CHUỘC TỘI

CHUỘC TỘI

Tổng số chương: 6

Gửi cô Asako,

Cảm ơn cô vì hôm trước đã tới dự đám cưới của cháu.

Suốt buổi lễ, cháu đã luôn lo rằng khi nhìn những người họ hàng cháu rồng rắn kéo nhau từ thị trấn thôn quê đó lên, cô sẽ nhớ lại sự việc khi ấy để rồi cảm thấy không thoải mái. Bởi đám người đó chẳng hề nhận ra cử chỉ và hành động của mình thiếu tế nhị tới chừng nào.

Không khí trong lành. Lần đầu tiên cháu nhận ra rằng, ngoại trừ điều đó, thị trấn ấy chẳng còn gì đáng kể là vào khoảng bảy năm trước, khi cháu tốt nghiệp cấp ba và lên Tokyo theo học trường đại học nữ sinh.

Bốn năm trời cháu sống trong ký túc xá của trường. Lúc cháu nói với bố mẹ rằng mình muốn lên Tokyo học đại học, bố mẹ cháu đều đồng thanh phản đối.

Lỡ con bị kẻ xấu lừa, bắt làm công việc bán thân thì phải làm sao? Rồi bị lôi kéo vào con đường nghiện ngập thì phải làm thế nào? Bố mẹ biết làm gì nếu con bị người ta sát hại?

Một người sinh trưởng nơi đô thành như cô Asako đọc đến đây chắc sẽ phì cười mà nghĩ, rốt cuộc bố mẹ cháu nghe thông tin ở đâu mà lại có những lo lắng kỳ cục như vậy nhỉ.

Cháu đã mang chương trình yêu thích của bố mẹ ra mà cãi lại, rằng, “Đấy là tại bố mẹ xem chương trình Hai tư giờ ở đô thị lớn nhiều quá đó thôi”, dù thực ra cháu cũng nhiều lần tưởng tượng tới những chuyện đáng sợ như thế rồi. Dẫu vậy, cháu vẫn rất khát khao được lên Tokyo học.

“Trên Tokyo có gì hay đâu? Ngành mà con muốn theo học, mấy trường đại học trong tỉnh mình cũng có. Nếu là các trường đó, thì tuy không thể đi về trong ngày, nhưng giá nhà trọ rẻ, gặp chuyện gì cũng có thể về nhà ngay được. Như vậy cả con và bố mẹ đều an tâm.”

Bố cháu đã thuyết phục cháu như vậy.

“Sao bố mẹ có thể an tâm được? Không phải bố mẹ chính là những người hiểu rõ nhất, rằng khoảng tám năm trở lại đây, con đã sống trong sợ hãi ở thị trấn này như thế nào hay sao?”

Thấy cháu nói vậy, bố mẹ không phản đối nữa. Nhưng bố mẹ cháu ra một điều kiện là, khi lên đó thay vì sống một mình ở phòng trọ hay căn hộ chung cư, cháu phải vào sống trong ký túc xá dành cho sinh viên. Cháu không có ý kiến gì về việc đó.

Tokyo trong lần đầu tiên cháu tới thăm giống như một thế giới khác. Bên trong nhà ga nơi cháu bước từ tàu điện cao tốc xuống nhìn đâu cũng thấy toàn người với người, đến mức cháu nghĩ số người bên trong nhà ga này có khi còn nhiều hơn cả dân số của thị trấn quê cháu nữa. Điều làm cháu ngạc nhiên hơn nữa là, dù có nhiều người đến vậy, nhưng mọi người vẫn có thể đi lại bình thường mà không hề đụng vào nhau. Ngay cả cháu lúc đó dù đi loạng quạng do mải nhìn bảng hướng dẫn điện tử để lên tàu điện ngầm mà vẫn không đụng phải ai, vẫn có thể suôn sẻ tới được nơi mình muốn tới.

Lên được tàu điện ngầm rồi, lại có một chuyện khiến cháu ngạc nhiên hơn nữa. Đó là, những người quanh cháu dù có vẻ đều đi cùng ai đó, nhưng hầu như không ai nói chuyện với ai cả. Thỉnh thoảng cháu có nghe thấy tiếng cười hay tiếng nói chuyện lớn, nhưng đa phần những âm thanh đó đều do người ngoại quốc gây ra.

Cho đến hết cấp hai cháu vẫn đi bộ đi học, lên cấp ba thì đi xe đạp nên cho tới lúc đó một năm cháu chỉ đi tàu điện vài lần, ví như những lần tới các trung tâm mua sắm ở thị trấn khác cùng gia đình hay bạn bè. Và trong khoảng một tiếng trên tàu điện trước khi tới nơi ấy, cháu và mọi người trò chuyện không dứt.

Chúng mình mua gì bây giờ nhỉ. À tháng sau có một cái sinh nhật đấy, hay mình mua sẵn quà luôn cho tiện. Trưa nay mọi người muốn ăn ở McDonald’s hay KFC?… Cháu tuyệt nhiên không nghĩ mình làm như vậy là thiếu ý thức. Bởi tiếng nói cười vang lên ở khắp mọi nơi trên tàu, và không ai cau mày khó chịu vì chuyện đó cả, nên cháu đã nghĩ cư xử như thế khi ở trên tàu là bình thường.

Đột nhiên cháu nghĩ, phải chăng người Tokyo không nhìn thấy những người xung quanh mình? Phải chăng họ không quan tâm gì đến người khác. Miễn là bản thân không thấy phiền, thì người bên cạnh muốn làm gì cũng được? Phải chăng họ không muốn biết tiêu đề cuốn sách mà người ngồi ở ghế đối diện đang đọc? Phải chăng họ không buồn để ý dẫu cho người đứng trước mặt họ có mang một cái túi xách hàng hiệu cao cấp đến đâu?

Lúc nhận ra thì cháu đã đang rơi nước mắt rồi. Nhìn một con bé quê mùa với cái túi hành lý lớn đang khóc, hẳn mọi người sẽ hiểu lầm cháu nhớ nhà nên mới vậy. Hơi xấu hổ, cháu vừa quệt nước mắt vừa nhìn quanh, nhưng chẳng có người nào đang nhìn cháu cả.

Cháu cảm động vì nơi đây tuyệt vời hơn cả trong tưởng tượng của mình. Lý do cháu muốn đến Tokyo không phải là vì nơi đây có nhiều cửa hàng tráng lệ, hay nhiều chỗ để đi chơi.

Cháu chỉ muốn hòa vào đám đông những người không biết về quá khứ của cháu, để xóa đi hình ảnh của mình.

Nói chính xác hơn, cháu muốn trốn khỏi đôi mắt của kẻ sát nhân trong vụ án mà cháu là nhân chứng giờ này vẫn đang ung dung ngoài kia.

Cháu ở phòng ký túc bốn người. Mọi người đều là dân tỉnh lẻ, ngày đầu tiên tới ở mọi người tự giới thiệu bản thân và thi nhau khoe về những điều đáng tự hào của quê hương mình. Nào là quê họ có món mì Udon ngon, có suối nước nóng, rồi nhà gần nhà tuyển thủ bóng chày nổi tiếng… Ba người còn lại tuy nói là dân tỉnh lẻ, nhưng tên thành phố, thị trấn quê họ thì cháu đều đã nghe qua.

Cháu có nói ra tên thị trấn quê cháu, nhưng cả ba người đều không biết nó nằm ở tỉnh nào.

Họ hỏi nơi ấy là nơi như thế nào, cháu trả lời, không khí ở đó rất trong lành. Cháu nghĩ nếu là cô Asako, hẳn cô sẽ hiểu rằng, chẳng phải vì nơi đó không có gì đáng tự hào nên cháu mới miễn cưỡng nói một câu chung chung như vậy.

Sinh ra và lớn lên ở thị trấn đó, hằng ngày cháu đều hít thở không khí nơi ấy như một lẽ đương nhiên. Cháu nhận ra không khí nơi đó thật trong lành, vào một ngày khi cháu mới lên lớp bốn, mùa xuân năm vụ án đó xảy ra.

