← Quay lại trang sách

Phần I- 1

Năm mẹ con đã ngồi bên bàn ăn thì Thúc mới lững thững bước vào, tay cầm tờ báo. Ông có thói quen vừa xem báo vừa ăn cơm, và tuy là giáo sư dạy moan triết học, ông vẫn ham mê tiểu thuyết võ hiệp Trung Hoa, nên bao giờ cũng dành chuyện kiếm hiệp ở trang hai tờ báo để đọc trong lúc ăn.

Thúc ngồi vào ghế, tay vớ chén cơm đưa lên miệng, mắt vẫn không rời tờ báo, không nhìn rõ bàn ăn có món gì. Uyển, đứa con gái đầu lòng, nói trêu Thúc:

- Để con gắp thức ăn vào chén cho Ba nhé?

Thúc lặng lẽ chìa bát cho con gắp thức ăn. Vợ Thúc lườm chồng, nửa bực dọc, nửa âu yếm:

- Cái gì mà bữa ăn nào cũng chúi mũi vào báo… Già rồi mà còn mê tiểu thuyết như con nít…!

Thúc đã có tuổi, nhưng tâm tính hồn nhiên và trẻ… Vợ chàng sinh được bốn người con—điều là gái—rồi tắt đẻ. Bốn cô đều đẹp, mỗi đứa đẹp một vè riêng biệt, cũng như tính nết họ, chẳng đứa nào giống đứa nào… Uyển hai mươi hai tuổi, đẹp dữ dội, lồ lộ, khêu gợi… Diễm hai mươi tuổi, đẹp kín đáo, mơ màng, đầy sức quyến rũ ngấm ngầm. Huyền mười tám tuổi, đẹp kỳ lạ, vì đôi mắt nàng hơi lác (lé). Phải nhìn kỹ, mới nhận ra đôi mắt nàng lác, nhưng đã nhìn kỹ thì không tránh khỏi bị đôi mắt của Huyền thôi miên. Lạ nhất là gương mặt Huyền không giống cha, không giống mẹ, không giống các chị em, và đôi mắt Huyền ngày từ lúc mới đẻ đã mang một bí mật mà chính Huyền không biết, cho nên Huyền không những ít nói, mà còn hay buồn, thích đi tu… trái hẳn với cô gái út là Tuyết mười sáu tuổi, đẹp một cách Tây Phương, ngổ ngáo, ranh mãnh.

Bốn cô con gái đến tuổi lấy chồng trong một nhà, nếu không phải là một tai va, thì ít nhất cũng là một mối đe dọa thường xuyên cho vợ chồng Thúc. Nhưng được cái bốn đứa đều đẹp, và vợ chồng Thúc rất mực thương yêu con—không lấy chuyện không có con trai làm buồn—nên gia đình Thúc lúc nào cũng vui, nhộn, đầm ấm, tấn nập khách khứa. Đối với những người thường lui tới nhà Thúc, từ ông thầu khoán triệu phú, muốn đem túi bạc mua chuộc cô Uyển lồ lộ, đến cậu sinh viên lãng mạn, kiết lõ đít, chết mệt vì đôi mắt huyền bí của Huyền. Thúc vì mang sẵn tâm trạng hoài nghi của một triết gia, nên vẫn cho là họ mò đến thăm Thúc, không phải vì Thúc mà là vì lũ con Thúc. Đã từng điêu đứng, đau khổ vì yêu, Thúc thường có thái độ phóng khoáng, dễ dãi đối với những gã “lăm le bắn sẻ”; và riêng đối với những anh chàng nhút nhát, hoặc ít có hy vọng chiếm được trái tim lũ con Thúc, thì thái độ khoan dung, dễ dãi của Thúc lại càng bộc lộ rõ rệt, gần như là khuyến khích, nâng đỡ, bày mưu thiết kế giùm họ, để may ra họ thủ thắng những tình địch lợi hại, nhiều bản lĩnh hơn. Vì vậy, trong gia đình, vai trò của Thúc nhiều khi chỉ là vai trò một tối cao cố vấn, chuyên đứng về phe những “cây si” yếu thế để ủng hộ họ, và gián tiếp phá đám những kẻ mà Thúc gọi là bọn “tình phiệt”, cậy có tiền, có tài, có địa vị, có đủ phương tiện chiến thắng dễ dàng hơn. Chả thế mà vợ Thúc vẫn không ngớt rầy la chồng vì không những Thúc không tìm cách kiếm giai tế, chàng còn ngang nhiên “bàn ra”, chứ không “tán vào”, khiến lũ con Thúc đã từ khước nhiều đám rất “sộp”, làm vợ Thúc tiếc ngơ tiếc ngẩn. Sở dĩ Thúc ngấm ngầm phá đám có lẽ vì Thúc quá thương yêu con, không muốn chúng sớm đi lấy chồng. Trong cả một đời hoạt độn, đầy dẫy thất bại, chán chường, Thúc lúc này chỉ còn một an ủi và tự hào cuối cùng là bốn mụn con, bốn “tác phẩm” sống nhất, thực nhất của đời mình. Thúc đã có lần nói với lũ con:

- Bao giờ chúng mày đi lấy chồng hết, thì tao và mẹ mày, mỗi người uống một liều thuốc ngủ là, a-lê-hấp! Về thiên đàng hay địa ngục!

Có lẽ vì thấy Thúc quá thương con, nên cả bốn đứa, mặc dầu rất nhiều đám ngấp nghé nom nhòm, vẫn chưa chính thức nhận lời lấy ai, vẫn tiếp tục theo đuổi việc học: Uyển học năm thứ hai ban Luật học, Diễm mới đậu Tú tài và sửa soạn học Dược khoa, Huyền đang chuẩn bị thi nốt Tú tài phần hai, còn Tuyết thì học trường Pháp.

… Đọc hết mẩu chuyện kiếm hiệp, Thúc mợi rời tờ báo, nhìn vào bàn ăn, nhìn vợ và các con, rồi đột nhiên như vừa sực nhớ một tin lạ, Thúc gật gù, mỉm cười, nói với vợ:

- À quên! Có một tin thật khủng khiếp cần nói cho mình và các con rõ…

Hòa—Vợ Thúc—trề môi hỏi ngạo chồng:

- Tin khủng khiếp gì mà mình đọc hết chuyện kiếm hiệp mới nhớ ra?

Vẫn nụ cười bí mật trên môi Thúc:

- Lại thêm một chiến sĩ tình nguyện xung phong ôm những trái bom “ba càng” của nhà này. Mà ông chiến sĩ này thuộc cỡ đại chứ không phải hạng tép riu!

Hòa thở ra:

- Tưởng cái gì! Nhưng ai vậy? Mà hỏi đứa nào?

Thúc buông thong:

- Đạt!

Hòa há hốc miệng, miếng cơm hình như dừng lại nơi cổ họng:

- Sao lại Đạt! Đạt nào mới được chứ?

Thúc vẫn điềm nhiên:

- Còn Đạt nào nữa! Anh Đạt, bạn của chúng mình chứ còn ai!...

Cái tin Thúc ném ra quả là một trái siêu bom! Vì Đạt vừa là bạn của vợ chồng Thúc—tuy kém Thúc bảy, tám tuổi—vừa là thầy dạy học sinh ngữ của cả bốn chị em từ hai năm nay.

Đạt vẫn một tuần lễ hai kỳ đến nhà Thúc, dạy cả bốn chị em học thêm Pháp và Anh văn. Đạt lại nổi tiếng đứng đắn, khắc khổ, mặc dầu độc thân. Cho nên, Đạt dự định lấy vợ đã là chuyện lạ, mà Đạt dự định hỏi con của vợ chồng Thúc mới lại là chuyện động trời hơn nữa!

Tuyết lém lỉnh, ngổ ngáo, nói như reo:

- A ha! Thế là “thầy” Đạt hỏi chúng con! Nhưng mà thầy Đạt hỏi ai hở Ba? Trong nhà có bốn cô con gái ế chồng, mà Ba không nói rõ thầy chúng con hỏi ai thì chí nguy!

Thúc chỉ vào Diễm, trả lời:

- Hỏi chị Diễm mày đấy!

Hòa trợn mắt, kinh hoàng thêm một lần nữa! Vì bà vẫn đinh ninh là Đạt đã trên, dưới bốn mươi tuổi; nếu Đạt có điên rồ hỏi con gái bà thì tất nhiên Đạt phải hỏi người con gái đầu lòng, lớn nhất là Uyển… nổi tiếng đẹp và sắc sảo nhất, theo ý bà. Thế mà Đạt lại hỏi Diễm!

Uyển cũng không kém ngạc nhiên. Nàng tò mò nhìn Diễm, bất giác hỏi Thúc:

- Sao ông ấy không hỏi con, Ba nhỉ?

