← Quay lại trang sách

Chương V Trái cam đã chín -

quyển thượng

Chương V

trái cam đã chín

hức đêm đối với ông tổng giám đốc Mật vụ là chuyện rất thường. Nhiều khi cần theo dõi công việc quan trọng, ông bỏ ngủ cả tuần lễ. Tuy nhiên, lần thức khuya này có ý nghĩa vô cùng đặc biệt. Vì đây là lần đầu trong đời, ông Hoàng lo sợ.

Trong bao nhiêu năm xông pha lằn tên mũi đạn, hoặc điều khiển guồng máy gián điệp, ông Hoàng chưa hề biết lo sợ. Ông tin vào bộ óc siêu việt, và tài quyền thuật độc nhất vô nhị của ông. Hồi còn trẻ, lăn vào nguy hiểm, ông chưa hề bị đối thủ đánh ngã bằng võ Thiếu lâm, nhu đạo, hay quyền Anh. Không cần nhắm bắn, ông chỉ rút súng ra khỏi vỏ là viên đạn bay vèo trúng đích, bất cứ đích nào. Kẻ thù đứng xa 20 thước, hoặc ngọn nến leo lét đặt trên nóc tủ.

Trở về già, gân cốt chùng dần, ông Hoàng không đấu võ và bắn súng nữa nhưng trí sáng tạo của ông lại minh mẫn hơn lên. Cho nên ông không rời văn phòng mà vẫn có thể đánh bại hàng trăm kẻ địch lợi hại.

Đêm nay, ông Hoàng lo sợ vì kẻ chủ mưu hại ông đã từng hợp tác chặt chẽ với ông, và hiện giữ một chức vụ vô cùng trọng yếu tại Sàigòn.

Đúng ba giờ sáng, điện thoại trên bàn reo leng keng. Ông Hoàng bấm nút, trong máy vẳng ra giọng nói đàn ông quen thuộc:

-Trái cam đã chín (1).

Rồi im bặt.

Nếu không phải là trường hợp quan trọng thì ông Hoàng đã cười rộ. Vì mật khẩu « trái cam đã chín » nhắc lại những kỷ niệm xa xưa thời ông tham gia kháng chiến chống Đức quốc xã trong đại chiến thứ hai trên đất Pháp bị chiếm đóng. Như không quân đồng minh chờ mật lệnh « trái cam đã chín » tung ra rồi nhào xuống lao thất Amiens mở cuộc đại tấn công. Nay ông Hoàng chỉ chờ tin mật báo là huy động bộ máy gián điệp và phản gián điệp hùng hậu của mình để đối phó.

Ông bấm một nút khác:

-Nguyên Hương phải không?

Một tiếng nói dịu dàng đáp lại:

-Dạ.

-Họ đến chưa?

-Thưa chỉ độ 5 phút nữa họ vào đến nơi.

Con đường dẫm vào khu Tân sơn nhất vắng tanh không một bóng người. Cả những quân xa thường lưu thông vào giờ này cũng không thấy. Dường như vạn vật rủ nhau nín thinh để chờ biến cố xảy ra.

Năm chiếc cam nhông lại phóng như bay trên mặt đường nhựa láng bóng vì trận mưa đêm vừa tạnh. Đến một quãng tối, đoàn xe dừng lại, từ trên xe nhảy xuống nhiều người mặc đồ xẫm. Biệt thự của ông Hoàng nằm lùi trong khu vườn tối. Đoàn người vọt tường tiến vào. Lệ thường đàn chó bẹt giê được huấn luyện riêng canh gác suốt đêm ngoài vườn. Đêm nay, đàn chó đã biến dạng. Đoàn người bí mật vừa xô cửa vào phòng giấy thì một hồi chuông vang ngân.

Tiếng chuông nghe có vẻ thảm thiết như báo hiệu thần Chết. Mọi ngọn đèn trong biệt thự được bật sáng choang.

Một tiếng hô to:

-Anh em nằm xuống. Nằm xuống tất cả. Bị lọt vào ổ phục kích.

Ngay khi ấy, một tiếng nói từ bên trong vọng qua máy vi âm:

-Chào các bạn. Mời các bạn đứng dậy, và cất khí giới vào người. Không ai hại các bạn đâu. Tôi là tổng giám đốc Hoàng. Tôi xin mời vị chỉ huy của các bạn vào trong này điều đình. Tôi đã bố trí hoàn bị, đừng ai có hành động khiêu khích kẻo gặp hậu quả đáng tiếc. Cửa đã mở, yêu cầu vị đại diện vào.

Cửa sắt dạt sang bên như được mở bằng bàn tay ma. Một người đàn ông vạm vỡ bước qua ngưỡng cửa. Đứng ngoài, mọi người có thể thấy rõ bên trong. Nguyên Hương lẳn mình trong chiếc áo dài bằng hàng mỏng, mớ tóc dài chảy xuống bên vai, đôi môi cong và ướt, nghiêng đầu chào khách.

Một phút sau, người lạ được dẫn vào phòng riêng của ông Hoàng. Ông Hoàng vẫn ngồi yên trong ghế bành. Vừa vào đến nơi, người lạ đã rút phắt khẩu súng đeo ở thắt lưng ra:

-Hừ, ông đã mắc mưu tôi. Tôi đến đây để bắt ông. Yêu cầu ông giơ tay lên và theo tôi ra xe. Chúng tôi mang sẵn một số chất nổ cực mạnh. Nếu ông kháng cự thì trụ sở này sẽ tan thành bụi trong chớp mắt.

Đang cúi xuống đống hồ sơ, ông Hoàng ngẩng đầu lên cười ha hả:

-Không ngờ một người có nhiều kinh nghiệm như ông lại lừa một cách dễ dàng như thế! Ông thử xét lại khẩu súng của ông xem có đạn không?

Giật mình, người lạ nhìn xuống bàn tay. Bỗng một tiếng “tách” nổi lên. Người lạ ôm tay ngồi xuống, mặt nhợt nhạt. Khẩu súng tuột xuống nền nhà. Ông Hoàng đứng dậy, tiến lại chỗ người lạ, dáng điệu lo âu như người cha chứng kiến cảnh đứa con duy nhất bị té ngã:

-Ông bạn có hề gì không?

Người lạ rên rỉ:

-Thưa cụ, tôi chết mất.

Ông Hoàng mỉm cười:

-Tôi đã bảo là các ông chớ nên khinh tthường lão già cổ hủ này. Đây này, tôi nói riêng cho ông biết: từ nhiều tuần nay, tôi đã biết phía các ông định thủ tiêu tôi vì tôi còn sống ngày nào thì kế hoạch Tầm Sét của các ông còn bị cản trở ngày ấy.

Người lạ trợn tròn mắt, kinh ngạc:

-Trời ơi, cụ đã biết rõ kế hoạch Tầm Sét?

Ông Hoàng đủng đỉnh:

-Phải, tôi đã am tường mọi chi tiết từ khi nó mới được phóng ra trên giấy. Tôi đã chuẩn bị đối phó đâu vào đấy. Tất cả hồ sơ, tài liệu mật đã được di chuyển đến một trụ sở khác từ hai hôm nay. Nhân viên nòng cốt của Sở cũng không còn ở đây nữa. Trước khi đoàn xe của ông chuyển bánh, người ta đã báo tin cho tôi và tôi đã ra lệnh nghênh đón ông xứng đáng. Ông không biết là phòng làm việc của tôi được trang bị súng điện tử tự động bí mật sao? Vì tôi có nhiều cảm tình với ông nên chỉ hạ lệnh bắn đạn chứa hơi ép. Nếu là đạn thuốc độc thì ông đã chết từ nãy. Hoặc ác độc hơn thì tôi đã dùng đạn đum đum. Loại đạn ghém thường dùng để bắn chim và thú dữ ấy mà! Nhưng loại đum đum này nguy hiểm hơn nhiều vì nó phá tung lục phủ ngũ tạng,khiến nạn nhân quằn quại trong vũng máu hàng giờ mới thở hơi cuối cùng.

Người lạ van vỉ:

-Thưa cụ, bây giờ tôi đã hiểu, xin cụ mở lượng hải hà tha cho.

Ông tổng giám đốc Mật vụ rít hơi xì gà Havan thơm ngát:

-Dĩ nhiên, tôi muốn tha ông nên mới mời ông vào trong này để tiện mạn đàm. Bắt đầu từ phút này ông được hoàn toàn tự do. Mời ông tự tiện ra vườn, tập hợp nhân viên của ông lại, rồi trở về. Ban phòng vệ đã được lệnh để yên cho các ông rút lui.

Người lạ lắc đầu, bộ mặt thiểu não:

-Xin cụ xét lại cho tôi được nhờ. Nếu tôi về trụ sở với hai bàn tay không, chắc chắn người ta sẽ giết tôi.

-Vậy ông muốn gì?

-Thưa, nếu cụ cho phép tôi xin được theo hầu trong tổ chức của cụ.