Trong giờ học môn xã hội, thầy Sawada giáo viên chủ nhiệm đã nói thế này:

“Các em đang sống ở vùng quê có khí hậu trong lành nhất Nhật Bản. Các em có biết tại sao thầy có thể nói như vậy không? Những máy móc chính xác được dùng trong các bệnh viện và phòng nghiên cứu phải được chế tạo ở môi trường mà không khí không lẫn bụi bẩn. Vì thế, nhà máy sản xuất những máy móc ấy cũng phải được xây dựng ở nơi có không khí trong lành. Và trong năm nay, nhà máy mới của công ty chế tạo máy Adachi đã được xây dựng ngay tại thị trấn này. Việc nhà máy của công ty sản xuất thiết bị chính xác hàng đầu Nhật Bản được xây dựng ở nơi này chứng tỏ nơi đây đã được chọn là nơi có không khí trong lành nhất Nhật Bản. Các em hãy tự hào vì mình đang được sống trên một vùng đất tuyệt vời như thế nhé.”

Sau buổi học, chúng cháu đã hỏi Emily xem điều thầy giáo nói có đúng không.

“Tớ cũng từng nghe bố tớ nói như thế.”

Nhờ Emily nói vậy nên chúng cháu đã nhận thức được rằng thị trấn nơi mình ở có bầu không khí rất trong lành. Chẳng phải vì bố của Emily là một người có vai vế trong công ty Adachi, với gương mặt đáng sợ và đôi mắt đảo liên hồi, mà vì ông là người từ Tokyo chuyển về.

Hồi đó, chẳng có đứa trẻ nào ở quê cháu thấy bất tiện vì trong thị trấn không có cửa hàng tiện lợi. Với chúng, chỉ những thứ có sẵn từ khi chúng sinh ra mới là lẽ đương nhiên. Dù trên ti vi có quảng cáo búp bê Barbie, thì vì chưa nhìn thấy món đồ chơi đó ngoài đời bao giờ, nên chúng sẽ chẳng thấy thèm muốn. So với búp bê Barbie, những con búp bê Pháp được bày ở gian tiếp khách của các nhà còn quý hơn nhiều.

Nhưng từ khi nhà máy được xây lên trong thị trấn, một cảm giác lạ lùng bắt đầu nảy sinh trong lòng chúng cháu. Đó là vì, những học sinh từ Tokyo chuyển về, bao gồm cả Emily, đã khiến chúng cháu dần thấm thía cái suy nghĩ rằng cuộc sống thường nhật mà mình nghĩ là bình thường này thật ra rất bất tiện và lạc hậu.

Ngay từ nơi ăn chốn ở của họ cũng khác. Lần đầu tiên có một tòa nhà cao hơn năm tầng được dựng lên trong phố. Tòa chung cư dành cho nhân viên công ty chế tạo máy Adachi được xây dựng theo phương châm Thiết kế hòa hợp với thiên nhiên, nhưng đối với chúng cháu thì nó giống như một tòa lâu đài ngoại quốc vậy.

Hôm Emily mời các bạn gái cùng lớp và cùng sống ở khu phía Tây, nơi chung cư kia tọa lạc, tới nhà mình ở tầng bảy - tầng cao nhất chơi, cháu đã háo hức tới mức đêm không ngủ được.

Có bốn người được mời, cháu, Maki, Yuka và Akiko.

Là bạn từ thủa nhỏ và lớn lên trong môi trường giống nhau, nên đối với tất cả chúng cháu, những thứ nhìn thấy ở nhà Emily tất thảy đều giống như đồ ngoại quốc.

Điều ngạc nhiên đầu tiên đó là căn phòng không bị ngăn cách bởi các bức tường. Hồi đó chúng cháu vẫn chưa biết đến khái niệm LDK(*), nên rất ngạc nhiên khi thấy phòng xem ti vi, phòng ăn và nhà bếp ở cùng một chỗ.

LDK: viết tắt của living room, dining room, kitchen, là kiểu nhà mà phòng ăn sẽ kiêm luôn chức năng của phòng bếp và phòng tiếp khách.

Chúng cháu được mời uống trà đen rót từ cái ấm có hoa văn đồng bộ với tách mà nếu có ở nhà cháu thì chắc chắn cháu sẽ không được phép chạm vào. Vừa ngồm ngoàm ăn bánh tart hoa quả với rất nhiều loại trái cây mà ngoại trừ dâu tây ra thì cháu hoàn toàn mù tịt, được đặt trên chiếc khay cùng bộ với bộ ấm tách kia, vừa mơ màng vì mọi thứ xung quanh, nhưng cháu vẫn có cảm giác gì đó không thoải mái với nơi này.

Sau bữa ăn vặt, Emily rủ chúng cháu chơi búp bê, bạn ấy lấy búp bê Barbie và hộp quần áo bằng nhựa hình trái tim từ trong phòng mình ra. Búp bê Barbie ngày hôm đó mặc bộ váy giống với bộ Emily đang mặc.

“Trên phố Shibuya có một cửa hàng bán quần áo giống với quần áo của búp bê Barbie, nên dịp sinh nhật năm ngoái mẹ đã mua cho tớ đấy. Mẹ nhỉ?”

Quả thực lúc ấy cháu đã muốn chạy ra khỏi nơi đó lắm rồi.

Đúng lúc ấy, ai đó trong số ba người còn lại đã nói:

“Emily cho chúng tớ xem con búp bê Pháp của cậu đi!”

Nghe thấy thế, Emily ngơ ngác hỏi lại.

“Đấy là búp bê gì cơ?”

Emily không có búp bê Pháp. Thậm chí bạn ấy còn không biết tới loại búp bê này. Cảm giác như trái tim cho tới lúc này vẫn co lại của cháu giờ đã phình to dần lên. Emily không biết là đương nhiên. Bởi vì ở thành phố, nó là một thứ đã lỗi thời rồi.

Có một điểm chung giữa những căn nhà kiểu Nhật cũ nằm rải rác trên phố được xây từ khoảng hai mươi năm trước. Đó là căn phòng gần với cửa vào nhất sẽ được xây theo kiểu tây và được dùng làm phòng khách. Đặc biệt ở đó nhất định sẽ có một chiếc đèn chùm và một con búp bê Pháp được bày trong hộp kính. Dù loại búp bê này đã có từ xưa, nhưng phải khoảng một tháng trước khi Emily chuyển đến, mới bắt đầu rộ lên phong trào tụ tập lại và đi tham quan các con búp bê Pháp.

Ban đầu chỉ là lui tới nhà bạn bè, nhưng dần dần chúng cháu đi khắp các hộ xung quanh và xin chủ nhà cho xem. Ở vùng thôn quê thế này, hầu như mọi người đều biết mặt nhau, vả lại phòng đó nằm ngay sát tiền sảnh, nên chúng cháu không bị từ chối bao giờ.

Sau đó chúng cháu làm một cuốn “Ghi chép về búp bê”, và bắt đầu xếp hạng các con búp bê Pháp. Vì thời đó trẻ con không dễ dàng chụp ảnh mọi thứ như bây giờ, nên nếu có con búp bê nào thích, chúng cháu liền vẽ lại bằng bút chì màu để lưu lại.

Thứ hạng búp bê chủ yếu được quyết định bởi độ đẹp của chiếc váy, nhưng cháu đặc biệt thích nhìn khuôn mặt của chúng. Bởi cháu có cảm giác việc mua búp bê sẽ phản ánh được tính cách của chủ nhân hoặc khuôn mặt búp bê thường có nét giống với đứa trẻ hoặc bà mẹ ở nhà đó.

Vì Emily nói muốn được xem búp bê Pháp, nên chúng cháu quyết định sẽ dẫn bạn ấy đi xem những nhà có búp bê lọt vào top mười của chúng cháu. Emily nói chắc chắn những đứa trẻ sống trong tòa chung cư đó cũng chưa bao giờ nhìn thấy búp bê Pháp, nên đã gọi thêm mấy bạn nữa, và thế là nhóm đi xem búp bê của chúng cháu có cả những bạn cháu không biết tên gì học lớp mấy, thậm chí có lẫn cả mấy bạn nam.

Chủ nhân ngôi nhà đầu tiên thấy chúng cháu đến liền bảo, lại là tour tham quan búp bê Pháp đó à. Chúng cháu rất thích cái tên ấy, nên đã quyết định đặt tên cho sự kiện ngày hôm đó như vậy.

