← Quay lại trang sách

ÔNG BÀ LAFAYETTE (tt)

Biến cố dồn dập tới.

- Quốc hội ký bản Tuyên ngôn dân quyền.

- Ngày mùng 5 tháng 10, hàng ngàn người đàn bà rách rưới ùn ùn kéo tới điện Versailles cách Paris 20 cây số đòi phát bánh và bắt nhà vua phải về điện Tuileries ở Paris để giam lỏng nhà vua.

- Tháng sáu 1791, cả vương thất cải trang lẻn lên phía Đông, nhưng bị nhận mặt, rồi đưa trở lại về Paris.

- Quốc hội tuyên bộ Hiến pháp.

Rồi:

- Quốc hội tự giải tán, nhường chỗ cho Hội nghị lập pháp.

- Rất nhiều người quý phái trốn ra khỏi nước, muốn nhờ ngoại quốc đem quân dẹp giùm cách mạng.

- Dân Paris trước nguy cơ ngoại xâm đó, nổi giận, ùa vào điện Tuileries giết vệ binh của nhà vua và bắt giam vương thất.

- Quyền hành về cả Công xã Paris.

- Rồi xảy ra cuộc tàn sát rùng rợn vào tháng 9 năm 1792.

- Chính phủ Cộng hòa thành lập.

- Vua Louis XVI và hoàng hậu lên đoạn đầu đài năm 1793.

Những biến cố đó đều được chép kỹ trong mọi cuốn sử; ở đây chúng tôi chỉ xin kể những hoạt động của ông bà Lafayette.

Trong ba năm, từ 1789 đến 1792, ông phá sản, nhiệt tâm lo việc nước, nhưng tên ông trong sử cách mạng không chói lọi bằng tên Mirabeau, Danton, Marat, Robespierre vì ông là một người ôn hòa, đã không giúp gì được nhiều cho phong trào mà cũng chẳng giúp cho Louis XVI khỏi bị lên đoạn đầu đài, rốt cuộc lại bị cả hai bên nghi ngờ, rồi còn bị giam trong ngục Áo nữa. Trước ngày 14.7.1789 ông ngây thơ đến nỗi chủ trương rằng có thể khuấy động quần chúng vừa đủ cho nhà vua sợ thôi chứ không gây ra nội chiến, có thể hô hào quân đội đe dọa nhà vua nhưng vẫn bắt quân đội phải tuân lệnh triều đình; về thuế khóa, bắt triều đình phải thuận ý dân, nhưng cũng giữ cho khỏi xảy ra sự đổ vỡ hoàn toàn trên phương diện tài chánh; về chính trị, không đổ máu mà giành được sự tự do; sự thành lập hiến pháp. Ông là một người có lý tưởng đẹp mà thiếu thực tế; nhiệt huyết thì hữu dư mà tài chính trị thì bất túc. Chương trình của ông, gặp một ông vua sáng suốt và một thời nào khác kia thì may ra còn có thể thi hành được; ở vào thời đó mà cả nước Pháp đã thành một thùng thuốc súng châm ngòi rồi, thì đúng là một cái mộng điên rồ, lố bịch nữa. André Maurois mặc dầu khen lòng trong sạch, cao cả, hy sinh của ông, cũng phải gọi ông là một «apprenti sorcier», một thầy pháp tập sự.

Sau ngày 14.7, ông được dân chúng bầu lên chức thống suất vệ quốc quân ở Paris. Chưa bao giờ uy tín ông đối với dân lên cao như vậy. Bà luôn luôn tin ông, chấp nhận tư tưởng của ông, bỏ ra bao nhiêu tiền cũng không tiếc để lo việc cách mạng: tiếp đãi khách khứa, cưu mang các vệ quốc quân nghèo, giúp cả quần áo, khí giới cho họ nữa. Tất nhiên gia đình bên bà bất đồng ý kiến với Lafayette, và bà phải khéo léo tìm cách hòa giải để khỏi có những sự xích mích.

Ngày 5.10.1789, nhờ được vệ quốc quân kính phục, nhờ lòng can đảm, và cũng nhờ tài ăn nói, ông cứu vua Louis XVI khỏi bị dân chúng hành hung.

Khi hay tin dân nghèo kéo nhau tới điện Versailles, ông đem vệ quốc quân lại đóng ở cửa điện, giao cho họ nhiệm vụ che chở vương thất, ngăn dân chúng khỏi ùa vào, rồi ông giảng tình hình cho Louis XVI; vua và hoàng hậu nghe lời ông, chịu trở về Paris. Từ đó ông đóng vai trọng tài giữa triều đình và quần chúng.

Ông nhận Mirabeau có tài, nhưng ghét con người đó không trong sạch. Mirabeau tiêu xài xa xỉ, thiếu nợ lung tung và không từ một phương tiện nào để kiếm tiền, nên mấy lần, Mirabeau đề nghị hợp tác với ông, lập một nội các mà hai ông sẽ cầm đầu để cứu chính thể quân chủ, ông từ chối. Sau này, trong tập hồi ký, ông ân hận đã có thái độ đó: nếu ông nhận lời thì có thể biến cố đã thay đổi, mà dân tộc Pháp đỡ phải đổ máu.

Tháng tư 1791 Mirabeau đau ít bữa rồi tắt thở. Nhà vua mất người cố vấn thông minh nhất và khá trung thành vì dù sao Mirabeau cũng ở trong giai cấp quý phái, không muốn lật chính thể quân chủ, chỉ lợi dụng lòng phẫn uất của quần chúng để mưu địa vị cho mình thôi, đâm ra hành động quàng xiên. Đêm 20 rạng ngày 21 tháng sáu vua và hoàng hậu cải trang lẻn ra khỏi điện. Lafayette đi tuần ban đêm, gặp xe nhà vua mà không nhận ra.

Sáu bảy giờ sáng hôm sau, ông mới biết tin, nhảy xuống sàn, hộc tốc lại điện Tuileries. Ông có trách nhiệm rất nặng nề trong vụ này: ông đã hứa với dân chúng là không để cho nhà vua trốn khỏi. Ông vội vàng phái sĩ quan trong vệ quốc đoàn đi tìm trên khắp các con đường. Dân chúng nổi giận muốn hành hung ông. Ông vẫn can đảm đi bộ lại Quốc hội. Ngày 22.6 có kẻ bảo: «Tại sao chưa chặt đầu Lafayette mà bêu trên ngọn giáo?» Cũng may tối hôm đó người ta được tin đã nhận mặt được nhà vua. Quốc hội ra lệnh cho giải nhà vua và hoàng hậu về Paris. Lafayette bảo: «Ai mà hoàn hô nhà vua thì bị phạt trượng; ai mà chửi nhà vua thì bị treo cổ».

Khi Louis XVI về tới điện Tuileries rồi, ông vô yết kiến, kính cẩn thưa:

- Tâu Bệ hạ, Bệ hạ đã rõ lòng trung của hạ thần; nhưng xin Bệ hạ hiểu cho hạ thần rằng nếu Bệ hạ chống lại dân chúng thì hạ thần sẽ phải đứng về dân chúng.

