Hồi 17 Liệt Hỏa Phu Nhân
Người áo vàng, Triển Mộng Bạch gần như nín thở.
Mọi tiếng động trong lúc nầy, dù là rất khẽ, cũng có ảnh hưởng tai hại đến hai đấu thủ.
Nơi vầng trán của Thiên Phàm Đại Sư, mồ hôi điểm lấm tấm. Con cờ vẫn còn được giữ lơ lửng trên cao, chưa hạ xuống.
Người áo vàng nhìn bàn cờ, nhận thấy sự thắng bại cầm bằng đường tơ kẻ tóc, giả như đại sư đặt quân cờ xuống ở một vị trí bất lợi, thì cầm chắc là phải bại.
Mà, bại cuộc cờ, là bại luôn cuộc đấu nội lực!
Ngược lại, nếu đại sư nghĩ ra một nước cao, đặt quân cờ đúng chỗ, thì chính Lam Đại Tiên Sanh bị dồn vào cái thế nguy. Dù có mở ra được thế cờ, ít nhất lão cũng phải mất một thời gian suy tư, và suy tư lâu là phải tiêu phí một phần ngươn khí quan trọng!
Một thế cờ hầu như quyết định, do đó đại sư hết sức chú tâm.
Cuối cùng rồi nhà sư cũng hạ quân cờ xuống.
Nhìn qua vị trí quân cờ vừa hạ, Triển Mộng Bạch thoáng lộ vẻ hân hoan.
Cờ, đối với chàng, cũng là một môn tiêu khiển, trong giới trẻ, chàng nổi tiếng cờ cao, nhìn vào bàn cờ, chàng cũng biết là cục diện cực kỳ nghiêm trọng, nếu Thiên Phàm Đại Sư đi đúng nước, thì Lam Đại Tiên Sanh phải bại.
Chàng lại có cảm tình với Lam Đại Tiên Sanh, chỉ mong lão ta thắng cuộc.
Bây giờ, thấy đại sư đặt quân cờ không đúng vị trí, như vậy là đại sư không tạo được nguy cơ cho Lam Đại Tiên Sanh, chàng mầng.
Vừa lúc đó, những loạt phạn ngữ do hàng ngàn đệ tử Thiếu Lâm Tự tụng kinh chiều phát ra đã gián đoạn một lúc, lại vang lên.
Những tiếng tụng vang rập nhau, đều đều, càng phút càng lên cao, chừng như trong chốc lát nữa đây với cái đà tăng trưởng đó, tiếng tụng sẽ vang dội vùng Tung Sơn, lan đi ngoài mấy dặm đường.
Thiên Phàm Đại Sư đang ưu tư, trầm trọng, nghe tiếng kinh bất giác bình tĩnh trở lại.
Tâm tư bình tĩnh, đại sư nhận định thế cờ toan chọn không hợp, cũng may, quân cờ chưa đặt xuống mặt bàn, đại sư từ từ đưa cao tay trở lại trên không, rồi lần này, đặt quân cờ xuống thật sự.
Quân cờ đại sư hạ xuống, đúng chỗ quá, cục diện biến đổi liền, và giờ đây đến lượt Lam Đại Tiên Sanh thấy nguy.
Song phương lấn qua, dồn lại một lúc, cuối cùng thì đại sư thắng thế rõ rệt, còn Lam Đại Tiên Sanh càng phút càng mất hy vọng.
N Trong khi đó, những câu tụng kinh bằng Phạm ngữ bên ngoài vang lên đều đều, càng phút càng lớn.
Triển Mộng Bạch vụt kêu lên:
- Bất công!
Trong khung cảnh trầm tịnh như cảnh chết này, một hơi thở cũng còn nghe lọt, huống hồ một câu nói vang lên lồng lộng?
Triều Dương phu nhân vội đưa ngón tay trỏ áp miệng chàng chàng, đồng thời hừ nhẹ một tiếng.
Tuy bà ngăn chặn chàng làm huyên náo, song chính bà cũng hiếu kỳ, hỏi khẽ bên tai chàng:
- Bất công ở điểm nào?
Triển Mộng Bạch giải thích:
- Toàn thể môn nhân Thiếu Lâm Tự đang dùng một môn học bí truyền của Phật gia trợ lực đại sư, chính những câu kinh tụng lớn kia đưa cho âm thinh vào đây, giúp đại sư trấn định tâm thần, giữ chân khí được trầm ổn. Đồng thời, âm thinh đó cũng gây hoang mang nơi Lam Đại Tiên Sanh, nhiễu loạn tâm thần tiên sanh.
Triều Dương phu nhân cau mày, thầm nghĩ:
- Hắn nói đúng quá, Thiên Phàm Đại Sư là bậc cao tăng, nghe tiếng kinh thì lòng ổn tịnh, còn Tiểu Lam đâu phải là kẻ xuất gia, nghe tiếng kinh càng thêm bực dọc. Nghĩ ra, cái bọn trọc tại Thiếu Lâm Tự nầy, cũng cao minh lắm! Chúng ngầm tiếp trợ chưởng môn, mà không lộ một chứng tích nào. Ta dù biết vậy cũng chẳng có lý do gì nói được!
Bên trong, bà lo. Nhưng, bên ngoài, bà cười nhẹ, thốt:
- Chỉ vì, trước khi động thủ, song phương không có lập định cái điều cấm chỉ quần tăng gây tiếng động, vang đến tịnh thất bằng cách tụng niệm tập thể và lớn tiếng như thế nầy.
Bà dừng lại, suy tư một chút, lại hỏi:
- Tiểu huynh đệ có cách chi chăng?
Người áo vàng chen vào:
- Tự nhiên là có cách chứ. Song cái điều gây thắc mắc cho lão phu là lý do khiến cả hai trí mạng với nhau như vậy. Thắng rồi sao, bại rồi sao?
Triều Dương phu nhân chớp chớp mắt, đáp:
- Ngươi còn lạ gì cái tánh khí của Tiểu Lam? Lão ta có thể đem sanh mạng làm vật đánh cuộc, chỉ vì một lời nói nghịch lổ tai thôi.
Triển Mộng Bạch lắc đầu:
- Tại hạ không tin là sự tình quá đơn giản như phu nhân vừa nói đó. Bất quá, phu nhân không chịu nói thật cho bọn tại hạ hiểu vì lý do gì đó!
Chàng hừ nhẹ một tiếng, tỏ cái sự bất mãn, rồi tiếp:
- Bởi không hiểu được cái lý do cuộc đùa sanh tử nầy, tại hạ dù có cách chuyển nguy được thành yên, tại hạ nhất định không can thiệp.
Triều Dương phu nhân cười nhạt:
- Ai mượn ngươi can thiệp? Lẽ nào ta không có biện pháp sao?
Bà nói như vậy, bất quá để Triển Mộng Bạch đừng lên mặt, chứ bà thấy đang rối rắm lắm, làm gì có biện pháp thích hợp lại phát sanh trong đầu bà?
Trong khi họ đối đáp thì Thiên Phàm Đại Sư và Lam Đại Tiên Sanh vẫn mãi mê công thủ. Tại bàn cờ, cái thắng bại đã hiện rõ trước mặt.
Song cái thắng bại thấy bằng mắt, không quan trọng làm sao so với sự tranh chấp vô hình.
Sự tranh chấp vô hình, là song phương đấu chân khí, đấu chân lực kia...
Như đã nói, bất cứ một cuộc đấu nào trong hai cuộc, cũng phải có ảnh hưởng, có liên quan đến cuộc kia.
Tuy nhiên, giả như bại cờ trước, đấu thủ còn có thể vớt vát lại cuộc đấu vũ công, bất quá, hơi mất mặt một chút vậy thôi.
Chứ đã bại vì vũ công rồi, thì cầm như mất mạng.
Cho nên, cái bại hữu hình nơi bàn cờ không quan trọng bằng cái bại vô hình ở cuộc đấu chân khí.
Tóc của Lam Đại Tiên Sanh bắt đầu dựng đứng, từ nơi đỉnh đầu có nhiệt khí bốc lên...
Thiên Phàm Đại Sư vẫn giữ vẻ an tường nơi gương mặt, song ánh mắt như mờ dần đi.
Ánh mắt mờ, chứng tỏ nội lực không còn liên tục nữa.
Lưỡng hổ tranh đấu, tất hữu nhất thương, ở đây, có thể là cả hai cùng thọ thương, cả hai cùng tử thương.
Huống chi, muốn ngăn chặn họ, ít nhất cũng phải có công lực ngang họ, nếu không hơn.
Thử hỏi trên đời nầy, có nhân vật nào trên bậc họ về mặt vũ công?
Hấp tấm mà can thiệp, chẳng những không ngăn chặn được Lam Đại Tiên Sanh và Thiên Phàm Đại Sư, mà còn nguy hại đến bản thân mình nữa đấy.
Bởi, hai công lực kia, không chống đối nhau được bì sự can ngăn đó, sẽ dồn lại kẻ cản ngăn, thì người đó chịu làm sao nổi?