-Tưởng gì, nếu chỉ có thế tôi rất sẵn sàng. Song muốn được thu nhận ông phải tỏ ra thành thật.

-Thưa, tôi đâu dám dối cụ.

-Để chứng tỏ thiện chí, ông hãy gọi điện thoại về cho cấp chỉ huy của ông.

-Thưa, gọi cho ai?

-Gọi cho ai hẳn ông đã biết. Khi trước, tuần lễ nào người ấy cũng liên lạc với tôi, nhưng từ ngày tình thế biến chuyển, lập trường của chúng tôi không phù hợp với nhau nên không còn điện đàm nào nữa.

Ngẫm nghĩ một lát, người lạ lảo đảo đứng dậy, kéo ghế ngồi trước máy điện thoại rồi lặng lẽ quay số. Đợi đầu giây lên tiếng, hắn nói:

-Thưa ngài, cụ Hoàng muốn nói chuyện với ngài.

Trong dây nói vẳng ra tiếng la hét om xòm. Mỉm cười, ông tổng giám đốc Mật vụ cầm điện thoại, giọng nói ngọt ngào:

-Tôi là Hoàng đây. Chào ngài.

Tiếng la hét dịu xuống. Ông Hoàng tiếp:

-Ngài cố tình tránh mặt tôi nên đổi số điện thoại. Vì vậy tôi phải nhờ thuộc viên của ngài gọi về. Bằng cuộc điện đàm này, tôi khẩn khoản yêu cầu ngài lần chót.

-Cụ yêu cầu viêc gì?

-Việc gì thì ngài đã rõ.

-Hừ, cụ đòi tôi xuất ngoại để cụ ở nhà tiếp tục làm mưa làm gió. Cụ đừng quên tôi có dưới tay một lực lượng hùng hậu.

-Vâng, lực lượng hùng hậu này vừa đến vây bắt tôi và đã bị tôi tước khí giới.

-Thua keo này tôi bày keo khác. Cụ và tôi là hai con hổ trong rừng rậm, trong cuộc tranh thắng làm chúa sơn lâm, phải một mất một còn.

-Nghĩa là ngài nhất định khai chiến với tôi?

Ở đầu giây có tiếng gắt, rồi điện thoại đột nhiên bị cắt đứt. Ông Hoàng thở dài:

-Tôi đã kiên nhẫn tới cùng. Âu đó cũng là Trời định! Vận họ đã tận, không sức mạnh nào, thủ đoạn nào có thể cứu vãn được nữa!

Người lạ nhìn ông bằng cặp mắt thán phục. Ông Hoàng quay lại:

-Ông hãy ra lệnh cho tài xế lái về ngã tư Phan thanh Giản, Đinh tiên Hoàng. Tại đó, một người đi bình bịch, đội kết màu trắng đã chờ sẵn dẫn đường cho ông. Người ấy sẽ đưa ông tới chỗ an toàn. Chào ông, và chúc ông may mắn.

Người lạ đứng nghiêm, chào ông Hoàng. Cửa sắt dạt mở, ông Hoàng vẫy Nguyên Hương vào. Đoàn người mặc đồ chẽn phục kích ngoài sân lố nhố kéo nhau ra cổng. Nguyên Hương hỏi ông Hoàng:

-Ông không sợ họ tấn công trở lại ư?

Ông Hoàng lắc đầu:

-Không sao. Họ gồm 2 toán. Toán thứ nhất có nhiệm vụ dò đường. Toán thứ nhì mới đáng ngại.

-Thưa toán thứ nhì hiện ở đâu?

Ông Hoàng mỉm cười:

-Toán này sắp sửa hành động. Thôi, cô vào ngay trong này.

Ông tổng giám đốc Mật vụ bấm nút điện cho cánh cửa sắt nặng nề khép lại. Nguyên Hương sửng sốt:

-Thưa, tại sao ông lại thả hai họ về?

Ông Hoàng đáp:

-Cổ nhân có câu “thà để người phụ ta còn hơn là ta phụ người “, tôi cốt thả toán thứ nhất là để họ áp dụng phần hai của kế hoạch. Sau khi họ cạn tàu ráo máng, tôi mới có thể hành động cứng rắn một cách hợp tình và hợp lý. Phần đầu của kế hoạch là bắt sống tôi, hoặc trong trường hợp thất bại thì hy sinh một số người để bắn tôi chết tại chỗ. Còn phần hai của kế hoạch là gài mìn “vắt” bên ngoài để cho nổ tung trụ sở. Loại mìn “vắt” này rất lợi hại, nó được đóng thành hộp trông như hộp nước ngọt của Mỹ, ở đầu có cái vòi cao su, đặt vào đâu là dính chặt lấy như con vắt bám da thịt người đi rừng nên người ta gọi là mìn “vắt”. Đặc tính của mìn “vắt” là xuyên phá. Nó có thể giật đổ bin đinh nhiều tầng, và lọt qua bê tông dầy dễ dàng như dao đâm qua phó mát.

-Thưa ông, họ đã đặt mìn chưa?

Ông Hoàng nhìn đồng hồ tay:

-Dĩ nhiên là rồi, như cũng còn 3 phút nữa mới nổ. Họ xử dụng cả thảy 10 hộp mìn. Tuy vậy, kết quả sẽ chẳng đi đến đâu.

-Thưa ông..

Vẻ sửng sốt gia tăng rõ rệt trong cặp mắt đen láy của nữ bí thư Nguyên Hương. Ông Hoàng cắt ngang:

-Cô muốn hói tại sao tôi lại biết quá rõ nội dung kế hoạch của họ phải không? Vì lẽ giản dị, tôi có người bên trong. Vả lại, tôi đã tiên liệu và bố trí từ lâu. Họa đồ nhà này mà họ dựa vào để đặt kế hoạch tấn công chính là họa đồ giả. Theo họa đồ, văn phòng tôi được bao bọc bằng tường bê tông dầy 30 phân. Với loại tường mỏng này, 10 hộp mìn “vắt” đã quá đủ. Họ không thể biết rằng bề dầy của tường lên đến 1 mét, nghĩa là 100 phân tây, bên trong lại lót thép nên bom nguyên tử nhỏ cũng không đáng sợ huống hồ là mìn.

Ông Hoàng lại coi đồng hồ rồi lẩm bẩm:

-Nổ rồi đó.

Ông tổng giám đốc vừa dứt lời thì một tràng tiếng nổ phát ra. Nền phòng rung chuyển dữ dội song bốn bức tường vẫn đứng yên, ánh đèn vẫn không nhấp nháy.

Ông Hoàng nhìn chung quanh bằng cặp mắt luyến tiếc. Nguyên Hương gặp luồng nhỡn tuyến khác thường của ông song không dám hỏi. Nàng có linh tính là ông Hoàng đi luôn, không bao giờ trở lại trụ sở Tân sơn nhất nữa. Tòa biệt thự cổ rêu phong bẩn thỉu và đổ nát này chứa sẵn bên trong nhiều hệ thống điện tử tân tiến. Ông Hoàng đã cho gỡ dọn từ trước nhưng dầu sao cũng còn rất nhiều máy móc đắt tiền phải bỏ lại.

Lòng Nguyên Hương bỗng nao nao. Nếu phải ra đi, nàng còn luyến tiếc hơn ông Hoàng nữa. Nàng thích làm việc trong tòa nhà âm u này hơn là dọn đến một bin đinh gần trung tâm thành phố, lên xuống bằng thang máy Otis, mọi phòng đều được điều hòa khí hậu. Không phải vì nàng ghét tiện nghi văn minh mà chính trụ sở Tân sơn nhất là một kỷ niệm êm đềm và đẹp đẽ đối với nàng. Văn Bình thường đến những buổi chiều tắt nắng hoặc buổi sáng sương hồng và rủ nàng ra sau vườn ngồi trên ghế đá bên luống hoa thược dược ngào ngạt hương thơm. Sau này, Sở tăng thêm nhân viên, số giai nhân được Văn Bình đeo đuổi cũng tăng thêm. Nguyên Hương không còn cái thú ban đầu tình tự bên luống hoa thược dược với chàng nữa. Nhưng ít nhất là những buổi chiều tắt nắng hoặc buổi sáng sương hồng, nàng còn được nghe tiếng phi cơ và được nhìn phi cơ bay qua. Phi cơ là một phần cuộc sống của Văn Bình. Thanh âm và hình bóng những con chim sắt oai vệ trên vùng trời Tân sơn nhất đã giúp nàng vợi bớt được cô đơn.

Ông Hoàng gọi giật:

-Lại đây. Xách cặp da cho tôi. Cô bị mệt ư?

Nguyên Hương ấp úng, mặt đỏ bừng:

-Thưa không.

Ông Hoàng ấn nút dưới bàn giấy, cửa hầm bí mật lộ ra. Ông Hoàng xuống trước, tay cầm cây đèn bấm lớn. Đếm đúng 10 bậc thang, Nguyên Hương đặt chân xuống nền xi măng bên dưới. Lâu lắm nàng mới xuống hầm. Đường hầm này được đào từ lâu, song chỉ một số cộng sự viên biết, trong số đó có nàng.