Giam lỏng được Louis XVI ở điện Tuileries rồi, dân Paris muốn tiến một bước nữa. Ngày 17.10.1791, hàng ngàn tờ thỉnh nguyện phát khắp nơi xin truất ngôi vua. Dân chúng đổ xô lại Champ de Mars để ký vào bản thỉnh nguyện. Người ta bắt được hai tên núp dưới bàn thờ tổ quốc không hiểu vì lẽ gì. Một số thù địch của Lafayette ghét câu «Bệ hạ đã rõ lòng trung của hạ thần» mấy tháng trước, đã loan tin bậy rằng ông được hoàng hậu mua chuộc, bây giờ được dịp hạ ông, vu cho hai tên núp dưới bàn thờ là do thám của ông rồi đem ra giết tức khắc, đầu lâu bêu trên mũi ngọn giáo. Có nhiều tiếng la lớn: «Chém đầu Lafayette». Một viên đạn bay vèo suýt trúng ông. Ông phải ra lệnh cho vệ quốc quân bắn chỉ thiên. Quần chúng ném đá, rồi bắn lại. Vệ quốc quân muốn nổ đại bác, ông vội vàng chạy lại đứng trước họng đại bác, nhờ sự can đảm đó mà ngăn được cuộc đổ máu. Trước sau có mười người chết; nhưng hôm sau người ta đồn rằng có số vạn.

Hôm đó, ở nhà, bà nghe thấy dân chúng lại vây nhà, la lớn: «Phải giết vợ nó đi, rồi chặt đầu đem lại cho thằng chồng coi». Cả nhà hoảng hốt; riêng bà vẫn bình tĩnh, mừng rằng tụi họ tới đây, thì chắc là ở Champ-de-Mars họ đã rút hết đi rồi mà tính mạng chồng được an ổn.

Từ đó ông không còn kiểm soát được quần chúng nữa.

Ngày 14.9 năm ấy, Hiến pháp thảo xong. Louis XVI thân hành tới Quốc hội để chấp nhận Hiến pháp và tuyên bố trước công chúng: «Cách mạng đã tới giai đoạn cuối, thế là xong, từ nay dân tộc sẽ vui vẻ trở lại». Nhiều người đã tưởng là êm. Chính Lafayette cũng tin như vậy, thấy lý tưởng của mình đã thực hiện được, muốn noi gương Washington, xin từ chức, về vườn. Ngày 8.10 ông trao quyền lại cho người thay chân ông, từ biệt vệ quốc quân. Thành phố Paris tặng ông một chiếc gương trên đó khắc hàng chữ: «Dân chúng Paris mang ơn Lafayette». Ông cám ơn, bắt tay mọi người, lòng thắt lại.

Chiến tranh độc lập của Hoa kỳ và cách mạng của Pháp đã làm gia tài ông mẻ mất già nửa.

Nhưng tình hình đã êm thấm cho đâu. Đợt sóng cách mạng hạ xuống chưa được bao lâu, lại dâng lên dữ dội.

Ông về quê nghỉ được hai tháng thì vị Thượng thư bộ chiến tranh vời ông lên Paris. Bọn quý phái xuất ngoại vận động với vua Áo đem quân dày xéo đất Pháp để dẹp cách mạng. Lafayette là một trong ba vị tướng được nội các giao phó cho nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc. Ông đề nghị tấn công trước chứ không nên giữ thế thủ, và ý kiến của ông được chấp thuận. Ông tiến quân đánh quân đội Áo lúc đó đã vô địa phận Hòa Lan. Tướng Pháp là Dumouriez không có tài chỉ huy, quân của Biron thua ở Quiévrain, Lafayette lại cứu không kịp. Hình như trong quân đội có kẻ phản quốc, hình như bí mật quân sự bị tiết lộ. Đại tá Berthier bị chính quân lính của mình giết. Lafayette phải rút lui về cố thủ ở Maubeuge.

Quân Áo thắng thì vua Louis XVI và Marie Antoinette càng bị dân chúng ghét. Phe Jacobin độc tài trong Quốc hội chỉ trích vương thất dữ. Nhà vua thấy thua trận, muốn tỏ ra mình vẫn còn uy quyền, cách chức các Thượng thư trong đảng Girondin, tức Roland, Servan và Clavière. Dumouriez phải xin từ chức. Đảng Jacobin phản động lại: ngày 20 tháng 6 năm 1792, lại xảy ra một vụ y hệt vụ ngày 5.10.89. Quần chúng ùa tới xâm chiếm điện Tuileries, đòi hạ bệ Louis XVI; không có một vệ binh nào dám che chở cho vua. Quần chúng cầm khí giới dồn vua vào thành một cửa sổ, chụp một cái mũ đỏ (màu đỏ là màu của cách mạng) lên đầu Louis XVI, rồi buộc phải uống một li rượu để chúc quốc gia trường thọ.

Hay tin đó, Lafayette bất bình, bỏ mặt trận, về Paris, lại Quốc hội, đòi trừng phạt những kẻ đã không tôn trọng pháp luật. Ông được hoan hô, đề nghị dùng Vệ quốc quân để đẹp đảng Jacobin, trong khi nhà vua và hoàng hậu tạm lánh ra khỏi Paris nhưng Marie Antoinette ghét ông, không chịu mang ơn ông, bảo: «Thà chịu chết còn hơn!».

Ngay tối đó, Lafayette trở về Maubeuge, thấy tình hình mặt trận nguy ngập, quân Áo vẫn thắng.

Đảng Jacobin ghét ông, buộc tội ông phản quốc. Quốc hội không nghe. Quần chúng đã đảo ông và luôn cả Quốc hội.

Ngày 10-8, quần chúng lại tấn công điện Tuileries, bắt giam Louis XVI vào khám. Thế là cách mạng đã qua hai giai đoạn: Quân chủ chuyên chế đã đổ, bây giờ quân chủ lập hiến cũng đổ nốt. Lafayette muốn đem quân về dẹp loạn, lập lại chế độ lập hiến, nhưng không ai nghe ông nữa và Quốc hội không dám bênh vực ông. Ông thành một tên phản quốc, uy tín tiêu tan hết. Vinh quang trước kia của ông rực rỡ biết bao, bây giờ còn gì? Muốn chiến đấu ư? Khí giới đâu? Binh sĩ đâu? Không thể đầu hàng quân Áo, nhục lắm! Đi đâu bây giờ? Chỉ còn cách tạm trốn sang một nước trung lập, ông vượt biên giới, lẻn qua Hòa Lan để tiếp xúc với đại sứ Hoa Kỳ, nhưng bị quân đội Áo bắt ở Rochefort rồi giam làm tù binh.

Trong lúc đó, cảnh nước và cảnh nhà thực đau lòng. Quốc hội tuyên bố thành lập chính phủ Cộng hòa. Vua Louis XVI mất ngôi, thành một nhân vật thừa có thể nguy cho vận mạng quốc gia. Thế tất người ta phải thủ tiêu ông. Sau một cuộc quyết nghị (334 phiếu xin tha cho ông, 387 phiếu đòi xử tử, trong số này có một phiếu của một người trong vương tộc) người ta đưa ông lên đoạn đầu đài. Tới phút chót (21.1.1793) ông vẫn cho là quốc dân không hiểu ông, và ông bị giết oan vì lúc nào ông cũng yêu dân. Sự thực ông cũng là người tốt: lỗi của ông là không nhận định rõ tình hình trong nước, nhu nhược nghe Hoàng hậu mà không biết quyết đoán hợp lúc. Khi đầu ông rơi, Danton gầm lên như sư tử: «Các ông vua châu Âu dọa chúng ta thì chúng ta lấy đầu một ông vua mà liệng cho họ để khiêu khích họ».

Sau khi Louis XVI mất, tình hình lại càng rối beng. Ở ngoài thì các vua Âu châu đoàn kết với nhau tiến đánh; ở trong thì miền Vendée nổi loạn: dân chúng do các giáo sĩ và quý tộc xúi giục, không chịu tòng quân để cứu quốc, miền nam như Marseille, Toulon cũng có nhiều kẻ liên lạc bí mật với địch.