Bên ngoài, ai lo cứ lo, bên trong đấu cứ đấu, thời gian đi qua dù chậm, vẫn đi, và cả hai đấu thủ dù có cái vốn tu vi lớn đến đâu, đều tự tiêu hao dần dần, cái vốn đó cuối cùng sẽ cạn...
Bỗng, Triển Mộng Bạch dặng hắng lên một tiếng, rồi chàng thốt:
- Tại hạ muốn ca!
Triều Dương phu nhân trố mắt:
- Ngươi muốn ca? Ca gì?
Triển Mộng Bạch trầm giọng:
- Thì ca những bài đã thuộc, chứ ca gì? Hòa thượng tụng kinh vang lên như vậy, chẳng lẽ tại hạ không được ca vang lên?
Triều Dương phu nhân chớp chớp mắt, cười nhẹ mấy tiếng, đoạn đáp:
- Ngươi ca, chẳng bằng ta ca đâu. Có phải thế chăng?
Phu nhân chừng như đoán được cái ý của chàng định dùng tiếng ca, làm loạn tiếng kinh.
Triển Mộng Bạch gật đầu:
- Nếu phu nhân bằng lòng ca, thì còn gì bằng?
Triều Dương phu nhân đưa ngón tay ém gọn mớ tóc, đoạn cất tiếng ca.
Lời ca tỏ rõ cái tình lưu luyến của một đôi tình nhân, một bên tha thiết, một bên nửa nhận nửa khước từ.
Bài ca tầm thường, người thôn giả thường ca, song bà có âm thinh ấm dịu, ca lên nghe hay lạ kỳ.
Ca xong một bài ca, bà tiếp bài khác, dần dần gương mặt bà đỏ lên, phảng phất chính bà cũng bị nung nấu tâm tình bởi những bài ca đầy ý tứ đó.
Bây giờ, thần sắc của Thiên Phàm Đại Sư bắt đầu biến loạn rồi.
Cờ vẫn tiếp tục, song quân cờ trong tay đại sư đưa cao, lâu lắm mới hạ xuống, chứ không nhanh như trước.
Triển Mộng Bạch mừng thầm.
Chàng thấy cái mưu của chàng có hiệu quả.
Đó là chàng chỉ nhìn Thiên Phàm Đại Sư thôi. Đến lúc chàng nhìn qua Lam Đại Tiên Sanh, thấy ánh mắt của Lam Đại Tiên Sanh còn tán loạn hơn nữa, chừng như tâm thần tiên sanh bất an qua những lời ca đó.
Niềm khích động hiện rõ nơi gương mặt tiên sanh.
Triều Dương phu nhân thì nhắm mắt, chăm chú lời ca.
Triển Mộng Bạch kinh hãi, thầm nghĩ:
- Nguy! Không xong rồi!
Chàng trực nhớ ra, qua lời truyền thuyết của giang hồ, Triều Dương phu nhân và Lam Đại Tiên Sanh là đôi tình nhân qua nhiều năm tháng, chỉ vì một lý do gì đó, mà cả hai chưa chính thức lấy nhau.
Rồi bây giờ, phu nhân ca lên những bài ca có tánh cách yêu đương. Những bài ca đó nhắc nhở tiên sanh đoạn ân tình ngày trước, thành ra ý của phu nhân muốn nhiểu loạn tâm thần đại sư, đại sư chưa bối rối cho lắm, mà chính tiên sanh lại chập chờn giữa thật giữa mộng!
Đúng là muốn khéo thành vụng!
Bỗng, tiếng tụng kinh từ bên ngoài loạn lên và chen lẫn với những tiếng tụng kinh loạn đó là tiếng kêu lên thật là khiếp hãi...
Rồi sau đó, tiếng nạt, tiếng hét tiếp nối, và cuối cùng là tiếng chân người chạy gấp.
Một âm thanh lanh lảnh vang lên:
- Nhị muội ở đâu? Nhị muội!
Triều Dương phu nhân biến sắc, dừng ngay bài ca.
Người áo vàng cũng mở mắt ra.
Lão hỏi:
- Phải Liệt Hỏa phu nhân đó chăng?
Triều Dương phu nhân gật đầu.
Bên ngoài, giọng nói đó lại vang lên:
- Ra đây ngay, nhị muội!
Người đang gọi đó đang tiến về tịnh thất của Phương trượng.
Lam Đại Tiên Sanh hừ khẽ một tiếng, thần sắc trở lại tình tĩnh như cũ.
Thiên Phàm Đại Sư niệm Phật hiệu:
- A di đà Phật!
Đôi mắt của đại sư sáng rực lên.
Cả hai cùng thối, cùng hả hơi, cùng khôi phục định lực, nhưng vẫn nhìn vào cuộc cờ, không hề lưu ý đến những gì bên ngoài.
Triều Dương phu nhân nhìn ra phía cửa, thần sắc vô cùng khẩn trương, nhưng chẳng dám bước ra nghinh đón.
Triển Mộng Bạch lấy làm lạ, không tưởng bà ta quá sợ như vậy.
Mà người mà bà sợ, chính là chị ruột của bà, chứ có phải ai khác lạ đâu?
Không lâu lắm, bức rèm trúc được vẹt qua một bên, một bóng đỏ xuất hiện.
Bóng đỏ đó là nữ nhân, vận toàn đỏ, lướt như gió đùa.
Bóng đỏ đảo mắt nhìn quanh một vòng rồi quay qua Triều Dương phu nhân cười lạnh, thốt:
- Hay chưa! Người cùng Tiểu Lam lén lút đưa nhau đến đây đàm luận vụn vặt với hoà thượng!
Triều Dương phu nhân cười vuốt, đáp:
- Thơ thơ nhìn kỹ đi, có phải là cuộc đàm luận vụn vặt hay chăng?
Nữ nhân có gương mặt giống như Triều Dương phu nhân song mày hơi rậm, mắt lại sáng hơn.
Có cái gì sắc bén hiện ra nơi thần sắc của bà, chứng tỏ bà mau mắn, trong ngôn từ cử động.
Bà lại nhìn qua mọi người một lượt, điềm nhiên thốt:
- Dù gì đi nữa, các ngươi cũng không nên âm thầm đưa nhau đi như vậy.
Triều Dương phu nhân thở dài:
- Tiểu Lam nóng như lửa đốt trong mình, đến tìm tiểu muội, tiểu muội còn thì giờ đâu nữa mà bẩm báo với thơ thơ? Việc như thế đó, thơ thơ nở nào trách tiểu muội chứ?
Liệt Hỏa phu nhân cau mày, bước nhanh tới trước vân sàng, phất ống tay áo lên.
Bàn cờ rối loạn, quân văng tứ tung.
Rồi bà cao giọng thốt:
- Các ngươi ở đây, dàn cái cảnh như thế này, để làm gì? Hãy nói mau cho ta nghe đi?
Lam Đại Tiên Sanh và Thiên Phàm Đại Sư cùng giật mình, nhưng cả hai tay vẫn còn đưa cao, hai tay còn dán chặc vào nhau.
Liệt Hỏa phu nhân trừng mắt, hét:
- Lão hòa thượng! Ngươi cứ nắm tay Tiểu Lam định làm chuyện gì vậy chứ? Buông tay ra ngay. Cải lời ta, ta sẽ cho ngươi biết tay!
Thiên Phàm Đại Sư cau mày, niệm phật hiệu:
- A di đà Phật!
Bỗng, Lam Đại Tiên Sanh tung bổng người lên, lộn đi mấy vòng mới đáp xuống nền, đáp xuống đúng chiếc ghế đặt ở góc tường, gương tròn mắt nhìn sửng Liệt Hỏa phu nhân.
Rút tay về, lão sợ chưởng lực của Thiên Phàm Đại Sư bức dồn tới, cho nên lão phải tung bổng mình lên, lộn đi mấy vòng, chờ cho lực đạo của đối phương tự hóa giải rồi, lão mới dám đáp xuống.
Và lão cũng hóa giải công lực mình, cho nó trở lại bình thường.
Trước đó một chút, khi cục diện cực kỳ nghiêm trọng, từ Triều Dương phu nhân, người áo vàng, đến Triển Mộng Bạch, chẳng ai có phương sách gì phân khai hai đấu thủ.
Ai ai cũng hết sức lo lắng.
Nhưng sau đó một phút, cục diện hoàn toàn phá hủy, với sự xuất hiện của Liệt Hỏa phu nhân.
Triển Mộng Bạch vừa kinh hãi, vừa buồn cười!
Thì ra, tất cả đều là một sự đùa vui, dù trong cái đùa đó, sanh mạng con người chẳng có một giá trị.
Điều mà chàng không tưởng nổi, là sống đến cái tuổi xa trời gần đất, Liệt Hỏa phu nhân nóng nảy, vẫn ương ngạnh, như một đứa bé con!
Chàng cũng là một tay nóng nảy, song chàng đâu đến đổi quá vô lý như bà ta?
Tuy nhiên, chàng cũng phải nhìn nhận là nhờ sự vô lý của bà, một điều đáng tiếc lớn được ngăn chận trước khi xảy ra, ngăn chận rất kịp thời.