Búp bê nhà cháu được xếp hạng thứ hai. Phần ngực và diềm của chiếc váy màu hồng được viền bằng lông vũ trắng muốt bồng bềnh, ở vai và hông có đính những bông hồng tím cỡ đại. Nhưng cháu thích hơn cả là khuôn mặt của nó, khuôn mặt mà cháu cảm giác có chút giống mình. Có lần cháu tô cho nó một cái nốt ruồi giọt lệ giống cháu ở dưới mắt phải bằng bút dạ màu, rồi bị mẹ mắng. Ngoài ra, cháu thích cái vẻ không-rõ-tuổi-tác, nhìn không biết được là trẻ con hay người lớn của nó.

Cháu còn nhớ khi đó cháu đã rất tự hào khoe với nhóm tham quan, nhưng những đứa trẻ đến từ thành phố có vẻ đã hết hứng thú và điều ấy khiến cháu vô cùng thất vọng.

Sau khi đến tham quan ở nhà cuối cùng, Emily nói: “Đúng là búp bê Barbie vẫn thích hơn nhiều.” Cháu nghĩ khi đó mình không nảy sinh ác ý gì với cậu ấy. Nhưng vì một câu nói đó của Emily mà những con búp bê Pháp trước đây vô cùng lấp lánh xinh đẹp bỗng chốc trở nên thật tầm thường. Kể từ hôm đó, chúng cháu không còn chơi búp bê Pháp nữa, và cuốn sổ ghi chép về búp bê cũng bị cất vào sâu trong ngăn kéo bàn cháu mãi mãi.

Cụm từ “búp bê Pháp” bắt đầu len vào câu chuyện của người dân thị trấn khoảng ba tháng sau đó, vì “vụ trộm búp bê Pháp”. Cô Asako biết những gì về vụ án này vậy ạ?

Vào đêm lễ hội mùa hè cuối tháng Bảy, năm nhà trong thị trấn đã bị lấy búp bê Pháp. Trong số đó có nhà cháu. Thật là một vụ án kỳ lạ vì đồ đạc trong nhà không bị xáo trộn, tiền cũng không mất, chỉ có con búp bê đựng trong hộp kính là bị lấy đi.

Lễ hội được tổ chức tại sân của nhà sinh hoạt văn hóa thị trấn hơi cách xa trung tâm một chút, cuộc thi múa Obon(*) bắt đầu từ khoảng sáu giờ chiều, sau đó, cuộc thi hát karaoke được tổ chức từ khoảng chín giờ, và kết thúc vào khoảng mười một giờ. Đó là một sự kiện khá lớn so với quy mô của thị trấn, nơi dưa hấu, kem, mì và bia được phát miễn phí, và dẫu ít nhưng cũng có những quán kem đá bào, quán kẹo bông di động đứng bên đường.

Obon là lễ hội được tổ chức vào tháng Tám dương lịch hằng năm để tưởng nhớ những người thân đã qua đời. Trải qua thời gian dài, phong tục này đã phát triển thành lễ đoàn tụ gia đình, là thời điểm mọi người trở về quê cha đất tổ thăm viếng, dọn dẹp phần mộ của tổ tiên.

Những nhà bị lấy trộm, bao gồm nhà cháu, có hai điểm chung. Một là cả gia đình đều đi chơi hội, hai là không nhà nào khóa cửa cả. Cháu nghĩ hồi đó thì nhà nào cũng vậy. Bởi dạo ấy mỗi lần nhận hàng chuyển phát hộ hàng xóm lúc họ đi vắng, cháu vẫn hay mở cửa nhà họ, đặt hàng lên thềm nhà rồi mới về mà.

Bởi trước đó đã có tour tham quan búp bê Pháp của bọn cháu, nên cảnh sát nhanh chóng đưa ra kết luận rằng đó là trò nghịch ngợm của trẻ con, họ coi đó là một vụ án kỳ lạ đêm hội và khép nó lại, dù vẫn chưa tìm thấy hung thủ cũng như con búp bê nào.

“Cũng tại các con làm như thế nên mấy bạn không có búp bê mới ghen tị và lấy trộm mất búp bê đấy.”

Cháu còn nhớ bố đã mắng mình như vậy.

Tuy kỳ nghỉ hè đã bắt đầu bằng sự kiện ấy, nhưng ngày nào chúng cháu cũng nô đùa cả ngày từ sáng tới tối. Đặc biệt, nơi chúng cháu thích nhất là bể bơi của trường. Buổi sáng chúng cháu sẽ tụ tập làm bài tập ở nhà bạn nào đó, đến chiều thì ra bể bơi, bể bơi đóng cửa lúc bốn giờ, nhưng chúng cháu vẫn chơi trong sân trường cho tới khi mặt trời lặn.

Những năm gần đây, ngay cả trường tiểu học ở thôn quê cũng thực hiện nhiều biện pháp bảo đảm an ninh, trong ngày nghỉ thì đến cả trẻ em cũng không được tự ý vào trường. Nhưng hồi đó, chúng cháu có chơi ở đấy đến tối cũng không có người lớn nào quở mắng.

Đến mức, thỉnh thoảng khi cháu về nhà trước khi bản nhạc Greensleeves vang lên vào sáu giờ chiều, bố mẹ cháu sẽ hỏi, Đã về rồi cơ à, hôm nay cãi nhau với bạn hay sao mà về sớm thế?

Về những sự kiện trong ngày xảy ra vụ án ấy, cháu đã kể lại ngay sau đấy, và nhiều lần sau đó nữa. Cháu đã kể hết những việc cháu có thể kể với cảnh sát, với thầy cô, với bố mẹ mình, với bố mẹ của các bạn kia, với cô Asako và chồng cô. Nhưng lúc này, cháu muốn kể lại một cách tuần tự một lần nữa. Bởi có lẽ đây sẽ là lần cuối cùng…

Ngày hôm đó, buổi chiều ngày mười bốn tháng Tám, vì nằm trong đợt lễ Obon nên những bạn cháu hay chơi cùng cũng tới thăm nhà họ hàng, hoặc họ hàng tới chơi nhà các bạn ấy, vì thế nhóm chơi trong sân trường chỉ còn lại năm người, gồm cháu, Maki, Yuka, Akiko và Emily.

Bốn đứa bọn cháu, đứa thì ông bà ở cùng nhà, đứa thì ông bà và họ hàng sống trong cùng thị trấn, nên Obon không phải là một dịp lễ gì đặc biệt, chúng cháu vẫn chơi đùa như mọi ngày.

Đợt Obon ấy, những người từ Tokyo chuyển về làm việc trong nhà máy hầu như đều không ở lại, nhưng Emily thì khác vì bố bạn ấy phải làm việc trong cả đợt lễ, và vì cuối tháng Tám cả nhà họ sẽ đi du lịch Guam, nên đợt lễ này họ chỉ ở thị trấn thôi. Emily hôm đó có kể với bọn cháu như vậy.

Tuy trong chuyến tham quan búp bê Pháp, cháu đã không mấy thoải mái với Emily, nhưng ngay sau đó chúng cháu lại thân thiết với nhau như chưa hề có chuyện gì xảy ra. Có lẽ cũng nhờ Emily đã tỏ ra rất say mê trò thám hiểm lâu đài đang thịnh hành trong nhóm cháu hồi đó.

Trong đợt nghỉ Obon, bể bơi không mở cửa nên chúng cháu chơi bóng chuyền ở một góc sân chơi, nơi có bóng râm của nhà thể chất hắt xuống. Trò chơi rất đơn giản, chúng cháu đứng thành vòng tròn và chuyền bóng cho nhau, nhưng nhờ việc đặt mục tiêu ngay từ đầu là chuyền bóng 100 lần liên tiếp, chúng cháu đã chơi nỗ lực và hăng say hơn hẳn.

Đúng lúc đó thì người đàn ông ấy xuất hiện.

“Các cháu dừng lại cho chú hỏi một chút được không?” ông ta bắt chuyện với bọn cháu.

Ông ta mặc chiếc áo lao động màu xám hơi ngả vàng, quần lao động, đầu quấn một chiếc khăn bông trắng nhỏ.

Đột nhiên bị bắt chuyện, Yuka - ngày hôm đó có vẻ phong độ không được tốt - đã bắt hỏng. Người đàn ông nhặt quả bóng lăn dưới đất đó và đi về phía bọn cháu. Và rồi, vừa cười tươi, ông ta vừa nói với một âm điệu rõ ràng như thế này:

“Chú tới kiểm tra định kỳ quạt thông gió ở phòng thay đồ của bể bơi, nhưng lại quên không mang thang theo. Công việc chỉ là vặn con ốc cho chặt thôi, có cháu nào tới giúp chú được không, chú sẽ kiệu lên vai?”