Đường hầm chỉ rộng độ một thước, vừa đủ hai người đi song song. Ông Hoàng phà khói xì gà Havan thơm ngát. Nguyên Hương lẽo đẽo theo sau, tay xách cái cặp da nặng chĩu tài liệu bí mật. Giây lát, hai người tới cuối đường hầm.

Bên trên là một tòa biệt thự lớn. Ông Hoàng rút túi ra cái máy phát thanh bằng gói thuốc lá, mở máy rồi nói:

-Alô, alô. Trái cam đã chín.

Lập tức có tiếng người đáp:

-Bình Minh đây. Xin đợi một phút.

Đúng một phút sau, nắp hầm mở rộng. Ở trên, Lê Diệp, cánh tay trái của ông Hoàng, chờ sẵn từ lâu. Thấy Lê Diệp vẻ mặt nghiêm trọng, ông Hoàng mỉm cười:

-Mình đi được rồi chứ?

Lê Diệp đáp:

-Thưa được rồi.

Trên bàn, hai ly cà phê đen bốc khói nghi ngút. Lê Diệp kéo ghế lại. Cà phê đen là một trong các thú vui thường nhật của ông tổng giám đốc sở Mật vụ.

Tuy đã quen cuộc sống đầy biến cố, Nguyên Hương cũng bị xúc động mạnh. Cà phê nóng bỏng miệng mà nàng lại có cảm giác lạnh ngắt. Nàng bưng tách cà phê lên môi một cách uể oải như đứa trẻ miễn cưỡng uống thuốc đắng, trong khi ấy ông Hoàng vắt chân chữ ngũ, khoan thai chiêu từng ngụm một.

Đột nhiên ông đặt ly xuống bàn, nhăn mặt:

-Hôm nay, ông Tám rang hơi già. Hừ, có lẽ phi cơ xuống không kịp …

Lê Diệp đáp:

-Thưa vâng. Ông Tám hết thuốc từ 4 ngày nay. Lẽ ra máy bay mang xuống sáng qua, nhưng vì tình hình thay đổi nhanh chóng nên chuyến bay bị đình hoãn.

Ông Hoàng lơ đãng nói một mình:

-Bác Tám đói thuốc, thật tội nghiệp …

Sở Mật vụ do ông Hoàng điều khiển có nhiều nhân vật siêu đẳng, nam thì lấy mạng người dễ dàng như lấy quẹt máy trong túi, nữ thì đủ tài mê hoặc tượng đá công viên, nhưng cũng có một số nhân vật khác, không được công chúng biết danh như Văn Bình Z.28, Lê Diệp, Triệu Dung, Nguyên Hương, Thu Thu, Thúy Liễu, Katy … mà tầm quan hệ đối với Sở vẫn không kém. Trong số người ẩn này có ông Tám hoặc bác Tám. Ông Hoàng khi gọi là ông, khi gọi là bác. Những cộng sự viên thân cận của ông Hoàng không biết bác Tám về giúp ông Hoàng từ hồi nào vì khi họ đến, họ đã gặp bác. Theo lời Triệu Dung thì bác Tám đã quen ông Hoàng từ nửa thế kỷ, khi hai người lênh đênh nơi hải ngoại, ông Hoàng làm nghề phóng viên báo chí, bác Tám chuyên hầu bếp cho cho các tiệm ăn lừng lẫy ở tây bán cầu. Mỗi người làm một nghề khác, nhưng cả hai đều đeo đuổi mục đích chung, đấu tranh cho nước nhà độc lập. Ông Hoàng và bác Tám cùng tham gia tích cực vào một phong trào quốc gia, rồi từ đó, trải qua nhiều cuộc thăng trầm họ vẫn sống bên nhau thân thiết.

Vợ ông Hoàng là người Ý, từ ngày bà từ trần vì công vụ, ông không tục huyền nữa. Vợ bác Tám cũng người Ý, và cũng mệnh chung sau đêm tân hôn một thời gian ngắn. Cũng như ông Hoàng, bác Tám quyết không tục huyền. Khi ông Hoàng về nước để tổ chức lãnh đạo ngành điệp báo, bác Tám trở thành “xếp” đầu bếp cừ khôi ở Ba lê. Các tiệm ăn sang trọng nhất đua nhau giành giật bác, và bác đang dự định về làm cho nhà hàng Maxim’s với số lương tháng nhiều gấp 10 lần lương tổng trưởng Nội các thì nhận được dây thép của ông Hoàng. Bác Tám không cần hỏi điều kiện, tất tả đến gặp ông Hoàng. Ông Hoàng đề nghị:

-Thôi, anh bỏ cái nghề chiên bít tết và quấy xốt đi, chúng mình về nước làm việc chung với nhau.

Thì bác Tám làm mặt giận:

-Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh, nghề chiên bít tết và quấy xốt của tôi có thể giúp tôi xây bin đinh ở Ba lê, nhưng tôi vẫn chịu nghèo, chui rúc trong căn phòng không có máy sưởi là vì tôi chờ đợi ngày hồi hương để được luộc rau muống, chiên đậu khuôn và nấu hủ tíu giá sống cho anh ăn.

Thế rồi bác về nước cùng với đứa con trai nhỏ duy nhất. Bác sống bên ông Hoàng, hai người như hình với bóng, vậy mà ít người biết bác Tám là đầu bếp kiêm quản gia ruột thịt của ông tổng giám đốc. Nhiều khi gâp chuyện khó khăn, một mình giải quyết không xong, ông Hoàng thường uống cà phê với bác Tám để hỏi ý kiến. Không rõ bác Tám có giúp bạn được những gi, nhưng bề ngoài bác vẫn giữ thái độ kẻ dưới khiêm tốn mặc dầu ông Hoàng luôn luôn mến trọng bác, một điều ông, hai điều bác. Những lúc nhắp cà phê hai người với nhau, bác Tám thân mật gọi ông Hoàng bằng anh, nhưng đến khi có người lạ bác lại gọi là ông hoặc cụ một cách kính cẩn.

Bác Tám có thiên tài về nấu nướng, nếu dự thi nấu nướng quốc tế bác phải giật giải khôi nguyên. Ông Hoàng nhận định rằng thiên tài của bác có thể biến rau đậu thành thịt cá và không phải loạn ngôn nếu coi bác là đệ nhất phù thủy ẩm thực, úm ba la là gỗ đá hóa ra bít tết. Bác Tám rang và pha cà phê thì ngon tuyệt, dường như ông Hoàng còn sống đến ngày nay, bất chấp năm tháng, bất chấp khó khăn điên đầu là nhờ ma lực cà phê bác Tám.

Tuy nhiên, bác Tám lại có yếu điểm: nghiện thuốc lào. Những năm lênh đênh xa tổ quốc, bác đều mang cái điếu cầy bên mình. Điếu này là của gia bảo, nó được làm bằng một ống tre đặc biệt mọc ở vùng thượng du Hòa bình. Nó cứng như sắt, dao chém không không vỡ, lâu ngày nó lên nước bóng loáng, hai đầu được bịt bạc. Mỗi lần rít thuốc, bác lim dim cặp mắt như người hít bạch phiến. Thuốc lào của bác cũng phải là thứ đặc biệt, ngon hơn thuốc lào thượng hảo hạng ở Bắc Việt.

Sau ngày hồi hương, bác chu du khắp nơi, chọn mãi mới tìm ra mảnh đất tại Di linh có phong thổ thích hợp để trồng thuốc lào. Bác đặt người trông nom khoảnh đất và cung cấp thường xuyên thuốc hút cho bác. Khi thiếu thuốc, bác chẳng làm được việc gì nữa. Bởi vậy, ông Hoàng đã lưu tâm đến việc cung cấp. Ông lưu tâm đến việc tiếp tế thuốc lào cho bác Tám còn hơn cả việc tiếp tế thuốc Salem và rượu huýt ky cho Văn Bình nữa.

Ông Hoàng hỏi Lê Diệp:

-Ông Tám đi chưa?

Lê Diệp đáp:

-Thưa, đang ngồi chờ với chú Sáu ngoài xe.

Lê Diệp dẫn ông Hoàng qua một căn nhà chất đầy chai. Thì ra đấy là trụ sở công ty bán sữa tươi. Ông Hoàng lập ra hàng chục công ty, có cái thật, có cái “ma “để che dấu hoạt động nghề nghiệp và cũng để lấy tài chánh. Công ty sữa tươi này làm ăn rất phát đạt, sáng nào cũng vậy, từ rạng đông công ty đã có 2 xe hơi riêng gắn máy ướp lạnh, chở sữa đi khắp dô thành. Lê Diệp đẩy cửa ga ra tối om, gọi nhỏ:

-Chú Sáu đâu?

Có tiếng đáp:

-Em dây.