Liệt Hỏa phu nhân vẫn đứng tại chỗ, xoay nửa vòng thân trên hướng mắt về Lam Đại Tiên Sanh, cao giọng hỏi:
- Ngươi đến tìm nó sao chẳng gặp ta một chút chứ?
Nó, là Triều Dương phu nhân, bà vẫn cứ gọi như thường, với cái tiếng đó, bà không cần chọn một tiếng thỏa đáng hơn.
Lam Đại Tiên Sanh dửng cao đôi mày, giọng đáp cũng cao không kém Liệt Hỏa phu nhân:
- Ngươi là một con liễu đầu, bình sanh chuyên phá hoại sự việc của người, ta tìm gặp ngươi làm chi? Gặp ngươi, để ngươi tìm hiểu sự việc của ta, rồi theo dõi, rồi phá hoại, phải không? Ta không cho ngươi biết, ngươi còn làm hỏng việc của ta huống hồ ngược lại?
Liệt Hỏa phu nhân sửng sờ.
Lạ lùng thật! Với cái tính nóng nảy đó, đang lẽ bà ta phải nổi giận lên liền, không ngờ bà chỉ lộ vẻ kinh dị, rồi lùi lại ba bước, rồi ngồi xuống mép vân sàng, rồi cất tiếng khóc ồ ồ.
Khóc được mấy tiếng, bà lại gào lên:
- Được! Được! Ta tuổi tác như thế này, ngươi cũng cứ gọi ta là một liễu đầu! Được!
Ta là lão liễu đầu.
Bà lại khóc to hơn trước.
Lam Đại Tiên Sanh hừ một tiếng:
- Ngươi càng lão, tánh khí càng tiểu. Ngươi không là lão liễu đầu, mà chỉ là tiểu liễu đầu, ta nói tiểu!
Liệt Hỏa phu nhân càng khóc to hơn, khóc thảm thiết, vừa khóc vừa gào:
- Được! Được! Ta biết mà! Ngươi không ưa thích ta... ta... thà ta chết đi còn hơn! Ta còn sống làm gì chứ...
Lam Đại Tiên Sanh hét:
- Ta mời! Mời ngươi đó!
Triều Dương phu nhân vọt mình đến trước mặt tiên sanh, khẽ thở dài, trách nhẹ:
- Sao ngươi có thái độ đó đối với thơ thơ ta, hả Tiểu Lam? Ngươi làm cho thơ thơ ta quá thương tâm, mà chính ta cũng thương tâm luôn đó nhé!
Lam Đại Tiên Sanh hừ một tiếng:
- Ngươi yên trí, chẳng bao giờ bà ta dám chết đâu!
Triều Dương phu nhân dịu giọng:
- Ngươi còn giở cái giọng khiêu khích nữa sao? Bước tới mà tạ lỗi với thơ thơ ta đi!
Bước ngay đi, Tiểu Lam!
Lam Đại Tiên Sanh ngồi thừ người trên ghế, trầm lặng một lúc lâu, sau cùng đứng lên.
Triển Mộng Bạch mục kích thái độ của hai bà lão đối xử với nhau như vậy, không khỏi buồn cười.
Chàng không thể ngờ Lam Đại Tiên Sanh quật cường như thế mà lại chiều chuộng Triều Dương phu nhân, đến ngoan ngoãn chẳng khác nào một đứa bé con.
Chàng thầm nghĩ:
- Người ta nói, nhu khắc cương, nghĩ ra thật đúng!
Lam Đại Tiên Sanh đã đến trước mặt của Liệt Hỏa phu nhân rồi, lão đưa tay vỗ nhẹ lên đầu vai bà mấy lượt, rồi buông gọng:
- Úy!... Lỗi quá! Ta mắng sai!....
Cái câu tạ lỗi của lão có bao nhiêu đó thế thôi! Lão nhận là mình mắng sai, chứ lão không van cầu người bị mắng sai, tha thứ cho lão.
Triển Mộng Bạch thầm nghĩ:
- Một cách tạ lỗi mới mẻ thật!
Chàng hết sức ngạc nhiên khi Lam Đại Tiên Sanh chỉ nói lên mấy tiếng đó, mà Liệt Hỏa phu nhân ngưng khóc ngay, đã vậy bà còn cười hì hì.
Rồi bà thốt:
- Tiểu Lam ạ, chỉ cần ngươi đối tốt với ta, dù ngươi có mắng ta mấy tiếng cũng chẳng sao, mắng sai cũng chẳng sao!
Theo ai khác, thì ít nhất cũng phải vuốt ve thêm bằng một vài tiếng nhẹ, nhưng Lam Đại Tiên Sanh chỉ nói độc nhất có một câu cộc lốc, rồi quay mình, bước trở về chiếc ghế, ngồi xuống.
Ngồi xong, lão cao giọng trách:
- Vừa rồi, ngươi đã phá hỏng sự việc của ta, ngươi có thấy là phải tạ lỗi với ta không?
Trách cứ Liệt Hỏa phu nhân, thực ra Lam Đại Tiên Sanh không phải muốn cho bà tạ lỗi với lão.
Lão muốn cho bà tạ lỗi với Thiên Phàm Đại Sư, bởi cái việc họ đang làm, tuy đem sanh mạng đùa cợt, song kỳ trung chỉ là một cuộc đấu thân hữu.
Với tính cách thân hữu, cuộc đấu có gây hứng cho họ, bây giờ Liệt Hỏa phu nhân ngăn cuộc đấu, phá tan cái hứng đang lên của họ.
Như vậy là khiếm nhã với chủ nhân địa phương này.
Dù sao thì Lam Đại Tiên Sanh cũng biết trọng đại nghĩa giang hồ, lão có gàn đến đâu, cũng chẳng dám để mất tác phong của một bậc đại hiệp.
Liệt Hỏa phu nhân mường tượng một đứa bé con, đưa tay quệt qua đôi mắt lệ ráo rồi, rồi từ từ nhích bước tới gần Thiên Phàm Đại Sư, e ấp thốt:
- Lão... lão... đại sư, tôi... đắc tội với đại sư...
Thiên Phàm Đại Sư đang giữ cái vẻ trang nghiêm, trông thấy cả ba người tuy thuộc hàng tiền bối, song tánh khí còn khôi hài hơn bọn trẻ con, cũng phải điểm một nụ cười, đáp:
- Nữ thí chủ nói quá lời! Nữ thí chủ có làm chi đâu mà cho rằng đắc tội.
Nhưng, người áo vàng thì khác, lão không cho rằng sự việc đáng cười, miệng che dấu sau bức nạ, miệng lão ra sao, chẳng ai thấy được, chứ ánh mắt của lão chẳng hề biểu lộ một cái ý cười như những lần khác lão thường cười bằng mắt.
Chừng như lão nghiêm nghị hơn lúc nào hết.
Lão ngồi nguyên trong bóng tối, không gian còn quyện khói trầm từ chiếc lư đồng, khói trầm tỏa mờ mờ, tạo thành một lớp màn mỏng khuất lão thêm một chút.
Lão không nói gì.
Triển Mộng Bạch làm gì có được sự trầm ổn của lão, cho nên chàng buột miệng gọi to:
- Lam Đại Tiên Sanh?
Lam Đại Tiên Sanh đảo mắt nhìn quanh, bỗng ngẩng mặt lên không cười vang, cười một lúc, lão cao giọng hỏi:
- Hay? Hay? Không ngờ cũng có mặt tiểu huynh đệ và cái lão tử đối đầu với ta?
Rồi lão hỏi:
- Các ngươi đến đây từ bao giờ?
Ngoài miệng, Triển Mộng Bạch đáp:
- Đến từ lâu.
Trong thâm tâm, chàng thầm nghĩ:
- Bọn này vào đây mà lão chẳng hay biết gì, điều đó chứng tỏ trong lúc đấu với đại sư, lão vất vả lắm!
Thiên Phàm Đại Sư bước xuống vân sàng.
Đại sư điểm một nụ cười, vòng tay chữ thập hướng về người áo vàng, thốt:
- Sau mười năm cách biệt, hôm nay mới gặp lại nhau. Trong thời gian đó, bần tăng cứ tự hỏi mình, chẳng hay thí chủ bận việc chi mà chẳng hề trở lại bổn tự, cho bần tăng được đãi trà, nghe chuyện.
Người áo vàng phất nhẹ Ống tay áo, gió phát thổi tạt làn khói trước mặt, cười nhẹ, đáp:
- Tuy thời gian qua lâu, tại hạ chung quy cũng còn có dịp trở lại đây. Rất tiếc là lần này trở lại không đúng lúc. Bất ngờ lại gặp hai vị.
Lam Đại Tiên Sanh cười vang, chận lời:
- Ai cho rằng ngươi đến đây không đúng lúc? Trái lại là khác! Ngươi đến hợp tình thế quá chừng! Nếu không có ngươi hẳn lão phu phải tái đấu với hòa thượng một lần nữa...
Người áo vàng hỏi:
- Thế ra, hai vị giao đấu với nhau là vì tại hạ?