Với những học sinh tiểu học ngày nay, ở trong hoàn cảnh như vậy, liệu chúng có cảnh giác không nhỉ? Trường học không hẳn là nơi an toàn. Nếu nhận thức được điều này, phải chăng ngày đó bọn cháu đã tránh được vụ án ấy? Hay là lẽ ra trước đó người lớn nên dạy chúng cháu rằng, khi có người lạ bắt chuyện, hãy la lên thật to và chạy đi thật nhanh?

Ở thị trấn thôn quê ngày ấy, cùng lắm bọn cháu cũng chỉ được nhắc nhở là không được trèo lên xe của người lạ, dù người đó có hứa cho bọn cháu kẹo bánh hay nói là bố mẹ bị ốm đi chăng nữa.

Cháu không mảy may nghi ngờ người đàn ông trước mặt. Không biết Emily thì thế nào, nhưng có lẽ những bạn khác cũng vậy. Trái lại, nghe thấy người kia nhờ giúp đỡ, chúng cháu còn hăng hái xung phong giúp nữa.

“Nếu chú định kiệu ai đó trên vai, thì người nhỏ bé như cháu là hợp nhất.”

“Nếu không với tới quạt thông gió thì cũng chẳng được việc. Cháu là người cao nhất, để cháu đi với chú.”

“Hai cậu có biết vặn ốc không đấy? Tớ giỏi việc ấy lắm nhé.”

“Thế nếu con ốc chặt quá thì sao? Tớ là người khỏe nhất, tớ nghĩ phải tớ mới làm được.”

Cháu nghĩ bọn cháu mỗi đứa đều nói một câu kiểu như thế. Emily im lặng không nói gì. Người đàn ông lần lượt nhìn năm đứa bọn cháu như đang thẩm định hàng hóa.

“Lớn quá hay bé quá đều không được… Đang làm mà kính mắt rơi xuống thì cũng phiền, còn cháu thì có vẻ nặng…”

Cuối cùng, vừa nhìn Emily ông ta vừa nói.

“Cháu là người phù hợp nhất.”

Emily có vẻ hơi khó xử, nhìn về phía bọn cháu. Không rõ là vì nghĩ cho Emily, hay ghen tức vì không được chọn, Maki đề nghị tất cả bọn cháu cùng đến giúp. Ba đứa còn lại cũng nhất trí là nên làm như vậy.

“Cảm ơn các cháu. Nhưng mà phòng thay đồ chật lắm, đông người vào sẽ cản trở công việc, vả lại nhỡ bị thương thì không ổn, nên các cháu cứ chờ ở đây nhé. Sẽ xong ngay thôi. Nếu các cháu nghe lời, chú sẽ mua kem cho.”

Không có đứa trẻ nào phản đối. Người đàn ông nói, “Chúng ta đi thôi”, rồi kéo tay Emily băng qua sân. Bể bơi nằm ở phía bên kia của sân trường rộng, nên chúng cháu không nhìn theo hai người họ tới phút cuối mà lập tức quay ra tiếp tục chơi bóng chuyền.

Sau khi chơi bóng một lúc, chúng cháu ngồi xuống bậc thềm nhà thể chất giờ đã chìm trong bóng râm mát mẻ, bắt đầu tán gẫu. Nghỉ hè mà bố mẹ chẳng dẫn tớ đi chơi đâu cả. Giá mà nhà ông tớ ở xa nhà tớ một tí. - Emily bảo tuần sau cậu ấy sẽ đi Guam đấy. - Guam là ở Mỹ à? Hay đấy là tên một đất nước? - Không biết nữa. - Emily sướng thật đấy. Hôm nay cậu ấy cũng mặc bộ đồ giống búp bê Barbie. Khuôn mặt cũng xinh xắn. - Mắt Emily dài nhỉ. Đẹp thật đấy. Trong khi mắt bố mẹ bạn ấy thì đều to tròn như mắt người ngoài hành tinh. - Váy ngắn bạn ấy mặc dễ thương quá. Chân bạn ấy dài thật… Mà này, các cậu biết không? Emily đã ở tuổi đó rồi đấy. - Tuổi đó là tuổi gì? - Hả, Sae không biết à?

Đó là lần đầu tiên cháu nghe nói đến từ “Kinh nguyệt”. Tới năm sau, khi cháu lên lớp năm, tụi con gái mới tụ tập lại để nói về chuyện đó, mẹ cháu cũng chưa nói gì với cháu cả. Cháu không có chị gái, cũng không có chị họ lớn tuổi hơn, nên cháu hoàn toàn không tưởng tượng được nó là cái gì.

Ba đứa còn lại hình như đã nghe mẹ hoặc chị gái nói, nên giải thích cho cháu với khí thế như thể chúng đang truyền bá thứ tri thức gì ghê gớm lắm.

Kinh nguyệt là bằng chứng cho việc cơ thể của người đó đã có thể sinh con được. Nghe nói máu sẽ chảy ra giữa hai chân. - Hả? Nghĩa là Emily đã có thể sinh em bé rồi ư? - Ừ, đúng thế. - Chị gái của Yuka cũng thế à? - Ừ. Mẹ tớ bảo tớ cũng sắp đến tuổi đó rồi, nên đã mua quần nhỏ cho tớ. - Hả!! Cả Maki cũng thế á? - Nghe bảo những đứa trẻ lớn thì thường lớp năm là đến tuổi đó. Nhưng mà lên cấp hai thì cả Sae cũng sẽ vậy thôi. Mẹ tớ bảo lên tới cấp ba thì mọi người đều đã ở trong tuổi đó rồi. - Không thể nào! Tớ đã thấy ai mới học cấp hai mà đã sinh em bé đâu. - Đó là vì họ không tạo ra em bé thôi. - Tạo ra nghĩa là sao? - Hả, Sae này, không phải ngay cả việc làm thế nào để có em bé cậu cũng không biết nốt đấy chứ? - À, phải rồi, phải kết hôn trước nhỉ. - Không phải! Thật là… Họ phải làm mấy chuyện không đứng đắn với đàn ông thì mới tạo ra em bé được.

Cháu thật sự lo cô sẽ nổi giận, xé thư vứt đi vì không hiểu cháu đang viết gì mất.

Đang mải nói chuyện thì bọn cháu nghe thấy bản nhạc Greensleeves vang lên, nhờ thế mới nhận ra đã là sáu giờ chiều.

“Hôm nay anh họ tớ sẽ dẫn bạn về chơi nên mẹ đã dặn tớ về trước sáu giờ.”

Akiko nói, chúng cháu cũng bảo hôm nay là Obon, phải về sớm hơn một chút, nên chúng cháu quyết định đi gọi Emily cùng về. Bốn đứa bọn cháu cùng đi ngang qua sân, vô tình nhìn lại, thấy bóng chiều đã dài ra rất nhiều so với lúc còn chơi bóng, lúc đó cháu mới lần đầu tiên nhận ra là Emily đã đi khá lâu nên trong lòng có hơi lo lắng.

Quanh bể bơi có hàng rào lưới thép, nhưng cửa vào không khóa mà được cố định bằng dây thép. Cho đến năm đó, đợt nghỉ hè hằng năm họ đều làm như vậy.

Bước lên bậc thang ở cửa vào là tới ngay bể bơi, phía trong có hai căn phòng thay đồ kiểu lắp ghép(*). Phía tay phải là dành cho nam, phía tay trái dành cho nữ. Vừa đi cạnh bể bơi, cháu vừa nghĩ, im ắng thật đấy.

Nguyên văn: prefabricated house, kiểu nhà mà các bộ phận của căn nhà được đúc sẵn ở xưởng rồi mang tới nơi chỉ việc lắp ráp lại.

Cánh cửa phòng thay đồ là dạng cửa trượt sang bên, đương nhiên ở đó cũng không có khóa. Cháu còn nhớ người mở cửa phòng thay đồ nữ là Maki, người đi đầu.

“Emily ơi, xong chưa?” Maki vừa hỏi vừa mở cửa, nhưng rồi bạn ấy kêu “Ơ kìa” một tiếng và nghiêng đầu khó hiểu. Vì bên trong không có ai cả.

“Hay họ làm xong nên về rồi chăng?” - Akiko nói.

“Thế còn kem thì sao? Hay là chú ấy mua cho mình Emily thôi?” - Yuka bực dọc nói, Maki đệm vào, “Thật không công bằng.”