Chú Sáu là tài xế thân tín nhất của ông Hoàng. Cũng như bác Tám, chú Sáu là một người có hành tung khiêm nhường, hầu như bí mật. Chú Sáu cao lớn như tây, mũi lõ như tây, da trắng như tây, và nói tiếng tây cũng ríu ra ríu rít như tây chính hiệu nữa. Thật ra chú Sáu chỉ lai tây, cha chú người Việt, mẹ chú người Ý. Và cha chú chính là bác Tám.

Trông chú, đố ai dám bảo chú làm nghề tài xế. Mặt chú có thể bấm ra sữa, tay chân chú chưa hề có vết chai, áo quần chú lại luôn luôn bảnh bao. Nói cho đúng, chú học khá giỏi, xêm xêm tốt nghiệp cử nhân Luật tại Ba lê. Chú đóng vai tài xế để bảo vệ an ninh cho ông Hoàng luôn thể.

Chú Sáu mở cửa xe chở sữa sơn trắng toát, mời ông Hoàng, Nguyên Hương và Lê Diệp lên xe. Đèn trần xe bật sáng, bác Tám vừa rít xong điếu thuốc lào. Vẻ mặt bác hơi khổ sở, chắc chắn vì thuốc lào bác hút là thuốc lào mua tạm ở đường Lê thánh Tôn, không phải thuốc “nhà “ từ Di linh gởi xuống.

Bên trong xe được thiết trí sang trọng và đầy đủ tiện nghi. Phía trong cùng là phòng vệ sinh, bên cạnh là bếp và tủ lạnh, được ngăn bằng riềm ni lông đục. Sau đó là phòng làm việc kiêm phòng ngủ của ông Hoàng, bên ngoài mới đến sa lông. Hai bên sườn xe được gắn một cái bàn sắt dài có chân, bên trên có máy chữ điện, máy dịch mật mã, máy hủy tài liệu và hệ thống đìện thoại và truyền tin siêu tần số. Xe hơi được đóng kín mít, không khí mát rợi vì có máy điều hòa.

Chiếc cam nhông chở sữa này thường được dùng làm tổng hành doanh lưu động của ông Hoàng. Thân xe được lót hai lần thép dầy, đạn bắn không thủng. Kiếng xe cũng thuộc loại chống đạn, cón lốp xe được chế tạo đặc biệt đủ sức chịu đựng 5, 10 phát đạn mà không xẹp lún.

Bác Tám ngồi phía trước với chú Sáu. Cổng nhà xe mở toang. Chiếc cam nhông sơn trắng mở máy êm như ru. Dẫn đường là chiếc Pờ giô sơn đen mới toanh. Phía sau là chiếc tắc xi đeo số giả.

Chú Sáu lái xe xuyên qua đường hẻm. Đâu đây tiếng kèn xe chữa lửa tru lên thảm thiết. Tòa biệt thự cổ kính của ông Hoàng gần trường bay Tân sơn nhất đang biến thành mồi ngon cho thần hỏa. Ông Hoàng thu mình trên ghế, đôi mắt mơ màng như nhà thơ tìm vần. Những việc xảy ra rồn rập và khẩn trương đến đâu cũng đã trở nên vô nghĩa đối với người chai đá như ông. Ngồi bên, Lê Diệp cũng có bộ mặt bình thản khiến ai cũng có thể lầm chàng là kẻ “ngu si hưởng thái bình”. Riêng Nguyên Hương ngồi đăm chiêu, hai bàn tay thon thon, trắng muốt xếp trên đùi. Nàng đang nghĩ đến Văn Bình xông pha trong mật khu giữa những nguy hiểm chết người.

Chiếc xe chở sữa khổng lồ quẹp trái, lên đường Phan thanh Giản. Bác Tám kép cánh cửa ăn thông với phía sau, nói với ông Hoàng:

-Thưa ông, nhân viên với ta vừa báo hiệu an toàn.

Ông Hoàng gật đầu:

-Vậy yêu cầu ông dặn chú Sáu lái thẳng về trụ sở mới.

Ông tổng giám đốc dí cặp mắt cận thị vào điếu xì gà dài ngoằng. Nguyên Hương cất tiếng, giọng đầy băn khoăn:

-Thưa, còn người đi bình bịch đội kết trắng chờ ở ngã tư Đinh tiên Hoàng – Phan thanh Giản?

Ông Hoàng nhún đôi vai gầy:

-Với kế hoạch gài mìn “vắt”, họ đinh ninh giết được tôi. Nhổ cỏ cần nhổ tận rễ, nhân viên của họ trá hàng để phá vỡ hết cơ sở còn lại. Cô yên tâm, họ sẽ gặp một người đi bình bịch và đội kết trắng. Người này sẽ dẫn họ vào Chợ Lớn. Trụ sở trong Chợ Lớn của ta đã được dọn đi từ trước.

Rồi ông tổng giám đốc cười mỉm:

-Đêm nay, kẻ cắp bà già gặp nhau, họ sẽ tha hồ mà khóc.

Chú Sáu gia tăng tốc độ trên xa lộ Biên hòa rộng thênh thang. Qua khỏi cầu, xe hơi quẹo vào con đường nhỏ. Trời bắt đầu sáng lờ mờ. Ông Hoàng xuống xe, lịch sự nhanh nhẹn mở cửa chiếc Hinman sơn màu đen cao lêu nghêu, vuông vức như cái hộp, đậu sẵn dưới cây kè rườm rà. Trong giây phút, chiếc Hinman cổ lỗ sĩ do Lê Diệp lái đã biến mất vào màn sương mù rạng đông.

oOo

Hoàng Hoa phải nhắm mắt lại vì ánh đèn măng sông chiếu mãi vào mặt nàng. Gã đàn ông trán hói nhắc lại bằng giọng lơ lớ:

-Cô Hoàng Hoa, cô hãy khai hết sự thật, đừng bắt tôi phải dùng cực hình. Dầu sao cô cũng là người đàn bà đẹp. Cô đáng sống hơn nhiều phụ nữ khác.

Hoàng Hoa cười nhạt:

-Tôi đã nói mà đồng chí vẫn không chịu tin tôi. Tôi là đảng viên có nhiều thành tích.

Gã trán hói đập bàn thình thịch:

-Tao cấm mày gọi tao là đồng chí. Mày là con gián điệp. Sớm muộn gì cũng mất xác.

-A, nếu ông đã biết tôi là gián điệp thì còn hỏi cung làm gì nữa. Sao không đem tôi ra bắn?

-Hừ, đem bắn, mày nói dễ nghe nhỉ? Tao phải giữ mày sống thêm ít giờ nữa để bắt mày khai những điều mày cố giấu.

Hoàng Hoa nín lặng. Nàng cúi đầu xuống, sửa soạn chịu đòn. Gã trán hói vụt đứng dậy tát trái vào mặt nàng. Nàng vừa ngã xuống thì hắn chồm tới đạp tới tấp vào đầu nàng. Rồi hắn dựng nàng dậy, đấm liên tiếp như võ sĩ tập quyền với bao cát.

Hai mắt nàng sưng húp, một giòng máu đỏ chảy xuống miệng. Mùi mặn của máu làm nàng say say. Nàng nằm sóng soài trên mặt đất, nửa tỉnh nửa mê.

Khi ấy đìện thoại reo lên. Gã trán hói cầm nghe và gắt:

-Phải, chính tôi đây. Chính tôi ra lệnh bắt cô Hoàng Hoa. Hiện tôi đang lấy cung cô ta trong văn phòng. Không, thiếu tướng đứng ra bảo lãnh cũng không được. Thiếu tướng có dám ký giấy bảo lãnh một tên gián điệp nguy hiểm của địch không?

Ở đầu giây là tướng Trần Sâm. Hắn đổi sang giọng van vỉ:

-Chắc đồng chí lầm. Hoàng Hoa là nhân viên trung thành. Bắt nàng, vô hình chung đồng chí đã chạm danh dự và uy tín của tôi.

-Nhiệm vụ của tôi, tôi làm. Tôi không có thời giờ nghĩ đến danh dự hay uy tín của ai hết. Tôi đang bận, yêu cầu thiếu tướng dành câu chuyện riêng này đến mai.

Gã trán hói dằn ống nói xuống giá kêu rầm. Liếc thấy Hoàng Hoa thiêm thiếp trên đất, hắn vỗ tay đôm đốp ra hiệu cho lính gác bên ngoài. Hai tên đeo súng chạy vào. Hắn hất hàm:

-Mang đồ tra tấn ra đây.

Bỗng đìện thoại lại reo. Tưởng Trần Sâm kêu lại, hắn định gắt song mới nghe câu đầu, hắn đã thay đổi nét mặt. Hắn hỏi dồn:

-Sao? Vừa nhận được mật điện từ Sàigòn? Dịch xong chưa? Bao giờ xong?

Đìện thoại im lặng nửa phút đồng hồ. Rồi gã trán hói hỏi tiếp:

-Đang dịch hả? Ừ, được. Nếu trong 5 phút nữa dịch xong thì tốt lắm.