Tài Quốc hội, sự chia rẽ rõ rệt: hai nhóm Girondin (ôn hòa) và Jacobin (quá khích) chống đối nhau. Nội loạn phát lên dữ dội: ba phần tư nước Pháp chống Quốc hội. Marat bị một thiếu nữ trong đảng Girondin ám sát. Sức đàn áp vì vậy càng phải tăng. Quốc hội tuyên bố thành lập chính phủ Cộng hòa Cách mạng, và cuộc khủng bố diễn ra ghê gớm. Đúng là lúc mà «quỷ thần khát máu» như một chính khách thời đó đã nói. Mới đầu là cuộc khủng bố tháng 9 (1792). Hạng cùng dân cuồng nhiệt ở Paris ùa vào các khám đường, gươm búa trong tay, lôi những kẻ bị giam ra tra hỏi qua loa rồi xử tử. Ho đâm chém, bặm vằm, chặt thủ cấp, cắm vào ngọn giáo đem đi bêu khắp thành phố. Rồi khi chính phủ cách mạng thành lập, cuộc khủng bố lại tái diễn. Ngày 16.10.1793, Marie Antoinette bị đưa lên đoạn đầu đài, tới Danton cũng bị đưa lên đoạn đầu đài, chỉ vì ông lỡ miệng phàn nàn rằng người ta đưa nhiều người lên đoạn đầu đài quá. Cả nước Pháp thành một lò sát sinh. Mọi người nghi kị lẫn nhau không ai thấy tính mạng mình được yên ổn. Cơ hội mỗi ngày hàng chục chiếc xe bò chở đầy tội nhân tới pháp trường. Nghe tiếng xe lọc cọc qua trước nhà, dân chúng Paris nín thinh, run sợ như nghe tiếng thần chết gõ cửa.

Cung may, quân Pháp thắng ở Valmy, quân Phổ phải tạm bỏ ý xâm chiếm Pháp mà rút về sông Rhin. Rồi năm 1794, một số nghị sĩ trong Quốc hội sợ tới lượt mình bị bay đầu, liền hiệp với nhau chống lại Robespierre, nhà độc tài đã cầm đầu cuộc khủng bố, nhờ vậy mọi sự giết chóc ngưng hẳn và thành Paris vui sống trở lại. Tính ra trước sau có khoảng 4.000 người bị chém.

Đó là việc nước.

*

Và đây là việc nhà của Lafayette.

Ngày 28.4.1792, hay tin chồng đã bị Quốc hội kết tội phản quốc, Adrienne lo lắng vô cùng. Ít bữa sau mới có người cho biết rằng ông đã ra khỏi nước, bà thở ra nhẹ nhàng. Khỏi lo cho tính mạng của ông, từ đây, bà một mình chống đỡ gia đình, bảo vệ sinh mạng cho người thân, và ta sẽ được thấy tư cách cương quyết bất khuất, thấy tấm lòng hy sinh, gan dạ, kiên nhẫn của bà.

André Maurois nói: «Dư luận như một con điếm sẵn sàng hiến thân cho kẻ mạnh». Trong những thời loạn lạc, lời đó thường đúng. Trước kia dân chúng trọng bà bao nhiêu, thì bây giờ họ thù ghét bà bấy nhiêu. Vợ một vị anh hùng mà «dân chúng Paris mang ơn» đã thành vợ một tên phản loạn.

Trong những thời khủng bố, một người khác ở vào hoàn cảnh của bà, tất đã lạy lục chính quyền, có thể còn theo chính quyền trở lại mạt sát, nguyền rủa chồng, ly dị để được an thân, mà giữ được một phần gia sản.

Bà thì vẫn giữ chủ trương của chồng, vẫn bênh vực chồng, ai bảo chồng mình là quân quý phái trốn ra ngoài để dắt voi về giầy mồ thì bà cãi lại, bảo rằng không khi nào chồng bà làm việc ô nhục đó, nếu quả thực như vậy thì «người ta cứ chặt đầu bà đi».

Bà vẫn ký tên là «vợ Lafayette». Tài sản của chồng bị tịch thu, bà vẫn thản nhiên.

Khi lính lại bắt - lúc đó bà đã về quê chồng tại Chavaniac - bà thu xếp việc nhà xong rồi đi theo họ tới Puy để người ta điều tra. Bà không hề xin một ân huệ nào hết. Một số dân trong miền còn giữ được cảm tình với bà, nên người ta phải trả bà về Chavaniac, nhưng phái sáu người lại dinh thư của bà để canh gác. Bà phản đối: «Tôi đã hứa với các ông tôi không trốn đi đâu cả. Nếu các ông tin lời tôi thì đừng cho lính canh gác, nếu không tin thì đừng bắt tôi hứa».

Nhờ đại sứ Mỹ giúp, bà có tiền tiêu xài trong thời gian đó và cho cậu George qua Mỹ được. Bà viết thư cho Washington nhờ can thiệp với Phổ, Áo để chồng bà được thả ra và giải qua Mỹ. Nhưng chính phủ Hoa Kỳ lúc đó muốn hoàn toàn trung lập, không can thiệp vào việc châu Âu, thành thử Washington không giúp được gì.

Phong trào khủng bố tăng lên, người ta tỏ ra khắc nghiệt hơn, không cho bà ở nhà nữa, mà giam bà ở Brioude.

Trong khám bà tỏ ra rất bình dân và nhân từ, làm mọi việc nấu nướng, giặt giũ, quét tước như các tù nhân khác, lại an ủi giúp đỡ, chia thức ăn với kẻ nghèo nữa. Sống với sáu nữ tù nhân trong một buồng nhỏ, ở sát ngay hành lang, bà không tỏ ra khó chịu. Trong khám, người ta cãi nhau còn nhiều hơn ở ngoài, cãi nhau vì quyền lợi, vì chính kiến. Bà không để ý tới, chỉ buồn rằng bà nội, thân mẫu và chị bà ở Paris đã bị nhốt khám. Biết bao nhiêu thân nhân, bạn bè lần lượt bị «cắt cụt» đi (raccourci), theo tiếng lóng hồi đó. Trong Quốc hội, có người đề nghị lập một ủy ban khoan hồng để tha một số người chỉ mới bị tình nghi. Robespierre gầm lên: «Không! Sự khủng bố là sự công bằng nhanh chóng nhất. Chẳng cần xét hỏi điều tra gì cả; hễ quý phái tức thị là phản quốc rồi».

Khi phong trào khủng bố lên tới mức cao nhất, bà bị đưa lên Paris giam ở khám Petite Force, bà mới được mục kích những nỗi ghê tởm mà bà không tưởng tượng nổi. «Ôi Tự Do, nhân danh người, người ta làm biết bao tội ác!» Nửa tháng sau, người ta dời bà qua khám Plessis. Khám này là trạm cuối cùng đưa tới khám Conciergerie, và vào Conciergerie rồi, tức là đợi lúc lên đoạn đầu đài. Mỗi buổi sáng, người ta kêu tên hai chục tội nhân đưa ra tòa án Cách Mạng. Bà biết sắp tới lúc chết, viết chúc thư:

«Tôi hết lòng tha thứ kẻ thù của tôi, nếu tôi có kẻ thù, tha thứ hết những người ngược đãi tôi... Tôi cầu trời tha thứ họ và cho họ được đầy đủ hạnh phúc. Tôi tuyên bố rằng đã luôn luôn trung thành với Tổ quốc, không bao giờ dự vào một âm mưu nào để phá rối sự trị an, tôi thành thực chúc cho Tổ quốc được sung sướng, lòng yêu Tổ quốc của tôi không thể lay chuyển được, dù tôi có bị ngược đãi đi nữa. Một người rất thân của tôi đã cho tôi cái gương ái quốc đó.