“Ấy, còn bên này thì sao?”

Cháu trỏ tay vào phòng thay đồ nam, nhưng không nghe thấy động tĩnh gì từ bên trong cả.

“Chắc họ không ở đó đâu, vì nào có nghe thấy tiếng ai đâu. Đây này.”

Akiko vẫn bực bội, tay mở cánh cửa phòng thay đồ nam phía sau lưng mình. Thấy ba người còn lại chợt nín thở, Akiko ngạc nhiên quay đầu lại, liền sau đó sợ hãi hét lên.

Giữa nền nhà được trải tấm lót ván, Emily đang nằm sóng soài, đầu quay về phía cửa ra vào.

“Emily ơi!”

Maki run run gọi, sau đó mọi người đều gọi tên Emily. Emily mắt vẫn mở nhưng không hề động đậy.

“Nguy rồi!”

Maki kêu lên. Nếu lúc đó có ai nói với chúng cháu rằng Emily chết rồi, chắc chúng cháu sẽ sợ hãi mà bỏ chạy về nhà rồi cũng nên.

“Phải báo cho mọi người biết. Akiko chạy nhanh nhất, cậu tới nhà Emily. Yuka tới đồn cảnh sát. Tớ sẽ đi tìm thầy cô, còn Sae thì ngồi đây trông chừng nhé.”

Sau khi nghe Maki phân công, mọi người lập tức chạy đi. Bốn người chúng cháu ở cùng nhau cho đến lúc đó. Cháu nghĩ lời kể của cháu không khác với lời làm chứng của ba bạn kia nhiều lắm.

Bốn đứa chúng cháu đều bị hỏi đi hỏi lại nhiều lần về những chuyện trước khi xảy ra vụ án, nhưng lại không bị hỏi cụ thể những chuyện sau khi tìm thấy thi thể, vả lại bốn chúng cháu cũng chưa từng họp riêng nhau để nói chuyện về vụ án, nên cháu không biết lúc đó mọi người đã làm những gì.

Phần tiếp theo đây, vì thế, sẽ chỉ nói về những hành động của cháu.

Mọi người nhất loạt chạy đi hết, chỉ còn mình cháu bị bỏ lại trước cửa phòng thay đồ nam, cháu nhìn thân thể Emily lần nữa. Chiếc áo T-shirt bó màu đen bị cuộn lên trên, đến nỗi khó mà đọc được dòng logo hồng in chữ Barbie trên ngực áo, khiến cháu nhìn thấy làn da trắng và khuôn ngực bắt đầu nảy nở của Emily. Chiếc váy ngắn xếp ly kẻ đỏ cũng bị cuộn lên, phần thân dưới không có đồ lót lộ ra.

Dù được dặn là ở lại trông chừng, nhưng cháu có cảm giác, nếu cứ để Emily trong trạng thái này, khi người lớn chạy đến, họ sẽ mắng cháu mất. Dù không phải là người khiến Emily gặp phải cảnh này, cháu vẫn lo mình sẽ bị mắng rằng sao không sửa lại quần áo cho bạn, tội nghiệp quá, thế nên cháu đã bước vào phòng thay đồ ấy, vừa bước vừa run rẩy.

Đầu tiên, cháu dùng khăn tay của mình che đi khuôn mặt với đôi mắt mở trừng trừng, và dịch cơ thể đang chảy ra từ mũi và miệng của Emily. Rồi, cố gắng không nhìn về phía Emily, cháu dùng đầu ngón tay nhón vạt áo T-shirt để kéo xuống. Lúc đó cháu không biết thứ nhớp nhớp vương vãi trên bụng Emily là gì. Cháu cũng sửa lại váy như vậy. Ngay khi cúi khom người xuống, cháu tìm thấy chiếc quần nhỏ đã nhàu nát bị nhét vào ngăn dưới cùng của tủ đồ.

Cháu nghĩ, phải làm sao với cái quần nhỏ bây giờ. Áo hay váy thì có thể chỉnh lại mà không chạm vào cơ thể, nhưng quần nhỏ thì không làm như thế được. Nhìn đôi chân dài và trắng của Emily đang xoải ra theo hình chữ bát(*), cháu nhận ra có một dòng máu chảy ra từ giữa hai chân, men theo đùi bạn ấy.

Chữ bát: 八

Ngay lập tức, đột nhiên trở nên sợ hãi, cháu chạy ra khỏi phòng thay đồ.

Cháu nghĩ rằng mình có thể sửa sang lại quần áo cho Emily dù biết Emily đã chết, là bởi bạn ấy bị bóp cổ nên không có máu chảy ra. Ngay khi chạy ra khỏi phòng thay đồ, lần này tới lượt bể bơi trước mặt trở nên đáng sợ với cháu, chân cháu ríu lại. Thoáng chốc, mặt trời đã lặn xuống rất thấp, trời bắt đầu có gió. Khi nhìn thấy mặt nước hồ bơi gợn sóng, cháu chợt có cảm giác mình sẽ bị kéo xuống đó. Đi bơi vào dịp Obon thì sẽ bị ma kéo chân. Câu chuyện đã nghe kể từ nhiều năm trước chợt trở lại mòng mòng trong đầu cháu, cháu bị nỗi sợ hoang tưởng rằng ngay lúc này Emily đã đứng dậy, và để dẫn cháu theo cùng, bạn ấy sẽ đẩy cháu xuống hồ bơi. Cháu ngồi xổm, mắt nhắm tịt, tay bịt chặt tai, ôm lấy đầu mình, hét thất thanh liên tiếp như muốn xé rách cả cổ họng.

Tại sao cháu không thể ngất đi nhỉ? Nếu có thể chủ động ngất đi, thì có lẽ hoàn cảnh của cháu hiện tại đã khác.

Không biết cháu ngồi như thế bao lâu thì người đầu tiên - cô Asako - chạy đến. Những chuyện từ đó về sau, cháu nghĩ chính cô cũng nhớ rõ, nên ở đây, cháu sẽ chỉ viết đơn giản về mình thôi.

Yuka trở lại cùng chú cảnh sát trực đồn, ngay sau đó, là mẹ cháu, đang lo lắng vì chưa thấy cháu về thì bắt gặp đám đông xôn xao, nên chạy đến, rồi mẹ cõng cháu về nhà. Về tới nhà cháu mới khóc được. Cháu nghĩ cháu đã khóc to hơn cả khi kêu hét lúc trước nữa.

Mẹ cháu không tìm cách hỏi cháu ngay xem sự tình như thế nào. Cháu nằm trên những tấm đệm ngồi xếp cạnh nhau, mẹ đi pha trà lạnh cho cháu, rồi chậm rãi xoa xoa lưng cháu. Và rồi mẹ thầm thì một câu không đầu không cuối bằng một giọng trầm thấp.

“Thật may vì đó không phải là Sae.”

Vừa cảm nhận lời nói ấy ngấm dần vào đầu, cháu vừa nhắm mắt lại, chìm vào giấc ngủ.

Những điều cháu viết ra đây không khác nhiều so với lời làm chứng ngay sau khi xảy ra vụ án. Dù gặp phải sự việc kinh khủng như vậy, nhưng cháu nghĩ chúng cháu vẫn đã cung cấp lời khai khá chắc chắn. Chỉ có điều, đến lúc này cháu vẫn cảm thấy có lỗi vì chuyện cần phải trả lời rõ ràng nhất thì cả bốn chúng cháu đều không nhớ ra.

Cháu có thể nhớ lại chuyện ngày hôm đó rõ ràng trong đầu như những hình ảnh trên ti vi, vậy mà chỉ riêng khuôn mặt người đàn ông ấy là không thể nào nhớ lại được.

“Chú đó quấn một chiếc khăn bông nhỏ màu trắng trên đầu ạ.”

“Chú ấy mặc bộ đồ lao động màu xám.”

“Ơ, không phải là màu xanh nhạt à?”

“Tuổi của chú ấy ư? Nhìn chú ấy khoảng bốn, năm mươi tuổi ạ.”

Đường nét tổng thể thì cháu có thể nhớ ra, nhưng không tài nào nhớ ra khuôn mặt. Ông ta cao hay thấp, béo hay gầy, mặt tròn hay nhọn, mắt to hay nhỏ, mũi, miệng, lông mày thế nào? Có nốt ruồi hay vết sẹo ở đâu không? Dù có hỏi từng chi tiết thì cháu cũng chỉ biết nghiêng đầu ngẫm nghĩ mà không đáp được.