Hắn quay ra phía 2 tên lính khệ nệ bưng một cái thùng lớn vào phòng, giọng kẻ cả:

-Thôi, cất đi. Khiêng nữ phạm nhân này vào sà lim, cùm chân nó lại. Nội đêm nay, khi nào xong việc, hỏi tội nó cũng chưa muộn.

Gã trán hói đánh diêm hút thuốc, dáng điệu vô cùng khoan khoái. Đúng 5 phút sau, một nhân viên trình hắn đọc một mảnh giấy màu vàng đựng trong phong bì gắn xi niêm phong. Hắn nở nụ cười vênh vang, đoạn gật gù:

-Dịp may đã tới. Phen này thiện hạ sẽ biết ta thắng hay lão ông Hoàng thắng.

oOo

Vầng trăng lưỡi liềm bị mây đen che khuất vừa ló dạng sau rặng núi. Văn Bình bâng khuâng nhìn những đám mây nhẹ trôi như khói bay lững thững trên nền trời láng mượt. Tuy cơ thể mệt mỏi, chàng vẫn không ngủ. Chàng cảm thấy cần phải thức để đối phó với bất trắc.

Hồi tối, Vương Sinh đến thăm chàng. Hắn đến với một gã lạ mặt. Trong khi trò chuyện, người lạ chỉ ngồi nghe mà không bình phẩm. Nửa giờ sau, Vương Sinh cáo từ, hẹn gặp lại. Thái độ ỡm ờ của hắn là Văn Bình lo ngại.

Đứng sau cửa sổ, chàng lắng nghe tiếng động chung quanh. Ngoài tiếng hú của thú dữ, tiếng reo của suối, tiếng rì rầm của gió thổi qua những lùm cây rậm rạp, Văn Bình chẳng còn nghe được âm thanh nào nữa. Song le, chàng vẫn băn khoăn. Chàng có ấn tượng là địch đã phăng ra chàng.

Chờ mảnh trăng bi che kín, Văn Bình mới trèo ra ngoài. Chàng không xuống dưới nhà bằng cầu thang gỗ vì sợ phía ấy có lính gác. Chàng co chân nhảy xuống nhẹ như lá rụng.

Chàng nằm áp mặt xuống đất để phân định động tĩnh. Đến khi chắc chắn không bị ai theo, chàng mới đứng dậy, men theo đường nhỏ vào rừng. Tiểu Doanh dặn chàng kỹ lưỡng: đường tuy xa song không thể lạc vì hai bên đường đều trồng cây hồi. Mùi hồi thơm hắc sẽ giúp chàng khỏi lạc.

Mấy con khỉ bị quấy rộn giấc ngủ, kêu lên chít chít rồi đu cành nọ sang cành kia sột soạt. Muỗi bay vo ve vào mắt Văn Bình. Chàng rảo bước trên con đường đầy lá.

Theo lời Tiểu Doanh, ban đêm trong khu này không có người gác. Tuy nhiên, chàng không thể ra khỏi mật khu vì những đơn vị võ trang khí giới nhẹ đóng sẵn ở ngoài. Tiếng suối reo đập vào tai chàng. Chàng đã làm quen với nhiều giòng suối, nhưng ít khi được thấy giòng suối nào nên thơ như suối Krê đang uốn khúc trăng trắng trước mặt.

Nước suối trời lạnh thì âm ấm, còn trời nóng thì mát rợi. Ngụp xuống suối, người ta sẽ cảm thấy lòng lâng lâng. Đứng trên bờ, chàng có thể nhìn rõ lòng suối có những hòn đá sỏi tròn trịa và nhiều màu. Tiếng suối chảy róc rách, róc rách như bản nhạc luân vũ.

Đến một phiến đá trắng hình vuông, chàng đứng lại. Tiểu Doanh đã ngồi đợi. Nàng quấn khăn voan màu trắng trên đầu có lẽ để che sương. Quần áo nàng cũng bằng hàng trắng bó sát lấy người. Nàng bắt tay chàng, dáng điệu thân mật như thể quen chàng từ lâu.

Dưới ánh trăng nhạt, Tiểu Doanh đẹp như giai nhân trong truyện cổ. Chàng không dám ôm chặt sợ nàng tan thành khói biếc, và hạnh phúc thiên tiên sẽ không còn nữa. Tiểu Doanh xiết chặt bàn tay chàng, giọng run run:

-Anh ơi, em sợ lắm !

Văn Bình cúi xuống hôn vào môi nàng. Nàng nhắm nghiền mắt tận hưởng những cảm giác cực kỳ mới lạ vừa nhú dậy trong lòng. Văn Bình vuốt ve làn da trắng nõn của nàng:

-Tiểu Doanh, tại sao em sợ?

-Hoàng Hoa đã bị bắt.

Văn Bình đau điếng người. Theo nguyên tắc tổ chức bí mật, Tiểu Doanh không biết Hoàng Hoa. Chàng bèn giả vờ nói:

-Hoàng Hoa nào? Có phải cô gái cùng đi với anh không?

-Còn ai vào đấy nữa? Chị ấy đang bị giam trong trụ sở Hắc Y. Vương Sinh cho em biết Hoàng Hoa bị bắt về tội liên lạc với chính phủ Sàigòn, nghĩa là chị ấy là đồng chí của mình. Em tin là anh đã tiếp xúc với Hoàng Hoa từ trước.

Văn Bình thở dài:

-Vậy thì nguy. Liệu đêm nay anh có thể thực hiện được kế hoạch không?

Tiểu Doanh cũng thở dài:

-Em ráng giúp anh thành công. Bây giờ mời anh đi theo em.

Nàng dắt tay Văn Bình thoăn thoắt qua những bụi dứa dại. Nàng thuộc làu mọi lối đi nên mặc dầu bước thật nhanh nàng không hế vấp ngã. Hai người tiến sâu vào cánh rừng tối om. Vầng trăng đã biến mất từ nãy. Nghe tiếng động, nàng đứng lại, rúc vào người chàng. Phía trước thấp thoáng trên nền núi trắng mờ mờ Văn Bình nhận ra hai bóng người vác súng đi đi, lại lại. Lưỡi lê bóng loáng hiện rõ trong đêm tối.

Tiểu Doanh nói nhỏ:

-Đây là lối riêng vào hầm bí mật. Em biết cách mở cửa động, song anh phải hạ thủ hai tên lính gác.

Văn Bình nhô đầu khỏi bụi cây, quan sát địa thế. Đối với võ sư dày kinh nghiệm trận mạc như chàng thì kẹp chết hai, chứ mười địch thủ nữa cũng dễ như bỡn. Song chàng vẫn e ngại. Một khi phăng ra Hoàng Hoa, địch sẽ ngờ vực chàng. Yếu tố tất thắng về phần chàng phải là ra tay trước, và ra tay thật nhanh.

Văn Bình nằm rạp xuống cỏ ướt và bò bằng hai tay về phía lính gác. Chàng lượm viên đá, chờ cả hai quay lưng mới ném trúng thân cây đại thụ. Như có lò so, hai tên lính giật nảy mình, và chĩa súng ra sau.

Chàng ném thêm hòn đá thứ hai. Một tên lên đạn vào nòng kêu xoạch rồi tiến về bụi rậm vừa phát tiếng động. Văn Bình nằm cách vọng gác chừng ba thước. Đợi một tên lính đi qua, chàng mới vùng dậy.

Văn Bình vươn lên, nắm cổ tên lính vật ngã xuống. Nạn nhân chưa kịp kêu thì chàng đã điểm huyệt làm hắn cứng đơ như khúc gỗ. Tên lính thứ hai lượn quanh quất hồi lâu không thấy gì bèn càu nhàu quay lại vọng gác. Hai bàn tay cứng như thép của Văn Bình đã chờ sẵn và khép chặt lại quanh yết hầu. Nạn nhân giãy đành đạch rồi nằm sóng soài trên nền đất ướt. Văn Bình nhô đầu lên cho Tiểu Doanh nhìn thấy rồi khoát tay ra hiệu.

Mảnh trăng quái ác vừa từ đám mây đen ló ra, chiếu xuống cánh rừng khuya một màu trắng huyền ảo. Văn Bình thoáng thấy thân hình mảnh dẻ và mềm mại của Tiểu Doanh. Chân nàng bước trên thảm cỏ êm như ru. Nếu không có nhiệm vụ quan trọng đợi chàng trong hầm bí mật thì Văn Bình đã reo lên như đứa trẻ được ăn bánh ngọt và nhảy xổ về phía nàng. Tiểu Doanh có một sức quyến rũ khác thường. Phải cứng bóng vía thì gần nàng mới không bủn rủn chân tay.

Trong khoảnh khắc, Văn Bình nhớ lại những người đàn bà đẹp có chân trong tổ chức gián điệp của ông Hoàng. Bất cứ ở đâu, trên toàn thế giới, ông Hoàng cũng đều có tai mắt và bàn tay hành động. Nhân viên của ông phần nhiều là đàn bà có nhan sắc khuynh quốc, khuynh thành. Văn Bình không hiểu ông Hoàng làm cách nào mà có thể khám phá và thu dụng được đạo binh vệ nữ độc nhất vô nhị này.