Tôi xin trời ban phước cho các con tôi, phù hộ cho chúng có tư cách xứng đáng với người sinh thành ra chúng... »

Nhưng có lẽ nhờ Monroe, đại sứ Hoa Kỳ ở Paris(1) can thiệp mà bà không bị giết. Ít lâu sau phong trào khủng bố dứt hẳn và ngày 21.1.1795 bà được thả. Lúc đó bà mới hay những tin thê thảm về gia đình bà: bà nội, thân mẫu, chị ruột đều bị lên đoạn đầu đài. Duy có thân phụ là trốn được qua Thụy Sĩ từ trước. Chồng bà thì bị giam ở Spandau, rồi đổi qua khám Wesel tại Westphalie.

Ở Wesel, ông còn tương đối được dễ chịu, dùng một cây tăm, viết lên được một bức thư gởi cho người quen nhờ báo tin cho bà. Trong thư ông kể tình cảnh ở khám, không biết chút gì về những biến cố xảy ra ở nước nhà cả, cuối thư ông còn dặn bà tiếp tục công việc giải phóng người nô lệ da đen ở Cayenne. Lòng ông thực đáng quý.

Ít lâu sau, người ta dời ông qua khám Olmutz.

Olmutz lúc đó thuộc Áo, triều đình Áo rất ghét Lafayette, nên tình cảnh của ông rất cực khổ. Khi mới bước vô khám, người ta đã bảo ông rằng: «Ở đây, Olmutz, tội nhân không còn một chút tin tức gì ở ngoài; tên tội nhân không được nói ra vì nhân loại cho họ là ghê tởm; thế giới coi họ như chết rồi».

Mới đầu người ta thỉnh thoảng còn cho ông đạo mát ở chung quanh, tất nhiên là có lính theo sát. Nhờ vậy một lần được một người Hoa Kỳ giúp, ông vật được một tên lính canh, nhảy lên ngựa phi. Người bạn bảo ông:

- Chạy lại Hoff! (Get to Hoff!)

Hoff là một địa điểm ở biên giới Phổ. Ông nghe lầm ra là:

- Dông đi! (Get off!)

Và ông dông thẳng tới Sterneberg để bị tóm rồi dẫn trở về Olmutz. Từ đó sự canh phòng càng nghiêm, ông không được ra khỏi xà lim nữa.

Khi được trả tự do rồi, bà Lafayette về thăm con ở Chavaniac, nhờ bạn bè đưa cậu George qua học ở Hoa Kỳ, rồi lại viết thư xin Washington vận động cho chồng được thả. Và không có kết quả. Thấy vậy bà nhất định tìm chồng để sống chung với chồng trong khám. Ai cũng bảo bà điên. Còn bị nghi kị, làm sao bà ra khỏi Pháp, mà sang Áo được? Mà dù có qua được Áo thì người ta có cho phép bà vô khám sống chung với chồng không? Nhưng bà tin chắc là được và lòng tin đó giúp bà dẹp được mọi trở ngại.

Đại sứ Mỹ giúp tiền và làm giấy thông hành cho bà. Ngày 5.9.1795, bà và hai cô con gái, xuống một chiếc tàu Hoa Kỳ để qua Hambourg. Cuộc phiêu lưu cực kỳ nguy hiểm của bà đã bắt đầu. Ở dưới tàu, bà viết thư cho chồng, nhờ người tìm cách đem lại Olmutz. Bà giấu những tin bi thảm trong nhà, chỉ khen các con cho chồng vui, không hề phàn nàn, than thở lấy một chút, cuối thư chỉ có mỗi một câu hỏi chua xót: «Em nghĩ rằng trước kia anh không luôn luôn công bình với em». Sau mười năm hy sinh, chịu biết bao đau khổ, bà chỉ trách nhẹ chồng như vậy thôi.

Từ Hambourg bà lại Vienne, kinh đô Áo. Trên giấy thông hành, bà ghi tên là Bà Motier, công dân Hoa Kỳ, ở Hartford, xứ Connecticut. Bà không biết tiếng Đức, mà triều đình Áo cấm người Pháp nhập cảnh, như vậy mà bà định vô Vienne thì thực là mạo hiểm. Lạ hơn nữa là bà xoay xở làm sao mà được vào yết kiến Hoàng đế Áo François II, xin phép vô khám Olmutz sống chung với chồng. Vua Áo chắc phục lòng hy sinh, gan dạ của bà, bằng lòng liền: «Bà được phép vô nuôi ông; còn việc thả ông ra thì tôi làm không được, hai tay tôi bị cột cả rồi... Bà sẽ thấy ông nhà được nuôi nấng tiếp đãi tử tế lắm. Bà tới là thêm một nỗi vui cho ông».

Ngày 15.10.1792, bà và hai cô gái tới Olmutz. Ngồi trên xe, trông thấy các chuông giáo đường Olmutz in lên nền trời, bà nghẹn ngào, nước mắt ràn rụa. Khi đã bớt xúc cảm, bà đọc một đoạn kinh cầu nguyện cho hai con nghe: «Thưa Chúa, Chúa cao cả trong thời gian vô cùng. Chúa trừng phạt rồi Chúa lại cứu. Chúa dắt con người tới mồ rồi Chúa lại kéo trở về; không ai là thoát khỏi quyền lực của Chúa...».

Cánh cửa xà lim bỗng mở ra. Lafayette ngạc nhiên và mừng rỡ làm sao! Vợ chồng cha con ôm lấy nhau khóc. Đã bốn năm xa cách!

Thấy ông chỉ còn xương với da, ba vừa thương chồng vừa lo lắng. Ông già hẳn đi. Mà ông cũng thấy bà già hẳn đi. Năm đó bà mới 36 tuổi mà tóc đá hoa râm. Ông chỉ lờ mờ biết rằng ở nước nhà có một cuộc khủng bố, nay nghe bà kể lại, ông mới kinh hãi và chua xót. Nhưng ông vẫn không ghét cách mạng, chỉ nguyền rủa những kẻ tàn nhẫn thôi. Ông vẫn giữ nguyên tắc của ông từ thuở trẻ.

Nhìn phòng giam chật hẹp, tối ẩm thấp, nệm cỏ thì mốc và đầy rệp, đồ đạc chỉ có mỗi một chiếc ghế đẩu, một cái bình nước, một cái cà men cho lính dùng, không có dao, không có nĩa, tới dây lưng cũng bị tịch thâu, và hễ muốn bước đi thì ông phải giữ lưng quần, bà rơm rớm nước mắt nhớ lại lời vua Áo sao mà mỉa mai: «Ông được sung sướng, tiếp đãi tử tế. Bà tới sẽ là một nỗi vui thêm cho ông». Vua Áo đã cho phép bà có thỉnh cầu điều gì thì viết lên thẳng cho ông. Bà liền viết thư xin cho một vợ lính vô giúp việc bà, xin người cai ngục trả cho bà những dao và nĩa, xin mỗi chủ nhật được cùng với hai cô gái ra ngoài dự lễ. Bức thư đó không tới tay vua Áo; và viên thủ tướng Áo trả lời rằng không thể chấp nhận những lời xin đó được. Thế là cả gia đình phải ăn bốc.

Vì vui vẻ bên cạnh vợ con, sức khỏe của ông khả quan hơn. Trái lại bà sút đi rồi lâm bệnh sốt, nổi lác cùng mình, chân tay phù thũng. Bà lại làm đơn xin được lại Vienne trong 10 ngày để trị bệnh. Người ta trả lời rằng có muốn ra thì ra luôn, chứ không được trở vô nữa.

