú ý thấy hai vòng tròn trắng. Tôi đọc xuống chú giải: “Giếng tạm thời.” Có bớt đẹp hơn một chút rồi. Rồi bốn chung quanh không có gì nữa. Không có gì hết.
Đó, cái tu viện của tôi, nó đó! Các tu sĩ đã trồng một chữ thập lớn trên đồi để gọi những người bị chìm đắm! Tôi chỉ việc bước tới chữ thập đó. Tôi chỉ việc chạy đến các vị khổ tu đó…
“Nhưng ở Libya chỉ có các tu vịện Ai Cập cổ thôi.”
“… chạy đến các vị khổ tu chăm chỉ đó. Họ có một cái nhà bếp xinh xinh mát mẻ lát đá hoa đỏ và ở ngoài sân, một cái bơm nước rỉ tuyệt diệu. Dưới cái bơm rỉ, anh có thể đoán ra được đấy… dưới cái bơm rỉ, ấy là cái giếng vĩnh cửu! Ôi chao! Cái tu viện ấy sẽ nổi tiệc lên nhé, khi ta đến cửa và giật chuông, khi mà ta kéo cái chuông lớn…”
“Đồ ngốc, mày đang tả một cái nhà vùng Provence, mà nhà vùng Provence thì làm gì có chuông.”
“… Khi mà ta kéo cái chuông lớn! Người gác cổng sẽ đưa cả hai tay lên trời mà hét: ‘Ông là phái viên của Thượng Đế!’ và ông ta sẽ gọi tất cả các tu sĩ. Các tu sĩ sẽ chạy vội lại. Và họ sẽ thết đãi ta như một đứa trẻ nghèo. Và họ sẽ đẩy ta vào bếp. Và họ sẽ bảo ta: ‘Một giây, một giây thôi, con ạ… ta đang chạy đến cái giếng vĩnh cửu…’”
“Và ta, ta sẽ run lên vì sung sướng…”
Nhưng mà không, tôi không muốn khóc, chỉ vì lẽ không còn chữ thập nào trên đồi hết.
Những hứa hẹn của hướng Tây chỉ là dối trá. Tôi đã ngoặt sang chính Bắc.
Hướng Bắc, nó ít ra cũng đầy tiếng hát của biển.
Ôi chao, đỉnh núi này vượt qua là trải dài chân trời trước mặt. Và đây là cái thị trấn đẹp nhất thế giới.
“Mày biết đó chỉ là ảo ảnh thôi…”
Tôi rất biết đó chỉ là một ảo ảnh. Tôi thì ai mà lừa dối được? Nhưng nếu tôi, chính tôi thích lún vào trong một ảo ảnh? Nếu tôi thích hy vọng? Nếu tôi thích cái thị trấn có khía răng cưa và rợp phủ ánh nắng kia? Nếu tôi thích đi thẳng, bước đi nhanh nhẹn, bởi vì tôi không thấy nhọc nữa, bởi vì tôi sung sướng… Prévot và cái súng ngắn của cậu ta, thật chết cười. Tôi thích cơn say của tôi hơn. Tôi đang say đây. Tôi chết vì khát đây!
Hoàng hôn làm cho tôi tỉnh lại. Tôi chợt dừng khựng lại, hoảng hốt vì thấy mình đi xa thế. Vào lúc hoàng hôn, ảo ảnh chết. Chân trời cởi bỏ hết nào máy bơm, nào dinh thự, nào quần áo lễ. Đó là một chân trời sa mạc.
“Muộn quá rồi! Bóng đêm sắp chụp lấy mày bây giờ, mày phải đợi trời sáng, nhưng đến mai thì dấu chân mày sẽ bị xóa đi hết và mày sẽ không biết mày ở đâu nữa.”
“Thế thì tốt hơn nên đi tiếp thẳng trước mặt… Quay lại có ích gì nữa? Ta không muốn dừng lại khi có lẽ ta sắp mở, khi ta sắp rộng mở tay ta đón biển.”
“Mày thấy biển ở đâu? Mà mày chẳng bao giờ đi tới biển đâu. Có lẽ mày cách biển dễ đến ba trăm ki lô mét rồi. Prévot thì cậu ta lúc này đang rình trông cạnh chiếc Simoun! Và cậu ta, có lẽ, được một đoàn người và lạc đà nhìn thấy…”
Vâng, tôi trở lại đây, nhưng để tôi đi gọi mọi người đã:
“Ô hê!”’
Cái hành tinh này, Thượng Đế ôi, nó vốn có người ở kia mà…
“Ô hê! Người ta ơi!”…
Tôi khản giọng. Tôi không còn giọng nữa. Tôi cảm thấy hét thế là lố bịch… Tôi la lên một lần nữa:
“Người ta ơi!”
Nghe sao mà văn hoa và khoa trương!
Tôi quay lại.
Sau hai giờ đi, tôi nhìn thấy những tàn lửa mà Prévot, hoảng vì tưởng tôi lạc rồi, ném lên trời. Ôi, tôi thấy mà dửng dưng…
Một giờ đi nữa… Còn năm trăm mét. Còn một trăm mét. Còn năm mươi mét…
“Ôi!”