Chỉ có điều, chắc chắn là “trước đó cháu chưa nhìn thấy ông ta”.

Thị trấn quê xôn xao lên vì vụ án suốt một thời gian. Thậm chí, mẹ cháu phải đuổi một người họ hàng vì tò mò mà tới tận nhà hỏi chuyện cháu. Giữa lúc đó, “vụ trộm búp bê Pháp” lại được dân trong phố xì xào bàn tán. Họ đồn rằng trong thị trấn này, hoặc thị trấn bên cạnh có kẻ biến thái hứng thú với các bé gái. Hẳn là tên hung thủ ăn trộm búp bê Pháp thấy chỉ búp bê thôi thì không đủ, nên đã ra tay giết hại một cô bé dễ thương giống búp bê rồi. Những chuyện đó được người ta thì thầm nói với nhau như thể chúng đã được chứng thực vậy.

Một thời gian sau, thấy cảnh sát tới hỏi chuyện những nhà bị mất búp bê lần nữa, hầu hết mọi người đều cho rằng hai vụ án ấy có cùng một hung thủ.

Kẻ biến thái thích các bé gái chính là hung thủ.

Nhưng trong lòng cháu có gì đó không đồng tình với giả thuyết này. Bởi người có ngoại hình phù hợp với từ “bé gái” nhất chính là cháu.

Từ sau vụ án, mỗi khi đầu óc lơ đãng, hình ảnh thi thể Emily lại hiện lên trong đầu cháu. Đó là hình ảnh đen trắng, chỉ riêng dòng máu chảy dọc đùi là đỏ thẫm. Và gương mặt của Emily dần biến thành gương mặt cháu, đầu cháu bắt đầu đau ong ong. Ôm đầu thật chặt, trong cháu chỉ có một suy nghĩ.

“Thật may đó không phải là mình.”

Hẳn là cô cho rằng suy nghĩ đó của cháu thật thiếu nhân ái. Cháu không biết ba bạn còn lại nghĩ gì. Có lẽ có bạn sẽ thương cảm cho Emily, có bạn sẽ bị dằn vặt cắn rứt vì đã không thể cứu được bạn ấy. Còn cháu, chỉ riêng việc lo cho bản thân đã đủ chiếm hết tâm sức của cháu rồi.

Tiếp sau ý nghĩ “Thật may không phải là mình” ấy là ý nghĩ “Tại sao lại là Emily nhỉ?”, nhưng trong lòng cháu, cháu đã có một câu trả lời rõ ràng. Đó là, trong năm đứa chúng cháu, chỉ có mình Emily đã trở thành người lớn. Bạn ấy đã trở thành người lớn, nên mới bị người đàn ông ấy giở trò đồi bại và giết chết.

Người đàn ông - gã hung thủ đó lúc ấy đang đi tìm những cô bé vừa trở thành người lớn.

Một tháng trôi qua, rồi thêm nửa năm, rồi một năm, cảnh sát vẫn chưa tìm ra được hung thủ. Cô Asako chuyển về Tokyo khoảng ba năm sau khi vụ án xảy ra nhỉ. Cô đã nhận ra rằng, vì lời hứa khi đó, nên giờ đây cháu mới viết bức thư này chưa?

Sau vụ án, ngày tháng dần trôi đi, người dân thị trấn không còn nhắc tới vụ án nữa, song nỗi sợ trong cháu lại càng lúc càng lớn lên. Tuy cháu không nhớ mặt hung thủ, nhưng biết đâu gã vẫn nhớ mặt cháu. Biết đâu, hung thủ tưởng rằng mình đã bị nhớ mặt, nên sẽ tìm giết cháu và những bạn kia để bịt miệng. Đến giờ người lớn vẫn quan tâm để ý đến chúng cháu, nhưng mọi người đang dần quên đi. Có khi hung thủ đang chờ chúng cháu đi riêng với nhau để ra tay không biết chừng…

Dù làm gì, cháu cũng có cảm giác mình đang bị hung thủ theo dõi qua khe hở cửa sổ, từ sau các tòa nhà, từ trong xe ô tô.

Sợ quá, sợ quá. Mình không muốn bị giết đâu. Để được như vậy thì…

Mình không được trở thành người lớn!

Dù đôi khi vẫn cảm thấy có ánh mắt theo dõi, nhưng cùng với thời gian, dần dần số lần cháu nhớ về vụ án đó đã ít hơn. Có lẽ cũng nhờ hồi cấp hai và cấp ba, cháu đã vào câu lạc bộ kèn, câu lạc bộ có quy định nghiêm ngặt nhất trong các câu lạc bộ khối văn hóa, hằng ngày cháu đều phải luyện tập chăm chỉ, nên không còn thời gian cho việc ấy nữa.

Nhưng không phải cả thể xác và tâm hồn cháu đều đã được giải thoát khỏi vụ án đó. Cháu nhận ra điều ấy, nói đúng hơn là buộc phải nhận ra, khi cháu mười bảy tuổi, học lớp mười một.

Đã tới tuổi đó nhưng cơ thể cháu vẫn chưa đón kỳ kinh nguyệt đầu tiên. Mẹ cháu bảo dẫu cơ thể có nhỏ bé đến đâu, tới tuổi đó mà chưa có kinh thì vẫn là một việc bất thường. Có thể do cơ địa mỗi người một khác, nhưng vẫn nên đến bệnh viện khám một lần xem sao. Nghe lời mẹ, cháu đã tới khoa phụ sản của bệnh viện tỉnh ở thị trấn bên cạnh.

Việc một học sinh cấp ba bước qua cánh cổng khoa phụ sản là một việc rất cần dũng khí. Cháu nhận ra từ trước tới giờ mình đã không hề để ý đến chuyện kinh nguyệt của bản thân và tuy cháu có đoán được nguyên nhân, nhưng chắc gì đã vì thế mà kỳ kinh đầu tiên không tới, lỡ cháu thực sự mắc bệnh phụ khoa gì đó thì nguy. Nghĩ thế nên cháu đã thu hết can đảm để tới đó.

Trong thị trấn của cháu cũng có bệnh viện tư có khoa phụ sản, nhưng cháu không muốn người dân ở đây trông thấy cháu lui tới một chỗ như thế. Cháu chẳng mấy khi nói chuyện cùng tụi con trai, huống hồ là hẹn hò gì với ai, thế nên càng không thể chịu được chuyện người ta bàn tán linh tinh sau lưng mình. Đó chính là lý do.

Bác sĩ nói kết quả xét nghiệm không có gì bất thường, nên có thể do nguyên nhân tâm lý gây nên, rồi hỏi cháu xem ở trường hay ở nhà có bị căng thẳng, ức chế gì không.

Khi biết tình trạng tâm lý có thể khiến một người đón kinh nguyệt muộn, hoặc làm họ tắt kinh, cháu đã hiểu và chấp nhận tình trạng của mình. Nếu cháu trở thành người lớn, cháu sẽ bị sát hại. Nếu cháu bắt đầu có kinh nguyệt, cháu sẽ bị sát hại. Ban đầu cháu chủ ý nhắc nhở điều đó với bản thân, về sau cháu ngầm ám thị nó với cơ thể mình hoàn toàn trong vô thức. Vậy là dù cháu không còn nghĩ đến vụ án đó nữa, nhưng một phần sâu thẳm trong não cháu vẫn bị vụ án đó chiếm giữ.

Bác sĩ khuyên cháu nên đi tham vấn tâm lý hoặc tiêm hormone định kỳ, nhưng cháu chỉ đáp sẽ bàn bạc với bố mẹ rồi ra về, sau đó không tới bệnh viện lần nào nữa. Cháu báo với mẹ việc cơ thể mình không có bất thường gì, chỉ là hơi muộn một chút thôi.

Tốt nhất là nó đừng bắt đầu trước khi hết thời hạn khởi tố. Cháu nghĩ thế.

Dù đã đi khỏi thị trấn, hòa mình vào dòng người, sinh sống giữa những người không biết về vụ án ấy, nhưng có thể cháu vẫn sẽ tình cờ gặp lại hung thủ. Nhưng một cơ thể chưa trưởng thành sẽ bảo vệ cháu. Cháu muốn có được cảm giác an tâm đó.