Thiên Phàm Đại Sư thở dài:
- Lam thí chủ không quản lao nhọc vượt nghìn dặm đến Thiếu Thất Phong tìm bần tăng vì hai việc...
Lam Đại Tiên Sanh nổi giận:
- Việc thứ nhất, liên quan đến nghiệt đồ Tôn Ngọc Phật của lão phu, sau khi lão phu ly khai hai người rồi, lập tức đến Hàng Châu tìm hắn.
Người áo vàng tặc lưỡi:
- Nhưng chắc là hắn đã xa chạy cao bay trước khi các hạ đến!
Lam Đại Tiên Sanh gật đầu:
- Đúng vậy. Chẳng những hắn trốn đi, mà hắn còn thuê người phóng Tình Nhân Tiển toan hảm hại lão phu. Người đó bị lão phu bắt được.
Thuật đến đó lão hừ lạnh luôn mất tiếng, tiếp luôn:
- Ngờ đâu, kẻ ám toán lão phu lại là một đệ tử của Thiếu Lâm, lão phu mang kẻ đó đến Thiếu Lâm Tự, giao cho lão hòa thượng trừng trị, ngờ đâu, hắn tự sát dọc đường. Lão phu cũng có bức hắn cung khai lai lịch chủ nhân Tình Nhân Tiển, song hắn chẳng chịu nói gì cả.
Triển Mộng Bạch và người áo vàng cùng nhìn nhau.
Thiên Phàm Đại Sư thở dài:
- Môn đồ phái Thiếu Lâm, càng ngày càng đông, phàm người đông thì có hỗn tạp, nhân phẩm của chúng bất đồng, do đó mà có những con sâu phá hoại cả một vườn cây tươi tốt!
Người áo vàng hỏi:
- Tuy việc làm đó, do một đệ tử Thiếu Lâm, song thực ra thì có gì đáng trách đại sư đâu?
tại sao Lam huynh lại có thể dựa vào việc nhỏ mọn như vậy, động thủ với đại sư?
Thiên Phàm Đại Sư mỉm cười:
- Bần tăng và Lam thí chủ động thủ, không phải vì lý do đó.
Người áo vàng trố mắt:
- Thế là vì lẽ gì?
Thiên Phàm Đại Sư đáp:
- Lam đại hiệp hỏi bần tăng về lai lịch của thí chủ, bần tăng không thỏa mản được điều yêu sách đó...
Lam Đại Tiên Sanh chận lời:
- Phải chi lão hòa thượng bảo là không biết, thì ta đâu có nổi giận? Ta hận vì lão nói là lão biết, song lão không thể tiết lộ.
Người áo vàng cười nhẹ:
- Rồi vì thế, mà các hạ bức Thiên Phàm Đại Sư phải động thủ!
Dừng lại một chút, lão tiếp:
- Lam huynh làm thế, có phải là vô ích chăng? Người như đại sư làm được một việc gì, là có suy xét kỹ, đáng làm là làm, không đáng làm là không bao giờ làm. Lam huynh liệu uy hiếp mà được việc à?
Lam Đại Tiên Sanh mỉm cười:
- Ta nghĩ mãi, chẳng hiểu được trong thiên hạ ngày nay, ai có vũ công như ngươi! Ta càng nghĩ, càng không hiểu nổi, càng không hiểu lại càng muốn tìm hiểu!
Người áo vàng lắc đầu:
- Vĩnh viễn, Lam huynh chẳng nghĩ ra nổi đâu!
Lam Đại Tiên Sanh thở dài:
- Nếu mà có một việc gì mà ta không được hiểu, ta cố tìm vẫn chẳng hiểu nổi được, thì ta có cái cảm giác là một vật nhọn đâm thường xuyên nơi hông ta, gây đau nhức khó chịu vô cùng! Ta ngồi như ngồi trên chông, ta đứng, như đứng trên than đỏ!
Thiên Phàm Đại Sư điểm một nụ cười:
- Lam đại hiệp có nhiệt tâm như vậy, chẳng đáng trách người có rất nhiều tình cảm.
Đoạn lão nhìn sang người áo vàng một thoáng, đảo mắt trở qua Lam Đại Tiên Sanh, rồi tiếp:
- Bây giờ, đương sự đã có mặt tại đây, thì hẳn là bần tăng có thể rút lui ra ngoài vòng!
Lam Đại Tiên Sanh cao giọng:
- Nếu lão ấy không bằng lòng cho lão phu biết lai lịch, thì lão phu cũng phải hỏi nơi hòa thượng như thường. Dù có tiếp tục cái việc vừa rồi, kéo dài đến ba ngày, ba đêm, lão phu cũng không kêu khổ!
Thiên Phàm Đại Sư lắc đầu:
- Bần tăng không chấp nhận tiếp tục cuộc đấu đó đâu!
Liệt Hỏa phu nhân vụt đứng lên, bước đến trước mặt người áo vàng hỏi:
- Ngươi nên cho Tiểu Lam biết đi! Hại lão ấy phải khổ, có ích gì?
Người áo vàng từ từ đáp:
- Nói, tự nhiên là nên nói, song hiện tại chưa phải lúc nói, tự nhiên chưa nói được.
Lam Đại Tiên Sanh và Liệt Hỏa phu nhân đồng thời cùng kêu lên:
- Thế đến lúc nào ngươi mới chịu nói?
Người áo vàng đáp:
- Tại hạ đến đây hôm nay, là vì cần gặp mặt Thiên Phàm Đại Sư để đàm luận về một việc quan trọng. Xong cái việc tại đây, tại hạ còn phải đưa vị tiểu huynh đệ này đến Đế Vương cốc. Xong cái việc tại Đế Vương Cốc rồi chừng đó...
Lão điểm một nụ cười, tiếp luôn:
- Tại hạ sẽ nhờ tiểu huynh đệ thay mặt tại hạ tìm gặp các vị nói rõ lai lịch của tại hạ cho các vị hiểu. Đại khái, tại hạ có thể ước định một thời gian nửa năm, sau thời gian đó, các vị sẽ được thỏa mãn.
Lam Đại Tiên Sanh nhướng cao đôi mày, niềm hoan hỉ hiện lộ rõ rệt nơi ánh mắt.
Lão thốt gấp:
- Thế là nhất định như vậy!
Người áo vàng gật đầu:
- Tại hạ xin giữ lời.
Lam Đại Tiên Sanh vỗ đùi bốp bốp:
- Được! Bây giờ ngươi muốn nói gì với Thiên Phàm Đại Sư cứ nói!
Day qua Triển Mộng Bạch, lão tiếp luôn:
- Tiểu huynh đệ nhớ đấy, đừng để lão phu nóng nảy chờ đợi, phải biết quá hạn một ngày mà tiểu huynh đệ không đến, là lão phu phải bị lửa tâm đốt một ngày đấy?
Thiên Phàm Đại Sư cười nhẹ:
- Việc đó, bần tăng đã đàm luận xong!
Lam Đại Tiên Sanh sửng sờ, nhìn người áo vàng một lúc, đoạn thở dài:
- Không ngờ ngươi luyện cái thuật truyền âm nhập mật linh diệu như thế? Đến ta cũng chẳng phát hiện được!
Người áo vàng mỉm cười:
- Nếu Lam huynh nghe được, thì còn gọi là truyền âm nhập mật làm sao ổn chứ?
Lam Đại Tiên Sanh cười lớn:
- Tốt! Tốt! Bình sanh ta chẳng hề phục ai, nhưng ta phải phục ngươi! Bây giờ thì ta trở về cung, chờ tin tốt của ngươi đấy!
Thốt xong, lão đứng lên, bước đi liền.
Bàn tay lão vừa chạm đến bức mành trúc, Liệt Hỏa phu nhân gọi gấp:
- Chậm một chút, chờ ta với!
Lam Đại Tiên Sanh cười lớn:
- Ngươi về nhà ngươi, ta về nhà ta, mỗi người có mỗi con đường, ta chờ ngươi làm gì?
Lão vẫy cao hay tay, chào biệt mọi người, đoạn vọt mình đi luôn.
Liệt Hỏa phu nhân hét to:
- Ngươi không chờ ta, ta cứ theo ngươi, xem ngươi làm sao ta cho biết.
Bà không cần chào ai, khẽ nhún đôi chân, một bóng đỏ chớp lên, bóng đỏ bay vút theo Lam Đại Tiên Sanh, thoáng mắt đã mất dạng.
Thiên Phàm Đại Sư khẽ thở dài:
- Tại Thiếu Lâm Tự này, muốn vào lúc nào là vào, muốn ra lúc nào là ra, trên thế gian ngoài Lam Đại Tiên Sanh, không còn một ai khác!
Người áo vàng đang nhìn ra ngoài cửa, ứng tiếng đáp:
- Đại sư nhân từ, không muốn cùng lão ấy tranh chấp trên một tiểu tiết, chứ Thiếu Lâm Tự đâu phải là một cảnh hoang!
Thiên Phàm Đại Sư mỉm cười:
- Hành động thì ngông, thái độ thì gàn, tuy vậy chứ suốt mấy mươi năm trời bôn nam tẩu bắc, Lam Đại Tiên Sanh vẫn giữ cái tâm trong sáng như gương! Mẫu người đó, chẳng phải có nhiều trong nhân loại!
