← Quay lại trang sách

Phụ Lục (tt) NHA TRANG CÓ CỌP CÓ MA-QUÁCH TẤN

Nhân dân trong các tỉnh lân cận Khánh Hòa truyền tụng: “Cọp Khánh Hòa, Ma Bình Thuận” và trong tỉnh Khánh Hòa lại còn có câu: “Cọp Ổ Gà, Ma Ðồng Cháy” như thế chứng tỏ rằng Khánh Hòa có nhiều cọp cũng có nhiều ma, song ma không nhiều bằng cọp.

Chắc các bạn từ 60 tuổi trở xuống không tin vì hiện tượng ma không thấy đã đành mà cọp cũng không thấy đâu cả.

Không thấy không phải là không có. Muốn rõ sự thật xin các bạn thử đi một mình vào rừng sâu, bạn sẽ thấy cọp đông như “chợ trời” và ma nhiều như các ông các bà buôn lậu. Mà chả cần đi đâu cho xa, các bạn chỉ độc kỹ những văn thơ của Khánh Hòa, các bạn cũng sẽ nhận thấy câu “cọp Khánh Hòa...” và câu “Cọp Ổ Gà, ma Ðồng Cháy” là đúng sự thật, mà không phải chỉ Ổ Gà mới có cọp, Ðồng Cháy mới có ma. Cọp và ma ở ngay tại Nha Trang:

Mả Vòng đêm vắng ma trêu nguyệt

Phước Hải xuân về cọp thưởng mai.

Ðó là câu thơ của cụ Thuần Phu Trần Khắc Thành ở khóm Duy Hà, phường Xương Huân.

Tại Mả Vòng xưa kia có một ngôi mả vôi to lớn hình tròn nằm choán cả lối đi, khách bộ hành đi ngang qua đó đều phải đi vòng qua mộ - nên mới gọi là Mả Vòng. Truyền rằng nơi Mả Vòng có rất nhiều ma. Ðến lúc hoàng hôn ma thường hiện ra ngồi bên mả, đợi người đi qua thì “hớp hồn”. Do đó mà kẻ dừng lại phải cố gắng làm sao để qua khỏi Mả Vòng lúc mặt trời chưa lặn.

Sau khi Pháp đặt nền cai trị lên đất Khánh Hòa liền mở rộng con đường Diên Khánh - Nha Trang và dời mả ấy đi nơi khác. Tuy mả đã dời nhưng người đi đường vẫn còn sợ và ít người dám cất nhà ở chung quanh vùng này. Mãi đến năm 1930-1945 mới có phố xá nơi Mả Vòng.

Còn vùng Phước Hải xưa kia chỉ là một rừng mai vàng - mỗi bận xuân về mai nở trùm cả trăm mẫu đất. Từ khi Pháp chiếm Khánh Hòa rừng mai Phước Hải bị dân đốn làm củi nên ngày càng ít đi. Ðến thời hậu chiến (1945-1975) rừng mai bị phá chỉ còn năm mười gốc cằn cỗi. Khi rừng mai còn rậm, cọp ở núi Huỳnh Ngưu tức Ðồng Bò, thường xuống tìm mồi...

Hai câu thơ trên mượn cảnh thực để ngụ ý châm biếm nhân vật Nha Trang thời Pháp thuộc.

Còn một câu nữa cũng cho chúng ta thấy cọp Khánh Hòa ẩn núp trong rừng thơ:

Ðại Lãnh văn viên vô nguyệt hạ

Nha Trang xạ hổ loạn vân gian.

Nghĩa là:

Lắng vượn trăng mờ đêm Ðại Lãnh

Bắn hùm mây rối núi Nha Trang.

Ðó cũng là cảnh thực để gửi tâm sự. Tác giả là Nguyễn Tư Giản làm quan dưới triều Tự Ðức (1828-1883). Hai câu đó là cặp luận bài tặng biệt cụ Nguyễn Thông.

Cụ Nguyễn Thông là một chí sỹ đậu cử nhân, quán ở Gia Ðịnh. Khi miền Nam bị Pháp chiếm trọn 6 tỉnh (1867) cụ không chịu “đội trời chung cùng giặc” bèn đưa cả gia đình ra cư trú tại Bình Thuận, mở trường dạy học. Triều đình Huế biết cụ là một nhân tài bèn mời cụ ra làm quan. Ban đầu cụ làm Dinh điền sứ, lo việc triển khai khẩn đất hoang. Cụ hiểu rộng thấy xa, có tưt tiến bộ, nhiều khi trái ý triều đình. Cho nên đương ngồi Án sát Khánh Hòa thì bị triệu hồi về Huế khiển trách. Về Huế cụ lấy cớ già yếu xin về Bình Thuận làm ruộng. Triều thần là Nguyễn Tư Giản biết rõ khí tiết và tâm sự cụ, nên có bài tặng biệt “Ðại Lãnh.... Nha Trang”.

Thơ Khánh Hòa còn nhiều, chỉ xin đưa ra cặp có liên quan đến “ma” và “cọp” để mua vui cùng bạn đọc Trầm Hương. Và để cho thêm vui xin hiến các bạn mấy câu thơ về Nha Trang thời tiền chiến.

Nha Trang có cọp có ma

Có đầm én có rừng hoa mai vàng.

Q.T

(Trầm Hương, số tháng 7-1989)

MỘT THI XÃ BỊ BỎ QUÊN CỦA NHA TRANG.

QUÁCH TẤN

Các nhà nghiên cứu văn học ngày trước cũng như ngày nay, không mấy ai biết rằng ở Nha Trang có một thi xã đã góp phần không ít vào việc xây dựng nền văn học Việt Nam.

Ðó là Hoàng Mai thi xã.

Hoàng Mai là thi xã thành lập năm 1935. Sáng lập viên là ba nhân sĩ có uy danh ở Khánh Hòa: Nhà Nho Trần Khắc Thành ở phường Xương Huân, cụ cử Phan Bá Vỹ ở phường Phước Hải; cụ đề Ngô Văn Nhượng ở thôn Phú Ân Nam huyện Diên Khánh.

Thi xã mệnh danh Hoàng Mai vì Khánh Hòa có nhiều mai vàng: mai biển có, mai núi có, mai vườn có. Lại thêm ở Nha Trang có một rừng mai rộng mấy trăm mẫu, giăng trùm cả vùng Phước Hải và hòn Trại Thủy trước ngày thực dân Pháp chiếm cứ Nha Trang. Hòn Trại Thủy đầy mai cổ thụ nên có danh là Mai Sơn.

Thi xã lấy đặc điểm của địa phương để mệnh danh, chẳng những để tỏ lòng thương yêu kính trọng quê hương mà còn để nêu cao “văn thái phong lưu” của thi xã.

Thi xã ra đời với một bài thơ luật:

Nghiệp cũ Hoàng Mai kể Bạch Liên

Phong tao mong giữ nếp chân truyền

Vàng trau ánh mộng đơm ngòi thép

Ngọc ấm tình xuân đúc phẩm tiên

Châu thắm xạ thơm hồn Lạc Việt

Trúc nhuần tơ nhuyễn giọng Hàn Thuyên

Hỡi người đây gấm sang Nam Hải

Qua gác Ðằng Vương hãy ghé thuyền.

Bài thơ hàm súc, vừa thích thực được bốn chữ Hoàng Mai thi xã, vừa nói lên được mục đích và tôn chỉ cùng chủ trương đường lối phải theo.

Thi xã lập ra không có tham vọng đào tạo nhân tài. Ba cụ Phan, Trần, Ngô noi gương người đời Tống lập Bạch Liên thi xã mà lập Hoàng Mai Thi Xã chỉ nhằm mục đích cùng bạn đồng thanh đồng khí xa gần, giữ vững truyền thống đẹp đẻ của cha ông để lại trên nền văn học Việt Nam.

Thi xã chủ trương lấy ôn, nhu, chân, hậu làm cốt, lấy thanh nhã tự nhiên làm cách, lấy chữ Quốc ngữ làm chữ chính, thể Ðường luật là thể chính.

Những người muốn gia nhập thi xã, trước hết phải thông thạo phép làm thơ, sau nữa là phải có tư cách, không thiếu lễ, nghĩa, liêm sĩ. Người tài cao học rộng mà tác phong kém, đạo đức thiếu vẫn không được thi xã kết nạp. Do đó xã viên không quá hai mươi người và phần nhiều là người từ bốn mươi tuổi trở lên, tân học có, cựu học có. Trụ sở đóng tại nhà cụ cử Phan Bá Vỹ (hiện nay ở số 24 Lý Tự Trọng, Nha Trang).