Thúc phì cười:

- Sao mày lại chất vấn tao? Tối nay, ông ấy đến dạy học, mày hỏi ông ấy thì biết…

Nhưng người xúc động nhất vẫn là Diễm. Mặt nàng tái đi, khi nghe cái tin “khủng khiếp” của cha nàng, nàng hốt hoảng đến nỗi đôi đũa nàng cầm suýt rời khỏi tay. Diễm vội nắm chặt đôi đũa, che giấu sự bồi hồi của mình bằng cách gắp hết món này đến món khác, đưa lên miệng mà cũng không biết mình gắp cái gì, nhai cái gì. Nhìn nét mặt hốt hoảng của Diễm, một ý nghĩ nghi ngờ đột nhiên thoáng qua óc Hòa, khiến bà bất giác kêu:

- Chết chửa! Hay là?...?...

Đoán biết sự băn khoăn của vợ, Thúc thẳng thắn nói:

- Mình đừng nghĩ bậy về Đạt. Tôi biết hắn đứng đắn. Chính hắn nói với tôi, là trong suốt hai năm dạy tụi này học, hắn chưa hề nói một lời nào có ý “tán” con Diễm, và lần này, trước khi định “tán” con Diễm, hắn nói trước ý định cho tôi biết, để xin phép tôi.

Rồi nhìn về phía các con, Thúc hỏi:

- Ông ấy quả quyết như vậy có đúng không/ Ông Đạt có bao giờ “tán” chúng mày chưa?

Diễm không nói, chỉ lắc đầu. Còn Uyển trả lời bằng một giọng hơi bực tức:

- Mặt ông ta lúc nào cũng lầm lì như chó ăn vụng bột, còn tán tỉnh cái gì! Nhất là vào giờ học, ông ấy lập nghiêm đến con cũng phát hoảng… Ngờ đâu, ông ta cũng chỉ là một “thứ” đạo đức giả… Để tối nay, con xem cái bộ mặt lầm lì của ông ta “tán” cô Diễm nhà tar a sao!

Vợ Thúc lơ đãng nghe Uyển nói, gương mặt trầm ngâm, hầu như bà ta rất khó chịu về cái tin của Thúc, rồi không hiểu nghĩ sao, bà lên tiếng cự nự chồng:

- Hỏi con bạn và học trò của mình làm vợ, thật “chướng” quá! Sao mình không mắng át để ông ta đừng tính chuyện vớ vẩn nữa?

Thúc phì cười:

- Có gì là “chướng”! Chướng hay không chướng là do sự nhận định của mỗi người! Riêng tôi thấy thì cũng chả lấy gì làm chướng. Ít ra, hắn đã đường hoàng, thẳng thắn ngỏ ý kiến trước với mình…

Vợ Thúc lắc đầu:

- Như vậy mà mình còn cho là không chướng thì tôi chịu mình thật. Không những chướng mà còn bất tiện là đường khác! Theo tôi, thì tối nay ông ấy lại, đừng cho ông ấy dạy những đứa nhà này nữa. Bất tiện và mang tiếng lắm!

Thúc trêu vợ:

- Vậy đợi đến tối, hắn lại, nhờ mình đuổi hắn ra dùm.

- Tôi sợ gì mà không đuổi! Nêu không đuổi, cuộc hôn nhân của con Diễm với thằng Khải khó mà thành lắm! Khổ quá! Mình phá các con hoài!

Nghe vợ buộc tội mình một cách vô lý, Thúc chỉ cười xòa như một triết gia vốn coi khinh đàn bà. Sự thật, thì về triết học, không hiểu Thúc có là một giáo sư ưu tú hay không, nhưng ít nhất đối với vợ, chàng xử sự đúng ra vẻ một triết nhân, nghĩa là sẵn sàng chịu thua vợ trong mọi cuộc bàn cãi…

Kinh nghiệm sống đã dạy cho chàng biết, muốn cho gia đình êm ấm, cần nhất là phải chiều vợ, chiều cả những cái vô lý, oái oăm của đàn bà. Thuộc nòi sợ vợ, Thúc chỉ hơn những anh chàng sợ vợ khác ở điểm chàng đã nâng đức nể vợ lên hàng một nghệ thuật, một triết lý, nên chàng sợ vợ mà vẫn có vẻ phóng túng, chớ không đến nỗi co rúm, bần tiện như phần đông những anh chàng sợ vợ. Được cái vợ Thúc, tuy nhiều lúc oái ăm, lý luận ngược đời, bà vẫn là người có học, có tâm hồn, nên chỉ bắt nạt chồng khi nào sự bắt nạt không làm mất nhân cách chồng, cho nên gia đình Thúc vẫn êm ấm, êm ấm trong sự cãi lộn hàng ngày.

Biết vợ sắp sửa bù lu bù loa, Thúc hướng về phía các con, hỏi như phân bua:

- Mẹ mày Ba phá chúng mày! Vậy Ba phá chúng những đám nào, và chúng mày hụt bao nhiêu đức ông chồng vì Ba?

Cả bốn cô gái cùng cười. Tuyết cười lớn nhất, nói trêu bố:

- Kể ra thì Ba không phá đám, nhưng thỉnh thoảng Ba ưa ra một vài nhận xét “giết người” về những ông “prétendant” của chúng con, khiến chúng con phát ngán họ! Như thế, cũng có thế gọi là “phá” phải không mẹ?

Được con gái út—cục cưng của Thúc—về hùa với mình, Hòa càng được thể tấn công chồng:

- Đúng thế! Chỉ vì Ba chúng mày thường nói ngãng ra, khiến chúng mày õng ẹo, chê hết đám này đến đám khác… Đấy rồi coi: Cứ để yên thì thế nào thằng Khải cũng lấy con Diễm. Nhưng lại thêm ông Đạt nhào vô, thì còn chán chuyện rắc rối. Mà con Diễm thì còn đủ long đong khổ sở. Lắm mối, tối nằm không là vậy!...

Về tình cảm, người đàn bà đánh hơi ít khi nhầm lẫn: Tuy Khải trẻ, đẹp trai, nhiều tương lai hơn Đạt; và tuy Diễm có cảm tình đằm thắm với Khải, thế mà khi nghe chồng báo tin Đạt có ý hỏi Diễm, Hòa tự nhiên lo sợ vẩn vơ cho con gái và thấy Đạt sẽ là tình địh nguy hiểm của Khải, vì bà biết Diễm không những cảm phục Đạt, mà tâm hồn Diễm ngay từ hồi còn thơ dại đã mang hình ảnh Đạt, đã được nhào nặn do bàn tay của Đạt, đã chịu ảnh hương lối suy tư, cảm xúc của con người vừa là thầy dạy—kỹ sư sư tâm hồn của Diễm—vừa là bạn học của Hòa, vừa là bạn đồng sự của Thúc. Hòa lại hay xem tướng, và bà thấy tướng Đạt lá tướng những người chuyên mang tai họa, sóng gió đến cho mọi người. Cho nên bà đón cái tin Đạt định hỏi con gái mình, như đón một tai vạ. Không phải là bà không có cảm tình với Đạt. Trái lại, chính vì bà có cảm tình với Đạt mà bà thấy oán giận Đạt tại sao lại rắp tâm hỏi Diễm làm vợ.

Nét mặt đăm chiêu, Hòa cau có hỏi chồng:

- Nhưng sao mình không nói cho ông ta biết là con Diễm đã yêu thằng Khải và hai đứa sắp sửa đính hôn?

Thúc thở dài:

- Khổ lắm! Thì tôi cũng nói na ná như bà nói, nhưng hắn trả lời rằng hắn biết con Diễm chỉ mới có cảm tình với thằng Khải, chứ chưa yêu thằng Khải. Hắn lại quả quyết rằng, nếu trong thời gian hai tháng, hắn không chinh phục được tình yêu của con Diễm thì hắn xin rút lui… có trật tự…

Tuyến nhìn Diễm, phá lên cười ròn tan:

- Thật là lộn xộn! Nhưng theo ý Ba, mẹ và các chị thì trong hai cu cậu, “thầy” Đạt và anh Khải, nên chọn “cậu” nào cho chị Diễm! Bắt đầu là Ba!... Ý kiến Ba thế nào?

Thúc gật gù:

- Kể ra thì cả hai người đều xứng đáng! Vậy tốt hơn hết là…

Tuyết cướp lời:

- Tốt hơn hết là chị Diễm lấy cả hai người… Có phải không Ba?

Thúc cười:

- Đại khái như vậy!

Vợ Thúc lườm chồng:

- Quả là ông “ba phải”. Như vậy mà mình cũng dạy triết học, và học trò của mình cũng thi đậu thì thật là chuyện động trời!

Thúc đắc chí:

- Nếu dạy triết học mà không biết “ba phải” thì chỉ có cách tự tử…?

Tuyết xen vô:

- Ba đã phát biểu ý kiến là… chị Diễm nên lấy cả hai người. Bây giờ đến lượt mẹ!

Vợ Thúc lắc đầu mệt mỏi:

- Lại còn ý kiến gì nữa! Đã có hai người điên là ông Đạt và Ba chúng mày… Chả nhẽ con Diễm cũng điên nốt để bằng lòng lấy một người gần tuổi bố mình lại lừng khừng, ngang như cua…

Tuyết bắt chước Thúc, lên giọng triết nhân:

- Biết đâu chị Diễm lại chẳng đien nốt! Bí mật của tình yêu mà lỵ! Nhưng ý kiến mẹ thế là đủ rồi… Đến lượt chị Uyển?