Người áo vàng quay đầu, nhìn sang Triều Dương phu nhân, hỏi:
- Phu nhân cùng đến với Lam Đại Tiên Sanh, hiện tại tiên sanh đã đi rồi, sao phu nhân không đi theo?
Trên gương mặt của Triều Dương phu nhân, nét u buồn hiện rõ.
Bà thở dài, thốt:
- Họ đúng là một đôi oan gia, nhưng cũng rất thích nhau. Có thể bảo, họ là nước với lửa, tương tế nhau mà cũng tương khắc nhau!
Triển Mộng Bạch sửng sờ, tính hiếu kỳ bừng lên, chàng buột miệng hỏi:
- Phu nhân đã thích Lam Đại Tiên Sanh, mà Lam Đại Tiên Sanh cũng thích phu nhân, thế tại sao...
Triều Dương phu nhân khoát tay, tiếp tục thở dài:
- Có nhiều sự việc, người trong lứa tuổi của tiểu huynh đệ chưa hiểu nổi. Hỏi làm chi, tiểu huynh đệ, sau này rồi huynh đệ cũng sẽ hiểu khi vượt qua cái mức hoa niên!
Triển Mộng Bạch trầm giọng:
- Phu nhân hy sinh cho bào tỷ?
Triều Dương phu nhân điểm một nụ cười:
- Ngươi lầm!
Triển Mộng Bạch cau mày:
- Thế thì tại hạ lại càng không hiểu!
Triều Dương phu nhân trầm lặng một lúc, sau cùng, bà từ từ thốt:
- Tiểu huynh đệ có biết không, thích và yêu là hai lẽ hoàn toàn khác nhau, người ta thích, là lão, còn người ta yêu...
Bỗng, bà thở dài luôn mấy tiếng, rồi cúi đầu lặng lẽ bước ra cửa.
Triển Mộng Bạch thừ người như tượng gỗ, mơ màng...
Chợt, Triều Dương phu nhân trở lại, hỏi chàng:
- Ngươi đến Đế Vương Cốc, nhân dịp đó, ta nhờ ngươi một việc, ngươi có sẵn sàng giúp ta chăng?
Triển Mộng Bạch đáp liền:
- Nếu việc đó không trên sức mình, thì tại hạ không hề từ chối.
Triều Dương phu nhân nhìn chàng, ánh mắt chớp lên, bắn ra một tia sáng quái dị.
Bà tiếp:
- Chẳng có gì khó khăn cả, ngươi chỉ chuyển hộ ta một câu hỏi thôi. Sau đó, ngươi tìm cách gặp lại ta, cho biết lời phúc đáp.
Triển Mộng Bạch hỏi lại:
- Câu đó như thế nào?
Triều Dương phu nhân lại chớp mắt:
- Ngươi có thấy tịch mịch chăng?
Triển Mộng Bạch kinh hãi.
Triều Dương phu nhân mỉm cười:
- Điều ta nhờ ngươi chuyển đến Đế Vương Cốc, là câu hỏi đó. Chứ ta có hỏi ngươi đâu?
Phần ngươi, tìm cách gặp lại ta, phần ta cũng tìm cách gặp lại ngươi, có như vậy, chúng ta mới gặp nhau sớm và ta được nghe câu đáp sớm hơn!
Bà lấy trong mình ra một chiếc túi thêu, trao qua cho chàng, đoạn điểm một nụ cười, tiếp:
- Trong đó, có một vật do ta làm ra, ngươi cầm đi!
Triển Mộng Bạch lắc đầu:
- Vô công, thọ thưởng, bình sanh tại hạ không hề như vậy, phu nhân cất đi.
Triều Dương phu nhân cười nhẹ:
- Thì ngươi chấp nhận chuyển hộ ta câu nói đó đến nơi cần đến, như thế là công rồi, còn gì nữa?
Triển Mộng Bạch thở dài:
- Tại hạ chỉ mới có nhận lời thôi, chứ nào đã làm gì, mà gọi là công, huống chi, còn phải chờ xem việc làm đó có thành hay không nữa chứ! Phu nhân biết không, lần đến Đế Vương Cốc này, biết tại hạ còn sống hay chết? Giả như tại hạ chết đi, thì đâu còn cái việc tìm gặp phu nhân để đem về lời phúc đáp của Đế Vương Cốc?
Triều Dương phu nhân cau mày:
- Tuổi ngươi chưa có được bao nhiêu, sao sớm nói đến cái chết?
Triển Mộng Bạch bật cười ngạo nghễ:
- Cái chết, nếu không đến với tại hạ, thì phải đến với cốc chủ Đế Vương Cốc. Cốc chủ chết đi, lão ta chẳng còn tịch mịch nữa!
Triều Dương phu nhân biến sắc:
- Nguyên nhân nào thúc đẩy ngươi nói như thế?
Triển Mộng Bạch trầm lặng gương mặt:
- Tuy chưa đích xác lắm, trừ trường hợp chứng minh trái ngược, hiện tại, tại hạ có thể bảo cốc chủ Đế Vương Cốc là kẻ thù không đội trời chung của tại hạ. Khi tại hạ gặp lão ấy rồi, thì trong hai người phải có một táng mạng.
Triều Dương phu nhân trầm tư một lúc, đoạn đặt nhẹ chiếc túi thêu nơi tay chàng, rồi thốt:
- Vô luận như thế nào, ta cũng tặng ngươi chiếc túi này. Ta chẳng hề lấy lại.
Triển Mộng Bạch khẳng khái đáp:
- Được rồi, tại hạ xin nhận. Nếu lão ấy có chết đi, thì tại hạ cũng tìm phu nhân để thuật lại cho phu nhân nghe câu đáp của lão. Bởi, trước khi động thủ, tại hạ phải hỏi hộ phu nhân.
Còn như cái chết là phần dành cho tại hạ, thì...
Chàng điểm một nụ cười, tiếp:
- Chính phu nhân phải tự mình đi tìm lão mà hỏi lại!
Triều Dương phu nhân nhìn sửng Triển Mộng Bạch, một phút sau bà từ từ thốt:
- Ta đã thấy rất nhiều người, ta cũng biết những tao ngộ của họ, phàm những kẻ nói đến cái chết mà vẫn cười được như thường thì hầu như những kẻ đó chẳng hề chết!
Triển Mộng Bạch thản nhiên:
- Đa tạ phu nhân!
Triều Dương phu nhân mỉm cười:
- Có điều, lão ấy không thể chết!
Bà quay mình, đồng thời đảo mắt nhìn qua mọi người một lượt rồi phi thân thoát ra ngoài cửa.
Thiên Phàm Đại Sư đưa ánh mắt dịu hòa sang người áo vàng khẽ buông tiếng thở dài:
- Trong con mắt, con tim của Triều Dương nữ thí chủ, chỉ độc có một nam nhân! Ngoài Đế Vương Cốc chủ ra, bà xem tất cả như những bóng mờ!
Người áo vàng trầm lặng, không nói gì.
Triển Mộng Bạch thở dài, tiếp nối lời đại sư:
- Xem ra, Lam Đại Tiên Sanh đặt tình yêu không có đúng chỗ!
Thiên Phàm Đại Sư lại thở dài:
- Tình yêu là nguồn cội muôn nỗi khổ, nhưng đã sanh ra trên cõi thế, con người có mấy ai vô tình? Thiếu niên ơi, có đúng vậy chăng?
Triển Mộng Bạch gật đầu, vẻ trầm buồn hiện rõ nơi gương mặt.
Đột nhiên, người áo vàng cười quái dị:
- Đặt tình yêu không đúng chỗ, nào phải chỉ có một Lam Đại Tiên Sanh đâu?
Day qua Triển Mộng Bạch, lão buông gọn:
- Mình đi, tiểu huynh đệ!
Triển Mộng Bạch nghiêng mình trước Thiên Phàm Đại Sư, cung kính thốt:
- Bận việc khẩn cấp nơi mình, không thể lưu lại lâu để thỉnh giáo những lời vàng ngọc của đại sư. Ra đi về phương trời man mác, tương lai chẳng rõ tao ngộ như thế nào, biết còn ngày trở lại bái kiến đại sư...
Thiên Phàm Đại Sư mỉm cười:
- Các vị đi đi, bần tăng không thể tiễn đưa xa. Thôi, hãy đi cho kịp thời gian.
Triển Mộng Bạch giật mình:
- Chẳng biết tại sao đại sư không nghe chàng nói cho tròn câu mà lại đuổi khách gấp thế?
Đã thế, thì đành thế, chàng cúi đầu, chào biệt, đoạn bước theo sau lưng người áo vàng.
Đợi cho người áo vàng và Triển Mộng Bạch khuất dạng rồi, Thiên Phàm Đại Sư vớ lấy chiếc dùi nhỏ, đánh nhẹ vào cái chuông con bên cạnh lư đồng.
Một tiếng coong vang lên, ngân dài trong trẻo.