Thi xã mỗi tháng họp một lần vào sáng chủ nhật đầu tháng. Họp để cùng nhau giảng cứu về thi pháp, hoặc phê bình những áng văn chương có danh cổ kim trong nước, ngoài nước hoặc đề ra thơ cho xã viên sáng tác, hoặc chấm những bài thơ của xã viên trình chính...

Lúc bấy giờ Thơ Mới nổi dậy từ Nam chí Bắc, công kích thơ Ðường luật kịch liệt, gây một phong trào rầm rộ. Phong trào khởi đầu từ năm 1932 và chấm dứt năm 1941. năm 1935, năm Hoàng Mai thi xã ra đời, là năm phong trào Thơ Mới lên cao tột độ. Những anh em trong Hoàng Mai thi xã không chút nao núng. Anh em cũng không tìm cách hoặc tỏ thái độ chống đối phong trào. Dưới sự lãnh đạo của ba vị tiền bối Trần, Phan, Ngô, anh em ung dung sáng tác theo chủ trương đường hướng của thi xã mình.

Ðồng thời cùng Hoàng Mai thi xã, ở Huế có Hương Bình thi xã do cụ Ưng Bình Thúc Giạ Thị làm “Tao đàn nguyên soái”, ở Phan Thiết có Liên Thành thi xã do cụ Phú Khê Ðoàn Tá đóng vai “chủ nhân ông”. Hai thi xã này liên hệ mật thiết cùng thi xã Nha Trang, thường có thơ từ trao đổi ý kiến, quan điểm và xướng họa với nhau.

Thơ của Hoàng Mai cũng như thơ của Hương Bình, Liên Thành không đăng lên báo chí, không in thành sách, mà chỉ đánh máy hay in ronéo phổ biến trong nội bộ. Tuy vậy những bạn yêu thơ ở ngoài thi xã vẫn được tân hưởng những vần giai tác như:

Ân đâu phải trả nợ bằng tơ

Vô dụng đành mang tiếng sống thừa

Việc cả muốn làm không đủ sức

Lòng buồn mong tả chẳng nên thơ

Chuyện trò với một bầy con trẻ

Bè bạn còn vài bộ sách xưa

Miễn giữ trọn niềm ngay với thảo

Mặc tình ai ghét mặc ai thưa.

Ðó là bài “Thư hoài”(9) của cụ Ngô văn Nhượng. Lời thơ thanh lão, ý thơ thuần hậu. Tác giả đã theo đúng chủ trương của thi xã. Anh em trong thi xã phần đông dùng làm mẫu để theo.

Thơ của cụ. Phan Bá Vĩ cũng theo đúng đường hướng của thi xã. Bài “Nha thành xuân cảm” sau đây cũng rất được bạn trong và ngoài thi xã hoan nghênh.

Bốn mươi xuân lẻ tết Nha Trang

Xuân mới tình xuân vẫn cũ càng

Ðầm én Xương Huân mây phủ tía

Rừng mai Phước Hải nắng đơm vàng

Nghề quen bút sắt dù chăm chút

Nghĩa thắm ngòi lông dám phụ phàng

Ngoảnh lại thành sen cây lớp lớp

Hoa lan thầm trổ tóc Phan lang.

Văn chương trang nhã. Muốn thưởng thức trọn cái hay của thơ tưởng cũng nên biết qua thân thế tác giả. Cụ Phan sanh quán ở Phan Thiết, đậu cử nhân nhưng không làm quan với Nam Triều mà làm ký lục tòa sứ Pháp. Cụ làm việc ở tòa sứ Nha Trang trên 40 năm, tạo lập cơ nghiệp ở Nha Trang và trở thành nhân sĩ Khánh Hòa chính thức.

Cặp luận tả rõ thân phận, chuyển kết nói lên lòng không quên cố hương là Liên Thành (thành sơn) tức Phan Thiết.

Toàn thể thơ cụ Phan cũng như thơ cụ Ngô đều nghiêm chỉnh. Trái lại thơ của nhà nho Trần Khắc Thành thường là thơ châm phúng. Xin đan cử một luật:

VỊNH GÀ QUÈ

Thôi rồi ai ném hoặc ai quăng

Chẳng lẽ gà sanh cẳng rửa răng?

Năm đức đã đành trời sở phú

Hai chân còn giận đất không bằng

Cối xay đã thạo nghề ăn quẩn

Tiếng gáy đừng đeo thói ghét xằng

Nghĩ kỹ cũng mừng cho đó chút

Ra trường chiến đấu bớt hung hăng.

Ý thông thường nhưng khéo sẻ dụng thành tạo thành những tứ mới lạ, làm cho bài thơ có một phong cách đặc biệt chưa từng thấy trong số thơ truyền tụng xưa nay, nhất là cặp trạng và cặp luận. Cặp trạng thích thực “gà què” như thế là độc đáo. Cặp luận dùng phương ngôn ngữ để triển khai ý “gà què” như thế là tài tình. Không phải tay lão luyện, học rộng biết nhiều thì khó sáng tạo nên những vần thơ hay như thế.

Trong Hoàng Mai thi xã có ba nhà lãnh đạo có thi tài thi tâm như vậy thì tất nhiên các xã viên học được nhiều cái hay cái đẹp trong việc lập ý, cấu tứ, tu từ và sáng tác giai phẩm. Nếu chúng ta ra công sưu tầm, thế nào cũng phát hiện được nhiều giai chương lệ cú.

Q.T

Nha Trang, mùa hạ năm Kỷ Tỵ (1989)

ÐÔI VẦN CA XƯA CỦA KHÁNH HÒA

QUÁCH TẤN

Ca dao Huế có câu:

Chợ Ðông Ba đưa ra ngoài dại

Cầu Trường Tiền đúc lại xi moong

Hỡi người lỡ hội chồng con

Vào đây tính cuộc vuông tròn với nhau.

Khánh Hòa có câu:

Thơm Vạn Giả ngọt đà quá ngọt

Mía Phú Ân cái đọt cũng ngon

Hỡi người chưa vợ chưa con

Vào đây chung gánh nước non với mình.

Quản bao lên thác xuống ghềnh

Mía ngon thơm ngọt đượm tình nước non.

Bài ca Huế và bài của Khánh Hòa trùng nhua ở câu 3. câu này chỉ khác nhau chút ít thôi. Một bên thì “lỡ hội chồng con”, một bên thì “chưa vợ chưa con”.

Khác chút ít là khác bên ngoài chớ bên trong thì khác nhau xa.

Bài trên ra đời Thành Thái Duy Tân, trong khoảng 1889-1916. tác giả phải là một chí sĩ mượn lời người đàn bà để kêu gọi các bạn đồng chí đến với mình để mưu đồ đại sự. Các bạn đồng chí đó là những chiến sĩ tướng nghĩa Cần Vương thời Hàm Nghi (1885-1887) còn sống sót.

Cầu Trường Tiền xưa bằng gỗ thường bị lụt phá hư, nên đến đời Thành Thái mới bắc lại bằng sắt. Cầu sắt vẫn không chống nỗi sức lụt nên phải đúc lại bằng xi măng cốt sắt. Tác giả mượn cầu để nói lóng rằng: “Cuộc chống Pháp trước, vì tổ chức chưa chặt chẽ vững vàng nên bị thất bại, chớ nay đã củng cố nghiêm túc rồi thì nhất định đại sự sẽ thành công.

Bài Khánh Hòa mới xuất hiện khoảng 1942-1945, lúc Nhật đã đóng quân ở Nha Trang, trên lưng nhân dân Việt Nam nói chung, Khánh Hòa nói riêng phải chịu hai gánh nặng xâu thuế, một nửa thực dân Pháp, một của phát xít Nhật. Ở Khánh Hòa lúc bấy giờ có một nhóm trí thực vận động tổ chức một mặt trận cứu nước. Bài kia là một bài kêu gọi đồng chí vì phải chống đến hai kể thù nên chiến sĩ phải là người “chưa vợ, chưa con” tức là chưa hề có liên hệ gì đến Pháp, Nhật.

Mục đích kêu gọi của hai bài là một: “Chống xâm lăng cứu nước” nhưng đối tượng kêu gọi khác nhau, một bên là người cũ, một bên là người hoàn toàn mới.

Nếu không rõ bối cảnh lịch sử thì không thấy chỗ “úp mở” trong hai bài ca dao.

Nhân tiện cũng xin nói thêm:

“Tổ chức chống xâm lăng ở Khánh Hòa đã thành hình, nhưng người được cử làm “Tổ trưởng” lại manh tâm theo Nhật. Một số “tổ tiên” thấy rõ nguy cơ liền rút lui khỏi tổ chức. Ðể lại cho tên tổ trưởng một bài ca.