Tiểu Doanh dựa sát người chàng, bỗng nàng hỏi:

-À, suýt nữa em quên. Tên thật của anh là gì?

Văn Bình phì cười. Nàng đúng là người đàn bà muôn thuở! Hương vị ngây ngất của tình ái đã làm nàng quên hết. Nàng quên rằng nguy hiểm kinh khủng đang rình rập và có thể lát nữa đây, chàng và nàng sẽ chết. Nàng không sợ chết, nhưng lại sợ không biết tên thật của chàng.

Văn Bình nắm bàn tay búp măng trắng nõn của nàng:

-Tên của anh là Tùng Liêm.

-Không, em không muốn hỏi tên của gã đại tá Bắc Việt mà anh đội lốt. Em muốn biết tên thật của anh kia.

-Anh không nhớ tên thật là gì nữa.

Tiểu Doanh phụng phịu:

-Thôi, em hiểu rồi. Anh không thật yêu em chớ gì. Mai kia, công việc của anh hoàn thành, anh sẽ trở về Sàigòn với hàng chục, hàng trăm người đàn bà đẹp, còn em thì trọn đời chôn sống trong xó rừng đầy muỗi và vắt này.

Văn Bình thở dài:

-Không phải thế đâu. Hai đứa mình ở trong một nghề mà tên tuổi chỉ là con số dê rô to tướng. Trong chuyến đi này, anh là đại tá Tùng Liêm, mấy tháng nữa anh có thể là nhà báo, thày thuốc hoặc tên côn đồ quốc tế. Cần biết tên nhau làm gì cho khổ. Chúng mình gặp nhau, vui bên nhau, để rồi mai kia...

Tiểu Doanh nghẹn ngào:

-Em hiểu, anh đừng nói nữa.

Văn Bình nín lặng nhìn vào khu rừng tối om. Dấn thân vào nghề gián điệp hành động, chàng đã cam kết không bận tâm về đàn bà, dầu người chàng thương yêu tha thiết. Và trong nhiều năm, chàng đã giữ trọn lời hứa.

Bỗng Văn Bình giật mình.

Chàng nghe rõ tiếng ngựa phi lộp cộp trên đường đất. Tiếng ngựa lớn dần rồi im bặt. Tiểu Doanh véo vào thịt chàng. Chàng ghé tai nàng thì thầm:

-Không khéo lộ mất. Em biết ai không?

Tiểu Doanh cũng thì thầm:

-Không lộ đâu, anh đừng ngại. Em chắc là A Duỳn.

-A Duỳn là ai?

-Hắn là phụ tá cho trưởng ban Hắc Y.

-Em biết hắn đến đây làm gì không?

-Có lẽ hắn vào hầm. Nhưng hắn vào hầm hay đi đâu nữa, chúng mình cũng không thể khoanh tay thụ động vì con ngựa của hắn đánh hơi tài lắm.

-Nghĩa là A Duỳn sẽ khám phá ra chúng mình.

Giọng Tiểu Doanh hơi run:

-Em lo như thế.

Văn Bình đứng dậy. Hoa dạ hương từ rừng bên tạt vào mũi chàng mùi thơm ngào ngạt. Con ngựa của A Duỳn hí lên, rồi đập móng xuống đất thật mạnh. Văn Bình núp cách A Duỳn chừng 10 thước. Dầu ánh trăng không sáng lắm, chàng vẫn thấy rõ con ngựa lông trắng như tuyết của A Duỳn thuộc loại thú đắt tiền. Với con ngựa quý này, chàng có thể ra khỏi mật khu R dễ như bỡn.

Con ngựa cứ hí lên và đập chân thình thịch. A Duỳn rút lưỡi kiếm ngắn đeo ở thắt lưng ra rồi múa lên. Ánh thép sáng ngời chiếu sáng một vùng. Quan sát cách xử dụng, Văn Bình biết A Duỳn là tay kiếm khách có tài. Chàng le lưỡi không hiểu sẽ đối phó cách nào trong khi tay chàng không có tấc sắt.

A Duỳn quát lên:

-Ở đâu?

Hắn nói bằng tiếng tàu trọ trẹ, thứ tiếng khó nghe của người Triều châu. Có lẽ hắn đang hỏi con ngựa. Con bạch mã ngẩng đầu về phía bụi rậm Văn Bình núp.

A Duỳn thúc ngựa tiến lại. Văn Bình định tháo lui nhưng không kịp nữa. Trong vòng 5 thước, không còn bụi cây nào khác. Nếu có chiếc gậy -dầu là gậy tre nữa- Văn Bình cũng có thể tìm kế hoãn chiến. Thừa cơ địch không để ý, chàng sẽ tung gậy tấn công. Chỉ còn 3 thước nữa thì A Duỳn tới chỗ chàng núp. Chàng thu hết sức lực vào hai chân, chờ đối phương chém xuống thì nhảy chéo sang bên rồi tùy phương đối phó.

Chàng sửa soạn lăn tròn trên đất để tránh nhát kiếm sát nhân thì một tiếng rú nổi lên. Chàng chợt hiểu Tiểu Doanh chờ A Duỳn sắp ra tay mới thét kiai cứu chàng. Tiếng kêu bất thần làm A Duỳn mất tinh thần trong một giây đồng hồ. Hắn ngoảnh sang bên hữu, nơi phát ra tiếng rú của Tiểu Doanh. Nhanh như cắt, Văn Bình vùng đứng dậy, bàn chân trái phóng ra như chớp. Món độc cước vốn là nghề “ruột” của chàng. Nhưng chàng đã đoán sai khá năng né tránh của tên khách trú mập mạp. A Duỳn chỉ đứng tới cằm Văn Bình song bề ngang to hơn và dày hơn. Cái bụng nhiều mỡ chứng tỏ lâu nay hắn lười luyện tập võ nghệ. Nếu siêng năng luyện tập, không hiểu phản ứng của hắn còn nhanh đến đâu nữa.

Đối với tay mơ thì cái đá ghê gớm này đủ làm vỡ bàng quang, song A Duỳn lạng người, thoát khỏi đồng thời chém lưỡi kiếm tóe hào quang vào vai chàng. Đến lượt chàng phải chuyển mình thật lẹ, và lựa thế bắt lấy lưỡi kiếm.

Thừa cơ A Duỳn mất trớn, Văn Bình tiến lên một bộ vung hai tay ra luôn một lúc. Tay tả của chàng đánh vào đốc kiếm, còn tay hữu xòe ra đâm vào giữa mặt A Duỳn. Hắn bị dồn vào thế tiến thoái lưỡng nan: nếu cố giữ võ khí thì hai mắt sẽ bị thuơng nặng, còn nếu bảo vệ hai mắt thì phải chịu mất kiếm.

Lưỡi kiếm báu rơi xuống tảng đá trắng kêu choang một tiếng. Giờ đây, hai con hổ đã ngang sức. Văn Bình hươi quyền Thiếu lâm tấn công A Duỳn. Bị rớt kiếm, A Duỳn hơi luống cuống nên trong một vài giây đồng hồ chiêu pháp thiếu bình tĩnh. Hắn ôm ngang người Văn Bình, định bẻ gãy xương vai. Văn Bình uốn lưng vọt lên rồi hạ xuống đất, chân phóng ra. A Duỳn nâng tay gạt, khiến Văn Bình bị ngã sóng soài. Tiểu Doanh che mặt kêu lên:

-Trời ơi!

A Duỳn nhảy lên ngực Văn Bình, bàn tay nắm lại sửa soạn phóng atêmi cực hiểm. Hắn không ngờ đó là kế mọn của Văn Bình. Chàng giả vờ ngã như danh tướng thời xưa dùng thuật đà đao để đánh lừa đối phương. Và A Duỳn đã đút đầu vào rọ như con vật khờ dại.

Văn Bình bắt gọn bàn tay của A Duỳn, kéo mạnh về phía sau. Chàng nghe rõ tiếng xương đốt tay gãy kêu răng rắc. Xương ống tay của hắn cũng bị giật ra khỏi vai. A Duỳn nằm lăn chiêng trên cỏ ướt.

Văn Bình tặng thêm một atêmi nữa vào giữa trán. A Duỳn rú lên một tiếng xé lòng rồi lặng thinh. Ngoảnh lại, Văn Bình đã thấy Tiểu Doanh giang hai tay chờ sẵn. Nàng ôm chàng, toàn thân run run, không rõ run run vì sợ hãi hay run run vì sung sướng. Vầng trăng lại đi sâu vào đám mây đen. Văn Bình hỏi nàng:

-Gần sáng rồi, làm sao giấu được xác A Duỳn?

