← Quay lại trang sách

MARCO POLO (tt)

Họ vào yết kiến vua Nguyên, dâng thư của Giáo hoàng, dâng dầu thánh ở Jérusalem với các đồ pha lê. Nhà vua thấy lần này có thêm một thanh niên nữa, hỏi; Nicolo đáp:

- Muôn tâu bệ hạ, nó là con kẻ hạ thần, tên là Marco Polo.

Năm đó Marco Polo ngoài hai mươi tuổi, khỏe mạnh, nhanh nhẹn, sáng sủa, có óc tò mò và tinh thần nhận xét, phán đoán. Chàng ăn nói có lễ độ, khôn khéo mà mạnh dạn, nên được vua Nguyên mến, ban cho một con ngựa trắng. Chàng ở Trung Hoa mười bảy năm, nhờ biết tiếng Ả Rập, tiếng Ba Tư và học thêm tiếng Mông Cổ, nên giao thiệp dễ dàng, một lần được vua Nguyên sai đi xem xét tình hình trong xứ, nhiều lần khác được sai đi sứ ở các nước châu Á. Chàng thông minh, tận tâm phụng sự nhà Nguyên, nhà vua khen mà dân chúng cũng cảm phục.

Tới đâu chàng cũng nhận xét tỉ mỉ phong cảnh, đời sống phong tục, sản vật rồi khi về cố quốc kể lại trong tập Du ký.

Khi qua dãy núi Pamir chàng thấy:

«Núi cao đến nỗi vắng hẳn bóng chim ở gần đỉnh núi. Và điều này rất lạ lùng: người ta bảo chúng tôi rằng không khí lạnh quá, đến nỗi lửa ở trên núi cũng không nóng như ở miền thấp, nấu thức ăn rất lâu chín.»

Hai nhận xét đó đều rất đúng: trên núi cao gần như không có chim mà lửa không nóng mấy vì ít dưỡng khí. Chàng tả một thứ «đá đen» đào ở đất lên:

«Thứ đá đó nằm trong lòng đất theo từng lớp. Đốt lên nó cháy như than củi, nhưng giữ được sức nóng lâu hơn, một đêm cũng không tàn, sáng hôm sau còn cháy. Ngọn lửa nó không sáng, nó chỉ phừng lên một lúc đầu thôi, nhưng sức nóng rất cao.»

Chắc độc giả đã nhận được đó là than đá, người Ý thời đó chưa biết, nhưng người Anh đã tìm được từ đầu thế kỷ thứ chín và bắt đầu khai thác từ thế kỷ XIII.

Những nhận xét của Marco có tính cách rất khách quan. Tuy là tín đồ Thiên Chúa giáo, chàng không mạt sát những tôn giáo khác, cũng không vội vàng trong sự phán đoán. Nhờ chàng mà người phương Tây được biết ở phương Đông có những dân tộc tin ở sự đầu thai, còn những người theo đạo Khổng đều thờ phụng tổ tiên:

«Họ tin rằng linh hồn bất diệt mà khi nó đã thoát xác rồi thì nhập thân thể một người khác, rồi tùy đời sống người này làm thiện hay làm ác mà linh hồn hóa ra cao thượng hay đê tiện. Chẳng hạn, khi một người nghèo sống một đời cao cả, nhũn nhặn, được đầu thai vào một gia đình quý phái thì hậu thân người đó tiến lần lần trên cầu thang xã hội. Nếu người đó là con một vị đại thần mà sống một cách trụy lạc thì phải đầu thai làm con một nông phu, rồi mỗi kiếp một xuống thấp cho tới khi đầu thai làm một con chó.

Lòng hiếu là đức cao nhất đối với dân Cathay (tức Trung Hoa). Nếu một đứa con bất hiếu với cha mẹ thì một tòa án đặc biệt sẽ xử tội nó rất nghiêm.»

Vì Marco Polo biết tiếng Thát Đát, nên Nguyên Thế tổ sai chàng đi sứ Tây Tạng, Miến Điện. Tới đâu chàng cũng để ý nhận xét từ chính trị đến thương mại, đời sống nhân dân, cả đến y phục, trang sức của phụ nữ.