Sông Nha Trang cát vàng nước lục,

Thảnh thơi con cá đục

Lội dọc lội ngang

Ðã thề cùng em giữ dạ đá vàng.

Quý chi tách cà phê đen ly sữa bò trắng

Anh nỡ phụ phàng nước non!

Nét bia hòn Chữ chưa mòn

Lưỡi gươm tiết hận hãy còn mài trăng

Trong khi vận động tổ chức cũng có lắm bài ca, sau đó trở thành ca dao:

Anh đứng Hòn Chồng

Trông ra Hòn Én

Trở về Tháp Bà

Về lại Sinh Trung

Non xanh nước biếc trập trùng

Biết bao liệt nữ anh hùng em ơi!

Em hãy nhận lời

Cùng anh kết ngãi

Ðầu nguồn cuối bãi

Ta hãy nương nhau

Sông Cù nước mãi còn sâu

Công linh chẳng trước thì sau cũng thành.

Ở Phú Khánh, thời Pháp thuộc sản xuất nhiều thơ ca yêu nước. Trên đây mới dẫn đôi bài ở Khánh Hòa, mong được gọp thêm vào tập thơ ca Phú Khánh.

QT

(Trầm Hương, tháng 3-1989)

TẾT NÓI CHUYỆN TRẦM HƯƠNG

QUÁCH TẤN

Ngày Tết ngoài nhang thẻ, nhang bó, nhang vòng, những nhà khá giả còn thắp trầm hương.

Trầm hương là khí anh tú tụ vào cây gió sống lâu năm nơi non cao rừng rậm.

Khí anh tú kết tinh trong cây gió, gọi chung là trầm hương nhưng sự thật có hai thứ là Trầm và Kỳ.

Trầm tức là trầm hương, kỳ tức là kỳ nam. Kỳ do cây “gió bầu” sanh ra, trầm do “gió lưỡi trâu”, “gió cam” sanh ra. Ðó là theo lời của người nhà nghề chớ thật sự thì kỳ là thứ trầm có nhiều dầu, còn trầm là thứ kỳ có ít dầu. Trong những cây gió có trầm thỉnh thoảng vẫn có kỳ, và trong những cây gió có kỳ thì trầm luôn luôn bao chung quanh hoặc ở bên cạnh. Thường thường kỳ ít có, và khi có cũng có ít hơn trầm.

Kỳ và trầm phân biệt nhau ở hình chất và khí vị.

- Trầm chất cứng và nặng, màu hơi vàng, vị đắng. Kỳ nhẹ và mềm, màu đen, vị lại đủ cay chua ngọt đắng.

- Trầm mùi ngát, kỳ mùi thanh. Khói trầm bay vòng quanh rồi tan ra, khói kỳ bay thẳng và bay vút.

Ðược tánh đôi bên cũng có chỗ khác nhau.

- Trầm dùng giáng khí, tức là đem khí hạ xuống.

- Kỳ dùng trị các chứng phong đàm, mài với nước mà uống, hay đốt xông vào lỗ mũi. Trị các chứng đau bụng cũng rất hay, chỉ ngậm trong miệng cho tiêu rồi nuốt. Nhiều khi hiệu nghiệm như thần. Trầm và kỳ còn đuổi được tà khí độc, khí ô uế. Trầm thì đốt lên, kỳ chỉ đeo vào mình cũng đủ.

Nhưng đàn bà chửa rất kỵ kỳ nam, không nên cho uống hoặc mang theo trong người, nếu không kiêng có khi bị sẩy thai. Còn trầm thì vô hại.

- Kỳ có 4 thứ: Giá trị phân định rõ ràng trong câu ngạn ngữ “nhất bạch, nhì thanh, tam huỳnh, tứ hắc”.

- Bạch kỳ nam sắc trắng, chất mềm và rất nhiều dầu.

- Thanh kỳ nam, màu hơi xanh, nhiều dầu thì mềm, ít dầu thì cứng.

- Huỳnh kỳ nam, màu vàng như sáp ong, chất cứng và nặng, để lâu khô dầu trở nên nhẹ.

- Hắc kỳ nam, mùa đen chất cứng. Nhưng chỗ nhiều dầu lại mềm như bạch kỳ nam. Kỳ nam thường dùng làm thuốc, giá rất đắt.

Trầm hương ít dùng làm thuốc, thường dùng để dốt trong những buổi cúng tế, trong những ngày lễ lạc, trong những ngày yến tiệc nơi đài các phong lưu, gí trị thua kỳ nam, nhưng được thông dụng hơn nhiều.

Trầm chia làm 4 loại:

- Trầm mắt kiến, có lổ có hang do kiến đục làm tổ trước khi cây thành trầm.

- Trầm rễ do rễ cây sanh ra.

- Trầm mắt tử kết tạo trên nhánh cây.

- Trầm tốc ở nơi thân cây.

Trầm tốc có nhiều nhất và trên thị trường chia ra làm nhiều thứ giá bán khác nhau.

- Tốc hoa màu vàng lạt, có những chấm lốm đốm như hoa.

- Tốc nước, màu vàng lợt, chất ươn ướt và nặng.

- Tốc xám, màu xam xám như tro.

- Tốc lọ nghẹ, màu đen đen như bồ hóng.

- Tốc đá, nặng và trông hình sắc như đá.

- Tốc ớt, sắc vàng lợt, vị cay như ớt xiêm.

- Tốc hương, sắc vàng lợt, hương đượm, thường bao chung quanh kỳ nam, cho nên có nhiều điểm, nhiều gân kỳ nam lẫn vào. Nếu dầu nhiều thêm thì tốc ký trở thành kỳ.

Trầm hương và kỳ ở Trung Việt núi nào cũng có. nhưng có nhiều nhất là núi Khánh Hòa. Cho nên ca dao có câu:

Khánh Hòa là xứ trầm hương

Non cao biển rộng người thương đi về.

Ở Khánh Hòa nơi nổi tiếng nhất về trầm hương là Vạn Giả.

Cây quế thiên thai mộc ngoài hang đá

Trầm hương Vạn Giả ngát cả sơn lâm

Anh với em như quế với trầm

Trời xui đất khiến sắt cầm giao duyên.

Tràm là lâm sản quý nhất ở Khánh Hòa. Ðối với trầm Khánh Hòa lại có một thứ hải sản cũng quý như trầm dó là yến sào. Hai thứ sản vật quý giá này thường đi đối với nhau.

Khánh Hòa biển rộng non cao

Trầm hương Vạn Giả - yến sào Nha Trang.

Chẳng những đi đôi với nhau, trầm hương và yến sào lại quấn quýt với nhau tạo cho người Khánh Hòa một tinh thần thanh cao, một tấm lòng chung thủy.

Yến sào thấm vị trầm hương

Dù mưa dù nắng tình thương vẫn nồng

Nghĩa nhân duyên với núi sông

Ðá mòn nước cạn giải đồng không nao.

Có dịp sẽ nói kỹ về yến sào. Ở Khánh Hòa dù là nơi sản xuất nhiều yến sào nhưng ít nhà dùng yến sào để ăn Tết. Còn trầm hương thì không nhà nào, lúc giao thừa hay sáng mùng một mà không có một lư trầm tỏa hương nơi bàn thờ tổ tiên, nơi bàn thờ Phật thánh.

Cho nên các cụ ngày xưa thường bảo con cháu:

Xuân về thắm đủ trăm hoa

Mùi trầm hương thiếu vẫn là chưa xuân.

IV. PHÊ BÌNH CUỐN XỨ TRẦM HƯƠNG.

TÔI ÐỌC “ÐÔI NÉT VỀ TỈNH KHÁNH HÒA CỦA QUÁCH TẤN”

“Ðôi nét về tỉnh Khánh Hòa của Quách Tấn” tuy chỉ là “đôi nét” nhưng đủ cả lịch sử, địa lý, thắng cảnh, cổ tích của Khánh Hòa.

Ngoan ngoãn đi theo Quách Tấn để xem các thắng cảnh của Khánh Hòa, để gặp tiên, dù rằng:

Người tiên cỡi hạc đi không lại,

Non đưa vắng vẻ cảnh am tiên.