Nhìn đồng hồ dạ quang đeo ở cườm tay, nàng đáp:

-Anh đừng ngại, giờ đây chúng mình xuống hầm, lát nữa lên mang xác hắn ném xuống khe cũng kịp chán.

Tiểu Doanh dẫn chàng vào một thạch động nhỏ hẹp. Lối đi chỉ một người lọt. Bên trong, tối om như hũ nút. Tiểu Doanh nói nhỏ vào tai chàng:

-Anh nên thận trọng. Bên phải là vực sâu. Ngã xuống là chết.

Văn Bình rút đèn bấm. Ánh sáng xanh của ngọn đèn bút máy tí hon chỉ đủ giúp chàng nhìn thấy lờ mờ. Chàng hỏi:

-Dưới vực có gì không?

-Có cá sấu.

Giật mình, chàng hỏi lại:

-Cá sấu à?

-Thưa anh vâng. Dưới ấy, có khoảng 20 con cá sấu. Loại sấu này rất dữ. Thả con bò xuống, chỉ một lát là hết sạch.

Tiếng gió xoắn qua lối vào chật hẹp rít lên từng hồi trong thạch động hun hút, dội vào vách đá và luồn xuống vực thẳm. Tiếng gíó trở thành một loạt tiếng kêu thét rùng rợn. Nếu là người yếu bóng vía thì tóc gáy phải dựng ngược.

Con đường trước mặt dần dần mở rộng, ánh sáng không biết từ đâu chiếu vào làm quang cảnh bớt tối. Tiểu Doanh vịn vai chàng. Chàng nghe rõ hơi thở rồn rập của nàng. Tuy ở chốn rừng già, ngày đêm chung chạ với muỗi và thú dữ, nàng vẫn có một hương thơm kỳ lạ từ da thịt tiết ra. Mùi thơm này thoang thoảng như nước hoa đắt tiền. Nó ngạt ngào bay vào mũi chàng, và thấm dần vào cơ thể chàng. Ngây ngất, chàng ôm gọn lấy nàng. Tiểu Doanh gỡ ra:

-Đừng anh.

-Tại sao?

-Em không biết nữa. Em sợ đêm này là đêm cuối cùng của đời em... của đời chúng ta.

Hai tiếng “chúng ta “nàng nói bằng giọng ngọt ngào. Văn Bình mỉm cười:

-Ồ, em dị đoan quá. Tiếng cú kêu ngoài cửa động hồi nãy không có gì là gở cả. Ban đêm nghe cú kêu là thường.

Tiểu Doanh xòe bàn tay bịt miệng chàng. Một tiếng động từ xa vọng lại. Văn Bình nín thin thít. Chàng tắt đèn bấm. Thạch động chìm vào cảnh tranh tối tranh sáng rùng rợn.

Đứng một hồi không nghe động tĩnh gì hết, Tiểu Doanh mới bấm vào tay, ra hiệu cho Văn Bình tiến lên. Hai người xuyên qua một thạch động khác, nước suối chảy cuộn rào rào. Đàn giơi vỗ cánh xành xạch bay tứ tung. Văn Bình nắm tay nàng đi trên con đường trơn ướt như xoa mỡ. Không hiểu vì xẩy chân hay cố ý, nàng ngã nhào vào lòng chàng. Nàng ôm cứng lấy chàng, móng tay đâm vào da thịt khiến chàng rớm máu. Văn Bình cúi xuống, bắt gặp tia mắt sáng ngời của Tiểu Doanh. Tia mắt long lanh này chứng tỏ nàng yêu chàng tha thiết.

Đột nhiên nàng òa khóc. Văn Bình lấy tay bịt miệng nàng:

-Anh làm em buồn phải không? Anh xin lỗi em.

Nàng đáp qua nước mắt:

-Không. Em khóc không phải vì buồn bã mà vì sung sướng. Những ngày đầu ở mật khu R, em chán đời lạ lùng. Chán đời đến nỗi em muốn khóc cho vơi bớt phiền muộn mà không tìm ra nước mắt.

-Tại sao em chán đời?

Tiểu Doanh im lặng. Văn Bình hỏi gặng:

-Em bị tình phụ phải không?

-Anh lầm. Em không thuộc loại đàn bà có thể uống thuốc ngủ tự tử vì người yêu lấy vợ. Em bỏ cuộc sống thần tiên ở Sàigòn vì em đã có lời nguyền. Cha em bị người ta giết chết. Mẹ em buồn mà mất. Mấy chị em đùm bọc lấy nhau, em là út được các chị tằn tiện nuôi ăn học. Em đậu một phần cử nhân thì được ông Hoàng tuyển dụng vào Tổ chức. Vốn ham phiêu lưu, em nhận lời liền. Em càng có lý do để nhận lời khi làm nghề này, em có điều kiện báo thù cho cha em. Cha em mất trong một bệnh viện nghèo nàn, trần nhà dột tứ tung, bốn bức tường lở hết vôi, quang cảnh ảm đạm ấy suốt đời em còn nhớ mãi. Em nắm bàn tay đã lạnh của cha và long trọng hứa phục hận. Em phải giết bằng được kẻ đã giết cha em.

-Hắn ở trong R?

-Sao anh biết?

-Nghe em nói, anh đoán ra ngay.

-Anh tài thật. Vâng, hắn ở trong mật khu R, và đang giữ một chức vụ vô cùng quan trọng.

-Anh biết rồi. Tên hắn là Vương Sinh. Đại tá Vương Sinh.

Giọng Tiểu Doanh run run trong sự kinh ngạc:

-Trời, sao anh lại biết hắn là Vương Sinh? Anh biết sao chưa chịu nói với em?

Văn Bình xiết chặt bàn tay mũm mĩm của nàng:

-Cũng như hồi nãy, anh chỉ đoán phỏng đấy thôi. Sở dĩ anh phăng ra vì anh không thể tin được một người như em lại chịu nhận làm tình nhân của Vương Sinh. Đành rằng em yêu hắn vì công việc đòi hỏi, song anh có linh tính là em còn theo đuổi một mục đích khác.

-Vương Sinh còn sống, em chưa thể quay về Sàigòn.

-Hắn chỉ còn sống mấy giờ nữa. Em sắp hạ thủ hắn.

-Vương Sinh rất giỏi võ, em không giết hắn được dâđ.

-Sau bao năm chờ đợi, em chỉ mong có giờ phút này. Giết hắn tuy khó mà dễ, nhưng thú thật với anh, trước kia em cho là dễ vì sau khi hạ thủ hắn, em dự định quyên sinh để khỏi bị bắt. Nhưng giờ đây...

Văn Bình giọng vỗ về:

-Em yên tâm. Để anh lo liệu cho.

Hai người đi sâu vào bên trong. Ánh sáng mỗi lúc một rõ. Văn Bình nhìn thấy một tấm bảng lớn đóng vào vách đá, bên trên có giòng chữ:

“Vô phận sự không được vào lối này “.

Văn Bình quay lại nhìn Tiểu Doanh hỏi ý kiến. Nàng khoát tay ra hiệu cho chàng rẽ sang bên trái. Đến khúc rẽ, nàng bảo chàng:

-Hết khúc rẽ này sẽ đến phòng thường trực của ban phòng vệ. Trong phòng có 3 người, một sĩ quan và 2 tên lính. Họ được võ trang súng tiểu liên, và bắn rất trúng. Chúng mình phải hạ thủ cả 3 mới có thể lọt vào phòng lưu trữ tài liệu.

Văn Bình lắc đầu:

-Còn hệ thống báo động? Viện binh ập tới, chúng mình sẽ hết lối thoát.

-Em đã biết nơi đặt nút chuông báo động. Bây giờ em đi trước.

-Cón anh?

-Anh cứ đợi em ở đây. Năm phút nữa, em sẽ quay lại.

Không đợi chàng đồng ý, Tiểu Doanh đã thoăn thoắt tiến vào bóng tối óng ánh của thạch động. Tiếng chân của nàng vang dội trong đêm khuya.

Chàng nghe tiếng quát:

-Ai đó?

Rồi tiếng của Tiểu Doanh, do vách đá dội lại:

-Tiểu Doanh đây.

Văn Bình hiểu ngay. A Duỳn thường đưa Tiểu Doanh vào thạch động này tình tự. Và có lẽ nàng sẽ dùng mỹ nhân kế cả với tên sĩ quan chỉ huy ban phòng vệ thường trực.

Chàng cảm thấy nóng mặt khi nghĩ đến bàn tay thô bạo vuốt ve tấm lưng mềm mại của nàng. Đột nhiên chàng xấu hổ. Chàng ghen chăng? Nếu ghen thì chàng đã yêu nàng thật sự. Chàng tự nhủ:

-Mình vô lý quá! Không chủ tâm yêu người ta mà lại bắt người ta phải hoàn toàn thuộc vào quyền sở hữu của mình!

Ánh đèn măng sông hắt ra phũ phàng làm Tiểu Doanh nheo mắt. Nàng nhận ra gã thanh niên si tình từng nuốt nước bọt ừng ực khi thấy nàng khoác vai A Duỳn vào thạch động. Hắn mừng rú:

-Tiểu Doanh! Cô vào đây làm gì?