Có lần tới Hàng Châu, nơi mà hồi đó có nhiều di tích, phong phú hơn Yên Kinh. Chàng rất thích phong cảnh Hàng Châu: nhiều kinh rạch tựa như Venise mà cây cối còn tươi tốt hơn Venise bội phần. Cũng đủ các ghe thuyền từ mọi nơi lại, hàng ngàn cột buồm tua tủa đâm lên trời như một rừng cây khô. Có những chiếc tàu rất lớn đi Ấn Độ, Ba Tư, Mã Lai mà Ibn Batuta, một nhà du lịch Ả Rập đã tả như sau: «Chúng có tới 12 cánh bướm đan bằng tre như những chiếc chiếu khổng lồ. Tàu gồm 4 tầng chở tới 1.200 người trong số đó chỉ có 200 hành khách, còn 1000 người kia gồm 600 thủy thủ và 400 lính. Những lính đó bắn rất giỏi, có mộc, cung, tên. Mũi tên nhúng vào dầu naphte để đốt thuyền của địch. Số lính đó rất cần để chống nổi với bọn hải khấu khỏi bị chúng cướp hoặc bắt nộp những số tiền mãi lộ thái quá. Hai bên ghe là những hàng chèo mà chiếc nào chiếc nấy lớn như những cột buồm, buộc bằng những dây thừng lớn bằng bắp vế. Mỗi chiếc cần 10 đến 15 thủy thủ để chèo. Họ đứng thành hai hàng, một hàng kéo dây thừng về phía mình rồi thả ra, hàng kia kéo lại về phía họ.»

Những chiếc ghe biển ở Venise so với những chiếc tàu Trung Hoa đó không đáng kể vào đâu cả. Marco Polo ước ao một ngày kia được du lịch bằng những chiếc tàu ấy.

Cảnh trên bờ càng tấp nập ghê gớm! Theo sổ đinh của triều đình lúc đó. Hàng Châu có tới 1.600.000 gia đình; mỗi gia đình tính trung bình bốn năm người, thì dân số cũng đã trên năm triệu người rồi. Châu thành rất tráng lệ, phụ nữ rất đẹp mà nhu mì, vô số người bận gấm vóc chứ không như Venise, chỉ những bậc đại thần mới dám dùng thứ đó. Hàng hóa khắp nơi trong nội địa và ở hải ngoại đều tụ cả về Hàng Châu, nên sự thương mại phát đạt lạ lùng, đời sống rất dễ dàng.

Chính ở nơi đó chàng được nghe nói ở giữa biển Đông có một đảo lớn mà người Trung Hoa tưởng tượng là một cảnh Bồng Lai, dân nhỏ bé mà trắng trẻo, núi non hùng vĩ mà vườn tược đầy những kỳ hoa dị thảo. Đảo đó là Cipangu, tức Nhật Bản, chỉ cách bờ biển Trung Hoa khoảng ngàn rưỡi hải lý mà vua Nguyên mấy lần tính xâm chiếm nhưng thất bại. «Dinh thự trong đảo đều lợp vàng, y như giáo đường châu Âu lợp bằng chì vậy», bàn ghế cũng bằng vàng khối; nhưng quý nhất là ngọc trai, mà ngọc trai ở đây còn nhiều hơn ở vịnh Ba Tư.

Làm cho chàng chóa mắt nhất là triều đình nhà Nguyên thời đó. Chàng nhiệt liệt ca tụng tất cả những kỳ quan vĩ đại của nhà vua đương trị vì mà người ta gọi là Kubilai Khan, nghĩa là đại vương.

«Thực vậy, nhà vua đáng nhận tên ấy vì ai nấy nên biết rằng vị Đại vương đó là người có quyền thế nhất thế giới, có nhiều đất đai, của cải nhất từ thời thủy tổ của chúng ta là Adam cho tới nay. Và tôi có thể chứng thực rõ ràng cho các bạn thấy rằng ngài là ông vua lớn nhất trong lịch sử cổ kim...

«Kubilai Khan tầm vóc trung bình, chân tay đẹp, thân thể cân đối. Mặt ông sáng sủa, lưỡng quyền cao, mắt đen, mũi lớn, cong xuống. Ông là dòng giõi của Chinchins Khan... Ông lên ngôi năm 1256(1) sau Thiên Chúa giáng sinh, mà được lên ngôi là nhờ giá trị của ông, sự can đảm và óc sáng suốt của ông vì họ hàng và anh em ông tranh ngôi báu của ông...