Uyển im lặng nhìn Diễm, rồi cười nhạt trả lời:

- Theo ý chị, Diễm nên lấy “thầy” Đạt!

Không hiểu sao, mọi người đều có cảm tưởng Uyển không thành thực khi bày tỏ ý kiến của mình, tuồng như lòng tự ái của Uyển bị thương vì chuyện Đạt định hỏi Diễm làm vợ… Sự thực nếu Đạt hỏi Uyển làm vợ, thì chắc chắn là Uyển từ chối… Nhưng câu chuyện Đạt rắp tâm hỏi Diễm làm vợ mà không cầu hôn Uyển, vẫn làm cho Uyển khó chịu một cách vô lý… Vô lý hơn nữa là không thiếu gì những người giỏi trai, có địa vị, giàu sang hơn Đạt, đã hỏi Uyển, Uyển đều tàn nhẫn từ chối, chả nhẽ lúc này, Uyển lại ghen tức với em mình…

Tuyết quay về phía Huyền:

- Bây giờ đến lượt chị Huyền. Ý kiến chị thế nào?

Huyền ngồi vào bàn ăn, vẫn im lìm, không thốt một lời. Vì bản tính nàng trầm lặng, nên không ai để ý đến sự nín thinh của nàng! Nhưng khi Huyền cất tiếng nói, mọi người đặc biệt chú ý lắng nghe… Huyền nở một nụ cười từ bi nhưng rất trẻ, nói với em:

- Theo ý Huyền, thì chị Diễm không nên lấy ai trong hai người. Mình không có quyền làm cho ai buồn khổ. Nếu lấy Khải, thì thầy Đạt buồn; nếu lấy thầy Đạt, thì anh Khải buồn. Vậy tốt hơn hết là từ khước cả hai người và tìm một người thứ ba…

Tuyết vỗ tay thích thú:

- Đúng rồi. Tìm một người thứ ba. “Một thằng ăn trộm thứ ba”. “Un troisième larron” có phải không Ba?

Thúc trìu mến bá cổ con gái út:

- Mày lém quá! Tuyết ơi!

Vợ Thúc nhìn Diễm, đột nhiên nhắc lại câu hỏi mà Uyển đã hỏi cha:

- Ừ nhỉ! Sao ông Đạt không hỏi con Uyển mà lại hỏi con Diễm hở mình?

Thúc tủm tỉm cười, đặt tay lên vai Diễm, giọng âu yếm có pha chút chế nhạo:

- Ly kỳ lắm! Theo lời Đạt thì đó là duyên kiếp tiền định. Nếu Diễm không sợ “mắc cở” thì Ba sẽ kể những lời Đạt đã nói cho cả nhà nghe…

Diễm ngẩn mặt, nhìn thẳng vào mắt cha:

- Ba cứ nói… Giữa con và ông Đạt không có gì ám muội cả…

Thúc gật gù:

- Ba biết chứ! Ba biết là không có gì ám muội… Nhưng theo lời Đạt thì con đã có lần hứa với Đạt, sẽ lấy Đạt làm chồng có đúng không?

Diễm mở to đôi mắt kinh ngạc:

- Bao giờ ạ?

Thúc thỉnh thoảng trả lời:

- Cách đây mười năm! Hồi đó… Kháng chiến… Gia đình nhà này tản cư lên Tuyên Quang… Đạt cũng chạy lên Tuyên, thường lui tới dạy thêm lũ trẻ nhà này. Con Diễm, năm đó, chỉ mới đọ bảy, tám tuổi, cả ngày chỉ quấn quit bên “chú” Đạt của nó. Theo lời Đạt thì có một buổi, Diễm bị mẹ mắng, khóc thúc thít, Đạt bèn đưa Diễm ra suối tắm. Nó công kênh con bé ra giữa dòng suối, và trong lúc hai chú cháu nô rởn với nước, Đạt hỏi con Diễm: “Nhớn lên, cháu làm gì?”, thì con Diễm trả lời thon lỏn: “Nhớn lên, cháu lấy chú Đạt”… Vì Đạt không quên lời mày nói hồi nhỏ nên bây giờ mới có ý định hỏi mày làm vợ… Có đúng vậy không con?

Cả nhà phá lên cười. Diễm lặng người, mặt đỏ như gấc, không biết trả lời sao. Những lời Thúc nói vụt làm trỗi dậy trong tâm hồn nàng, một kỷ niệm từ tiềm thức dâng lên: Diễm đột nhiên nhớ lại—một cách rành mạch như thấy hiển hiện trước mắt—cái buổi chiều có nắng thu, Đạt cầm tay nàng, xềnh xệch lôi nàng trên con đường mòn đưa tới suối, và nàng lật đật chạy theo Đạt, thỉnh thoảng lại nấc lên một tiếng vì cơn khóc mới chấm dứt… Diễm nhớ lại từng chi tiết khung cảnh chiều hôm đó, từng cử chỉ của Đạt, nhớ lại cả khuôn mặt lầm lì và cái nhìn nghiêm khắc của Đạt, khi Đạt cởi quần áo cho nàng, bế nàng xuống nước… Diễm như sống lại cái cảm giác mênh mông khi nước suối lành lạnh mùa thu làm nàng ôm chầm lấy Đạt và Đạt công kênh nàng lên vai, đưa nàng ra giữa dòng suối, khiến Diễm vừa sợ, vừa thích. Kỷ niệm thời thơ ấu đó, Diễm đã quên khuấy từ lâu, thế mà chỉ một lời nhắc nhở của Thúc cũng đủ làm cho tất cả cái dĩ vãng xa lắc, xa lơ, tưởng chừng như đã chết, lúc này vụt sống lại, khiến nàng ghẹt thở vì xúc động trước sự hiển hiện của quá khứ. Diễm nhớ lại… nhớ lại tất cả từ bầu trời vàng đến khúc sông xanh, tất cả những mầu sắc mơ hồ của buổi đi tắm suối… Diễm hình dung cả nét mặt rạng rỡ của Đạt khi nàng hồn nhiên và ngây ngô trả lời Đạt: “Nhớn lên cháu lấy chú Đạt”, và Diễm chợt hiểu, như nghe một người mù chợt nhìn thấy ánh sáng… Diễm chợt hiểu tại sao từ trước đến nay, Diễm vẫn cảm thấy mình bị ràng buộc với Đạt một cách thật tha thiết, âm thầm mà không cắt nghĩa nổi. Thì ra cái kỷ niệm thời thơ ấu—mặc dầu nàng đã quên khuấy từ lâu—vẫn ngấm ngầm tác động, chi phối cuộc đời tình cảm của nàng…

Nhìn gương mặt đỏ, rồi tái nhợt của Diễm, Hòa lo lắng hỏi con:

- Chết chửa! Mày hứa thực, hở con?

Diễm ấp úng:

- Hơn mười năm rồi, làm sao mà nhớ lại được…

Tuyết ôm lấy chị, xoa đầu như xoa đầu một đứa con nít, cười nghiên ngả:

- Thôi chị Ơi! Chị nói dối không tài bằng em đâu… Thì chị cứ nhận là có nói câu “bất hủ” đó đi! Đời nào, thầy Đạt, kiêm “chú” Đạt rất đứng đắn, nghiêm nghị của chúng con lại bịa chuyện, có phải không Ba?

Thúc gật đầu:

- Có nhẽ Đạt không bịa! Nhưng con Diễm thì chắc là quên thật rồi. Vả lại, chuyện trẻ con thì dĩ nhiên là ngô nghê, vô lý. Dù Diễm có nói vậy, cũng chỉ là chuyện thường tình của trẻ con…

Tuyết lắc đầu lia lịa:

- Con thì không cho là chuyện trẻ con thường tình như Ba nói, mà là chuyện nghiêm trọng lắm! Chị Diễm mới lên bảy tuổi, mà đã đã đòi lớn lên lấy “chú” Đạt, thì đó là triệu chứng chị Diễm đã “mê” ông Đạt ngay từ thời thơ ấu rồi! Cái đó mới nguy hiểm, chứ đâu phải chuyện “trẻ con” hở Ba?

Tuy biết là Tuyết trêu cợt chị, Hòa vẫn cho lời Tuyết là đúng và sự lo sợ của bà không phải là không có lý do. Tự nhiên bà thấy cần phải mắng át Tuyết:

- Mày chỉ nói nhảm. Con Diễm nào mê cái ông Đạt dở người đó!

Rồi bà quay lại cự chồng:

- Mà mình cũng lẩn thẩn nốt! Câu chuyện trẻ con và vớ vẩn như vậy, mình cũng đem ra kể, thật vô lý hết sức.