Bà không chịu. Khi nào lại bỏ chồng và con ở lại như vậy. Bệnh càng nặng lên, bác sĩ lo lắng cho tánh mạng của bà, nhưng bà vẫn tỏ ra vui vẻ. Mới đầu bà còn dùng cây tăm chép lại tiểu sử thân mẫu trên lề những trang một cuốn sách của Buffon; và viết những bức thư gởi lên cho bà con, bạn bè, nhưng sau tay sưng quá phải thôi.

Trong khi ông bà ở trong khám Olmutz, thì tại nước nhà, Napoléon Bonaparte lên như diều. Cầm đầu quân đội cách mạng, chàng tuổi trẻ đó xâm nhập Ý, thắng hết trận này đến trận khác, làm cả châu Âu ngạc nhiên. Năm 1797, chàng vượt dãy núi Alpes, muốn tấn công Áo. Triều đình Áo hoảng hốt.

Được hay những tin đó, nhất là được biết rằng dư luận quần chúng ở Paris lúc này đã đổi chiều, trở lại ngưỡng mộ và thương chồng mình, bà viết thơ về nhờ bạn bè vận động với các vị Đốc chính và với Napoléon để can thiệp với triều đình Áo thả ông ra. Washington cũng vận động thêm nữa, xin vua Áo cho phép Lafayette qua ở Hoa Kỳ.

Trong số năm vị Đốc chính, hai vị có cảm tình với gia đình Lafayette; còn ba vị kia còn ngại rằng thả hổ về rừng thì rắc rối về sau. Rồi đây Lafayette làm lãnh tụ bọn bảo hoàng lập hiến thì làm sao? Bonaparte lúc đó đã có nhiều tham vọng, cũng không muốn cho Lafayette về vì biết rằng chỉ có ông đáng là địch thủ của mình thôi.

Thành thử bạn thân của ông bà phải vận động rất lâu, mãi triều đình Áo mới bằng lòng thả ông và buộc ông phải cam đoan không trở về Pháp, mà cũng không được trở lại Áo. Điều kiện trên do chính phủ Pháp đưa ra ông không thể chống được; nhưng điều kiện dưới thì ông không chịu chấp nhận. Và ông có lý. Ông bảo: «Nếu sau này dân tộc Pháp cho ông về nước, lại giao mời trách nhiệm gì cho ông và do trách nhiệm đó, ông phải qua Áo thì làm sao?» Ta thấy Áo và Pháp lúc đó vẫn còn sợ ông lắm.

Rốt cuộc triều đình Áo cũng phải thả ông và ngày 17.9.1797, ông bà và hai cô ra khỏi ngục thất Olmutz để lên kiều cư Đan Mạch, tại Witmold. Tính ra bà đã chia cảnh giam cầm với ông trong hai năm. Sức khỏe của bà đã kém lắm. Nếu chỉ ở lại thêm một năm nữa thôi, sợ không sống nổi.

Ở Witmold, nhờ khí hậu tốt và nhờ bạn bè săn sóc, ông bà lấy lại sức. Thư từ trong nước gởi tới rất nhiều, có cả những bức thư của những người không quen biết tỏ lòng ngưỡng mộ. Ông hiểu rõ hơn tình hình nước nhà, vẫn giữ chủ trương tự do, bình đẳng, chống độc tài bằng mọi cách; lại sẵn sàng chiến đấu cho những lý tưởng đó. Đức tin và đức gan dạ của ông trước sau không hề thay đổi. Nhất là bà, sau cuộc mạo hiểm đi tìm chồng, sau cuộc vận động cho sự giải phóng của chồng, được dân chúng Pháp ngưỡng mộ hơn trước nhiều, coi như một vị nữ anh hùng của dân tộc.

Khi sức khỏe đã gần bình phục, bà đi vẫn còn khó khăn vì chân vẫn còn sưng, bà về ngay Pháp để vận động cho chồng được hồi hương, thu xếp việc nhà cửa, ruộng nương, đón cậu George ở Hoa Kỳ về. Bà thực là một người nội trợ hoàn toàn. Bất kỳ việc lớn việc nhỏ, bên nhà chồng và bên nhà mình, bà quán xuyến cả.

Trước hết bà đưa gia đình sang kiều cư ở Hòa Lan cho gần tổ quốc hơn, dễ liên lạc tin tức hơn; rồi để ông tạm ở lại một mình, bà về Paris với hai cô và một người rể (cô Anastasia đã thành hôn ở Đan Mạch với bá tước De la Tour Maubourg, con trai một chiến hữu của ông, cũng bị giam ở Olmutz với ông), ở nhờ nhà một người quen, gia đình Beauchet.

Paris đã khác hẳn xưa. Bà tưởng sẽ còn phải thấy những di tích của cuộc khủng bố bốn năm trước, thấy những cảnh hoang tàn, những vẻ mặt đăm chiêu, lo lắng sợ sệt; nhưng tuyệt nhiên không còn gì cả: dân chúng vui vẻ sống, nhiều kẻ rách rưới thật đấy, nhưng cũng có vô số kẻ xa hoa, phần nhiều là bọn mới phát lên. Những nơi đổ máu hồi trước nay đã biến thành những công viên hoa lá rực rỡ. Cửa hàng đông đúc, đường sá tấp nập. Chỉ khác những cây Tự Do trồng hồi đầu cách mạng, nay đã chết khô, và những đường mang tên thánh, thì chữ thánh bị bôi bỏ, như đường Saint-Honoré (Thánh Honoré), thành ra đường Honoré; kiểu xe cộ cũng khác, nhất là y phục phụ nữ giản dị hơn, nhưng cũng mỏng manh khêu gợi hơn. Hỏi về những chuyện cũ, người ta bảo: «Ồ! Xa lắc xa lơ rồi!» Phải sống chứ! Dĩ vãng, chôn nó đi!

Chân vẫn khập khiễng, bà suốt ngày đi thăm người này người khác, vận động với cơ quan này công sở nọ để xin chính quyền cho chồng và thân phụ bà được bôi tên trong số các quý phái phải trốn nước, nếu không thì cũng được phép hồi hương mà quản thúc ở một nơi nào đó. Rồi lại xin chính phủ trả lại những đất cát đã bị tịch thu.

Tới đâu người ta cũng lễ phép tiếp đón bà, nhưng thời đó là thời không ai dám lãnh trách nhiệm, nên người ta chỉ hứa hão thôi, không giúp bà được gì. Bà chạy rạc người đi, lên cơn sốt mà vẫn không được nghỉ. Cụ thân sinh và ông chồng ở xa không biết những nỗi khó khăn đó, thư nào cũng giục phải «vận động mau lên, sao mà chậm quá vậy!». Đúng là không ai công bình với bà cả, như bà đã có lần phàn nàn. Trong khi đó những cô em chẳng giúp bà được gì, có cô lại còn trách tánh bà như tánh đàn ông. Luôn luôn như vậy, người nào tài giỏi, đảm đang vẫn phải cáng đáng hết mọi việc. Có lúc bà phải gắt lên vì không ai hiểu mình, và ông viết thư vỗ về:

«Hỡi lòng của anh ơi, anh đã vô tình làm phật ý em, chính em có lý, anh ân hận lắm.»

Cánh diều của Bonaparte vẫn lên vun vút. Sau mười năm nội loạn, dân chúng Pháp khát khao một chính quyền mạnh để yên ổn làm ăn, xây dựng trở lại. Biết tâm lý đó, năm 1799 Bonaparte vận động được làm đệ nhất Tổng tài, chức này thay thế chức Đốc chính, và những lời tuyên bố đầu tiên của ông có cái giọng Lafayette lắm:

«Hỡi quốc dân, các bạn chắc sẽ nhận thấy rằng tôi là một người siêng năng chiến đấu cho Tự Do, và là một công dân tận tâm với chế độ Cộng Hòa...» Chính Lafayette lúc đó ngồi trên lưng ngựa mà vào Paris cũng sẽ tuyên bố như vậy.