«Dưới nhà vua là một ban văn võ gồm mười hai vị đại thần chịu trách nhiệm trực tiếp với vua. Các đại thần bên võ chỉ giải quyết những vấn đề hoàn toàn quân sự, nhất là sự thăng giáng, di chuyển các võ quan... Nhưng họ chỉ có quyền đề nghị, quyết định cuối cùng vẫn về nhà vua. Các đại thần bên văn trông nom công việc cai trị ba mươi bốn quận trong nước...

«Sở đúc tiền của nhà vua ở tại Cambaluc (Yên Kinh). Cách đúc tiền rất giản dị: lấy vỏ cây đó, giã trông cối cho nhuyễn đi thành một thứ hồ. Dùng hồ đó để chế ra một thứ giấy y như giấy làm bằng bông, chỉ khác là đen hơn. Rồi người ta cắt thứ giấy đó thành những miếng hình chữ nhật, lớn, nhỏ nhiều kiểu. Miếng nhỏ nhất gía bằng một tournesol(2), miếng lớn hơn một chút gía bằng một demi-gros(3) bạc, cứ như vậy tăng lên, miếng lớn bằng hai besant(4). Người ta giữ kỹ những miếng giấy đó như nó là vàng hay bạc thật vậy. Vì mỗi miếng có mang chữ ký và dấu triện của những viên quan ở sở đúc tiền; rồi lại truyền lên viên quan coi về quốc khố để đóng triện lần nữa. Giá trị của nó tính theo bạc và ghi trên giấy, ai cũng dùng nó không ngần ngại gì cả và có thể dùng nó để mua vàng, bạc, ngọc trai, tất cả mọi thứ hàng...

«Nhà vua cũng dùng nhiều biện pháp rất hay để khuếch trương thương mại. Vô số đường quốc lộ từ Cambaluc tới các quận. Trên mỗi con đường đó, cứ cách ba chục dặm, tức một ngày đường lại có một lữ quán lớn(5) với nhiều phòng để khách đi đường nghỉ ngơi, các ông vua cũng có thể nghỉ ở đó với đủ tiện nghi. Sự trông nom và cung cấp thực phẩm cho các quán đó phần nhiều do dân trong miền đảm nhiệm, nhưng cũng có vài cái quán do triều đình cai quản trực tiếp. Tại mỗi nơi ngừng như vậy luôn luôn có sẵn bốn trăm con ngựa tốt để đưa những tin tức và thông cáo đặc biệt, thành thử những nhân viên đem tin của triều đình lưu động một cách đã dễ dàng mà còn nhanh chóng không thể tưởng tượng được. Nhờ những biện pháp khéo léo đó, họ có thể vượt trong hai ngày hai đêm những quãng đường mà người thường phải mất từ mười đến mười hai ngày. Tổng cộng, nhà vua có tới hai trăm ngàn con ngựa và mười ngàn trạm với đủ thứ cần thiết. Mỗi tháng có một viên đi thanh tra mỗi trạm một lần một cách bất ngờ; thành thử toàn thể cơ quan đưa tin đó hoạt động một cách hoàn toàn hữu hiệu.

«Người ta có thể tự hỏi làm sao có thể thiết lập một tổ chức lớn lao bực đó và giữ cho guồng máy chạy được. Như vậy là nhờ hai cái lợi tự nhiên của xứ Trung Hoa. Một cái lợi là gia đình nào cũng có con... thành thử bao giờ cũng có dư tráng đinh, một cái lợi nữa là dân chúng ăn uống rất thanh đạm. Người Thát Đát, cũng như những thổ dân của xứ Cathay và xứ Mansi (tức dân Trung Hoa phương Bắc và phương Nam) sống gần như là hoàn toàn bằng gạo, kê, lúa mạch và trái cây. Chỉ có lúa mì là trồng rất ít, thành thử họ không ăn bánh mì...

«Vì vậy dân số mới có thể đông đúc như thế được... Tất nhiên ở đây cũng có những năm mất mùa. Gặp những năm đó nhà vua không những không thâu thuế mà còn sai quan phát chẩn cho dân để dân có đủ gạo ăn và lúa giống gieo mùa sau. Muốn vậy, những năm được mùa, triều đình mua nhiều lúa để dự trữ kỹ lưỡng trong kho đợi khi đói kém, đem bán ra cho dân với giá rẻ bằng một phần tư giá bình thường. Khi có dịch trâu bò, nhà vua cũng dùng biện pháp đó, lấy trâu bò của chính phủ phân phát cho dân... Người ta có thể tin rằng vua Nguyên tìm hết cách giúp đỡ dân sao cho họ có thể đủ ăn và để dư được mỗi năm một chút.