Tôi dừng lại, sửng sốt. Niềm vui sắp tràn ra ngoài trái tim tôi, tôi cố nén vì vui quá. Prévot, mà lửa soi sáng rực rỡ, đang nói chuyện với hai người Ả Rập đang đứng tựa lưng vào máy bay. Prévot chưa nhìn thấy tôi. Anh ta còn bận quá nỗi vui riêng của mình. Ôi, nếu mình mà ở lại đợi như anh ta, bây giờ mình có phải như người được giải thoát rồi không! Tôi cười vui vẻ:
“Ô hê!”
Hai người Bedouin giật mình và nhìn tôi. Prévot rời bỏ họ và một mình đi tới phía tôi, tôi sắp ngã sao? Tôi bảo anh ta:
“Tôi, thế là xong.”
“Cái gì?”
“Người Ả Rập!”
“Người Ả Rập nào?”
“Hai người Ả Rập kia, đang đứng với cậu ấy!…”
Prévot nhìn tôi lạ lắm, và tôi có cảm giác như anh miễn cưỡng tâm sự với tôi một bí mật nặng nề:
“Có người Ả Rập nào đâu!…”
Chắc hẳn, lần này, tôi phải khóc.
o O o
Ở đây, chúng tôi sống mà không uống nước đã mười chín tiếng đồng hồ. Từ chiều qua, chúng tôi đã uống gì? Vì giọt sương lúc bình minh! Nhưng gió Đông Bắc vẫn thổi về, có làm chậm hơn một chút hiện tượng bốc hơi trên da thịt chúng tôi. Cái gió chắn này dễ đùn thêm trong bầu trời những đụn mây cao. Ôi chao! Giá các đám mây cao ấy đi chệch đến tận chỗ chúng tôi, giá trời mưa được!
Nhưng trong sa mạc có mưa bao giờ đâu.
“Prévot ạ, ta lấy một cái dù cắt thành nhiều hình tam giác đi. Ta lấy đã giữ các miếng dù ấy trải lên mặt đất. Gió mà không chuyển hướng thì rạng sáng, ta vặn các miếng dù này vào một cái bình đựng xăng, sẽ hứng được một ít nước sương.”
Chúng tôi đã xếp thẳng hàng sáu tấm vải dù trắng dưới trời sao. Prévot đã tháo một bình xăng. Chúng tôi chỉ còn việc đợi trời sáng.
Trong đống vụn vỡ, Prévot tìm thấy một quả cam kỳ diệu. Chúng tôi chia nhau quả cam. Tôi bàng hoàng lắm vì bỗng được quả cam ấy, nhưng dẫu sao nào có thấm gì khi cơ thể chúng tôi cần đến hai mươi lít nước.
Nằm bên đống lửa đêm, tôi nhìn cái quả rực sáng ấy mà nghĩ thầm: “Loài người thật không biết giá trị của quả cam…” Tôi cũng nghĩ thầm: “Chúng ta đã đi tong rồi: đã chắc chắn như thế, nhưng tôi vẫn không hết vui… Nửa quả cam mà ta nắm chặt trong tay đây mang lại cho ta một niềm vui lớn nhất trong đời…” Tôi nằm ngửa, vừa nhấm từng tí trái cam của tôi, vừa đếm những ngôi sao băng. Tôi bắt gặp tôi có một phút cực kỳ sung sướng. Và tôi lại tự nhủ: “Thế giới cứ theo cái trật tự trong đó ta sống, nếu bản thân ta không tự khép mình trong đó, ta không thể đoán hiểu nó được.” Chỉ hôm nay tôi mới hiểu điếu thuốc và cốc rượu rum của người tử tù. Tôi không cho rằng người tù nhân chấp nhận sự khốn cùng ấy. Thế nhưng hắn ta hút và uống thú vị lắm. Hắn ta mỉm cười và người ta tưởng là hắn ta can đảm. Nhưng hắn mỉm cười vì được uống chén rượu rum. Người ta không rõ rằng, lúc đó, hắn đã thay đổi cách nhìn và hắn lấy cái giờ sau chót ấy mà coi đó là một đời người.
Chúng tôi chắt được nhiều nước: dễ đến hai lít. Thôi thế là hết khát nhé! Chúng tôi thoát rồi nhé, chúng tôi uống nước đây!
Tôi cầm cái cốc sắt múc nước trong cái bình đựng xăng, nhưng nước lại màu vàng lục rất đẹp, và ngay khi uống một ngụm, tôi đã thấy nó hăng, kinh khủng, nên dù là cơn khát giày vò tôi thì trước khi nuốt xong ngụm đó, tôi phải thở đã. Mà cái nước tôi uống nó chỉ là bùn, nhưng cái vị kim khí đã trở thành chất độc còn đáng sợ hơn cái khát của tôi.
Tôi trông thấy Prévot hai mắt cứ láo liên nhìn đất, như anh ta chăm chú tìm cái gì. Bỗng anh gập người lại và nôn, vẫn không hết láo liên. Ba mươi giây sau đến lượt tôi. Tôi quằn quại dữ đến nỗi phải quỳ xuống mà nôn, các ngón tay bíu sâu trong cát. Chúng tôi chẳng nói gì với nhau, suốt mười lăm phút liền, chúng tôi bị vật vã như vậy mà chỉ thổ ra có một tí mật.
Hết rồi. Tôi chỉ còn lờm lợm thôi. Nhưng chúng tôi đã mất cái hy vọng cuối cùng. Tôi không rõ chúng tôi thất bại là do vải dù có tẩm chất gì, hay do chất têtracloruya các bon tích bám trong cái bình đựng xăng. Phải lấy một cái bình khác hay m