Bà rất sáng suốt, biết rằng Bonaparte chỉ nói ngoài miệng như vậy thôi, chứ thực tâm không bênh vực tự do, không ưa gì một người thật yêu tự do như chồng bà, dẫu có xin cho về nước cũng vô ích, nhưng bà nắm ngay cơ hội, quyết định một cách táo bạo phi thường. Bà khuyên ông cứ về đại ngay đi sau lời tuyên bố đó của Bonaparte. Ai mà dám bắt một chiến sĩ đầu tiên của Tự Do là ông. Ông nghe lời bà, về ngay Paris, gửi một bức thư lên cảm ơn Bonaparte đã vận động với Áo để trả tự do cho mình. Giọng vừa đường hoàng vừa khéo léo:

«Thưa công dân Tổng tài, từ ngày mà những tù nhân ở Olmutz nhờ ông được trả lại tự do, cho tới ngày mà tôi mang ơn ông nhiều hơn nữa vì nhờ ông mà Tổ quốc tôi(1) được tự do, tôi luôn luôn nghĩ rằng nếu tôi còn tiếp tục bị trục xuất ra khỏi xứ thì quả là một việc không thích hợp với chính phủ và với tôi. Hôm nay tôi về tới Paris.

Trước khi về miền quê xa xôi sống với vợ con, trước khi thăm những bạn thân của tôi ở đây, tôi vội vàng viết thư thăm ông ngay, không phải là vì tôi nghi ngờ rằng trong nước Cộng hòa xây dựng trên những cơ sở xứng đáng này, không có một vị trí cho tôi, mà chỉ vì bổn phận và tấm lòng của tôi buộc tôi phải đích thân gởi lên ông bức thư cảm ơn này...»

Ông nhờ một bạn thân trong chính quyền đưa thư đó lên Bonaparte. Người bạn đó ngại cho ông, khuyên ông trở ngay về Hòa Lan, kẻo mà Bonaparte nổi khùng lên. Ông mỉm cười đáp: «Nếu Vệ quốc quân Paris bắt tôi, rồi con người tuyên bố phục hưng lại những quy tắc nắm 1789 (ông ám chỉ Bonaparte) nhốt tôi vào khám thì thực là một điều ngộ nghĩnh».

Lời dọa trong câu đó, hơi rõ ràng: ông biết rằng vệ quốc quân ở Paris vẫn còn kính phục ông, không khi nào dám bắt ông.

Bonaparte tất nhiên là không vụng về mà giam ông, chỉ nhắn ông nên tránh đừng ra mặt, đừng gây náo động gì cả, như vậy có lợi cho nước Pháp lúc đó, và dặn thêm: «Tôi tin ở lòng ái quốc của ông ấy».

Thế là êm, ông bà về Chavaniac nghỉ ngơi.

Ít lâu sau, cậu George được làm thiếu úy trong quân đội, ông được bôi tên trong sổ trục xuất. Bonaparte thấy uy quyền của mình đã vững, muốn lấy lòng Lafayette, mời ông lại chơi, dọ ý:

- Xin chào hầu tước, được gặp ông, tôi vui lắm. Khi hầu tước ở trên sân khấu thì tôi hãy còn là một khán giả.

Ông đáp:

- Tôi mong rằng ông đem lại được sự tự do và sự nghỉ ngơi cho quốc dân. Quốc dân đương mong mỏi những thứ đó.

- Hầu tước không thấy rằng dân chúng lãnh đạm với tự do rồi ư?

- Có lẽ, nhưng chỉ vì quần chúng mới thấy những tự do giả hiệu. Xin ông cho họ thấy mặt thật của Tự Do.

- Hầu tước như có vẻ ghét tôi?

- Tôi không ghét ông. Tôi sẵn sàng giúp ông nữa nếu ông phụng sự Tự Do.

Bonaparte muốn tặng ông một ghế trong Thượng nghị viện, hoặc chức Đại sứ ở Hoa Kỳ. Ông từ chối, lấy lẽ rằng ông còn trẻ quá, không tiện ngồi chung với các ông trong Thượng nghị viện; mà ông lại coi Hoa Kỳ như quê hương thứ nhì của ông, không thể đại diện cho Pháp ở xứ đó được.

Năm 1802, Bonaparte làm Tổng tài mãn đời, rồi năm 1804 leo lên ngai vàng. Dân Pháp không dám phản kháng vì còn cần ông ta để chống với Anh. Lafayette ghét con người đó, và hai bên không gặp nhau nữa.

Bao nhiêu xây dựng của cách mạng sụp đổ hết. Anh em Napoléon đều được phong vương hết. Lại có một triều đình lộng lẫy như triều đình Louis XVI. Lại có một bọn tân quý phái: các thống chế, các quan lớn được phong tước công, hầu... Quốc hội bị giải tán, báo chí bị khớp mỏ, các tự do dân chủ bị bãi bỏ; một Ty công an mạnh mẽ được thành lập để bắt giam không cần xét xử rồi thủ tiêu những kẻ đối lập. Khám đường lại đầy nhóc tội nhân. Người ta vung tiền ra mua chuộc những kẻ lợi hại ít nhiều. «Có tiền thì có người, có người thì có tiền». Dư luận ư? Muốn bịt miệng lúc nào mà chẳng được? Chính Napoléon đã nói vậy, phe bảo hoàng, đảng Jacobin, Girondin răm rắp đưa cổ vào tròng hết. Chính những người thân của bà Lafayette cung hãnh diện được thờ chủ mới. Enghein và Pichegru bị ám sát. Không ai dám phản đối nữa, chỉ dám thì thầm với nhau mấy câu vè này:

Ta sống dai lắm, nhờ vay mượn và xin xỏ,

Ta cướp con vợ lẳng lơ của Barras, thằng nịnh bợ đó;

Ta sẽ bóp cổ Pichegru, ta sẽ ám sát Enghein,

Và làm những tội đại ác đó, ta được hưởng một ngai vàng.

Napoléon muốn mua chuộc Lafayette, muốn tặng ông một chiếc Bắc đẩu bội tinh, ông đáp rằng ông mà lại đi đeo cái băng đó thì kỳ cục lắm. Tặng ông một chức lớn trong triều đình, ông cũng từ chối. Ông buồn rằng quần chúng đa số lãnh đạm, không thể gây một phong trào lật đổ Napoléon được. Và ông mặc cho tên trùm mật thám Fouché dò xét ông. Nhưng ông cũng không chịu qua tĩnh dưỡng bên Hoa Kỳ, do lời mời của Tổng thống Hoa Kỳ; ông muốn ở lại trong nước xem tình thế và đợi thời.

Napoléon ghét ông, ghét lây cả cậu George và người con rể ông, không cho họ thăng chức, mặc dầu họ có quân công.

Tháng 9 năm 1807, bà Lafayette lên cơn sốt nặng rồi mửa. Bác sĩ ngờ rằng bà lở bao tử, tìm đủ cách trị mà bệnh vẫn tăng. Ông lúc đó đương ở quê, vội vàng lên thăm bà. Bà kiệt sức lắm, lúc tỉnh lúc mê cho tới khi mất vào đêm Noël. Năm đó bà 48 tuổi.