Thúc cười xòa:

- Ơ kìa! Thì cũng tại mình muốn biết vì sao Đạt lại định hỏi con Diễm mà không hỏi con Uyển, nên tôi phải thuật lại cho mọi người nghe…

Rầy la chồng, con rồi, vợ Thúc vẫn còn bực tức và thấy cần phải triệt hạ uy tính Đạt, tìm xem Đạt có gì xấu để phanh phui ra, không phải cho bõ ghét, bõ giận, vì thực tình bà cũng không ghét gì Đạt, nhưng cốt là để lại hẳn Đạt “ra ngoài vòng chiến” như lời Tuyết thường nói, ngõ hầu Diễm sẽ không còn bao giờ tơ tưởng đến Đạt, không còn lẩm cẩm so sánh Đạt với Khải nữa. Bởi vì, tuy Khải có đầy đủ ưu thế hơn Đạt, bà vẫn nơm nớp lo ngại Diễm sẽ vì Đạt, bỏ Khải, thì thật là một tai họa. Thế bất lợi đầu tiên của Đạt là tuổi của Đạt. Cho nên bà tấn công liền:

- Tuổi thật của ông Đạt bao nhiêu mình nhỉ? Đã đến bốn mươi lăm chưa?

Thúc vô tình bên vực Đạt:

- Làm gì tới! Trông hắn trẻ hơn tôi nhiều!

Hòa bĩu môi:

- Trẻ hơn mình? Già hơn thì có! Tôi trông ông ta lụ khụ, vai lại so như người nghiện dở. Biết đâu ông ta chẳng hút á phiện!...

Biết mẹ cố tình “tố khổ” Đạt, Tuyết vờ về hùa với mẹ:

- Đúng thế. Trông Ba còn trẻ hơn ông Đạt nhiều… Chưa biết chừng ông Đạt đến năm mươi tuổi cũng nên!

Thúc cười ngất:

- Sao mày không bảo là Đạt bảy mươi tuổi cho mẹ mày vui lòng!

Vợ Thúc cũng phì cười. Nhưng bà vẫn chưa chịu thôi. Bà tấn công luôn đợt hai:

- Nghe nói ông ta cũng lăng nhăng lắm phải không, mình?

- Đâu có! Các bạn bè đều nói hắn sống khắc khổ như thầy tu…

- Sao nghe nói ông ta có một đứa con riêng… Khắc khổ như thầy tu mà cũng có con riêng thì khắc khổ ở chỗ nào?

Tuyết đỡ lời mẹ, tố thêm:

- Mẹ nói chí lý lắm! Khắc khổ mà có con riêng thì khắc khổ ở cái “khổ” nào? Ông Đạt có con riêng thật hở Ba?

- Ông ấy có con riêng thực… Nhưng đứa con riêng đó hình như không phải con ông ta!

Vợ Thúc lắc đầu:

- Ai mà chịu được chuyện của mìh… Đã là con riêng mà vẫn không phải con ông ta, vậy thì con ai?

Huyền vốn ít nói, cũng xen vào:

- Chắc là con của Ba, phải không mẹ?

Mọi người đều cười… Thúc nói với Huyền:

- Mày ác lắm con ạ! Mỗi lần cóc mở miệng thì y như có chuyện! Mày chỉ cần thêu dệt một vài chi tiết, đặc thêm một vài nghi vấn nữa là mẹ mày sẽ đinh ninh đứa con của Đạt là con tao, cho mà coi!

Vơ Thúc chăm chú nhìn chồng:

- Biết đâu đấy! Đàn ông có trời cũng không hiểu nỗi…

Thúc nói như reo với các con:

- Biết ngay mà! Mẹ mày đã bắt đầu nghi ngớ rồi! Chúng mày cứ việc “tố” thêm vào…

Uyển tò mò hỏi cha:

- Nhưng câu chuyện ly kỳ thế nào mà đứa con riêng của ông Đạt lại không phải là con thực của ông, thưa Ba?

- Tao cũng không biết rõ. Nghe đâu…

Huyền ngắt lời cha:

- Chuyện này con biết tường tận lắm. Để con kể thay Ba cho cả nhà nghe…

Uyển cau đôi lông mày:

- Phá hoài! Mày mà biết chuyện… Để yên cho Ba kể…

Huyền điềm tĩnh trả lời chị:

- Em biết thực mà! Em biết vì chính ông Đạt đã kể cho em nghe, chính ông Đạt đã đưa em tới gặp đứa con riêng của ông!

Tuyết lên tiếng:

- Có nhẽ chị Huyền biết chuyện thực. Ông Đạt xem chừng ưa tâm sự với chị Huyền lắm…

Huyền gật đầu:

- Đúng! Những bí mật của ông Đạt, ông chỉ kể cho một mình Huyền biết. Câu chuyện đứa con riêng của ông đáng nhẽ Huyền không có quyền nói ra, nhưng vì mẹ đả động tới và ông Đạt định hỏi chị Diễm, nên Huyền thấy cần phải kể cho cả nhà nghe…

Nghe Huyền nói, vợ Thúc mở to đôi mắt nhìn con. Bà không thể nào tưởng tượng nổi, cô con gái vốn dịu dàng, trầm lặng, thích đi tu của bà, lại biết cả những chuyện thầm kín nhất của Đạt, lại có thể ăn nói một cách “bà cụ non” như Huyền vừa nói. Thì ra, mỗi cô con gái của bà đều là một thế giới riêng rẽ, đầy bí mật mà bà không biết, không hay!

- Mày đã đến thăm con riêng ông ấy, có thực không?

- Dạ. Thằng bé thông minh và bướng bỉnh ghê, mẹ ạ! Con định xin phép Ba, mẹ nhận nó làm em nuôi có được không mẹ?

Thúc hỏi đùa:

- Nhưng mày có thấy nó giống tao ở điểm nào không? Tao lo quá!

Huyền tủm tỉm cười:

- Nó không giống Ba, nhưng rất giống con ở một điểm.

- Điểm nào?

- Nó cũng hơi lé mắt như con và…

Mọi người cười ngất. Thấy câu chuyện đi quá xa, Uyển giục em:

- Mày biết thì kể đi… Con cà con kê mãi…

Huyền vẫn thong dong:

- Chị khỏi phải sốt ruột… Chuyện ly kỳ như tiểu thuyết nhưng hơi dài… Vậy mẹ có chịu nghe không?

- Thì kể đi… Giáo đầu hoài!

Và Huyền bắt đầu kể câu chuyện mà cách đây một năm Đạt lần đầu tiên kể cho Huyền biết:

“… Năm 1949… Kháng chiến… Hằng cùng mẹ di cư về miền Mỹ Đức, Hà Đông. Là một nữ sinh trường Đồng Khánh, lại có sắc đẹp. Hằng hồi đó là một thanh nữ cứu quốc có tinh thần cao chót vót, yêu nước đắm say. Di cư được ba tháng, mẹ Hằng đột nhiên lâm bệnh, từ trần, Hằng sống trơ trọi một mình với mấy chục lạng vàng do mẹ nàng để lại… Hằng tha thiết muốn tham gia vào phong trào phụ nữ địa phương, nhưng các chị em địa phương hầu hết là nông dân nên có thành kiến, tỏ thái độ e dè, ngờ vực đối với nàng, mà họ liệt vào thành phần “tạch tạch sè” (tiểu tư sản) phản động. Hằn ức lắm, ức nhất là nhiệt huyết sôi sùng sục trong huyết quản, thế mà nàng hầu như bị gạt ra ngoài cuộc chiến đấu, lại còn bị mọi người ở địa phương nghi ngờ, theo dõi là đằng khác…

… Hằng không biết làm gì cho khuây khỏa, bèn mở một cái quán bình dân, bán sôi, chè, bánh chưng, bánh rợn v.v… Không phải là để mưu sinh, vì nàng còn mấy chục lạng vàng của mẹ để lại, nhưng cốt là cho các “đồng chí” cán bộ, quân nhân đi công tác qua đó, có chỗ dừng chân, ăn quà. Đặc biệt đối với các an hem cán bộ, nàng chỉ lấy một chút ít tiền tượng trưng hoặc không lấy tiền gì cả.

Nàng đẹp, trẻ, lịch sự, lúc nào trên môi cũng sẵn nụ cười quyến rũ, nên chẳng bao lâu, quán của nàng tấp nập khách.