«Ông lại còn dùng một biện pháp nữa rất khả ái và rất hữu ích, là trồng cây lớn theo đường cái, cứ cách hai bước trồng một gốc. Những cây đó mau lớn và cao; mùa hè cho bóng mát mà mùa đông thì chỉ đường cho bộ hành những khi tuyết phủ hết cả đồng ruộng... Khi đường đi qua những bãi sa mạc hoặc những núi đá, không trồng cây được thì đặt những phiến đá hoặc những cây cột để đánh dấu, có những ông quan cao cấp luôn luôn trông nom những con đường đó và cho sửa sang lại liền những chỗ hư hỏng.»

Một lần đi coi một đài thiên văn ở Yên Kinh, thấy những ống kính, những dụng cụ tối tân, và một người Hi Lạp giúp việc làm lịch, Polo càng phục người Trung Hoa thời đó đã hùng cường mà lại văn minh. Chỉ tiếc ông không chịu học chữ Hán, không được biết học thuyết cao siêu của các triết gia Trung Hoa cùng những thơ văn bất hủ của đời Hán, Đường, Tống, nên những nhận xét của ông mặc dầu là tinh tế, khách quan, không khỏi có phần thiếu sót. Chúng ta lấy làm lạ rằng ở Trung Hoa tới mười bảy năm, lại vốn thông minh như ông, mà tại sao ông lại coi thường Hán tự như vậy? Có lẽ vì ông sinh trong một gia đình buôn bán, ít học, mà cũng có lẽ thời đó người Mông Cổ mới chiếm trọn Trung Hoa, chữ Hán còn bị coi thường. Nếu Marco Polo chịu học vài năm chữ Hán, và khi về nước chở theo những tác phẩm triết học và văn học Trung Hoa rồi giới thiệu với người Âu thì chưa biết chừng, thời đại Trung Cổ của họ sẽ rút đi một vài thế kỷ, mà nền văn minh của họ cũng có thể thay đổi đôi phần. Ở Trung Hoa đã quá lâu, cha và chú Polo muốn trở về cố hương, xin phép vua Nguyên mấy lần, bị vua Nguyên giữ lại.

Sau cùng một dịp may tới, Hoàng hậu Ba Tư vốn dòng dõi Mông Cổ, trước khi mất, xin chồng kiếm công chúa Mông Cổ để thay ngôi của mình. Vua Ba Tư theo lời di chúc đó, phái ba vị đại thần qua Trung Hoa, dâng thỉnh nguyện lên Nguyên Thế tổ. Nguyên Thế Tổ bằng lòng gã một nàng công chúa mười bảy tuổi rất xinh đẹp cho vua Ba Tư, nhưng còn ngại nàng nhỏ tuổi mà đường sá quá xa xôi vất vả. Nicolo Polo đề nghị đi đường biển cho đỡ mệt. Vua Nguyên đồng ý, cho họ đi theo hộ tống và nhân tiện về thăm cố hương và dâng nhiều bức thư giao hiếu lên Giáo hoàng, vua Pháp, vua Y Pha Nho... Mười ba chiếc tàu lớn bốn buồm chở nàng công chúa với nhóm Polo, ba đại thần Ba Tư và hàng trăm kẻ hầu người hạ. Thức ăn mang theo đủ dùng trong hai năm.

Cả đoàn đi đường bộ xuống Nam Kinh, Phúc Kiến rồi xuống tàu tới Java, Tích Lan, theo bờ biển phía tây Ấn Độ, vô vịnh Ba Tư, đậu ở Ormuz, sau cùng theo đường bộ tới Kirman, Kazvin. Tới nơi trong số sáu trăm kẻ tùy tùng chỉ còn có tám người; mỗi một vị đại thần Ba Tư sống sót. Chính vua Ba Tư là Argoun Khan lúc đó cũng đã băng, hoàng tử Cazen len nối ngôi và thân hành lại Kazvin - một tỉnh ở phía Bắc tiếp đón công chúa. Cha và chú Polo hay tin Nguyên Thế tổ cũng đã băng, bỏ luôn ý trở lại Trung Quốc.