Rồi hãy đứng bên am tiên mà ngậm đắng với “đôi khóm mã tiền”. Nhưng Tiên, Phật, Ma và Cọp thuộc về những mẫu chuyện huyền ảo và rùng rợn. Xin hãy dừng nói dến ở đây. Ta chỉ đi theo con người. Con người vừa thực vừa hư nhưng gần với chúng ta. Con người sống bằng xương bằng thịt, bằng tâm tình, bằng ý chí. Ta phải sống vậy! Ta theo chân Quách Tấn để nghe người dân Khánh Hòa bày tỏ tâm tình cùng những bâng khuâng bên trong cũng như những dáng điệu và thái độ bên ngoài:

Anh bước chân lên Ðèo Cả,

Trông sang Vạn Giả,

Ngó lại Tu Bông...

Biết lòng cha mẹ đành không,

Anh chờ em đợi uổng công hai đàng.

Hết lên đèo cùng chàng trai Khánh Hòa đương bâng khuâng về tương lai của một cuộc tình duyên mới bắt đầu, ta lại theo chàng nhìn trăng nước trong một đêm mới bắt đầu, ta lại theo chàng nhìn trăng nước trong một đêm thơ mộng để nghe chàng than thở nỗi cách ngăn giữa hai tấm lòng đương xao xuyến niềm ái ân:

Anh đứng Nha Trang

Trông sang Xóm Bóng

Ánh trăng lờ mờ, gợn sóng lăn tăn;

Gần em chưa kịp nói năng,

Bây giờ sông cách biển ngăn ngại ngùng!

Thắng cảnh, lương thời đều có đây mà thiếu lạc sự cho nên thưởng tâm của chàng Khánh Hòa có tâm hồn thi nhân ấy biến thành mối lo âu, khiến chàng ngại ngùng vì nỗi cách ngăn. Tuy nhiên, chàng không hoàn toàn thất vọng về cuộc tình duyên mà chàng đương deo đuổi: Chàng biết tự an ủi và biết sống bằng hy vọng. Chàng biết quan niệm ai tình một cách uyển chuyển, theo lối của:laton:

... Ngoài còn Vạn Giả,

Trong còn Cam Lâm,

Vẫn còn tdrăng ngọc gió trầm,

Nghìn thu nghĩa nặng tình thâm mãi còn.

Xem đấy thì, trong lúc theo chân Quách Tấn ngoạn cảnh Khánh Hòa, “chúng ta cũng nhận thấy được phần nào cái tâm hồn của người Khánh Hòa và lòng người tỉnh khác đến trú ngụ tại Khánh Hòa” trong đó Quách Tấn là một.

Trở lên là một vài nét về địa lý nhân văn. Chưa kể một số thắng cảnh nho nhỏ, xinh xinh, xa xôi, khuất nẻo. Ngoài một số những địa danh có vẻ mộc mạc, cũ kỹ gần như man rợ: Hòn Hèo, Tu Hoa, ta ghe thấy những tên xinh đẹp, cổ kính và nên thơ Suối Ngổ, Ba Hồ, Suối Tiên... mà hiện nay du khách còn ngại “phiêu lưu”, chưa tìm đến để tận hưởng cái thú nhàn tịch của chốn lâm tuyền. Phần nhiều các thắng cảnh ấy đều liên hệ đến một chuyện cổ tích, thần tiên hay trần tục mang một sắc thái địa phương đặc biệt. Ðọc đến các đoạn văn nhu nhàng và gợi hứng ấy, chúng ta tưởng thấy mình như chàng ngư phủ kia đang vào nẻo nguồn Ðào, hoặc như chàng Lưu Nguyễn đương thơ thẩn trên lối Thiên Thai... Du khách tương lai trong tỉnh Khánh Hòa hãy tạm du hành trong cảnh mộng ấy cho đến ngày “rẽ mây trông rõ lối vào Thiên Thai”. Mộng còn hơn thực!

Tuy nhiên, muốn viếng thăm cảnh thực thì ta trở lại theo chân Quách Tấn mà làm bạn với người dân Khánh Hòa hòa mình với cuộc sinh hoạt hiện tại của họ, chia xẻ những lạc thú cũng như những bi thương của họ. Thật vậy, cảnh thực dù cay đắng đến đâu cũng thấy “ngon ngọt” Nếu con người đừng sống xa con người; nhất là con người biết sống siêng năng, sản xuất không ngừng; con người biết rõ cái giá trị những sản phẩm do chính bàn tay mình làm ra hay do Tạo Hóa đã cống hiến cho mình và con người biết quý cái hạnh phúc ở bên cạnh một người bạn đời đằm thắm, tình tứ và thủy chung. Dù ở địa phương nào, nếu con người chịu khó công tác, biết lợi dụng sẳn vật thiên nhiên, biết trọng tình thân ái, nghĩa là biết làm lụng và yêu mến như người dân Khánh Hòa, thì con người và đất đai cứ trường tồn, mà cảnh tình có cay đắng cũng trở nên ngọt bùi. Thật vậy, ta hãy nghe người dân Khánh Hòa tỏ lòng một cách hiểu biết và khả ai những gì thuộc về đời sống của họ.

Yến sào Hòn Nội,

Vịt lội Ninh Hòa

Tôm hùm Bình Ba

Nai khô Diên Khánh,

Cá tràu Võ Cạnh,

Sò huyết Thủy Triều,

Ðời anh cay đắng đã nhiều,

Về đây ngọt sớm ngon chiều với em.

Bao nhiêu sơn hào hải vị của Khánh Hòa, người dân Khánh Hòa đều biết rõ với một tấm lòng quý mến tha thiết.

Hơn nữa cá thứ thổ sản ấy lại được gia vị bằng một thứ tình ái mộc mạc mà đậm đà, thì đời sống của con người, sắc thái của cảnh thực lại càng hòa hợp thành một mùi vị tinh tế và thâm thúy biết bao!

QUÁCH TẤN ơi, “Vài nét về Khánh Hòa” tuy đơn sơ mà gợi hứng khá nhiều. Vì thế, trên kia tôi nhân hứng mà đòi hỏi thêm một bức họa đồ của tỉnh ấy. Trong lúc đọc tôi nhớ đến một số văn nhân và triết gia Pháp đã văn chương hóa một số tác phẩm khoa học của họ như Fuffon đã viết Vạn Vật Học, Diderot viết về bệnh mù, Michelet viếtg sử, Rousseau về thực vật học, Taine viết văn với nhiều thú vị về những bài có tính cách địa lý... Và vì thế tôi mong ước chúng ta có những tập Toming Clul Victuam.

“Vài nét về tỉnh Khánh Hòa” đượm nhuần mùi vị thi ca của đất nước. Nó rung động tâm hồn sầu xứ của người ly hương dù anh và tôi không phải sinh trưởng ở Khánh Hòa. Nhưng Khánh Hòa là một phần của Tổ quốc cả. Người lữ hành ở ngoại quốc, giữa trưa hè nghe tiếng ve ngâm, nửa đêm nghe tiếng trẻ con khóc hay tiếng gà gáy xa xa,thì tưởng như mình đang đi hay dang nằm trên đất tổ. Vì lẽ các thanh âm áy là thanh âm chung của nhân loại, nó quen thuộc với các giống người, cho nên nó gợi lòng nhớ quê của người lưu lạc, nó làm sống động trong tâm hồn chúng ta những kỷ niệm êm ái, những hình ảnh thânyêu của thời thơ ấu, cái thời mà vũ trụ của ta ở trong phạm vi ruộng vườn...

Huống hồ rừng núi, sông biển, cây cỏ, chim muôn, nhân dân và vật sản của Khánh Hòa liên hệ mật thiết với chúng ta: qua văn thơ ta phải thấy tâm hồn ta được ràng buộc với quê hương bằng một sợi dây vô hình, thân mật, thiêng liêng và bền dẻo biết bao.

PHAN NGỌC CHÂU

(Trích báo Tự Do số 1902, 1908, ngày 17-4, 21-7-1963)

QUÁCH TẤN

VÀ BUỔI CHIỀU VÀNG CỦA ÐÔNG PHƯƠNG

Chớp mắt ngàn thu quạnh

Về đâu chiếc lá bay?

QT..

Hồi chiều tôi vừa ghé thăm thi sĩ Quách Tấn. Trên đường trở về, nhìn nắng xế qua thành phố, nhìn cảnh sinh hoạt buồn tẻ của một thị xã ven bờ biển miền Trung, một ngày sắp qua. Ðiều này khiến tôi ưu phiền về Quách Tấn. Nghĩ đến tuổi già của ông, rồi nghĩ về cõi thơ cô tịch của ông mà lòng thấy ngậm ngùi. Tôi chợt nhớ lại hai câu thơ của Lý Thương Ẩn, hai câu thơ nói đến cuộc đời xế bóng:

Tịch dương vô hạn hảo

Chỉ thị cận hoàng hôn.