Đối với ai, nàng cũng niềm nở tươi cười, nên người thanh niên nào cũng tưởng nàng có tình ý riêng với mình, nhưng thực ra thì nàng không để ý tới ai hoặc chưa thèm để ý tới ai. Trong những người thanh niên thường lai vãng tới quán Hằng, và rất say mê nàng, có hai chàng: một thanh niên du kích phụ trách việc canh gác ở cổng làng Mỹ Lý, sát ngay quán bán hàng của nàng, và một đại đội phó quân đội chính qui, thuộc đơn vị đang đóng trong làn Mỹ Lý. Anh đại đội phó có bộ mặt đẹp trai lại kiêm chức chính trị viên đại đội, nên không khỏi có chút tự kiêu, tưởng mình đã lọt vào mắt xanh người đẹp; tuy nhiên, vốn là một bạch diện thư sinh nhát gái, đã nhiều lần anh định thổ lộ tâm tình với nàng mà vẫn dụt dè, chưa dám khai khẩu. Còn anh dân quân du kích thì cục mịch, hiền lành, anh thấy nàng cười với anh thì anh vội suy luận một cách giản dị rằng: “Nàng cười với ta thì tất phải yêu ta”. Nhưng anh càng mê nàng thì càng câm nín, chỉ biết ngẩn người nhìn nàng không chớp mắt, thỉnh thoảng thở dài…

Một bữa nọ, gió mùa Đông lùa vào tâm hồn trống trải của anh đại đội phó si tình. Anh bèn đội mưa, mò đến quán của Hằng, với ý định cương quyết là lần này cóc sẽ mở miệng…

Nhưng khi anh tới thì cái quán bé nhỏ của nàng đầy nghẹt khách. Anh đại đội phó—tên anh là Thanh—ngồi đợi hai tiếng đồng hồ, mà hết đám này tới đám khác, khách vẫn không vãn. Anh nhìn Hằng, đôi má ửng hồng, cái ngực căng phồng, lồ lộ sau làn áo cánh “phin” noon, anh nhìn nàng lòng rạo rực, bấn loạn đến phát sốt, phát rét. Rồi đột nhiên, không hiểu anh nghĩ sao, anh đứng lên, quả cảm như một chiến sĩ ra mặt trận, anh tiến lại gần nàng, đường hoàng dõng dạc nói với Hằng:

- Mời cô vào nhà trong, tôi cáo chút việc riêng muốn nhờ cô…

Hằng không nghi ngờ gì cả, đinh ninh Thanh có chuyện gì quan hệ, vội “dạ” một tiếng rất ngoan, rồi đứng lên thẳng thắn, lịch sự mời Thanh:

- Xin mời anh vào trong nhà…

Nhưng khi anh theo gót Hằng bước vào nhà trong thì anh hết hùng dũng, ba hồn bảy vía của anh đã bay lạc đi đâu mất… Bao nhiêu câu tỏ tình đẹp đẻ, lâm ly anh đã nghiền ngẫm, học thuộc lòng trong những đêm không ngủ, để nói với nàng, thì lúc này anh quên phứt tất cả. Thần trí bàng hoàng, anh chỉ thốt ra được một câu bất ngờ, thật kinh khủng như có ma quỉ nào nhập vào anh, mượn miện anh, nói lên câu đó, chứ không phải anh định nói. Vì anh đã ghé vào tai Hằng, và qua hơi thở, thỉ vỏn vein nói một câu tỏ tình gọn thon lỏn, rất duy vật:

- Thèm quá, ủng hộ một tý…

Người thiếu nữ mở to đôi mắt kinh ngạc nhìn anh và mãi tới ba mươi giây đồng hồ sau, nàng mới hiểu… Nàng suy nghĩ rất nhanh, rồi nét mặt không biến đổi, không giận mà cũng không “thẹn”, nàng điềm tĩnh, hơi buồn bảo anh:

- Xin vâng! Nhưng anh đợi một lát, khách về hết đã!...

Bom của thực dân nổ bên tai Thanh cũng chưa làm cho Thanh kinh hoàng bằng khi nghe câu trả lời “khứng chịu” của Hằng. Vì sau khi Thanh thốt ra câu bất hủ kể trên, mà thấy mình vẫn còn sống, vẫn chưa độn thổ cho đỡ xấu hổ, thì anh đứng sững, chờ nàng sẽ tát vào mặt mình, hoặc ít ra cũng nổi cơn thịnh nộ, chửi bới cho chàng một trận xứng đáng… Thế mà nàng không tát, không mắng chửi, lại “khứng chịu” một cách bình thản, không e lệ, thẹn thùng, thì còn trời đất nào hiểu được!

Thanh vẫn còn ngẩn ngơ, cho rằng tai mình đã huyễn hoặc mình, chứ không bao giờ nàng có thể “khứng chịu” thì Hằng đã bình tĩnh nói tiếp:

- Anh ngồi đây. Tôi ra nói khéo cho khách hàng về, sẽ trở vào…

Thanh bàng hoàng ngồi xuống mép giường. Anh mở to đôi mắt tháo láo, mà vẫn ngờ chiêm bao, vẫn chưa ý thức được rằng chỉ một lát nữa, người thiếu nữ, chàng hằng mơ ước, sẽ hiến dâng tấm thân ngà ngọc “ủng hộ” chàng, theo ý muốn của chàng! Thốt nhiên, Thanh sợ seat nhìn ra phía ngoài, tưởng chừng Hằng sắp sửa tri hô lên, gọi người vào bắt mình. Nhưng anh thấy Hằng vẫn dung dị, và khi anh nghe Hằng xin lỗi khách hàng để đóng cửa quán sớm hơn thường lệ, vì “mắc bận, phải đi với đồng chí đại đội phó”, thì anh thở ra một hơi dài, trút hết lo âu… Anh rút mùi soa trong túi quần, lau bộ mặt đẫm mồ hôi của anh, vì giữa mùa đông rét căm căm của miền Bắc, anh đã toát mồ hôi như tắm sau khi thốt ra câu tống tình nọ!

Thanh định thần nhớ lại tất cả những câu văn hoa, tha thiết mà anh rắp tâm nói với nàng, anh lại cảm thấy ngượng, xấu hổ một cách sung sướng… Thanh cố bình tĩnh xếp đặt một vài câu đẹp đẽ khác để lát nữa, sẽ nói tạ tội với người đẹp, nhưng mười lăm phút sau, khi nàng điềm tĩnh, nghiêm trang bước vào, thủng thẳng đóng cửa và nói với chàng bằng tiếng pháp: “Je suis prête” (Tôi đã sẵn sàng), thì chàng lại líu lưỡi, quên tất cả những điều mình định nói. Đôi mắt khờ dại đi, anh chỉ biết vụng về ôm choàng lấy nàng, hơi thở đứt đoạn từng hồi, phả vào mặt Hằng, khiến Hằng nhắm mắt, buông thõng hai tay…

Nhưng nhất cử nhất động của anh đại đội phó từ lúc đầu bước chân vào quán, cũng như nhất cử nhất động của Hằng đều không lọt qua mắt anh dân quân du kích lúc đó đứng gác ngoài điếm canh. Cho nên mặc dầu mưa phùn gió rét, anh dân quân du kích—tên anh là Đa—cũng thấy mặt mình nóng bừng và mồ hôi toát ra đầm đìa hơn cả anh đại đội phó, khi thấy người thiếu nữ và anh thầm yêu, trộm nhớ, bước vào nhà trong, đóng cửa lại… Căm hờn—không phải căm hờn giai cấp—dâng lên làm méo xệch cái mặt không còn là mặt người của anh nữa và giọng anh lạc hẳn đi khi anh nói không thành tiếng với các bạn đồng đội:

- Cô Hằng đang bị thằng đại đội phó hiếp dâm… Mau vào cứu cô, cá đồng chí!

Rồi anh vác dáo chạy ập tới. Các bạn đồng đội của anh ngơ ngác không hiểu sao, cũng vác dáo chạy theo anh.

Thanh vừa nhập thiên thai… thì bị bắt quả tang… được anh dân quân du kích tình địch trói chặt chẽ, hơn cả những khi anh trói Việt gian.

Biên bản lập xong, dân quân du kích bèn giải hai người lên uỷ ban huyện, rồi lên ủy ban tỉnh, nhưng vì Thanh là quân nhân, người ta lại phải giải hai người lên Tòa án Binh liên khu.

Hồi đó, Đạt vì có chút vốn về luật học nên chui vào làm Dự thẩm ở Tòa án Binh để tránh những con mắt dò xét của Việt Minh. Sắc đẹp và trí thông minh, hiểu biết của Hằng khiến Đạt đặc biệt lưu ý tới cái “cá Hằng bị “hiếp dâm”. Anh tò mò tìm hiểu tâm trạng thực của Hằng khi đem thân mình hiến cho anh đại đội phó. Anh không khòi sửng sốt khi Hằng tiết lộ cho biết, là mặc dầu nàng đã sẵn sàng hiến thân cho Thanh, nhưng vì cả hai người đều ngờ nghệch, nên Thanh chưa phá được tiết trinh của nàng, thì dân quân du kích đã ập vào! Hỏi Hằng tại sao một thiếu nữ còn trong trắng như nàng, lại có thể “khứng chịu” một cách quá dễ dàng thì Hằng đã thẳng thắn trà lời rằng cô không yêu Thanh và cũng không thèm muốn xác thịt, nhưng cô tự cho là “ủng hộ” anh đại đội phó, tức là phụng sự dân tộc…

Nghe Hằng nói, Đạt mỉm cười, bảo Hằng:

- Cô lãng mạn quá, nên tự đánh lừa được cả mình! Cô không yêu người đại đội phó, không thèm khát sinh lý mà lại dễ dàng tự hiến thân cho người ta. Ai mà hiểu nổi! Vậy tôi hỏi cô: Giả thử người nói với cô, câu “Thèm quá, ủng hộ một tý” không phải anh đại đội điển trai Thanh, mà là anh chàng “răng đen mã tấu” dân quân du kích, thì liệu cô có dễ dàng ưng chịu không?