Họ lại Tabriz, một thị trường ngọc quý có tiếng nhất thời đó, ở chơi chín tháng rồi cưỡi ngựa tới Trébizonde và xuống thuyền về Constantinople. Năm 1295 họ về tới Venise, tính ra lần này xa quê luôn hai mươi bốn năm.

Hồi đi, Marco Polo mười bảy tuổi, lúc về đã bốn mươi mốt tuổi. Từ vẻ mặt đến giọng nói đều thay đổi nhiều. Nicolo và Matteo tóc đã bạc hết. Bà con, bạn bè tưởng họ đã chết từ lâu, nay bỗng thấy ba kẻ ăn mặc bẩn thỉu, lố lăng theo lối Thát Đát nói năng khó khăn, vụng về, nên không nhận ra được, cho họ là bọn vô lại, sai người ở đuổi họ đi.

Muốn làm bà con tin mình, họ mời thân thuộc lai dự một bữa tiệc. Khi mọi người tới đông đủ, họ ở trong phòng bước ra, bận áo nhiễu đỏ sẫm, cúi chào khách khứa, rồi cởi lớp áo ngoài ra, để hiện chiếc áo nhung ở trong. Ăn uống chuyện trò một lát, họ sai cắt những chiếc áo nhiễu ra làm nhiều mảnh. Họ trở vô phòng riêng, một lát lại ra, cởi lớp áo nhung ở ngoài, để hiện một lớp áo gấm rực rỡ. Họ lại sai cắt những chiếc áo nhung thành từng mảnh phân phát như trước. Tới cuối tiệc, họ lại cho cắt những chiếc áo gấm để phân phát. Lúc đó họ chỉ còn bận những bộ áo Ý như mọi người.

Khách khứa đều ngạc nhiên, nhìn hành động kỳ dị của họ.

Khi thức ăn đã dẹp rồi, Marco Polo đuổi gia nhân ra ngoài, trở vô phòng riêng đem ra ba bộ đồ Thát Đát xấu xí bẩn thỉu mà họ bận ngày trở về nhà. Ông đứng dậy, cắt những đường khâu, moi ra vô số bảo ngọc, kim cương đủ thứ mà họ phải giấu kỹ như vậy trong khi đi đường cho bọn cướp khỏi dòm ngó. Ông rải những vật quý đó đầy mặt bàn: thôi thì đủ màu, từ màu hạt lựu đến màu xanh nước biển, viên nào viên nấy lấp lánh, chiếu sáng rực cả căn phòng. Khách khứa đều trố mắt, nín thở, hồi hộp. Chưa bao giờ họ được thấy một kho tàng như vậy. Y như trong truyện Ả Rập vậy. Từ đó họ mới tin đúng là cha con Polo còn sống và cũng từ đấy, nhà Polo không lúc nào ngớt người tới nhận họ hàng quen biết.

Không trở qua Trung Hoa nữa, cha con Polo trở lại nghề thương mại ở Venise và giúp việc cho chính quyền. Trong một cuộc chiến tranh giữa Venise và Gênes mà nguyên do không ngoài những sự xích mích về quyền lợi thương mại, bọn họ sắm một chiếc thuyền tặng chính phủ. Marco Polo làm thuyền trưởng, chiến đấu dưới sự chỉ huy của Andréa Dandolo. Người Venise khinh địch, hấp tấp ra quân, lại thiếu kinh nghiệm, nên đại bại ở đảo Cursola, và một số lớn bị cầm tù. May cho hậu thế là Marco Polo ở trong số tù binh đó. Vì bị giam trong khám đường Gênes, ông buồn quá, không biết làm gì cho qua ngày, mới kể lại những ký ức trong hai mươi bốn năm phiêu lưu cho một tù nhân khác chép. Tù nhân này tên là Rusticien de Pise. Chép xong, đưa Marco Polo coi lại; nhờ vậy ngày nay ta mới có những tài liệu rất quý về các xứ từ Địa Trung Hải tới Trung Hoa ở cuối thế kỷ thứ XIII.

Bản đó viết xong rồi cũng để đấy. Tới năm 1307, một hoàng thân Pháp xin phép Marco Polo chép lại một bản để về dâng vua Pháp.

Thế rồi bẵng đi trên năm thế kỷ, tới năm 1824, Hội Địa Lý Paris mới đem in. Bốn mươi mốt năm sau tái bản. Năm 1874, xuất hiện lần đầu tiên bản dịch ra tiếng Anh. Năm 1908, người Anh dịch lại, lần này chú thích kỹ lưỡng và đối chiếu với những tài liệu mà người Anh đã tìm được về Trung Hoa.