Mà Quách Tấn đã dịch trong Xứ Trầm Hương của ông như thế này:

Tịch dương cảnh đẹp vô ngần

Riêng thương chiếc bóng đã gần hoàng hôn.

Tôi tin chắc là khi dịch hai câu thơ trên Quách Tấn không nhiều thì ít đã ký thác tâm sự của mình vào trong đó, vì tôi biết năm nay ông đã 67 tuổi, tuổi của mùa đông cuộc đời.

Dường như, nơi con người của ông, tôi luôn luôn bắt gặp một quê hương xa xôi nào đó nằm sâu trong tiềm thức ông: Những đền đài xưa cũ, những ngồi chùa u tịch trong rừng sâu, những chuyện nghìn lẻ một đêm thời đại xanh mộng thuở ban đầu - Những điều này, Quách Tấn luôn luôn say sưa yêu mến kể lể trong hầu hết những tác phẩm của ông, như bức thông điệp mà ông muốn trao đến cho thời đại đau thương này.

Trước nhà ông có cây mận dù đã già nhưng vẫn xanh tươi hầu như suốt bốn mùa. Sau một thời gian đi xa, khi tôi trở lại thăm ông thì thấy mận đã mất. Tôi ngạc nhiên, chỉ ngạc nhiên mà không dám hỏi lý do vì tôi ngại gợi đến nỗi buồn cho ông. Tôi tự hỏi không biết cây mận bị ai đốn rồi thì hằng ngày ông tri âm với ai?- điều này chẳng có gì là lạ, vì ai đã từng đọc thơ ông thì thấy cây mận này đã buộc chặt vào đời ông như hình với bóng. Cây mận đã trở thành nhân chứng cho bao nhiêu là dâu bể xảy ra trong đời sống văn chương của ông. Chính dưới gốc mận này, những thi sĩ nổi danh của Việt Nam từ tiền chiến đã từng họp mặt như: Tản Ðà, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Bích Khê... và điều cảm động nhất mà tôi được biét là thi sĩ Tản Ðà đã từng ở lại ngôi nhà này trong mấy hôm và đã ngồi tư lự nhiều giờ dưới gốc mận này. Sau hết là điều quan trọng mà tôi nghĩ đến cây mận, mà chính cây mận này là nơi gợi hứng vô tận cho những vần thơ của ông. Cây mận đã trở thành một tiểu vũ trụ riêng tư của ông. Ở đó, ông trốn gió, trốn mưa, trốn những cơn bão của tâm hồn, và những tiếng động ồn ào huyên náo nhất của thời đại cơ giới.

Ðọc Quách Tấn là tìm lại tiếng đập rộn ràng của trái tim vũ trụ: ở đó thiên nhiên phơi mở. Nhất là giữa thời đại cơ giới này, chúng ta đã đánh mất chúng ta. Chúng ta đánh mất bằng những tiện nghi dễ dãi nhất, trong cái sinh hoạt của một ngày ta luôn luôn bận rộn, hai buổi ở công sở. Buổi chiều trở về nhà có nhật báo, có máy phát thanh. Tối đến có ti vi. Sống như vậy ta cứ nghĩ là sẽ chạy trốn được nỗi cô đơn, trốn được cái hoang lạnh của kiếp người. Nhưng không, càng chạy trốn bao nhiêu thì nỗi trống rỗng càng bám chặt ta bấy nhiêu. Bởi vì trái tim đã mất, và đời sống càng ngày càng cách ly với thiên nhiên.

Vì vậy, Quách Tấn đem trả lại cho ta sự quay tròn theo thời tiết điệu đời trời đất: sáng, trưa, chiều, tối. Rồi đến mùa: xuân, hạ, thu đông.

Ðọc Quách Tấn ta tìm lại thời gian thực sự, nhưng thế nào là thời gian thực sự? Thời gian thực sự là thời gian không do trí óc con người bịa đặt ra, nó không được xác định bởi bất cứ cái gì của con người. Thời gian của con người là thời gian của tấm lịch, của đồng hồ trên tay, hay trên vách tường. Ta đã bon chen, lo lắng theo tiếng reo của đồng hồ, ta phải bon chen cho kịp đến công sở vì sợ trễ giờ, bởi vậy mà ta hốc hác, đau khổ. Còn thời gian thực sự thì không như thế, mà là thời gian theo thiên nhiên của vũ trụ.

Vào những thời đại xa xưa, thì thời gian đối với họ là buổi sáng nhìn triêu dương, buổi chiều nhìn tịch dương, đêm đến nhìn sao lấm tấm trên trời cao. Ngày rằm đến bằng mặt trăng tròn, và ngày rằm đi khi mặt trăng khuyết.

Mùa xuân được báo hiệu bằng đóa hoa đào, mùa hè đến bằng hoa phượng và mùa thu bằng hoa cúc hay những cây hòe trổ bông làm vàng rực cả đồi cao. Nhất là khí trời lành lạnh vào những chiều có gió heo may:

Nắng chiều thu trở lạnh

Buồn vương ngọn heo may.

Mùa đông đến âm thầm bằng những bước chân người nông phu dắt trâu ra đổng, và những con chim ngơ ngác bay tìm về tổ cũ để trốn tránh gió mưa:

Lá vàng buông gió lạnh

Trơ trọi nhánh thầu đâu

Bay về thăm tổ cũ

Ngơ ngác lòng chim sâu.

...

Nhớ thương tràn gió lạnh

Làng cũ bóng mây trôi.

Ðọc hai câu thơ này khiến tôi nhớ quê hương da diết. Quê hương ở đây không nhất định là tỉnh táo hay miền nào, mà là quê hương mơ hồ trong tiềm thức. Ðã từ lâu rồi, trên những nẻo đường lênh đênh, ta đã vô tình đánh mất, như ta đã đánh mất tuổi thơ. Rồi một chiều nào đó đi ngang qua một làng quê, ta chợt nghe tiếng sáo mục đồng:

Lặng lẽ nằm nghe sóa mục đồng.

(Ðọng Bóng Chiều, tr, 42)

rồi nhớ lại vườn cau sau nhà:

Vườn xưa muôn cách trở

Phảng phất mùi hoa cau.

Nhớ tiếng cu cườm vào những trưa hè trong lũy tre xanh, nhớ đồng lúa thơm, nhớ ngọn gió nồm:

Sóng gợn đồng lúa thơm

Hương theo ngọn gió nồm

Qua hàng tre nắng nhuộm

Dòn dã tiếng cu cườm.

(Sđd, tr. 32)

Và rồi trong một đêm cô tịch nào đó, sau khi mọi hoạt động của con người đã bị dừng lại - giờ phút yên lặng nhất đã đến, từ xa vọng lại tiếng chuông chùa:

Mây nước nhiễm phong trần

Nơi đâu tình cố nhân

Những đêm buồn tỉnh giấc

Chùa cũ tiếng chuông ngân.

(Sđd tr.7)

Có lẽ đã từ lâu rồi, trên những nẻo đường xuôi ngược, thi sĩ đã không còn nghe được tiếng chuông của ngôi chùa cổ thuở nào - rồi đêm nay bất chợt nghe lại. Niềm vui bừng dậy trong tâm hồn, thi sĩ chào đón tiếng chuông như chào đón một người bạn lâu năm nay trở về gặp lại.

Vào “những đêm buồn tỉnh giấc” ta nằm mà nhớ mông lung, ta cảm thấy như đã đánh mất một cái gì... tuổi thơ, quê hương trong dĩ vãng.

Ôi quê hương, sao đường trở về nghe xa xôi quá! Ðọc Quách Tấn là miên man đi vào trong cõi mộng huyền bí của Á Ðông. Ở đó mộng và thực không còn phân chia, mộng chính là thực và thực chính là mộng.