Nàng mỉm cười không đáp. Nàng cố tạo nụ cười thật quyến rũ. Cùng với nụ cười mời mọc, nàng dùng tia mắt ươn ướt ngầm bảo với hắn rằng nàng mạo hiểm vào đây để gặp hắn. Sự im lặng của nàng còn đắc lực hơn ngàn lời tỏ tình. Liếc qua, hắn vụt hiểu. Nàng lừ mắt ra hiệu, hắn đeo khẩu tiểu liên sô viết lên vai rồi ra lệnh cho 2 tên lính ở lại trong vọng gác. Đó là một căn phòng hẹp xây gạch, cửa bằng gỗ lim dầy. Trong phòng vỏn vẹn có 3 cái giường tre, và cái bàn mộc, bên trên bầy la liệt máy điện thoại.

Một tên lính hỏi:

-Trung úy vắng mặt bao lâu?

Tên trung úy nhìn đồng hồ tay:

-Độ 10, 15 phút thôi.

Tên lính cười đểu giả:

-Chúc trung úy vui vẻ nhá.

Tiểu Doanh thản nhiên trước lời nói tục tĩu của tên lính. Sống giữa đám hùm beo, nàng đã quen với lối tỏ tình và tâm sự trắng trợn. Trong những ngày đầu, nàng đỏ mặt e thẹn, nhưng ít lâu sau nàng không còn biết sượng sùng nữa. Máu trong huyết quản nàng sôi lên. Nàng nhìn chăm chăm vào cái gáy đầy thịt của gã trung úy si tình. Nàng muốn đâm ngay mũi dao nhọn vào gáy hắn.

Tiểu Doanh dắt tên trung úy trở lại chỗ Văn Bình núp. Tên trung úy quàng tay ra sau lưng nàng, giọng khê nặc vì thèm muốn:

-Anh đã biết mà... Anh đã biết sớm muộn em sẽ trở lại với anh. Cặp kè với thằng tàu phù bụng phệ ấy thì sung sướng nỗi gì?

Tiểu Doanh làm mặt giận:

-A, anh dám phê bình đồng chí A Duỳn. Anh không sợ em báo cáo ư?

Hắn cười hềnh hệch:

-Nếu sợ anh đã không nói. Ngoài em ra, mọi người ở đây đều ghét thằng háo sắc A Duỳn.

Phía trước, thạch động bắt đầu thu hẹp lại, và ánh sáng tỏa chiếu lờ mờ. Từ trong tối, Văn Bình ló đầu ra. Tên trung úy có cặp mắt cú vọ được huấn luyện thuần thục để nhìn ban đêm nên đã nhận thấy chàng. Như bị điện giật, hắn đứng phắt lại, đặt tay vào khẩu tiểu liên đã nạp đạn. Mũi súng vừa chĩa về phía Văn Bình thì Tiểu Doanh đánh mạnh vào cườm tay hắn. Nàng đánh khá mạnh, song da thịt mềm mại của nàng đâu sánh nổi bàn tay thép nguội của gã đàn ông từng quen trận mạc. Hắn giữ vững khẩu tiểu liên và lảy cò.

Tacata... Tacata...

Văn Bình đảo người tránh đạn. Bị lộ, chàng phải trổ hết tài ba chuyển bại thành thắng, và trước tiên là cứu Tiểu Doanh vì tên trung úy đã hoành tay kẹp cổ nàng. Tiểu Doanh kêu ằng ặc, sắp sửa nghẹt thở. Tuy bắn bằng một tay, tên trung úy đã tỏ ra thành thạo và nhanh nhẹn khác thường. Hắn ria thêm một lằn đạn khủng khiếp. Âm thanh vang động khắp thạch động tưởng như hàng chục tấn bom đang đổ xuống. Văn Bình đã nhảy tới sát người hắn. Thu sức lực vào sống bàn tay, chàng hạ xuống như lưỡi dao phay. Phát atêmi rơi đúng bả vai, hắn thét một tiếng đau đớn. Văn Bình bồi thêm phát thứ hai. Lần này hắn buông súng và ngã nhào. Văn Bình đoạt khẩu tiểu liên, quay ngược bá súng vào mặt hắn. Chàng chỉ cần đánh nhẹ. Rắc một tiếng, sọ hắn vỡ làm nhiều mảnh.

Tiểu Doanh ôm ngực thở hổn hển. Chậm một phút nữa là nàng có thể ngạt. Văn Bình nắm tay nàng kéo vào bên trong. Tiếng súng nổ sẽ gây báo động, chắc chắn bọn lính sẽ kéo đến trong giây phút.

Chàng đoán không sai, Tiểu Doanh vừa kịp nép mình vào vách núi thì một loạt đạn nữa nổ rền. Văn Bình thoáng thấy một tên cao lớn mặc đồ đen chạy lại. Chàng cười nhạt bấm cò. Tên lính bị đạn đứng sững lại rồi loạng choạng ôm bụng ngã chúi. Văn Bình chờ tên thứ hai xấn ra. Một tràng đạn khác đã kết liễu đời hắn.

Văn Bình định tiến lên nhưng Tiểu Doanh níu lại:

-Không được đâu. Chúng mình rút ra thôi. Nghe tiếng súng, bọn phòng vệ đã chặn bít mọi lối ra vào. Phòng lưu trữ tài liệu cũng được canh gác chặt chẽ. Một tay súng của anh sao đối địch lại mấy chục tên thiện xạ. Phương chi chúng lại có cả trung và đại liên nữa.

Tiểu Doanh vừa dứt lời thì thạch động bị rung chuyển dữ dội như bị tung lên không trung và vỡ tan thành nhiều mảnh vụn. Đại liên trong hốc núi bắt đầu khạc đạn. Những mảnh đá bị đạn bắn nát bay rào rào chung quanh hai người. Văn Bình phải lấy thân làm mộc cho cho Tiểu Doanh khỏi bị thương.

Trước mặt hai người, ánh đèn bật sáng rực. Văn Bình lôi Tiểu Doanh đi lùi trở về con đường cũ. Chàng nghe rõ tiếng người ra lệnh. Nếu đi một mình, chàng quyết chiến đấu đến cùng. Dầu đối phương đông đảo, chàng vẫn không nao núng. Với mỗi viên đạn, chàng có thể dùng bắn ngã một tay súng địch. Chiến đấu trong hang núi vốn là sở trường của chàng. Bắn giết một hồi, nhân lúc đối phương hoang mang, chàng có thể đột nhập phòng lưu trữ tài liệu.

Nhưng còn Tiểu Doanh nữa...

Chàng không thể bỏ nàng. Nàng đã hy sinh tuổi xanh dấn mình vào chốn rừng sâu nước thẳm. Bỏ rơi nàng trước khi nàng phục xong cừu hận là một hành động không tương xứng với tác phong mã thượng cố hữu của Văn Bình.

Hai người đã về đến con đường hun hút, đầy tiếng nước reo và gió xoáy. Tiểu Doanh đi sát bên chàng. Mùi hương da thịt tỏa đượm một sức hấp dẫn kỳ lạ. Văn Bình cảm thấy lâng lâng mặc dầu những mối hiểm nguy đang rình rập chàng từng giây từng bước.

Tia sáng trăng lạc lõng bên ngoài lọt vào cửa động. Văn Bình sửa soạn vươn vai hít một hơi dài cho không khí mát lọt vào buồng phổi thì đột nhiên nghe tiếng quát:

-Tiểu Doanh, đứng yên kẻo mất mạng!

Văn Bình nâng súng song đã chậm. Một họng tiểu liên đen ngòm chĩa vào ngực Tiểu Doanh, kèm theo giọng hách dịch và cộc lốc:

-Bỏ súng xuống, nếu không con bé này phải chết.

Dĩ nhiên chàng phải riu ríu tuân theo. Nhưng Tiểu Doanh đã cất tiếng:

-Đừng anh, anh đừng nghĩ đến em nữa.

Văn Bình không nghĩ đến nàng sao được! Giờ phút này, chàng càng có bổn phận che chở nàng. Lặng lẽ, chàng ném khẩu tiểu liên bất lực xuống đất, giọng bình thản:

-Tôi đã vứt khí giới, anh hãy tha cho nàng.

Tiếng cười ngạo nghễ nổi lên:

-Hừ, tha cho nàng! Tùng Liêm táo gan thật. Yêu cầu anh để hai tay lên đầu, lát nữa ta hãy nói chuyện.

Tiểu Doanh đứng thu mình trước tảng đá lớn, mặt lộ vẻ sợ sệt. Phải có nhiều nghị lực Văn Bình mới không thốt ra một tiếng sửng sốt vì người chĩa súng chẳng phải ai xa lạ. Đó là Trần Sâm, thiếu tướng Trần Sâm.

Con chim đã xa vào lồng dầu có ba đầu sáu