Hiện nay ai cũng coi tập Du ký của Marco Polo là một bộ sách rất quý, làm vẻ vang cho dân tộc Ý. Nhờ đọc nó mà Christophe Colomb mới nẩy ra ý đi về phía Tây để tìm đường qua Ấn Độ, do đó kiếm ra được châu Mỹ vì người ta đã thấy những ghi chú của Colomb trên bản của Marco Polo bảo tàng trong thư viện Ý.

Nhưng đương thời Marco Polo thì rất ít người tin những câu chuyện ông kể. Hồi đó, người Ý đã được nghe nhiều thương nhân ở phương Đông trở về truyền miệng nhau những cái kỳ dị ở Trung Hoa, chẳng hạn những con trăn có chân (chắc là hình những con rồng), những con cá sấu có cánh; song họ cho toàn là chuyện bịa! Nay Marco Polo còn kể rất nhiều điều lạ lùng hơn nữa, họ làm sao tưởng tượng nổi?

Ừ, một đồng xu ở Venise mua được mười «liu»(6) gừng thì rõ là bịa rồi! Gừng thơm tho như vậy, quý như vậy phải dùng cân tiểu ly để cân, mà mỗi lần cân phải đóng kín cửa, kẻo gió lọt vào làm nghiêng cán cân mất mà sao lại rẻ mạt như vậy?

Rồi hồ tiêu, giá ngang với giá bạc mà chàng Marco đảm bảo rằng ở xứ Java nó rụng đầy đất không ai thèm lượm. Vô lý không?

Mỗi lần có đại yến trong cung điện vua Nguyên thì mười lăm ngàn người đến dự tiệc trong một phòng rộng mênh mông kèo cột đều dát vàng hết. Phòng gì mà chứa được bấy nhiêu người? Những phòng bên cạnh còn chứa được bốn chục ngàn khách nữa! Đọc qua, không thể tin được.(7)

Rồi những cảnh phong phú ở Hàng Châu (mười hai ngàn chiếc cầu có lính canh gác cẩn thận, trong khi ở Venise, tỉnh thành nhiều cầu nhất châu Âu cũng chỉ có bốn trăm chiếc); nhưng số lính lên tới hàng triệu, những tấm giấy thay vàng bạc được mà tổng số phát hành ra không biết là mấy chục triệu, mấy trăm triệu đồng bạc Ý; rồi những con đường rộng trồng cây hai bên; những nơi mà lửa không nóng; những cách thông tin mau chóng 250 dặm chạy trong một ngày... tất cả những cái đó, người Ý không thể nào «nuốt» nổi, và họ biểu môi cho Marco Polo là một anh chàng «dóc tổ», đặt tên cho chàng là «Marco Milioni» nghĩa là «Marco Triệu» vì chàng rất hay dùng con số triệu.

Họ chế giễu, chàng cứ thản nhiên đáp: «Những điều tôi kể cho các người nghe chỉ là một nửa những điều tôi đã trông thấy thôi». Họ lại càng quả quyết rằng chàng là một ông «tổ dóc», mãi tới gần đây, học sinh ở Venise mà muốn chê một đứa bạn nào là nói dóc vẫn còn bảo: «Thôi đi, anh chàng Marco Polo». Có oan uổng cho ông không!

Tài liệu rút trong:

- Marco Polo của Gabriel Bonvalot, Ed. G. Crès, 1924.

- L'Homme à la découverte du monde của Paul Herrman, Plon, 1957.

- 20 Grands récits d’exploration của Marcel Castilan, Casablanca, 1956.

- Lives of Destiny, của Donald Culross Peatie, The New American Library, 1954.

- Thám hiểm gia cổ sự của Chương Đạc Thanh, Xuân Minh thư điểm, 1948.

Chú thích:

(1) Theo sử thì là năm 1277.

(2), (3), (4) Những thứ tiền dùng ở châu Âu thời đó.

(5) Marco Polo muốn chỉ những trạm.

(6) Mỗi «liu» khoảng nửa kí-lô.

(7) Kể ra cũng khó tin những số đó thật, nhưng nhiều nhà bác học đã nghiên cứu kỹ tập Du ký của Marco Polo thấy những điều khác cũng rất lạ mà ông đều chép đúng hết nên phải nhận rằng ông không phải là hạng bịa chuyện.