Nàng trả lời không lưỡng lự:

- Tôi chẳng cần suy nghĩ cũng có thể trả lời ông! Tôi đã nói quả quyết tôi không yêu Thanh. Vậy nếu Đa ngỏ ý, dĩ nhiên là tôi không khước từ cũng như tôi không khước từ Thanh…

Đạt làm ra vẻ nghiêm nghị:

- Cô bảo là cô không khước từ! Vậy nếu tôi cho gọi người dân quân du kích vẫn thầm yêu cô tới đây để người đó chính thức yêu cầu cô “ủng hộ” thì cô nghĩ sao?

- Tôi ưng chịu liền, chứ còn nghĩ gì nữa! Lập trường của tôi dứt khoát…

… Chiều hôm đó, Đạt thuật những lời Hằng đã nói trong cuộc thẩm vấn cho viên Chánh án Tòa án Binh nghe. Chánh án Tòa án Binh hồi đó, vốn là một đồng bào dân tộc thiểu số, “hảo ngọt” hơn ai hết. Từ khi thấy mặt Hằng, ông Chánh án cũng cay cú lắm, nhưng nghĩ mình “phương diện quốc gia”, ông chưa dám làm ẩu, đương nghĩ cách chiếm đoạt nàng một cách êm thấm… thì nghe Đạt kể, ông bèn nảy ra một kế: ông sẽ dùng Đa làm con bài thí nghiệm, làm kẻ mở đường. Nếu Đa xin “ủng hộ” mà được nàng ưng chịu thì đến lượt ông xin “ủng hộ”, nàng cũng sẽ ghe theo! Bởi vì, tuy là Chánh án Tòa án Binh liên khu, ông vẫn chưa gội rửa được những mặc cảm tự ti của một người dân thiểu số, ít học, nên rất ngại cái trí thức lém lỉnh của các cô con gái kinh kỳ, vì ông là người sợ tán gái, tuy ông rất thèm gái.

Thấy viên Chánh án định thực hiện cuộc thử thách đối với Hằng, Đạt đâm hoảng vì anh không muốn do cái trò anh bày đặt ra mà Hằng mất trinh tiết… Đạt bèn tìm cách phá cuộc thử thách, nhưng anh càng khuyên can viên Chánh án đừng làm, thì viên Chán án lại càng nhất quyết. Ngay chiều hôm đó, viên Chánh án cho liên lạc viên đi gọi người dân quân du kích làng Mỹ Lý…

Đạt thầm cầu mong Hằng sẽ không đến nổi điên rồ, tự hủy hoại cuộc đời mình với anh dân quân du kích. Nhưng ba ngày sau, lối mười hai giờ đêm, Đạt và viên Chánh án ngồi nhấp cà phê chờ đợi tin tức cuộc thử thách, thì từ phòng riêng giam giữ Hằng, Đa trở về; nhìn bộ mặt bẽn lẽn kiểu cô dâu mới về nhà chồng của Đa, Đạt hiểu ngay là điều oái ăm vô lý nhất đã xảy ra: Hằng đã bị phá trinh tiết. Viên Chánh án cười going, hất hàm hỏi Đa: “Thế nào?” thì Đa chỉ cúi đầu, lúng túng, dạ dạ vâng vâng, xem chiều còn xúc động… Riêng Đạt thấy lợm giọng, muốn tát cho viên Chánh án một cái bạt tai mà không đủ can đảm…

Tướng bở, tối hôm sau, viên Chánh án mò tới Hằng, chắc mấm nàng sẽ “ủng hộ” mình như đã ủng hộ anh dân quân du kích. Ai ngờ, không những nàng không chịu mà còn chửi bới, chống cự quyết liệt, cào cắn viên Chánh án người Thổ khoẻ như hùm, nên nàng bị hắn đánh ngã bất tỉnh, và lần này nàng bị hiếp dâm thực sự!

Sáng hôm sau, nàng vẫn không ngớt chửi bới… Sợ viên Chánh án bị nhục, tìm cách thủ tiêu nàng, Đạt thỏa thuận với người chính trị viên của đơn vị, bố trí cho nàng trốn khỏi cơ quan, bảo liên lạc viên đưa nàng về Hà Nội!

Khi Đạt hồi cư, tái ngộ Hằng thì Hằng đã có một đứa con. Không ai đoán được đứa bé là con ai, con anh dân quân du kích si ngốc, hay con ông Chánh án hảo ngọt. Đạt bèn ngỏ ý với Hằng, nhất đứa bé là con. Vì Đạt độc thân mà Hằng từ khi hồi cư cũng không lấy chồng, hai người lại quen nhau từ hồi còn ở bong, nên ai cũng tưởng thằng bé là con của hai người!...”

Kể xong câu chuyện, Huyền rót một ly nước, uống một hơi, nhìn mọi người, thấy ai vẫn im lặng, thì nàng nói tiếp:

- Hết ạ! Ý kiến Ba thế nào?

Thúc im lặng một lát mới gật gù:

- Câu chuyện cũng lý thú đây chứ!

Không biết Hòa có cho câu chuyẹn là lý thú hay không nhưng Thúc đã cho là “lý thú” thì tất nhiên bà phải nói ngược lại, nên bà lắc đầu:

- Chuyện vô lý như vậy mà mình cũng cho là lý thú! Đàn bà đâu có đàn bà thối đến thế!

Thúc gật gù theo kiểu “ba phải”

- Mình nói có lý lắm!

Rồi quay về phía Huyền, Thúc hỏi:

- Mày đã gặp bà Hằng, mày thấy bà ta thế nào, có vẻ “đĩ thối thây” không?

Mọi người đều nhìn Huyền, chờ đợi câu trả lời. Huyền đắn đo một lúc, mới nói:

- Con chỉ gặp một lần nên không dám quyết đoán…

Vợ Thúc nhìn Diễm, nói dằn từng tiếng, cốt để Diễm nghe:

- Thế nào ông Đạt và bà Hằng chẳng dang díu nhau… Chuyện con Huyền kể nghe khó tin quá. Biết đâu thằng bé chẳng là con hai người!

Thúc đưa mắt nhìn các con, tủm tỉm cười, và năm bố con đều hiểu là Hoà cố tình triệt hạ uy tín Đạt, nên Tuyết vội gật đầu lia lịa nịnh mẹ:

- Mẹ nói đúng lắm! Con cũng nghi lắm!

Uyển tò mò hỏi Huyền:

- Bà ta có còn trẻ, đẹp không?

- Không lấy gì làm trẻ, nhưng không phải là không quyến rũ! Bà ta có đôi mắt đẹp, nụ cười bí mật và ngạo đời…

- Em thấy bà ta đối xử với ông Đạt ra sao? Như một người yêu hay một người bạn?

- Dĩ nhiên là hai người thân nhau. Nhưng em không hiểu nổi đó là tình bạn hay tình yêu!

Hòa cười mỉa:

- Có gì mà không hiểu nổi! Một anh thì chưa vợ, một chị thì chưa không chồng. Tránh làm sao chẳng yêu nhau! Thế mà còn dám tính chuyện hỏi con Diễm nhà này! Chịu ông ta thực!

Tuyến nói với Huyền:

- Hôm nào, chị đưa em lại thăm bà ta nhé! Xem mặt, mũi bà tar a sao…

Thúc xen vào:

- Cho tao đi cùng với!...

Vợ Thúc lườm chồng:

- Để làm gì! Mình lạ quá!... Có phải để bắt chước anh đại đội phó “thèm quá” không?

Cả nhà phá lên cười, Thúc cười khoái trá nhất. Thúc biết vợ hay ghen, nên anh càng thích trêu vợ. Anh hỏi Tuyết:

- Hôm nào đi chúng mày?

Hòa trừng mắt nhìn chồng:

- Này! Tôi cấm mình và các con làm quen với “con mẹ đó”, mình biết không?

- Biết lắm! Nhưng sao lại cấm. Mình sợ bà ta à!

Hòa chu chéo:

- Ai thèm sợ cái đồ thối thây… Nhưng mình định trêu gan tôi, phải không? Con Tuyết! Mày cốc dùm Ba mày một cái cho tao! Tội vạ đâu tao chịu! Tao sắp điên đầu lên đây!

Giọng Hòa vẫn là giọng đùa cợt, nhưng Tuyết biết mẹ sắp sửa “điên đầu” thực sự, nên Tuyết vội ôm đầu bố, rồi giơ cao đánh nhẹ, nàng khẻ cốc vào đầu Thúc:

- Tội Ba to lắm! Ba có biết không? Mẹ càng thêm tuổi thọ thì lại càng ghen vô lý. Thế mà Ba cứ chọc giận mẹ hoài, hỏi làm sao mẹ không điên đầu!

Nghe Tuyết nói, Hòa tuy tức bực mà cũng phì cười mắng con:

- Con chết tiệt! Tao ghen cái gì! Tao thèm ghen bao giờ, mà mày bảo tao ghen vô lý!