Tiếng chuông chưa lắng xuống, bốn trung niên tăng nhân mặc áo màu tro bước vào, nghiêng mình, vòng tay chữ thập, nói:
- Sư phó có điều chi dạy bảo?
Thiên Phàm Đại Sư trầm giọng:
- Vô Vi và Vô Tâm lập tức chuẩn bị hành trang, sẵn sàng chờ lịnh theo sư phụ xuống núi.
Còn Vô Diệu, Vô Cơ lại vén bức rèm trúc cho ta.
Vô Vi, Vô Tâm, Vô Diệu và Vô Cơ là bốn đại đệ tử của Thiên Phàm, thoáng giật mình, chẳng biết tại sao sư phụ đột nhiên lại có ý hạ sơn.
Nhưng, là những đệ tử lâu năm, tự nhiên họ biết rõ tánh khí của sư tôn, chẳng một ai dám hỏi gì, cùng nghiêng mình lãnh lịnh.
Vô Vi và Vô Tâm về phòng để chuẩn bị hành trang, còn Vô Diệu và Vô Cơ vén bức rèm, rồi đứng nghiêm tại chổ cúi đầu xuống.
Thiên Phàm Đại Sư tiếp:
- Sư phụ định đi ngay đến Vũ Đương Sơn, thời gian xuất ngoại có thể kéo dài độ nữa năm, các sự vụ tại chùa, hai ngươi cẩn thận liệu lý.
Vô Diệu khẽ cau đôi mày, thấp giọng thốt:
- Từ lâu, sư phụ không hề phong trần, chỉ sợ...
Thiên Phàm Đại Sư chận lại:
- Bởi lâu năm không hạ sơn, bây giờ sư phụ định tái nhập giang hồ xem thử trong vũ lâm ngày nay có sản xuất ra mấy tay anh hùng niên thiếu chăng?
Vô Cơ trầm ngâm một chút, đoạn trình:
- Nếu có một sự việc gì xảy ra thì các đệ tử phải thay thế sư phụ, làm những công tác nhọc nhằn, tại sao sư phụ tự dấn thân vào lao khổ?
Thiên Phàm Đại Sư chớp mắt, điểm nhẹ một nụ cười:
- Sư phụ phải xuất hành, là vì các ngươi không thể thay sư phụ, đảm đương một việc có tầm quan trọng phi thường. Sư phụ nói thế, chẳng qua sự việc không hợp cách với các ngươi đó thôi, tuy rằng quan trọng, so ra chẳng lấy gì làm nguy hiểm. Các ngươi đừng nói chi nữa.
Đại sư nói, tức khắc động thân, nhưng dù sao thì chẳng có gì quá vội để đi ngay trong đêm đó.
Sáng sớm hôm sau, khi thời kinh đầu ngày chấm dứt, Thiên Phàm Đại Sư cùng Vô Vi, Vô Tâm từ từ xuống núi, ly khai Thiếu Lâm Tự, thẳng đến Vũ Đương Sơn.
Hơn mười năm không hề bước chân ra khỏi cổng chùa, giờ đây đại sư hạ sơn viễn du, điều đó làm cho tất cả các đệ tử đều kinh dị, tự hỏi một đặc sự gì đã xảy ra trên giang hồ, khiến đại sư phải bôn ba vạn dặm?
° ° ° Côn Lôn Sơn, một dãy núi nằm tận biên giới, dài đến ngàn dặm, hòn cao hòn thấp trập trùng, nơi nào cũng hiễm trở, gành cao, hố thẳm, đường dốc, rừng dày, phần uy nghi vượt hẳn Tung Sơn và Nga My Sơn.
Giữa Côn Lôn Sơn, có một ngọn núi từ muôn đời, chưa hề có dấu chân người, bên trên có một tàng cây tùng che rộng, bên dưới cội tùng, có một phiến đá, trên phiến đá, có một người ngồi, một người đứng.
Người ngồi, là Triển Mộng Bạch, người đứng, vận chiếc áo vàng.
Người áo vàng đang ấn tay nơi huyệt đạo trên mình Triển Mộng Bạch.
Không gian trầm tịnh phi thường, bất quá, thỉnh thoảng một cơn gió quét qua, đùa cành tùng khẽ buông tiếng xạc xào, như tiếng thở ra, êm nhẹ.
Lâu lắm, đột nhiên người áo vàng hét lớn:
- Tốt lắm!
Bàn tay đang ấn nơi huyệt đạo, đập mạnh xuống huyệt đạo đó.
Triển Mộng Bạch vươn hai cánh tay ra, theo đà vươn, xương toàn thân chuyển động, khắp người chàng kêu rắc rắc như tràng pháo nhỏ nổ dòn.
Người áo vàng nhìn chàng từ đầu đến chân, đoạn hỏi:
- Tiểu huynh đệ nghe thể lực như thế nào?
Triển Mộng Bạch hớp một hơi dài không khí, đáp:
- Khoan khoái hơn bao giờ hết.
Chàng nghe nhựa sống cuồn cuộn chảy trong người, nếu không làm một cái gì cho vơi bớt cái độ hăng say, hẳn chàng phải phát điên.
Người áo vàng mỉm cười hỏi:
- Hơn nửa tháng nay, lão phu tiết giảm ẩm thực, khắc khổ cái đi đứng nằm ngồi, cưỡng bức tiểu huynh đệ chấp nhận mọi lao nhọc, chẳng qua để giúp tiểu huynh đệ luyện công chóng thành, tiểu huynh đệ có biết như vậy chăng?
Triển Mộng Bạch thở dài, cúi đầu đáp:
- Ơn trọng của tiền bối bồi dưỡng tại hạ trở nên đại thành, tại hạ... thật là...
Vốn tính cương trực, chẳng bao giờ chịu nói một tiếng sáo, chàng muốn nói lên lời cảm tạ, song lại nghĩ, bất cứ lời cảm tạ nào thành thật đến đâu, cũng có cái vẻ sáo cả.
Do đó, chàng nín lặng, đành bỏ dở câu nói.
Người áo vàng bảo:
- Ngồi xuống đi, tiểu huynh đệ, đừng lãng phí thời gian, có thừa mấy phút phải để dành trọn vẹn mấy phút đó cho sự luyện công.
Dừng một chút, lão tiếp:
- Trước mắt tiểu huynh đệ, cuộc chiến tranh đang chờ, một cuộc chiến tranh kết thúc bằng sanh mạng của đối phương, tiểu huynh đệ biết chăng?
Nhựa sống đang bừng lên trong mình của Triển Mộng Bạch đó, người áo vàng thấy rõ, sợ chàng không kềm hãm nỗi, rồi tùy theo sự phát huy của nó, để cho nó tan biến qua cử động mà thành phí phạm, lão mới bảo chàng như vậy.
Triển Mộng Bạch vâng lời, ngồi xuống ngay.
Trong ánh mắt của chàng, niềm cảm kích bốc lên, đôi mắt sáng trở nên nồng nàn phi thường.
Người áo vàng trầm giọng tiếp:
- Đế Vương Cốc có thanh danh vững chắc trên giang hồ, như cội cổ tùng bám rể sâu vào lòng đất, dù ngàn cơn bão quét qua, cũng chẳng lay động được. Cái thanh danh đó, bao trùm cả vũ lâm mười ba tỉnh Trung Nguyên, cho nên căn cứ của họ cầm như cấm địa, vào đó còn khó hơn lên trời. Tiểu huynh đệ phải luôn luôn đề cao cảnh giác.
Giọng lão càng phút càng trầm, càng trầm càng nghiêm, lão tiếp:
- Vào cốc, mỗi bước đi như dẫm lên nguy cơ, quanh mình lúc nào cũng nặng nề sát khí, người trong cốc không phân thân phận, chẳng kể tuổi tác, tất cả đều là những tay tuyệt đỉnh công phu.
Lão dừng lại, điểm một nụ cười, lại tiếp:
- Lão phu đã đem môn công khắc chế vũ học của Đế Vương Cốc, truyền cho tiểu huynh đệ, nhờ tiểu huynh đệ có bản chất hơn người, cho nên trong thời gian rất ngắn, lãnh hội được trọn vẹn tinh vi trở thành tay đại dụng.
Triển Mộng Bạch thốt:
- Còn một vài điều, tại hạ chưa được minh bạch lắm.
Người áo vàng không đáp ngay câu hỏi của chàng, cứ theo cái ý của lão, tiếp luôn:
- Môn công khắc chế vũ học của Đế Vương Cốc, là một công phu cao diệu nhất trong vũ thuật ngày nay, chỉ trong thời gian ngắn, tiểu huynh đệ luyện thành, thì phải cho rằng tiểu huynh đệ là bậc kỳ tài vậy! Không phải bất kỳ ai cũng thành tựu dễ dàng như tiểu huynh đệ, cho dù phải khổ công luyện tập qua một thời gian dài đi nữa! Huống hồ, chỉ mấy hôm thôi!