Dần dà, cháu còn mong ngày hết thời hạn khởi tố đến sớm và bản thân được giải thoát khỏi vụ án ấy hơn là việc hung thủ bị bắt và vụ án được lật lại.

Không liên quan gì tới lời hứa với cô Asako cả.

Nhưng cháu chưa từng nghĩ có ngày sẽ gặp lại cô.

Sau khi tốt nghiệp khoa Anh văn của trường đại học nữ sinh, cháu làm việc trong một công ty thương mại tầm trung chuyên về thuốc nhuộm. Ở công ty đó, bất kể là tốt nghiệp khối tự nhiên hay xã hội, hai năm đầu mọi người đều phải làm việc trong phòng kiểm tra chất lượng sản phẩm. Mục đích là để mọi người hiểu rõ công ty mình đang phân phối những sản phẩm như thế nào.

Lần cuối cháu chạm vào ống nghiệm và cốc becher(*) là trong giờ hóa học ở trường cấp ba, và lần đầu tiên cháu thấy một chiếc máy dùng để phân tích có giá tới hàng triệu yên như vậy. Lúc đó, dù được chỉ cho tên những cỗ máy dạng hình hộp vuông là Gas Chromatography và Liquid Chromatography, cháu cũng không hiểu được chúng là máy dùng để làm gì, nhưng vẫn nhận ra nhãn mác được vẽ ở một góc máy.

Loại cốc có mỏ và chia vạch, thường được dùng để pha trộn các chất hóa học trong phòng thí nghiệm.

Công ty chế tạo máy Adachi. Trong cháu liền nảy sinh cảm giác thân thuộc, hóa ra khu nhà máy ở vùng quê có không khí trong lành ấy chế tạo những loại máy như thế này, nhưng đồng thời, cảm giác khó chịu vì bị rình rập ở thị trấn thôn quê đó lại dâng lên trong cháu, nên mới đi làm chưa lâu mà tâm trạng cháu đã trở nên thật phức tạp.

Mùa xuân năm thứ ba sau khi đi làm, khi cháu vừa kết thúc hai năm đào tạo và được chính thức phân về phòng kế toán, trưởng phòng kiểm tra chất lượng sản phẩm đã tới dò hỏi ý cháu về việc đi xem mắt.

“Cháu họ của ông giám đốc điều hành công ty đối tác làm ăn lâu năm với chúng ta có lần tình cờ trông thấy cháu nên đã nhờ bác sắp xếp cho hai đứa gặp mặt.”

Nếu trưởng phòng gặp riêng cháu và nói về việc này, thì dù đó có là đề nghị của cấp trên đi chăng nữa, cháu cũng sẽ ngay lập tức từ chối. Bởi cháu không phải một người có thể kết hôn với người khác được. Nhưng trưởng phòng lại nói như vậy rất to trong phòng kiểm tra chất lượng, khi xung quanh có bao nhiêu là nhân viên vào cùng đợt với cháu đang thu xếp đồ đạc để chuyển sang phòng ban chính thức của mình. Khi bác ấy đưa cho cháu xem ảnh và profile(*) giới thiệu bản thân của người đó, mọi người liền hứng thú vây quanh cháu.

Ở Nhật, khi đề nghị một buổi xem mắt, phía người đàn ông sẽ gửi cho phía cô gái một bản hồ sơ giới thiệu về bản thân có kèm ảnh để cô gái xem và quyết định có nhận lời tới xem mắt không.

Mở ảnh, các cô gái khen “Trông được đấy.” Mở profile ra xem, các anh đồng nghiệp nức nở, “Cậu này khá thật!” Nhìn cảnh đó, trưởng phòng chêm vào, “Thế nào, rất được đúng không?” làm mọi người càng thêm phấn khích. Mọi người xung quanh đều bắt đầu khuyên nhủ lấy được người đó là có phúc phận lắm, rằng ấy là cơ hội lớn nhất trong đời, nên cháu chẳng có cơ hội mà từ chối, đành phải đồng ý gặp mặt.

Tại sao một anh chàng ưu tú xuất thân từ một trường đại học hàng đầu, làm việc trong công ty thương mại hàng đầu, vẻ ngoài cũng bảnh bao như vậy lại đề nghị xem mắt một cô nhân viên văn phòng của một công ty thương mại hạng ba như cháu nhỉ. Anh ấy đã nhìn thấy cháu khi nào, lúc cháu đang làm gì để rồi có hứng thú với cháu? Cháu đã nghĩ suốt về những điều đó cho tới ngày gặp mặt, cuối cùng cháu kết luận là anh ấy chắc đã nhầm người.

Anh ấy đề nghị là không đặt nặng nghi thức quá, chỉ hai người đi ăn một bữa bình thường thôi, nhưng điều đó trái lại làm tâm trạng cháu càng nặng nề hơn. Từ sau khi đi làm, cuối cùng cháu cũng có thể trò chuyện bình thường với nam giới, nhưng cháu chưa từng đi ăn riêng với một người lần đầu gặp mặt bao giờ.

Cháu mặc chiếc váy liền màu hồng đúng không khí mùa xuân mà người bạn ở công ty rất nhiệt tình chọn cho. Vừa đến sảnh khách sạn nơi hẹn gặp, người có khuôn mặt giống hệt trong ảnh đã chạy tới bên cháu. Đó là anh Takahiro.

Với cách nói lịch sự và vui vẻ, anh ấy xin lỗi vì đã thông qua cấp trên để đề nghị hẹn gặp, và cảm ơn cháu đã dành thời gian ngày nghỉ để tới đó. Về phía cháu, cháu trở nên luống cuống, còn chưa chào hỏi được rành mạch rõ ràng thì đã đi theo anh ấy tới một nhà hàng Ý trên tầng cao nhất mà anh đặt chỗ trước. Sau khi lấy lại bình tĩnh, cháu liền đưa cho anh ấy tệp profile giới thiệu bản thân không viết được điều gì đáng kể cho lắm.

Nhưng anh ấy không mở nó ra mà đặt lên góc bàn rồi nói:

“Em ngày trước sống ở thị trấn XX phải không?”

Nghe nói tới tên thị trấn có không khí trong lành đó, cháu bất giác nín thở. Anh ấy vẫn tươi cười nói tiếp.

“Anh cũng từng sống ở thị trấn đó ba năm hồi anh học từ lớp sáu đến lớp tám. Anh học trên em hai lớp, chắc em không nhớ nhỉ?”

Chẳng những không nhớ, cháu thậm chí còn không biết anh ấy. Hồi anh ấy học lớp sáu, cháu đang học lớp bốn. Năm đó nhà máy ấy vừa xây xong, trong trường toàn là học sinh chuyển từ nơi khác đến.

“Tiếc thật. Có lần chúng ta còn đi chơi với nhau rồi mà. Tour tham quan búp bê Pháp ấy, khi đó em là người đi đầu làm hướng dẫn viên nhỉ?”

Cháu nghĩ, hóa ra anh ấy nằm trong đám trẻ đó, nhưng không nhớ ra cụ thể anh ấy là đứa bé nào. Nhưng anh đã chuyển chủ đề trước khi cháu kịp nhớ ra cảm giác thua kém trong tour tham quan, và vụ trộm búp bê Pháp sau đó. Anh ấy đã ở đó ba năm, vậy đương nhiên anh ấy biết về vụ án kia, thậm chí có lẽ anh ấy biết cháu có liên quan tới vụ án, nên mới tế nhị chuyển chủ đề sớm cũng nên.

Anh Takahiro kể rằng mình phụ trách bán hàng cho bộ phận kinh doanh đồng hồ, nên hay có cơ hội đi Thụy Sĩ, và đúng dạo cảm thấy hoài niệm thị trấn đó vì nó có nét giống với Thụy Sĩ, thì anh ấy tình cờ trông thấy cháu và rất muốn gặp cháu.

Khi cháu hỏi anh ấy trông thấy cháu khi nào, thì anh đáp có lẽ là trong sự kiện nào đó của công ty cháu, hình như là dịp liên hoan cuối năm. Cháu nêu tên một nhà hàng Trung Hoa, anh bảo chính là nơi đó, anh và bạn cũng tới nhà hàng ấy. Có chuyện tình cờ đến vậy ư? Thật xấu hổ, lúc đó cháu đã cảm thấy như thể giữa chúng cháu có một thứ định mệnh nào đó, nhưng giờ nghĩ lại, có lẽ đó chỉ là anh ấy thuận miệng nói thế thôi.