Trong một bức thư dài 20 trang, ông kể lại những ngày cuối cùng của bà cho một chiến hữu rất thân, thông gia với ông, tức César de la Tour-Maubourg. Đọc bức thư rất cảm động đó ta thấy rằng tấm lòng của bà đẹp vô cùng. Con cái đã thành gia cả rồi, bà khỏi phải lo tính về việc nhà, lòng hướng cả về nhân loại và về chồng. Bà bảo ông:

- Hình như người ta xây dựng lại thế giới; thí nghiệm hoài, không biết bao giờ nhân loại mới được yên ổn, sung sướng như anh muốn?

Lần khác, ông an ủi bà, bảo bà sẽ mạnh và ông sẽ đưa bà về quê chơi. Bà đáp:

- Không, em sẽ chết. Anh có giận gì em không?

- Sao lại giận? Em luôn luôn tận tâm và âu yếm anh lắm mà.

- Vậy em là người vợ ngoan ư?

- Nhất định rồi.

- Thế thì anh cầu trời phù hộ cho em nhé?

Cảm động nhất là ngày cuối cùng, bà còn dặn ông:

- Khi nào anh gặp bà De Simiane, cho em gửi lời thăm bà ấy nhé.

Không bao giờ bà oán những bạn gái của ông cả và thật tình mến bà De Simiane như chị em vậy.

Bà ngỏ ý muốn được chôn ở nghĩa địa Picpus, bên cạnh cái huyệt chung của những người bị xử tử hình trong thời khủng bố; trong huyệt đó có di hài của bà nội, thân mẫu và chị bà. Khi mới ở ngoại quốc về, bà đã tìm ra được nơi đó, đứng ra quyên tiền xây tường sửa sang lại nghĩa địa và dựng một nhà thờ nhỏ ngày đêm có người cầu nguyện cho linh hồn những kẻ thác oan. Bà lại muốn dành một chỗ bên cạnh bà cho ông sau này.

Tờ Journal de L'Empire báo tin bà mất và có lời khen: «Ai cũng khóc bà Lafayette. Bà tạo hạnh phúc cho gia đình, nâng đỡ kẻ nghèo khó, an ủi kẻ khổ sở, làm vẻ vang cho tổ quốc và cho nữ giới...».

Suốt đời ba hy sinh cho chồng con, cho mẹ, chị em và giúp ông rất nhiều trong mộng thực hiện lý tưởng Tự Do và Bình Đẳng của ông. Không có bà thì sự nghiệp của ông chắc không được như vậy.

Sau khi bà mất, ông luôn mang theo mình hai miếng giấy, một miếng trên đó cô Anastasia ghi những di ngôn của mẹ, một miếng có bốn câu này đó ông trích trong một bài thơ và đích thân chép lại:

Khi em chết rồi,

Cái tia sáng còn lại biết suy nghĩ này,

Vừa trong sạch lại vừa hoạt động,

Muốn được theo hoài gót anh.

Những câu đó tả đúng tấm lòng của bà. Ôi tâm hồn bà khác gì tâm hồn những hiền phụ bậc nhất ở phương Đông!

Năm 1814, nước Pháp lại lâm nguy. Sau khi Napoléon thua Nga, các quốc vương châu Âu liên minh với nhau để gỡ ách Pháp và hạ bệ «tên Corse độc tài». Vì thiếu lính, Napoléon phải đưa cả những em 15, 16 tuổi ra trận. Ông ta thắng vài trận đầu rồi đại bại ở Leipzig. Liên quân xâm nhập Pháp.

Lafayette ở quê vội chạy lên Paris để tình nguyện cứu quốc, mặc dầu ông đã già mà chân lại đau. Con trai và chàng rể ông cũng xin đầu quân. Cả gia đình ông quên hẳn cái thù Napoléon mà nghĩ đến tổ quốc. Nhưng chính quyền nghi ngờ ông. Con người của Cách mạng này lên Paris mưu tính chuyện gì đây? Muốn dùng lực lượng của vệ quốc quân để khuấy trời lật đổ chính phủ ư? Người ta bảo ông nên về nhà dưỡng sức, để con trai và rể ra giúp nước là đủ... Nhưng đã quá trễ. Liên quân đã vào Paris. Lafayette đóng cửa khóc, Napoléon phải thoái vị, rồi bị đày ra đảo Elbe ở Địa Trung Hải.

Rồi thời cuộc biến chuyển một cách mau không ai tưởng tượng nổi. Napoléon đi, Louis XVIII về. Louis XVIII chưa kịp chỉnh đốn việc nước thì Napoléon lại từ đảo Elbe trốn về nữa. Lại một cuộc xáo trộn dữ dội. Trên báo chí những tít lớn đập vào mắt mọi người. «Tên quỷ đã trốn thoát.» - «Hắn đã đổ bộ ở Cannes.» - «Tên bạo chúa đã đi qua Lyon.» - «Bonaparte sắp tới rồi.» - «Ngày mai Napoléon sẽ tới kinh đô!» - «Hoàng đế hiện ở tại Fontainebleau!».

Tới Paris, Napoléon nói với một người thân cận:

- Từ đảo Elbe về tới Grenoble, tôi chỉ là một kẻ phiêu lưu, bây giờ tôi là một quốc vương.

Sự thực chỉ có một số tay chân cũ là hoan hô ông ta; còn dân chúng thì thản nhiên, có phần lo lắng cho tương lai nữa.

Lúc đó Lafayette làm Phó chủ tịch Quốc hội. Napoléon tới Quốc hội, buộc Quốc hội phải biểu quyết trung thành với mình; Lafayette và cậu George chống lại (vì cậu cũng làm nghị sĩ cho miền Haute-Loire), đáp:

- Nếu chúng ta thề trung thành với Hoàng đế thì Quốc hội này thành cái hội của Napoléon mất rồi, đâu còn tính cách đại diện cho quốc dân nữa.

Hay tin đó, Napoléon la lớn:

- Lafayette đã tuyên chiến với ta rồi đấy!

Napoléon về được đúng một trăm ngày, sau khi thua liên quân ở Waterloo, lại phải thoái vị lần nữa, bị đày ra đảo Sainte-Hélène, rồi Louis XVIII lại trở về. Thế là sự nghiệp của Napoléon xây dựng bằng gươm súng, lại vì gươm súng mà sụp đổ.

Sau trận Waterloo, Lafayette hô hào dân chúng: «Bây giờ là lúc toàn quân phải đoàn kết dưới ngọn cờ tam sắc để xây dựng Tự Do, Bình Đẳng, lập lại trật tự trong nước... »

Ông là một trong sáu người được phái đi thương thuyết với liên quân.

Một sứ giả Anh bảo ông:

- Tôi xin cho ông hay rằng nếu các ông không nộp Bonaparte cho liên quân thì không thể có hoa hình được.

Lafayette đáp:

- Tôi rất ngạc nhiên rằng ông lại muốn nhờ tôi làm trung gian, tôi, một tên cựu tù nhân ở Olmutz, để đề nghị với dân tộc Pháp một hành động đê hèn đến mức đó.

Các nghị sĩ lại họp nhau ở Quốc hội để bàn về thái độ đối với liên quân. Họ thấy cửa Quốc hội đóng kín, có lính bồng súng canh. Lafayette tái mặt hỏi viên sĩ quan ai ra lệnh đóng cửa Quốc hội. Viên này đáp do lệnh Louis XVIII. Ông la lớn:

- Thế ra chính phủ Pháp cấm đại diện của dân tộc Pháp vô nhà của họ ư? Nếu vậy thì các nghị sĩ về cả nhà tôi mà họp!

Họ kéo về nhà ông, ký một bản thỉnh nguyện chống lại hành vi độc tài đó.