Trong suốt hai tập du ký của Quách Tấn: Nước non Bình Ðịnh và Xứ Trầm Hương, mới đọc vào ta cứ tưởng là chép về địa lý. Nhưng kỳ thực Quách Tấn không làm chuyện thông thường đó, điều mà ông muốn đạt đến là: thiên về phong cảnh, cổ tích, giai thoại, huyền thoại... là những cái dễ mất. Còn những gì thuộc về khoa học, thuộc về chuyên môn thuần túy, là những cái thường còn thì thường cho các nhà học giả... (Xứ Trầm Hương, tr. 6). Với Quách Tấn, bất cứ ở đâu và lúc nào ông cũng triền miên trong thần thoại. Trong dãy Trường Sơn chạy dọc theo miền Trung này, ngày nay đâu là đâu có ai ngờ rằng, trước kia đã là bao nhiêu chuyện xảy ra: Con ngựa trắng của Nguyễn Nhạc ngơ ngác vì vắng chủ, đi lang thang một mình trong núi. Và ly kỳ hơn nữa là chuyện chàng Lía. Hồi xưa chàng sống một nơi mà “quang cảnh man dại. Người cứng bóng vía đến đâu, lúc gió quá cũng cảm thấy rờn người...” (Nước non Bình Ðịnh, tr. 279). Và cứ như vậy, Quách Tấn đưa ta đi từ cảnh âm u này đến chuyện âm u khác, rợn người biết bao nhưng cũng thơ mộng biết bao. Ở khắp núi rừng Việt Nam hiện nay làm sao ta tìm lại dấu vết của ngôi chùa này: “Người đến viếng cảnh chùa, lòng không rửa mà trong, thân không cánh mà nhẹ, ngồi tựa bóng cây đón gió mát, tưởng chừng mình đã xa cách hẳn cõi trần tục”:

Gió ru hòn mộng thiu thiu

Chuông chùa rơi rụng bóng chiều đầy non.

Nếu không có tiếng chuông lay mộng, thì mộng còn mãi chìm trong bóng mây ráng, hoặc làm con cò vương hương bay lơ lửng trong hồ sen yên tịnh... Nhưng mộng dù đã tỉnh, mà cơn hứng vẫn còn nồng... Tuy nhiên bóng chiều đã về tây, bóng tối đi tìm mồi, và đôi cọp mun trong hang đá sau chùa kìa... (Nước Non Bình Ðịnh, tr. 270). Và biết bao chuyện lạ như vậy được Quách Tấn đem ra kể lại. hình như có lẽ Quách Tấn cảm thấy cô độc khi đem những chuyện như vậy mà nói giữa thời này: thời đại mà sự thống trị của lý trí đã quá mãnh liệt, tất cả đều ải chính xác, hiệu năng, nghĩa là phải hợp với khoa học. Còn mấy ai nghe theo ông: “Hỡi ai là người đồng thanh tương khí?” (Nước non Bình Ðịnh tr. 280),

Quách Tấn vẫn thường than thở như vậy, sau mỗi lần ông nhắc đến một chuyện hoang đường. Ðiều này chúng ta có quyền tin rằng: Quách Tấn muốn nuôi một hoài bão. Tôi nhớ Heigegger đã nói như thế này: “Từ khi thần linh biến khỏi mặt đất, thì thế giới bắt đầu trầm mình trong bóng tối”. Thời đại này đã xua đổi thần linh, nghĩa là dánh mất bản lai diện mục của mình. Ðó là lý do mà ta có thể hiểu tại sao Rimbaud bỏ Âu châu tân tiến, sống lang thang tận những sa mạc nóng cháy của Phi châu, và luôn luôn ngóng vọng về Ðông Phương, và Hoelderlin mơ mộng trở về tắm lại tận nguồn dòng sông Indus ở Ấn Ðộ. Vào những thời đại xa xưa của nhân loại - thuở ấy, con người say sưa ca hát với thần linh, đùa giỡn với mặt trời, mặt trăng. Nhưng rồi cuối cùng đã từ bỏ quê hương của mình.

Quách Tấn muốn chỉ đường cho ta về lại cố hương xa xôi ấy. Trên đường về ta sẽ thấy bầu trời đầy mùi thơm của mùi hương thuở nào:

Phảng phất hương trầm thoảng

Trời Thiên Y A Na

(Thiên Y A Na là nữ thần của Chiêm Thành trước kia) và núi sông thì đầy mộng và chiêm bao:

Thanh bình câu chuyện cũ

Trời mộng bóng chiêm bao,

TRẦN HỮU CƯ

(Trích Thời tập số 15, 1974)

QUÁCH TẤN - QUÊ HƯƠNG VÀ THƠ

Con chim mộng đang tỉnh dậy trong hồn. Ðó là những gì cô kết nhất khi tôi nghĩ về Quách Tấn. Ðó là những gì còn lại sau những giờ dài đọc văn và thơ Quách Tấn.

Tháng trước, nhận được thư người bạn ở Việt Nam nhờ viết về Quách Tấn cho số Văn đặc biệt dành cho anh. Tôi tự nghĩ: dễ quá. Viết về Quách Tấn tôi có thể viết thao thao. Bởi Quách Tấn đã nằm đầu lưỡi, mười đầu ngón tay tôi. Chỉ cần một cái búng nhảy của lời. Chỉ cần một chút run của gió. Tất cả sẽ tuôn trào.

Nhưng không.

Những ngày rất dài đã đi qua. Dài tựa con đường ngoằn ngoèo từ ngoại ô Nam lên ngoại ô Bắc xuyên Paris tình ái, nơi mỗi ngày tôi phải đi qua. Tôi đã tới những nơi thầm kín nhất cho cõi lòng toang mở: con sông Marne với lá tuôn Vỹ Dạ, Place Contrescarpe với đêm dài ma hú, đồi Montmartre dấu chôn môi đỏ, vườn tuileries với rue d’Alger dài như ngón tay kiều diễm, và còn bao nhiêu nơi nữa? Tất cả đều như một lằn rách dưới đêm sâu.

Bây giờ ngồi cạnh l’Étang de Cortot một ngày chúa nhật. Le diamache à Volle d’Avray. Ngồi đọc lại tất cả những thư từ Quách Tấn gửi cho tôi từ mười năm nay. Tôi đọc từ khi hoa súng nở cho tới khi hoa súng khép lá non và cánh nõn trên mặt hồ, cho tới khi gia đình Faulkner gọi chở tôi về.

Tôi biết một cách rất rõ là không dễ gì viết về Quách Tấn như đã tưởng. Ðương nhiên, tôi có thể ngồi viết một ngàn trang trong hai hay ba đem để ca tụng hay hạ giá Quách Tấn. Nhưng viết về Quách Tấn thì không. Bởi quả thực, chúng ta đang lãng quên Quách Tấn quá lâu ngày. Chúng ta đã lãng quên dãy núi Trường Sơn mây mươi năm nay, dù vẫn nhìn, vẫn nói, vẫn tưởng là Trường Sơn còn hiện hữu.

Phải rồi, chính sự lãng quên đã đưa chúng ta đi xa, quá xa, rời khỏi dung mạo, diện mục mình.

Nếu không có Lê Thương, chúng ta chẳng bao giờ hát Hòn Vọng Phu. Nhưng có Lê Thương rồi, chúng ta cũng chỉ nghêu ngao hát Hòn Vọng Phu mà không biết Hòn Vọng Phu ở đâu, nó ra thế nào, nó đợi CÁI gì? Chúng ta đã quên mất Niềm Chờ Ðợi. Và chúng ta lang thang. Lang thang là đi ngang, chớ không đi tới. Không đi tới Niềm Chờ Ðợi. Do đó, không thể thu đất cho khoảng cách giữa mình thực hữu với chấm sáng của niềm chờ đợi đang đợi chờ mình nhập MỘT trong nhau.

Mẹ tôi quê ở Nam Ðịnh. Thuở nhỏ, khi cha tôi gặp nạn, mẹ đưa tôi về Nha Trang rồi Bình Ðịnh. Mấy năm trời với núi non, dừa xoài, sông, cây trứng cá, lò gạch, lò gốm, lò đường, Tuy Phước, Cầu Ðôi... Cái thời xa đó vẫn in hằn tâm khảm. Sau này lớn lên, tôi có dịp trở lại Nha Trang vài lần. Nhưng tôi không biết gì về Nha Trang, Bình Ðịnh cả. Cố nhiên là tôi có thể nói như mọi người về Tháp Chàm, về Hòn Chồng, về Chụt, về Hải Ðức, về đèo Rù Rì... Dù vậy, tôi chỉ là khách bàng quang đứng ngắm, đứng nhìn, đứng trầm trồ, đứng cười cợt, đứng lắc đầu. Tôi không xứng bằng giá trị một thân cây chằm rễ xuống su sâu của sỏi đất. Tôi không hề cảm thấy thấu sự chuyển mùa theo hương gió qua thân thể mình nơi chôn nhau cắt rún như thế nào. Tôi chỉ biết rất nhiều về xe hon đa, về xe Peugeot 404, về tivi về các vụ đảo chánh, về hàng lụa, về ăn diện, về chuyện nước ngoài.