Lão cau mày lại, tiếp:
- Điều làm cho lão phu lo ngại là tánh tình của tiểu huynh đệ cương trực, chân thành cực độ, trong khi cần ủy khúc, thì tiểu huynh đệ lại thẳng thắn, trong khi cần cái xảo thì tiểu huynh đệ lại tỏ thái độ quân tử, do đó khó tránh được những gãy đổ bất ngờ. Lão phu cứ tự hỏi mãi, tiểu huynh đệ vào cốc rồi, có đủ kiên nhẫn vượt qua ba người lợi hại nhất chăng?
Người áo vàng nhìn chàng.
Chàng điềm nhiên hỏi:
- Ba người đó là ai?
Người áo vàng giải thích:
- Người thứ nhất là một lão già đã gù lưng. Lão ta có cái nhiệt tâm đáng khen ngợi! Thị hiếu của lão ta là đánh cuộc. Nếu như tiểu huynh đệ mà chấp nhận một cuộc với lão ta, phải làm mọi cách thắng cuộc, tiểu huynh đệ thắng được lão rồi, chẳng những lão không giận, trái lại lão còn sẵn sàng đáp ứng tiểu huynh đệ về mọi thỉnh cầu.
Triển Mộng Bạch gật đầu:
- Tại hạ sẽ cố gắng khắc phục lão ấy.
Người áo vàng gật đầu:
- Người thứ hai, là phụ nhân tác trung niên, bà ấy thích đấu khẩu nhất trần đời, tiểu huynh đệ cần tranh luận với bà ta, nếu thắng lý, tiểu huynh đệ sẽ được bà ta dành cho mọi sự dễ dàng.
Triển Mộng Bạch mỉm cười:
- Tuy tại hạ không có thói quen thổi ếch thành trâu, vuốt cho dài đuôi ngựa, song về khoa đấu khẩu, tự xét cũng có hạng. Tiền bối cứ yên tâm.
Người áo vàng chớp mắt, trong ánh mắt có cái ý cười tán:
- Thế là hay! Rất hay!
Triển Mộng Bạch hỏi:
- Còn người thứ ba?
Người áo vàng đáp:
- Chính là người khó chạm nhất trong ba người. Tiểu huynh đệ đã thấy người đó rồi, chính là Tiêu Mạn Phong. Nàng có cơ trí cực kỳ cổ quái, nàng có thể nghĩ ra những điều mà dưới gầm trời này chẳng một ai nghĩ đến.
Triển Mộng Bạch cau mày:
- Nàng ấy đúng là một con người khó tiếp cận nhất!
Người áo vàng tiếp:
- Tiểu huynh đệ vượt qua ba người đó, là sự việc không thành vấn đề nữa! Nếu không làm được việc đó, thì hãy xuất chiếu tín vật của lão phu, họ sẽ đưa tiểu huynh đệ vào gặp cốc chủ ngay!
Lão dừng lại, chừng như không yên tâm, nên đưa ra ý kiến:
- Tốt hơn, đến cốc rồi, tiểu huynh đệ xuất chiếu ngay tín vật của lão phu, để tránh mọi phiền phức, làm mất thì giờ...
Triển Mộng Bạch bị chạm tự ái, vụt đứng lên buông gấp:
- Tại hạ đi ngay bây giờ!
Người áo vàng cười nhẹ:
- Lão phu biết, ngọn lửa căm hờn đang bốc cao nơi tim của tiểu huynh đệ! Đi! Đi nhanh đi!
Nhưng, chàng trầm gương mặt, rồi cúi đầu, giọng chàng trở nên buồn thảm:
- Tại hạ đi, trong ba hôm không trở lại, tiền bối khỏi phải chờ nữa!
Chàng sụp mình xuống, lạy tạ người áo vàng rồi đứng lên ngay quay mình thoát chạy.
Người áo vàng gọi to:
- Hãy khoan!
Triển Mộng Bạch dừng chân, quay đầu:
- Tiền bối còn dặn dò điều chi?
Người áo vàng thốt:
- Lão phu đưa tiểu huynh đệ một đoạn đường.
Bóng núi âm u, gió núi rên rỉ, chốc chốc đùa mạnh, buông tiếng gào, như nạn nhân rên siết trong móng vuốt tử thần, vùng vẩy khỏi bàn tay lông lá.
Tất cả đều nói lên cái ý chết!
Tất cả đều chìm lặng dưới tử khí, mỗi lúc mỗi buông dày.
Người áo vàng sóng bước với Triển Mộng Bạch, lướt đi trên đoạn đường gay go, đường không lối, bên dưới đá nhạn chong lên, bên trên cành cây ngăn chặn, cỏ giây chằng chịt như móc võng, cả hai phải tràn qua, né lại, phải khom mình, lòn qua những lổ nhỏ của lá cành.
Trong khi tiến tới, người áo vàng hỏi:
- Đường vào sơn cốc, tiểu huynh đệ nhớ kỹ?
Triển Mộng Bạch gật đầu:
- Nhớ rất rõ.
Người áo vàng bảo:
- Thuật lại cho lão phu nghe!
Triển Mộng Bạch thốt:
- Bước trên đá đen, tránh dẫm lên đá trắng, thấy tượng hình cầm kiếm, thuận theo chiều hướng mũi kiếm, chuyển bước tiến tới...
Người áo vàng gật đầu:
- Còn nữa!
Triển Mộng Bạch tiếp:
- Y theo những chữ chỉ dẫn trên mặt đá đen, đừng quan tâm đến những chữ trên mặt đá trắng.
Người áo vàng gật đầu:
- Đúng!
Lão trầm gương mặt, ánh mắt đăm đăm về một phương nào xa xa, nhưng gằn từng tiếng:
- Không nên làm những điều trái ngược với sự chỉ dẫn trên mặt đá đen. Một cuộc thử thách bằng giá sanh mạng đấy, tiểu huynh đệ.
Triển Mộng Bạch gật đầu:
- Tiền bối an tâm.
Người áo vàng đưa tay chỉ về phía trước bảo:
- Lối vào cốc, bắt đầu từ chỗ đó!
Triển Mộng Bạch nhìn theo tay lão nhân áo vàng.
Nơi đó, một gành đá cheo leo, như rời hẳn vách núi, đá nhỏ dài như một chiếc cầu không nhịp nối lơ lửng giữa không gian.
Bên dưới gành đá, là hang, nói rằng sâu cũng không đúng, bởi hang không đáy, thì biết sâu hay cạn?
Gành đá nhô dài ra, bên gành đá, cũng có mõm đá, giữa hai bờ đó là hố, ngang qua hố là một chiếc cầu, chiều rộng cầu không hơn bảy tấc.
Hố sâu, khoảng cách dài, chiếc cầu lại nhỏ, trông nó như lơ lửng treo giữa không gian.
Triển Mộng Bạch ước lượng khoảng cách giữa hai bờ đá không dưới năm mươi trượng dài.
Quăng một viên đá xuống hố, lắng tai nghe, lâu lắm vẫn chưa có tiếng rơi hồi vọng.
Không kể con đường vào cốc nguy hiểm ra sao, cứ nhìn cái lối vào cũng đủ rùng mình, nổi gai toàn người.
Bất giác, Triển Mộng Bạch cảm thấy mồ hôi lạnh rịn ra khắp thân thể.
Người áo vàng hỏi:
- Còn dũng khí vào cốc chăng?
Triển Mộng Bạch ưỡn ngực, ngẩng cao đầu, bật cười sang sảng:
- Chết, còn không sợ, trong Đế Vương Cốc có cái gì đáng sợ hơn cái chết?
Nhún khẽ chân, chàng nhảy vút lên cầu.
Cầu nhỏ, gió lộng mạnh, cuốn y phục chàng đẩy về một phía như sắp hốt chàng, quăng luôn xuống hố sâu.
Giữ thanh bằng trên cầu, là cái khó, giữ thăng bằng giữa gió lộng lại càng khó hơn, huống chi chàng còn phải trấn định tâm thần, tránh cái ngộp từ trên cao nhìn xuống!
Đứng nhìn theo chàng, người áo vàng không khỏi xuất hạn ướt mình.
Bất ngờ, khi Triển Mộng Bạch ra đến nửa đoạn đường, cuồng phong nổi lên, dù sao thì chàng cũng là người, cây kia to, có rể ăn sâu vào đất, còn bị cuồng phong nổi bật gốc thay, chân chàng đâu giữ cứng như gốc cây mà hòng chịu nổi cuồng phong?
Một chân hỏng, chân kia thụt luôn, toàn thân bị cuồng phong quét khỏi mặt cầu, và chàng như quả bóng lộn lên, lộn xuống theo đà gió, để rơi xuống lòng hố. Người áo vàng rú lên một tiếng kinh hoàng, lão suýt hôn mê luôn.
Nhưng chưa đến đổi nào.
Giằng vật với gió, Triển Mộng Bạch đạp chân vào không khí, lấy đà lộn mình lên cao, phải vất vả mấy lượt, chàng mới thắng gió. Chàng chuyển mình cho rơi đúng chiếc cầu, tay chàng chụp sàn cầu, tay nhún mạnh, mình đu lên, chàng chỉ lộn thân thể một vòng, là rơi xuống bờ bên kia trên gành đá.