Mấy năm sau ông ở ẩn tại quê nhà, đợi một thời thuận tiện để làm lại cuộc cách mạng. Đảng tự do quy tụ ở chung quanh ông. Rồi ông lại được bầu vô Quốc hội. Trong buổi họp đầu tiên, ông không chịu hô: «Quốc vương vạn tuế!». Tờ L'ami de la Royauté, cơ quan của nhóm bảo hoàng đả kích ông. Ông bảo:

- Tôi không bao giờ xin một ký giả khen tôi cả, nhưng tôi cũng không muốn cấm họ phải nói xấu tôi.

Thấy thời chưa tới, không làm được việc gì, ông nhận lời mời của Tổng thống Monroe, qua thăm Hoa Kỳ một lần nữa. Giá lúc này bà còn sống thì sẽ rảnh rang, đi theo ông để được hưởng chung danh dự với ông.

Ngày 11.7.1824, ông và cậu George xuống tàu Cadmus, một tháng sau tàu vô hải cảng New York.

Sự tiếp đón nồng hậu và cảm động như lần trước. Ông thăm Fairfield, New Haven, New London, Providence... Tới đâu cũng thấy dựng những khải hoàn môn, trên cao kết tên ông và tên Washington. Dân chúng đứng chật đường hoan hô ông.

Ngày 17.10 ông lại Mount-Vernon, quỳ trước mộ Washington. Một vị cựu tổng thống, Jefferson nói trước đám đông:

- Người Hoa Kỳ chúng ta cằm cây đinh, chính ông Lafayette đã đóng nó xuống!

Ngày 4.3 năm sau, ông lại thăm Fayetteville. Một người thay mặt dân chúng, thưa với ông:

- Châu thành này là của ông, ông đến đây là đến giữa con cái của ông! Cái gì cũng của ông hết. Xin ông cứ tự ý.

Ông ở chơi Hoa Kỳ lần này hơn một năm, nhận thấy rằng bốn mươi tám năm sau khi giành được độc lập, quốc gia đó tiến triển rất mau, đã thay đổi hẳn và ông than thở: «Nếu cuộc cách mạng 1789 cứ tiến đều đều theo cái đà lúc đầu thì bây giờ nước Pháp đã ra sao rồi!».

Đầu tháng 9 năm 1825, ông xuống tàu Brandywine về Pháp. Louis XVIII đã băng. Charles X lên ngôi. Vẫn chẳng có gì thay đổi, có phần còn chuyên chế hơn nữa. Cách mạng 1830 nổ, Charles X trốn qua Anh. Louis Philippe lên thay, ông này có tư tưởng rộng rãi hơn một chút. Lafayette muốn ủng hộ ông để thành lập một chế độ lập hiến thật sự, nhưng thấy nhà vua không thành tâm, ông lại phản đối.

Mấy năm cuối cùng, ông ủng hộ phong trào thợ thuyền ở Lyon, phong trào độc lập ở Bỉ, Ba Lan, Ái Nhĩ Lan, Bồ Đào Nha.

Khi thợ thuyền ở Lyon nổi dậy, đòi cải thiện đời sống khốn nạn, lam lũ, làm việc 14 giờ một ngày, mà vẫn đói rét, bệnh tật, vua Louis Philippe một mặt ra lệnh đàn áp, một mặt vuốt ve, hứa hão. Ông bất bình, lên diễn đàn đả đảo Casimir Périer vì ông này tuyên bố rằng trật tự đã lập lại ở Lyon:

- Ông nói trật tự đã lập lại là thứ trật tự nào đó? Có bao nhiêu người chết? Bao nhiêu kẻ bị hiếp dâm? Bao nhiêu ngôi nhà bị tàn phá? Bao nhiêu đám cháy? Thứ trật tự đó không có giá trị gì cả.

Périer đáp:

- Quân đội không giết một người thợ Lyon nào cả. Không có sự đổ máu.

- Nếu vậy thì đáng mừng. Nhưng chính phủ có phát bánh cho họ không? Xin ông Chủ tịch nhớ rằng những thợ đó chiến đấu để khỏi bị chết đói. Khẩu hiệu của họ là gì: «Làm việc mà đủ sống, nếu không thì chiến đấu đến chết!».

Périer dịu giọng:

- Chính phủ đã khuyên chủ nhân tăng lương cho thợ. Chính phủ chỉ lo giữ trật tự thôi.

- Này ông! Một quan niệm như vậy là sai! Nếu một quốc gia để cho một số người được tự do bắt kẻ khác chết đói, thì quốc gia đó sắp đến bước độc tài rồi! Như vậy thì chúng ta hy sinh cho cách mạng để làm gì?

Ngày 20.6.1834, ông tắt nghỉ sau mười ngày đau nặng. Lúc gần mất, ông đưa tay rờ chiếc mề đay mà từ khi bà mất ông vẫn đeo ở cổ. Một mặt mề đay có hình bà, chung quanh là hàng chữ: «Em hoàn toàn là của anh», mặt sau ông cho khắc những lời này của bà: «Em là người vợ hiền của anh ư? Nếu vậy thì anh cầu Trời phù hộ cho em đi». Ông đã không bất công với bà nữa.

Người ta chôn ông ở bên cạnh bà. Báo Moniteur khen ông: «Ông Lafayette hơn người ở chỗ lúc nào cũng hoàn toàn bình tĩnh, can đảm lạ thường, và có một tinh thần bất khuất...».

Ông chết rồi mà chính phủ còn sợ ông, cấm quốc dân gây rối trong đám táng. Trong số người đi sau linh cữu, có Chateaubriand. Tối về, văn hào này chép vào nhật ký: «Lên tới chỗ cao nhất của các đại lộ, xe tang ngừng lại và tôi thấy nó rực rỡ, ánh chiếu hồng hồng trong đám nón của binh sĩ, rồi bóng tối xuống và nó khuất dạng».

Trên quan tài người ta phủ một lớp đất của Hoa Kỳ. Hiện nay bên cạnh mộ vẫn còn cắm một ngọn cờ Hoa Kỳ. Và trên một thế kỷ rưỡi nay, ngày nào nhà thờ Picpus cũng cầu nguyện cho ông bà và những người nằm trong cái huyệt chung ở bên cạnh.

Tôi đã để tiểu sử của ông bà Lafayette trong tập Ý Chí Sắt Đá vì suốt đời ông bà đã cương quyết thực hiện lý tưởng cách mạng, mặc dầu gặp không biết bao nhiêu trở ngại. Tôi nghĩ giá chép vào tập Gương hy sinh thì cũng vẫn đúng vì cả hai ông bà đều đã phá sản để hy sinh cho Tự do, cho Tổ quốc, nhất là bà đã tận tụy một đời cho sự nghiệp của chồng, cho hạnh phúc của người thân. Những điều tôi phục nhất ở ông là lòng trung thành với nguyên tắc của mình, không khi nào chịu dùng phương tiện bỉ ổi để đạt mục đích, dù thân bị giam, bà con bị giết mà vẫn một lòng với cách mạng; và điều tôi phục nhất ở bà là lòng tiết tháo và đức khoan hồng, rất ngoan đạo mà vẫn kính yêu một ông chồng không tin Chúa, cùng với chồng bênh vực tín đồ Tin Lành, lại tha thứ cho những kẻ đã ngược đãi bà, ngược đãi chồng bà, đã giết hại ba người thân nhất trong gia đình bà. Ở một thời mà các đảng phái, các tôn giáo chỉ gây biết bao sự chia rẽ, biết bao sự đổ máu thì đức khoan hồng là đức cao đẹp hơn cả.

Chú thích:

(1) Sau Monroe được bầu làm tổng thống Hoa Kỳ luôn hai khóa 1816 - 1820 và 1820 - 1824.

(2) Ta nên nhớ Bonaparte vốn là người Corse.