Bởi chưng vì tôi đã đánh mất nơi tâm khảm “một màu vàng linh động dính liền sắc trời xanh” của rừng hoa xoài nguyên phối.(10) Mười loài hoa trang quý của thẩm mỹ học Trong Quốc đã khiến chúng ta rời bỏ lối nhìn bình đẳng sâu suốt sự vật để chấp nhận những kiểu cách nhất thời. Núi, bãi, khói, sông, hồ... dường như chỉ đẹp thực trong tranh, và là tranh tàu như tranh Tống Ðịch(11) chẳng hạn. Kỳ dư tám cảnh đẹp như tám cảnh Tiêu Tương không hề có thực trên quê hương!(12)

Núi rừng ta còn quên, nói chi tới bầy chập chờn đom đóm mà Quách Tấn đã đứng trong nụ cười giữa khuya sao vằng cặc nhìn tựa “bao nhiêu sao trên trời đều sa xuống và đọng nơi cây cối”.(13)

Bao giờ sự quên lãng thực sự bị lãng quên để cho núi rừng và thực tại ùa về chầm nhập vào châu thân thì lúc đó ta mới thôi làm người du lịch để tuôn tràn trên mảnh đất đứng tựa dòng sông.

Lúc đó ta sẽ thấy “núi non trông biếc thêm, sông biển trông trong thêm. Và những chòm cây muồng hèo ở hai bên đường, những khóm lau khóm dứa ở nơi bãi vắng, dầy đặc cả đom đóm.” (14) Bầy đom đóm của tìm thức chói soi giữa lũng tối lạc đường.

Lấy máy bay đáp xuống phi cảng Nha Trang, thuê phòng ở khách sạn, xuống được Ðộc Lập chọn mua áo tắm, một chai ambre solaire, rồi ra biển nằm phơi tấm thân “trống mái” của Vọi. Ðó là Nha Trang của tuổi trẻ bây giờ. Ðó là Nha Trang của Saint Trop, của Floride... Một thứ Nha Trang học làm sang, một thứ Nha Trang đang cuốn dần vào vòng dây thép gai. Chứ không phải là Nha Trang thần thánh dân tộc, Nha Trang của voi ở Ma Ca, của cá ở Trường Bơi, của Chà Khé ở Hồ Ðá(15)ù, Nha Trang của “những áo xiêm lần lượt biến thành năm sắc mây chờn vờn trên ngàn cây cổ thụ”(16), trong của “mùi hoa rừng bay theo gió, có đó rồi không”(17).

Tôi không tin có tuổi 20 và tuổi 40 để thị oai nhau hay “dạy bảo” nhau. Tôi không tin có hai cảm quan của hai thế hệ. Tôi không tin có hai lối sống khác thường. Tôi không tin “hạt đậu ngày xưa to hơn bây giờ” như một nhân vật của Lỗ Tấn đã than.

Có gì khác nhau giữa sự kiện đôi lứa đứng nhìn trăng của những thế kỷ trước “chỉ mảnh trăng thiên hạ mà bảo rằng của đôi ta” và sự kiện bắn một lá cờ lên nguyệt điện để giành trăng cho quốc gia mình?

Chỉ có lối nhìn khác nhau. Một lối nhìn soi vào thực tại, thấy thực tại là thực tại. Và một lối nhìn biến thực tại thành thực tại ly thực tại. Hai lối nhìn đó ở thời đại nào lại không có, ở lứa tuổi nào lại không có?

Cho nên chúng ta không thể đặt Quách Tấn cách lìa với thời đại chúng ta. Sự chia gãy nền thơ dân tộc làm thơ cũ, thơ mối vào những năm 30 tuy ồn ào vẫn không mang lại ý nghĩa gì cho bằng việc cái nền thơ đó đã mang lại gì cho trời thơ Việt, cho nền suy tư dân tộc. Một số rất lớn các nhà thơ trẻ của chúng ta đã thanh toán hẳn thơ Ðường, Ðỗ Phủ, Lý Bạch, Bạch Cư Dị vẫn tiếp tục ngự trị thi đàn thế giới và thi đàn Trung Quốc, kể cả Trung Quốc của xã hội chủ nghĩa (năm 1962, Trung Quốc đã rầm rộ kỷ niệm 1250 năm ngày sinh đại thi hào Ðổ Phủ). Nguyễn Du Dante Shakespeare Dostoievskh, Tolstoi, Pouchkine... cũng thế. Bởi vì chưa có những bài thơ, những nhà thơ vượt được tiếng thơ của những nhà thơ kỳ vĩ này, kể cả những quốc gia đã thay đổi hẳn nhân sinh và thế giới quan. Tổ quốc ta đã kinh qua gần 30 năm lửa máu, đau đớn, uất hận, thế mà tôi đọc được rất ít bài thơ thể hiện nỗi đau khổ trầm thống của quần chúng như khi tôi đọc Ðỗ Phủ.

Giá trị của Quách Tấn chính là giá trị của một cái nhìn đầy hào khí dân tộc và nhân bản rọi vào thủ đô thi ca và suy tưởng.

Khi tôi đọc “Nước non Bình Ðịnh”(18) và “Xứ Trầm Hương” của Quách Tấn, tôi cảm giác như mình đang đọc Lê Quý Ðôn, Phan Huy Chú... Một Lê Quý Ðôn đã được gạn lọc nền bác học Trung Quốc để thọc sâu vào mối nguồn văn hóa Việt. Thật vậy, Quách Tấn không viết riêng những thiên đại dư chí, không sao chép riêng truyện tiếu lâm, thần thoại hay giai thoại. Dưới ngòi bút Quách Tấn, tất cả đều mang chủ đích nung nấu và thể hiện cái gì quý giá nhất, chân thật nhất để tồn tại và không mất gốc: nền suy tư tộc Việt.

Giá trị của hai cuốn “Nước non Bình Ðịnh và “Xứ Trầm Hương” rất lớn và độc chuyên. Chúng là tài liệu căn bản cho các nhà nghiên cứu dân tộc về sử học, đại dư học, dân tộc học, nhân chủng học, xã hội học, tư tưởng học... Sử học, bởi vì Quách Tấn vừa rọi chiếu vào một số lớn sử liệu về Tây Sơn, Cần Vương mà sử nhà Nguyễn và sở mật thám Pháp đã ém nhẹm, phá hủy. Ðịa dư học, vì Quách Tấn bằng hàng chục năm trường sống cái sống thực của nhà thơ đã có đủ thẩm quyền chỉ nẻo cho các nhà địa dư học, chỉ có thước đo và ống dòm. Dân tộc học, nhân chủng học xã hội học, vì qua Quách Tấn, những xó ngách của con người Kinh, Thượng và làng xóm, tập tục, thông lệ, đều được ghe chép cặn kẽ. Từ cách chặt dừa nghệ thuật và đầy hương vị cùng với nghi thức giữa chủ dừa và người uống ở Khánh Hòa(19) cho đến việc tế lễ Miếu Lỗ Lườn ở Ninh Hòa. Từ cá nhân tướng Rái(20) cho đến sự khám phá loài một mới hóm hỉnh trong bột xi măng(21). Từ việc trai gái hát đối: “quây quần giữa sân tươi cười nói nói... Rồi ai về nhà nấy, lòng xuân phơi phới đêm xuân”(22) cho tới tục hát ống(23).

Không biết vì cố ý hay vô tình mà Quách Tấn đã mô tả rất nhiều những chuyện kể nhân gian pha lẫn màu sắc thần bí, mộng thực. Ðọc văn khí của Quách Tấn chúng ta ngờ đây là chỗ dụng công. Hoang đường, thần bí đối với Quách Tấn là chỗ dụng công. Hoang đường, thần bí đối với Quách Tấn vốn không có làn ranh với thực tại khôn dò. Chúng trộn lẫn trong nhau. Và mỗi bận kể xong, Quách Tấn đều láy đi láy lại câu “khó tin rằng có, khó ngờ rằng không”. Hoang đường, mộng mỵ, thần bí nơ trang sách hiển hiện như một thực tại bị lãng quên quá lâu ngày. Con người đã bỏ quên những thần linh bằng hữu, đã bở quên quê hương mình để chạy theo hư ảo của cái tưởng là thật một cách trắng như ngân hàng, dầu xăng, ngói gạch, đô la... Chúng ta đã thực sự quên những cây trầm hương nơi núi rừng Khánh Hòa, bỏ lơ cho cọp mun và bà Thiên Y A Na. chúng ta đã thực sự quên những tổ yến huyết, bỏ lơ cho người Trung Hoa mại bản. Chúng ta đã thực sự quên cát trắng làng thủy tinh phó mặc cho thứ chủ nghĩa O.K Isme xuề xòa. Chúng ta đã bỏ đói con ngựa trắng của Nguyễn Nhạc trong dãy núi Bình Ðịnh. Chúng ta đã ngoảnh mặt làm lơ với người họa sĩ tài ba dân tộc Nguyễn Khanh, có tài viết chữ thảo như thần (calligraphie) để chạy nhờ các ông thầy Tàu viết giúp(24)

Chúng ta đã bỏ quên chúng ta. Nên Quách Tấn mới dụng công gọi thần linh trở về, gọi bản lai diện mục trở về. Với kẻ đi xa lâu ngày, hay kẻ có tân học, ắt phải chê Quách Tấn đang manh tâm mà thư thực tại. Kỳ thực, trên giấy mực, Quách Tấn đang bày ra cái lề lối suy tư bất khuất cố hữu của tộc Việt: Tính tương duyên. Mộng và thực giao hòa trên thế đứng hai chân cho thực tại tựu thành. Thực tại hiển hiện khi ý chí sâu suốt của ta thâu lấy tiềm năng và hậu thức hầu khai thác triệt để khiến linh thiêng biến ra cảnh sống thường ngày. Ðây có lẽ chính là điều mà các nhà tư tưởng học nên lưu tâm.