Đứng lên được, chàng nhìn về hướng người áo vàng, vẫy tay, cao giọng nói:
- Tiền bối! Tại hạ đi đây!
Quay mình lại, chàng tiến tới, trước mặt chàng là lớp sương mù.
Người áo vàng thở phào. Rồi lão nhún chân, bắn tung mình lên, bay đi như chim nhạn...
Triển Mộng Bạch đã đi được một đoạn đường rồi.
Dĩ nhiên, chàng cẩn thận từng bước một, qua một lúc, chàng nhận con đường rẽ qua hai ngã.
Một trong hai con đường đó, lát đá trắng, nhẵn bóng, hai bên lại có những hàng hoa thơm cỏ lạ, cả hoa lẩn có đều bốc mùi thơm phưng phức.
Con đường kia lát toàn bằng đá đen, khúc chiết, quanh co, cây hai bên gieo trồng che hết lối, gió từ đâu cuốn đến, đường đi lại gồ ghề, ác độc. Cũng chẳng có lý do trách cứ, bởi đừng ai đến đây thì chẳng lẽ những cơ quan đó tự động bò đi tìm người mà hãm hại?
Tìm đến đây, sanh sự với người ta, toan hãm hại người ta, thì người ta phải có quyền bố trí cuộc phòng thủ, người ta có quyền hạ sát kẻ nào định cướp sự sống của người ta đó chứ?
Tuy nhiên, nếu có trách chăng, là nên trách cái người an bài một hệ thống phòng thủ như thế này, một hệ thống đòi hỏi quá nhiều nhân lực và tài lực. Như vậy là phí phạm, như vậy là ích kỷ quá, thiên về cá nhân quá.
Như vậy là tham sống! Huống chi cuộc sống lại biệt lập với đời, sau hệ thống phòng thủ, biến bên trong thành một cấm địa!
Sau một lúc suy tư, niềm chán nản tiêu tan, chàng phấn động tinh thần, hú vọng một tiếng dài, đoạn nhún chân lao mình vào hang bên hữu.
Trái ngược với hang bên tả, hay này lại lạnh không tưởng nổi.
Gió lạnh luôn luôn hú dài, làm cho cái lạnh thêm lạnh với tiếng hú rợn người đó.
Tiếng gió càng phút càng lộng lên quái dị, mường tượng như tiếng hét là của người, của ngựa, tại chiến trường.
Tự nhiên, Triển Mộng Bạch phải tưởng là trong hang này có mai phục rất nhiều cơ quan.
Tưởng như vậy là do trực giác, phàm ai học võ đến một mức độ khá cao rồi, thì trực giác rất nhạy, chưa thấy nguy cơ mà cái tâm giao động, bắt buộc con người phải cẩn thận đề phòng.
Nhún chân vọt mình vào hang, để lấy cái đà cho tinh thần, song vào hang rồi, chàng chậm chân lại liền, từ từ bước từng bước một.
Cứ bước đi một bước, chàng lại đảo mắt quan sát, rồi lắng tai nghe ngóng, khi chắc ý rồi, mới bước tiếp bước nữa.
Bỗng, bừ bên vách đá của lòng hang, một tiếng cách vang khẽ, liền theo đó, một đợt gió quét tới.
Tiếng gió mường tượng tiếng một ngọn thương do cao thủ phóng sang địch.
Triển Mộng Bạch không dám chậm trễ, nhảy vọt tới trước, chân chưa chấm đất, một tiếng cách khác từ bên vách hữu phát ra, cũng một ngọn trường thương lao vút đến chàng.
Lòng hang đen tối tăm, ngọn thương phóng ra, chớp lên, rồi tắt.
Một lần nữa, Triển Mộng Bạch tránh khỏi sự ám toán của đối phương.
Triển Mộng Bạch vô cùng kinh ngạc, thầm nghĩ:
- Chẳng lẽ ta chọn sai đường?
Vừa lúc đó, từ nơi vùng tối xa xa, phía trước mặt, hai điểm sáng chợt hiện lên.
Hai điểm sáng lao nhanh về phía chàng, phảng phất đôi mắt thú.
Con thú đó, nếu thật sự là một con thú, thì nó phải to lớn lắm, nó to độ loại thú giả mộc ngưu lưu mã của Gia Cát Võ Hầu ngày trước.
Thoáng mắt nó đã đến nơi.
Thì ra, chính là một con thú thật, nơi miệng nó có một vải lụa thòng dài, trên vải lụa có mấy chữ:
- Cốc chủ ra lịnh, miễn trừ cái kiếm sát tại thương lâm!
Thì ra nơi chàng đi qua đây, là một khu rừng thương, thảo nào lại chẳng có những ngọn thương đâm ra bất ngờ!
Thú xuất hiện với vải lụa có chữ, Triển Mộng Bạch lại càng kinh dị, lại nghĩ:
- Cốc chủ quả thật có tài thông thiên triệt địa! Biết được ta đang ở nơi đây, hẳn cũng biết luôn là ta định vào hội kiến với lão!
Bất giác, chàng rợn mình thầm khiếp phục con người phi thường đó.
Quái thú chừng như hiểu là chàng đã đọc xong vải lụa, lập tức nó lòn đầu dưới hạ bộ của chàng, đội chàng lên.
Thành thử, chàng ngồi yên nơi cổ nó.
Chàng cứ để yên vậy, xem con thú sẽ làm gì kế tiếp.
Nó quay mình, chạy trở lại, cũng nhanh như lúc vào, thoáng mắt nó đưa chàng ra khỏi con đường tối tăm đó.
Bây giờ chàng mới thấy toàn thân nó có một lớp lông màu hồng, không phải sư tử mà chẳng phải ngựa, song nó lại mường tượng hai thứ thú đó.
Đôi mắt nó sáng lạ lùng.
Chàng nhảy xuống đất, nó gương mắt nhìn chàng, chàng điểm một nụ cười, thốt:
- Đa tạ ngươi đưa ta thoát khỏi chỗ hiểm nguy!
Nó nhe răng, miệng nó hặc hặc như cười, rồi nó gật gật đầu, đoạn băng mình trong lớp sương mờ.
Thêm một bằng chứng xác nhận sự nhận xét cuả Triển Mộng Bạch là cốc chủ có tài quán thế mới nuôi dưỡng nổi loại thú thông minh như vậy.
Chàng ngẩng mặt nhìn lên, thấy một hòn núi đao.
Đao, chẳng phải loại vũ khí do con người chế tạo, những thanh đao này, bằng đá, nhọn chơm chởm, thỉnh thoảng, ở một vài nơi, có hình tượng cũng bằng đá, nằm vắt ngang trên những mũi đao, mặt nhăn nhó, tựa hồ đau đớn lắm.
Có rừng thương! Có núi đao!
Chủ nhân nơi đây quả thật lập dị, mà lập dị một cách tân kỳ lập dị đáng phục chứ không đáng chê!
Trước núi đao có tượng hình phán quan, tay cầm kiếm, mũi kiếm chỉ về núi đao.
Triển Mộng Bạch do dự.
Trong núi đao, rải rác có những tượng hình quỉ sứ, mặt ngựa đầu trâu, trông rất đáng sợ.
Nhưng, người áo vàng đã bảo là chàng nên do theo hướng chỉ của những mũi kiếm, mũi đao mà tiến tới, thì còn do dự làm chi cho mất thời giờ?
Lập tức chàng phóng chân chạy bay lên núi đao.
Bỗng nhiên, giữa những ngọn đao dựng đứng đó, một bóng người hiện ra!
Một người thật sự hiện ra trong trường hợp này chẳng khác nào một bóng quỉ!
Bóng người hiện đột ngột quá, Triển Mộng Bạch không khỏi giật mình, vô hình trung, chàng chạy trở lại, xuống phía chân núi.
Người vừa hiện ra đó, từ trên đầu núi, bật cười vang, thốt vọng xuống:
- Cái mật to bằng hạt đậu, thế mà cũng đòi vào Đế Vương Cốc!
Ngọn núi đao này, dĩ nhiên là không lớn lắm, lên đỉnh cũng gần, mà từ trên thốt vọng xuống nghe cũng rõ ràng như đối diện đàm thoại.
Triển Mộng Bạch nổi giận, lại vọt mình trở lên, đồng thời quát:
- Nếu ta biết được trong cốc toàn là một lũ chuyên nấp trong tối tăm, kín đáo dọa nạt thiên hạ như thế này, thì dù mang xe mà thỉnh ta, ta cũng chẳng đến!
Vừa quát, chàng quắc mắt nhìn người đó.
Người đó, là một lão nhân lưng gù, tóc bạc râu cũng bạc, mà lại mọc lan tràn khắp mặt.
Lão nhân vận chiếc áo gai.
Lão nhân bật cười lớn:
- Gan ngươi không đáng kể, khoa ăn nói của ngươi hay quá chừng! Lên đây! Lên đây mau, mình đàm đạo một lúc!
Triển Mộng Bạch cười lạnh:
- Thiếu gia, không thích nói chuyện với những kẻ chuyên nấp trong bóng tối, làm trò quỷ dọa