Thúc cũng làm bộ mắng:

- Mày còn ngu là đàng khác! Mày bảo mẹ mày “cao tuổi thọ”! Làm như mẹ mày “già” lắm rồi sao! Riêng tao thấy, thì mẹ mày với mày, trông như hai chị em, không ai bảo là mẹ con, có đúng không chúng mày?

- Dạ, dạ… đúng lắm, thưa Ba.

Hòa biết là chồng nói trêu, nhưng bà vẫn không khói thích thú mỗi khi được ai khem mình trẻ. Vì bà vẫn tự hào mình còn trẻ. Mỗi khi bà đi cùng các con ra đường người không quen biết, vẫn lầm là chị em. Cho nên thấy chồng mình đúng tâm lý mình, Hòa sung sướng, quên hết ghen, bà mỉm cười tha thứ:

- Thôi không nói chuyện cái ông Đạt lẩm cẩm nữa. Mình đi nghỉ, kẻo hết giờ rồi…

… Buổi chiều, trong bữa cơm, hình như mọi người đã thỏa thuận ngầm là không nói tới chuyện Đạt nữa, nhưng cái việc Đạt rắp tâm hỏi Diễm và câu chuyện của Hằng vẫn lởn vởn trong đấu óc mọi người, nhất là sau bữa cơm chiều, Đạt sẽ tới dạy học, nên trừ Thúc, Tuyết và Huyền là hồn nhiên không đặt thành vấn đề; còn Hòa, Uyển, Diễm thì mỗi người đều tự hỏi sẽ phải đối xử với Đạt cách nào cho ổn. Nhất là Uyển! Uyển bắt chợt thấy mình nghĩ tới việc Đạt rắp tâm hỏi Diễm nhiều quá! Buổi tối, nàng bắt chợt thấy mình nhìn vào gương, sửa lại mái tóc, thoa một chút phấn hồng lên má, trước khi xuống dưới nhà, vào phòng học. Cử chỉ của Uyển làm Uyển tức bực chính mình, vì trước kia, nàng có bao giờ để ý sửa sang sắc đẹp của mình mỗi khi gặp Đạt… Uyển biết mình đẹp, chẳng cần trang điểm cũng đẹp. Vậy thì tại sao nàng lại thoa phấn trước khi gặp Đạt? Nàng ghen với em chăng? Vô lý quá! Vì thiếu gì người đẹp trai, có địa vị hơn Đạt đã hỏi Uyển mà Uyển khước từ! Đạt thì có gì đáng kể! Nhưng Uyển vẫn băn khoăn tự hỏi: “Tại sao Đạt không hỏi mình? Đạt không hỏi ta mà rắp tâm hỏi Diễm, tức là Đạt coi thường ta, coi khinh ta… Thà rằng, Đạt hỏi mình, để mình từ chối, rồi Đạt sẽ hỏi Diễm, như thế Đạt mới là người lịch sự, biết điều chứ”. Uyển lý luận một cách vô lý—mà nàng cho là rất hữu lý—như vậy, khiến nàng tự giận mình lẩn thẩn, rồi giận lây sang Đạt, sang Diễm. Nàng nhìn Diễm, thấy Diễm để nguyên bộ tóc rối, ngồi vào bàn học, lấy sách ra đọc, đợi Đạt lại, thì Uyển lại càng khó chịu, và nàng tự nhủ: “Biết đâu em mình nó chả đạo đức giả, làm bộ như vậy. Biết đâu ông Đạt và nó chẳng yêu ngấm ngầm từ lâu rồi?”

Ý nghĩ đó làm cho Uyễn càng thêm bực tức với bản thân mình: “Mình thật kỳ quặc! Dù cho họ có yêu nhau chăng nữa thì có liên can gì tới mình”.

Người băn khoăn thứ hai là Hòa. Bà phác họa cả một chương trình trong đầu, để lát nữa gặp Đạt, bà sẽ thực hiện. Việc đầu tiên là bà sẽ đổi cách xưng hô, gọi Đạt bằng “ông” chứ không gọi bằng “anh” như mọi khi! Việc thứ hai là sau giờ học, bà sẽ mời Đạt lên phòng khách, nói “đốp chát” với Đạt là nếu Đạt thực là người tốt, thì Đạt hãy buông tha Diễm, đừng rắp tâm “tán” Diễm, rắp tâm hỏi Diễm làm vợ nữa!

Bà đã ấn định chương trình rành mạch, nhưng khi Đạt vừa bước vào nhà, lên tiếng chào “Chị ạ” thì, vì thói quen, bà đã niềm nở buột miệng: “Kìa anh, mời anh vào”. Bà vội nghiêm nét mặt lại, như một bà mẹ vợ, cố nghiêm mặt trước một ông con rể tương lai, suýt soát tuổi mình. Nhưng Đạt đã bắt tay Thúc, nói:

- Hôm nay, cho tôi dạy luôn, để còn phải về có việc hơi cần.

Rồi chàng đi thẳng vào buồng học khiến Hòa nhìn theo lắc đầu, nói nhỏ với chồng:

- Hắn định hỏi con Diễm, mà hắn vẫn gọi tôi là “chị” gọn thon lỏn. Tợn quá!

Thúc cười trả lời:

- Hắn chưa hỏi con mình làm vợ, mà mình đã muốn hắn đổi cách xưng hô, như thế là hắn “tợn” hay mình “tợn”? Mà hắn đã đổi cách xưng hô rồi, mình không nhận thấy à?

- Đổi ở chỗ nào?

- Trước kia anh ta chào “chị ạ”, tiếng “chị” to, tiếng “ạ” nhỏ. Hôm nay, trái lại, tiếng “ạ” át cả tiếng “chị”. Như thế là có sự chuyển hướng rõ rệt rồi còn gì nữa!

Hòa thấy sự phân tích của Thúc thật tinh vi, đúng là sự phân tích của một giáo sư dạy môn tâm lý học. Bà hơi kinh ngạc—cái kinh ngạc có pha chút kính phục âu yếm—nhìn chồng và thấy Thúc kỳ quặc: nhiều lúc Thúc có vẻ xuề xòa, “ruột để ngoài da”, chẳng để ý đến cái gì, nhưng nhiều lúc Thúc lại có những nhận xét rất tinh tế, chứng tỏ Thúc không phải chỉ là người vô tâm, đãng trí, và Thúc có đường lối suy tưởng, có quan niệm sống riêng của mình, chứ không xuề xòa như bà tưởng… Tự nhiên bà cảm thấy dỡ băn khoăn, thêm tin tưởng ở sự nhận định sáng suốt của chồng… Sực nhớ đến nhiệm vụ chủ nhà, bà đứng lên gọi người pha trà mang vào phòng học, rồi thủ thỉ bảo chồng:

- Kể cũng tội nghiệp cho anh Đạt, vất vưởng suốt đời… Nếu hắn còn trẻ và đừng ngang tàng thì con Diễm lấy hắn cũng chả sao! Chỉ phiền anh ta già quá, so với con Diễm, có phải không mình?

Nhưng Thúc đã trở lại bản tính lơ đãng của mình. Ông nghe vợ nói mà chẳng hiểu vợ nói gì, vì ông đã quên chuyện Đạt để mãi nghĩ đến bài tâm lý học mà hôm sau ông phải giảng cho học sinh. Ông chỉ thoáng nghe thấy một tiếng “già” thì tưởng vợ nói là mình đã già nên ông cũng trả lời bừa:

- Ừ, kể vợ chồng mình cũng già rồi, chứ còn trẻ với ai!

Hòa tức bực, nhìn chồng, lắc đầu. Bà bỏ Thúc ngồi một mình, lững thững đi vào buồng học. Bà tò mò muốn xem Đạt dạy học các con bà ra sao. Cái quang cảnh im lặng và nghiêm trang của phòng học làm bà hơi sửng sốt vì bà vẫn tưởng sau câu chuyện Thúc đã tiết lộ về ý định của Đạt, Đạt khó mà giữ được tư thế và uy tín như trước đối với lũ con bà, mà bà vẫn gọi là “lũ trời đánh”. Bà vừa vào phòng học, thì Tuyết đã lè lưỡi, ra hiệu cho biết là không khí rất căng thẳng…

Thực tế, ngay từ lúc bước vào phòng, thoáng nhìn thấy gương mặt lầm lì của Uyển, gương mặt tinh quái của Tuyết, thì Đạt hiểu ngay là Thúc đã nói rõ ý định của mình cho các con gái biết. Nhất là khi thấy Uyển, làm ra vẻ mãi đọc sách nên quên không chịu đứng dậy chào Đạt, thì Đạt cũng đứng yên, không chịu ngồi. Đạt đưa mắt nhìn bốn người; Uyển đợi cho Tuyết kéo áo, mới uể oải đứng lên, trong bụng nghĩ thầm “Lại còn lập nghiêm! Lập nghiêm thì ai sợ!”