Chính Quách Tấn cũng đã nói: “Thầy cậy cây dầu, cây dầu cậy thần”(25). Tiếng đàn ngoài dây tơ vừa hé nơi đây. Cho nên khi Quách Tấn láy đi láy lại việc thần thánh, tiên trần, nhắc ông chỉ muốn làm việc tố cáo: nhân tính đã mất, xã hội ly nhân, tính như u ám.

Ở Việt Nam có nhiều người theo đạo Phật. Tôi mạn phép xin khuyên học đọc “Nước non Bình Ðịnh” và “Xứ Trầm Hương” đẻ biết thêm về thân thế, sự nghiệp của nhiều vị Cao Tăng nơi chốn thiền lâm mà lâu nay không có người nghiên cứu, ghi chép. Quý vị sẽ ngạc nhiên biết thêm về Hòa Thượng Rau, Hòa Thượng Ðò. Những đièu mà tôi cầu mong họ đọc hơn cả những là những lời bình phẩm của Quách Tấn đối với các di tích, chùa chiền, tự viện hiện có số lớn đang bị hoang phế hay trang hoàng lố lăng. Quách Tấn rất nghiêm khắc về điểm này, dù ông là một Phật tử. Tôi nghĩ rằng tuy không nói ra, nhưng Quách Tấn dường như cũng ôm ấp muốn bảo tồn phục hồi nền Phật giáo dân tộc. Quách Tấn tâm niệm mong cho “đá mọc quanh chùa biết gật đầu đảnh lễ trước Kim Thân Phật Tổ”(26)

Tôi tiếc không thể nói nhiều hơn về “Non nước Bình Ðịnh” và “Xứ Trầm Hương” vì sở học còn sơ sài, xin dành để cho các nhà khảo cứu, đại học có căn bản uyên thâm.

Trên đây, tôi chỉ muốn htổ lộ sự thẹn thùng và cảm giác của một kẻ tưởng là biết nhiều về quê hương, sông núi, mà kỳ thực không biết gì cả. Phải chi có được những Quách Tấn cho Nước Non Thừa Thiên, Nước Non Hà Hội, Nước Non Cửu Long... để cho quê hương bừng sống dậy cùng thần linh đang bơ vơ trên sông núi.

Thuở trước chúng ta đã sang tới bên Trung Quốc mời Từ Hải và Kiều về ngự trị trời thơ Việt mà một Từ Hải Việt Nam là Chàng Lía(27) dã bị bỏ quên nơi xó rừng Trung Việt! Sao Quách Tấn hay một nhà thơ nào khác không “diễn nôm” con người dũng liệt này? Chúng ta sẽ có Tân Kiều cho thế kỷ văn học XX.

Ở đây, tôi cũng xin thổ lộ sự hỗ thẹn của tôi là chưa đọc hết tác phẩm của Quách Tấn. Tôi chưa hề đọc “Trăng Ma Lầu Việt” và “Nghìn lẻ một đêm” hầu gặp biết thêm chiều sâu tư tưởng và văn tài Quách Tấn. Bởi vì Quách Tấn vừa là một nhà thơ, một nhà văn, một nhà tư tưởng. Ngày xưa tôi chỉ nghĩ Quách Tấn là một nhà thơ. Một nhà thơ trong nghĩa do nền giáo dục quy ước định ra. Chính nền giáo dục này đã bó rọ tôi trong lối nhìn của nó. Lối nhìn tranh chấp và đỗ vỡ. Một con người như Quách Tấn, kinh qua trên 60 năm trời trên mảnh đất máu lửa đầy dối trá này, đã nhúng ta vào đại sự, đã viết và tiếp tục viết, dịch, chú... hẳn không phải là người chỉ biết ngồi đưa võng viết chuyện mây đưa gió thổi.

Dù chưa được đọc “Trăng Ma Lầu Việt” và “Nghìn lẻ một đêm” và một số tác phẩm khác của Quách Tấn, tôi cũng tự an ủi vì biết rằng mình là kẻ ít đọc sách nhất, là kẻ dốt nát nhất trong số người ít đọc sách và dốt nát nhất trên thế gian và ở xứ sở Việt Nam này.

Quách Tấn khi viết về “Ðôi nét về Hàn Mặc Tử”, về “Bích Khê” về “Những Bức Thư Thơ”, về “Giọng Hàn Huyên”, về truyện ngắn như Con Mèo Tam Thể, Thôn Trường Ðịnh, v.v... về “Mùa Cổ Ðiển”, về “Ðọng Bóng Chiều”, về “Mộng Ngân Sơn”... luôn luôn giữ phong độ của kẻ mang hòa khí ngút ngàn. Mỗi hàng mỗi câu đều thể hiện sáng sủa, uyên nghiêm mà tràn ngập thi ca, khiến cho người đọc “lòng không rửa mà trong, thân không cánh mà nhẹ”. Tất cả con người Quách Tấn là thi ca, là tiếng báo hiệu của một sự thành tựu.

... Bây giờ Quách Tấn ở đâu? Anh đang đứng bên bờ biển Thái Bình, tại một địa điểm quê hương thường gọi là Nha Trang, “đầy áo giọt hoa rơi”(28). Thơ Quách Tấn như Trăng phân thân thành “vàng tan sa số ảnh”(29) áo bọc cho muôn triệu cõi lòng xa vắng quằn quại trên một đất nước đang đánh mất thi ca.

Người thi sĩ đó đứng nhìn “Mây un trời tháng hạ”(30) để đón đưa khách sang sông viễn du vào dòng sông đầy ắp thi ca hào hùng và bất khuất.

Làm gì đây? Nếu không là ngâm lớn tiếng thơ cho tiếng thơ cầm tay mình dẫn vào giữa lòng thơ uyên nguyên hào khí. Quê hương và con người sẽ không mất.

Bởi vì con chim mộng đang tỉnh dậy trong hồn.

Con chim mộng với cái nhìn ngây thơ không mất gốc khiến những phần đất ung thối khỏi hoàn toàn ung thối, khiến cho những phố chợ lợi danh, phiền não, như Nha Trang là một cũng phải: “đồng hóa cùng lá cây và dính liền với làng quê đồng ruộng. Những cao ốc, biệt thự, phố xá chỉ còn là những vệt trắng, vệt xám, vệt đỏ, thấp thoáng trong sắc xanh của cây của núi của trời...”(31)

Phải rồi, con chim mộng đang tỉnh dậy trong hồn. Cám ơn anh, anh Quách Tấn, nhà thi hào cô đơn không nhưng không đơn độc.

NGUYỄN THÁI

TẤM LÒNG ÐÃ TRẢI CÙNG NON NƯỚC

Tuy nơi LỜI THƯA đầu sách, tác giả đã dè dặt minh xác rằng mình không có tham vọng viết một quyển địa phương chí, mà chỉ làm công việc “ghi chép” lại những gì đã thấy, đã nghe, đã cảm trong mấy mươi năm sống cùng non nước Khánh Hòa, nhưng suốt cả gần 500 trang giấy, ngòi bút tài hoa, lịch lãm của ông đã đóng trọn vai trò người hướng đạo nhiệt thành đưa đi thăm thú, tìm hiểu hầu khắp mọi mặt của địa phương, từ địa lý, lịch sử, kinh tế, văn hóa đến phong tục, vật sản, các thắng cảnh cổ tích, các nhân vật hữu danh... Như vậy, vẫn có thể coi XỨ TRẦM HƯƠNG là một quyển địa phương chí về đất nước, con người Khánh Hòa, nhưng ở đâ