Mà Đạt lập nghiêm thực! Anh bắt đầu bắt Tuyết phải đọc thuộc lòng bài kỳ trước, khiên1 cả bốn cô đều giật mình vì cả bốn cô đều đinh ninh là sau khi Đạt đã thổ lộ ý định của mình, Đạt sẽ không dám bắt họ phải đọc bài, cho nên bốn cô đều không thuộc đến nửa dòng bài thơ “La mort du Loup” Đạt vừa giảng kỳ trước…

Tuyết tuy ngổ ngáo, nhưng lại là đứa dễ hoảng hốt nhất. Thấy Đạt thản nhiên, bình tĩnh gọi mình đọc bài, Tuyết đâm cuống, đứng lên ấp úng sợ sệt chưa biết nói sao. Tuyết nghĩ ngay rằng chắc cha nàng bịa ra câu chuyện buổi trưa, chứ nếu chuyện có thực, thì đời nào Đạt còn dám bắt mình đọc bài.

Tuyết lại càng sợ, lấm lét nhìn Đạt:

- Thưa thầy… em… quên!

- Quên cái gì?

- … Quên… không học!

- Quên!... Đi học mà quên! Tôi không thích đùa trong giờ học. Tuyết biết không?

- Dạ biết!

Tuyết ngồi xuống, trống ngực vẫn đập. Nàng lấy mùi soa lau mặt, và nàng vừa hoàn hồn đã tủm tỉm cười, nhìn các chị sắp đến lượt bị “truy”. Đạt vẫn thản nhiên:

- Đến lượt cô Huyền!

Huyền bình tĩnh đứng lên:

- Em xin lỗi thầy. Em không thuộc!

- Cám ơn Huyền! Còn Diễm?

Mọi người nhìn về phía Diễm: Diễm mở to đôi mắt, thẳng thắn nhìn Đạt, không có vẻ e lệ như mọi người chờ đợi. Diễm nói rất lễ phép:

- Thưa thầy, em không thuộc!

- Cám ơn Diễm! Còn cô Uyển?

Uyển không đứng thẳng lên, chỉ khẽ nhổm đít chiếu lệ, trả lời hơ xẵng:

- Cũng thế!

Đạt cau mày:

- Cũng thế là thế nào?

Uyển nhếch mép cười nhạt như thách thức:

- Cũng thế là cũng không thuộc ạ!

- Cám ơn cô.

Rồi Đạt đem bài ra giảng. Không khí bớt căng thẳng nhưng vẫn going gạo. Đạt hỏi ai thì người đó trả lời. Liến thoắng và lém như Tuyết mà cũng nghiêm trang, im lìm. Mãi đến giờ giải lao, Tuyết mới thở phào, khoan khoái… Thường thường trong lúc học, Đạt rất nghiêm, nhưng vào những phút giải lao thì Đạt mặc cho bọn Tuyết muốn trêu cợt gì cũng được. Bị Đạt khủng bố trong giờ học, Tuyết ức lắm, loay hoay tìm mưu “rửa hận”. Nhân lúc Đạt đi ra sân, Tuyết thủ thỉ với các chị:

- Lúc nãy em sợ quá!

- Sợ ra sao?

Tuyết buột miệng nói một câu thật “hỗn” để trả thù Đạt:

- Sợ… gần vãi đái!

Uyển phì cười nhìn Diễm, Diễm cũng cười gượng. Riêng Huyền, vốn đôn hậu và trọng nể Đạt nên hơi nheo mặt, bảo Tuyết:

- Em ăn nói bừa thật!

Uyển bênh Tuyết:

- Ai bảo ông ấy đạo đức giả! Một mặt muốn lấy Diễm, một mặt muốn lên mặt “thầy”, bắt người ta phải trọng vọng! Đâu có được!

Diễm im lặng nghe chị nói, không dám bày tỏ ý kiến mà cũng không biết nói cái gì. Tự nhiên Diễm thấy buồn nản như người chưa yêu mà đã thấy tan vỡ! Diễm không hiểu rõ lòng mình, không hiểu là mình có yêu Đạt không, nhưng nàng thấy hầu như chỉ có một mình nàng là hiểu Đạt, thương hại Đạt. Diễm biết là Đạt không đạo đức giả như chị Uyển kết án, nhưng Uyển nói rất đúng khi nàng bảo rằng Đạt tham lam, vừa muốn lấy Diễm, vừa muốn bọn Tuyết phải trọng vọng Đạt như thầy… Diễm nói với chị giọng thành thực:

- Em suy nghĩ thấy mẹ nói đúng lắm. Hết buổi hôm nay, ta nên thưa với Ba để ông Đạt tạm nghỉ. Em cũng thấy bất tiện như mẹ.

Không ngờ Uyển lại phản đối:

- Việc gì mà nghỉ! Nếu Diễm thấy bất tiện thì Diễm nghỉ, còn chúng mình cứ việc học, có phải không Huyền, Tuyết?

- Dạ!

Hai chị em gượng gạo trả lời, hơi ngạc nhiên thấy Uyển có vẻ gay gắt.

Uyển cũng vừa thấy mình gay gắt vô lý nên dịu giọng bảo Diễm:

- Nói đùa vậy, chứ dù chúng mình muốn tiếp tục học hay nghỉ cũng phải đợi sự quyết định của Ba. Nghỉ cũng được, chả sao!

Diễm nhìn chị, hơi lạ về thái độ của chị. Nàng không bao giờ nghi ngờ Uyển có thể bực về chuyện Đạt định hỏi Diễm; nàng cũng không bao giờ nghi ngờ Uyển có ác cảm với Đạt… Diễm chỉ đoán rằng Uyển muốn Đạt suy tôn như một bà chị vợ tương lai, mà Đạt vẫn coi Uyển như một người học trò cho nên Uyển khó chịu… Để làm vừa lòng chị, Diễm nói liều một câu:

- Kể ra hôm nay ông Đạt cũng hơi lố!

Không ngờ câu chỉ trích của Diễm chỉ càng làm Uyển thêm bực mình: Uyển nhận ngay ra là Diễm chỉ trích Đạt cốt để làm vui lòng mình, thì Uyển càng bực tức cho rằng Diễm đã đứng về phía Đạt để bào chữa cho Đạt. Vì vậy, Uyển không dè dặt đáp, giọng mỉa mai:

- Việc gì mà quá lố! Ai dạy học mà chả phải giữ kỷ luật! Trừ khi ông ấy đã chính thức là chồng cô, ông ấy lập nghiêm, mới là đáng trách, mới là quá lố! Chớ bây giờ mình vẫn là học trò ông ấy cơ mà!

Diễm nín thinh, không dám đối đáp chị ra sao. Nàng mơ hồ cảm thấy dù nàng chỉ trích Đạt hay khen Đạt đều làm cho Uyển khó chịu… Đột nhiên Diễm nghĩ đến lời mẹ, bàn về “tướng” của Đạt thuộc hạng người chuyên mang sóng gió, tai vạ đến cho người khác. Diễm lại nhớ lời mẹ nói: “Để yên thì thế nào con Diễm cũng lấy thằng Khải, nhưng lại thêm ông Đạt nhảy vô, thì con Diễm còn đủ long đong, khổ sở”. Diễm nhận thấy lời mẹ nói rất đúng và nàng bắt đầu cảm thấy khổ sở, như người biết tai vạ sắp giáng xuống cuộc đời mình, mà vẫn lùi lũi đi đón nó…

Giữa lúc đó, Đạt trở lại phòng, Diễm không e lệ ngước mắt lặng ngắm Đạt, tìm xem cái tướng “gieo giắc sóng gió” của Đạt ẩn hiện trong những nét nào của gương mặt, dáng đi? Cái nhìn chăm chú của Diễm gặp cái nhìn của Đạt và trong thoáng giây, Diễm có cảm tưởng là tất cả những ý nghĩ băn khoăn vừa rồi của nàng, Đạt đều đã thông cảm, đã hiểu, qua cái nhìn của Đạt. Diễm chớp mắt như để xua đuổi một ảo ảnh, trong khi Đạt tiến lại bên chỗ Huyền ngồi, hỏi Huyền:

- Chiều mai Huyền tan học lúc mấy giờ?

- Thưa thầy, năm giờ rưỡi.

- Tôi sẽ xin phép trước với Ba má Huyền chiều mai tôi sẽ đến đón Huyền, rồi đưa Huyền đi ăn kem, nên tiện tôi sẽ nhờ Huyền chút việc.

- Dạ…

Tuyết vội nói xen vào:

- Ăn kem hở thầy? Sao thầy không cho em đi với… thèm quá…

Ngồi bên cạnh Tuyết, Huyền mới nghe Tuyết nói “thèm quá” thì thất sắc, vì Huyền biết Tuyết sẽ có thể nhắc lại câu của anh đại đội phó “thèm quá, ủng hộ một tý” để trêu Đạt, nên Huyền lấy hết sức bình sinh bẹo ngầm cho Tuyết một cái thật đau khiến Tuyết chỉ kịp kêu “ái” một tiếng thất thanh. Đạt ngơ ngác không hiểu, còn Uyển, Diễm thì cố bịt miệng để khỏi phá lên cười…