Sau đó, mỗi tuần cháu và Takahiro hẹn gặp nhau một, hai lần. Chúng cháu cũng chỉ đi ăn, đi xem phim, đến viện bảo tàng, giống như những buổi hẹn hò bình thường của bao người khác, nhưng mỗi khi ở cạnh anh ấy, thật kỳ lạ là cháu liền được giải phóng khỏi cảm giác đang bị ai đó rình rập, tới mức dần dần mỗi lần chia tay, cháu lại muốn ở bên anh ấy thêm một chút nữa.

Nhưng anh ấy không một lần rủ cháu đi khách sạn hay đề nghị tới căn hộ chung cư mà cháu đang ở một mình. Đương nhiên mỗi lần anh ấy đưa cháu về chung cư bằng taxi, cháu cũng không mời anh ấy lên phòng uống trà hay gì cả. Nếu anh ấy lên đó thì mi định làm gì tiếp? - Giọng nói ấy vang lên từ sâu thẳm trong đầu cháu, nhưng cháu không biết đó là giọng nói của ai.

Anh ấy đột nhiên cầu hôn vào buổi hẹn hò thứ bảy.

Đó là ngày đầu tiên chúng cháu nắm tay nhau. Thực ra, hôm đó là buổi công diễn đầu tiên của một ca sĩ nổi tiếng, trong hội trường đông đúc chúng cháu suýt thì lạc mất nhau, nên anh ấy đã kéo tay cháu đi, nhưng chỉ như vậy cũng đủ khiến trái tim cháu đập rộn. Sau đó, cháu đã rất buồn, giữa lúc xem trình diễn trong khán phòng tối, cháu đã rơi nước mắt.

“Anh được cử đi công tác dài hạn ở Thụy Sĩ, em có thể đi cùng anh không?”

Anh ấy nói với cháu như vậy sau khi món tráng miệng kiểu Pháp và một ly rượu hợp vị với loại tráng miệng đó được bưng tới. Đó là một nhà hàng mà mỗi bàn được ngăn ra thành một phòng nhỏ riêng, giống như một nơi ở ẩn, vô cùng phù hợp cho những cặp đôi hạnh phúc trao nhau lời cầu hôn. Giá mà cháu có thể tiếp nhận lời đề nghị trong mơ ấy không một chút đắn đo, thì sẽ hạnh phúc biết chừng nào.

Nhưng cháu đã không thể làm như vậy. Cháu có lý do cho sự không thể đó.

Khi cháu cúi thấp đầu nói lời xin lỗi, anh ấy hỏi cháu tại sao. Mọi việc đương nhiên sẽ diễn ra theo trình tự đó, nhưng cháu đã bối rối không biết phải nói gì. Cháu nghĩ, mình có thể dùng mấy câu rất điển hình kiểu như, “Thay vì để ý tới một cô gái chẳng có gì nổi bật như em, xin anh hãy kết đôi với một người nào đó xứng đáng với anh hơn” để từ chối, nhưng như thế sẽ không đúng với thành ý của cháu, nên cháu đã quyết định bày tỏ lý do thật sự.

Cháu chưa từng nghĩ có ngày mình sẽ kể ra chuyện không muốn nghĩ tới ấy để đáp lại một lời cầu hôn.

“Em là một cô gái có khiếm khuyết.”

Gương mặt anh hiện rõ vẻ ngơ ngác. Cháu nghĩ đó là vì câu trả lời ấy nằm ngoài dự liệu của anh. Trước khi cơn xấu hổ cuộn lên và trào ra bên ngoài, cháu nói liền một mạch.

“Từ nhỏ cho tới bây giờ, khi em đã hai mươi lăm tuổi, em chưa từng có kinh nguyệt lần nào. Bởi vì phần nào đó trong trí óc em đã cản trở việc cơ thể em trở thành cơ thể của một người lớn. Với cơ thể này, em không nghĩ mình có thể sinh hoạt vợ chồng một cách bình thường, càng không thể sinh con được. Một người có tương lai rạng ngời như anh không nên kết hôn với một sản phẩm lỗi như em.”

Lần đầu tiên trong đời cháu nguyền rủa sự tự kỷ ám thị mà cháu đã thực hiện để bảo vệ bản thân. Cháu đã rất hối hận, nếu biết chuyện sẽ thế này, thì hồi học lớp mười một cháu đã đi tiêm hormone và tham vấn tâm lý rồi.

Nhưng cháu nghĩ nếu khóc lúc này thì rất hèn, nên cháu cố gắng nén nước mắt lại. Cháu cho món tráng miệng xinh xắn như một món đồ thủy tinh tinh xảo, với nhiều loại dâu đủ màu sắc rực rỡ trang trí bên trên lớp kem bông làm từ sô cô la trắng lên miệng nhai ngồm ngoàm. Dâu tây, mâm xôi, nham lê, việt quất… Dù có biết hết tên những loại quả này, cháu vẫn mãi mãi bị trói buộc với thị trấn thôn quê đó.

“Không sao cả.”

Anh Takahiro nói: Chỉ cần em đi cùng anh thôi. Lúc anh đi làm về mệt mỏi, trong nhà đã có em đợi sẵn. Anh có thể kể những chuyện xảy đến trong ngày với em, rồi ôm em chìm vào giấc ngủ. Anh không thể tưởng tượng ra thứ hạnh phúc nào hơn thế. Em có thể cùng anh bắt đầu cuộc sống mới ở Thụy Sĩ, nơi giống với thị trấn mà chúng ta đã cùng nhau sinh sống ấy được không?

Vả lại, rời Nhật Bản cũng đâu phải việc không tốt với em. Em trở nên như thế này chắc chắn là vì vụ giết người năm đó. Có lẽ em sẽ lo lắng rằng ở một nơi giống với thị trấn ấy, em sẽ nhớ lại chuyện cũ. Nhưng anh có thể nói chắc chắn điều này với em.

Ở nơi mới không có tên hung thủ ấy. Và ở đó sẽ có anh bảo vệ em.

Khi nghe anh Takahiro hỏi anh có thể mời vợ chồng cô Asako tới dự đám cưới được không, cháu đã rất ngạc nhiên. Đó cũng là lần đầu tiên cháu được biết bố của anh Takahiro chính là anh em họ gần với chồng cô Asako. Khi cháu nói, lỡ đâu nhìn thấy em, cô chú ấy sẽ nhớ lại vụ án đó và sẽ đau khổ thì sao, anh ấy liền đáp rằng cô chú nói rất vui lòng đến dự.

Thật lòng mà nói, nếu có thể, cháu không muốn gặp lại cô Asako chút nào. Vì cháu lo sợ cô sẽ không tha thứ cho cháu, khi cháu chưa thực hiện được lời hứa kia mà đã định tìm kiếm hạnh phúc cho riêng mình. Nhưng cháu đâu có quyền đưa ý kiến về việc tổ chức lễ cưới. Bởi chi phí cho bữa tiệc cưới xa hoa được tổ chức tại một bảo tàng mỹ thuật do một kiến trúc sư nổi tiếng thiết kế, nơi mà một số cặp ngôi sao cũng đã tới cử hành hôn lễ, hầu hết đều là do phía nhà anh Takahiro, bao gồm bố mẹ anh và những người họ hàng có vị trí cao trong công ty chế tạo máy Adachi chi trả. Thứ duy nhất cháu có quyền chọn chỉ là chiếc váy cô dâu mà thôi.

Nhưng trong ngày cưới, cô Asako đã nói với cháu rằng hãy quên vụ án đi và hãy sống thật hạnh phúc. Lời nói đó đã làm cháu vui sướng biết bao… Một niềm vui khác nữa cháu nhận được là điều bất ngờ mà anh Takahiro đã chuẩn bị sẵn.

Khi bàn với anh Takahiro về chuyện lễ cưới, cháu vẫn nghĩ tới lúc đãi tiệc, cháu sẽ thay sang một chiếc váy cocktail(*) khác màu. Nhưng anh ấy lại gạt chuyện ấy đi, bảo cháu rằng cháu nên mặc váy cưới trắng cho đến phút cuối. Và rồi như cô thấy, giữa buổi lễ, đột nhiên một chiếc hộp lớn có đính nơ được trao cho cháu như một món quà bất ngờ từ chú rể, rồi người tổ chức tiệc liền tới dẫn cháu mang theo chiếc hộp về phía phòng nghỉ tạm.

Váy cocktail là loại váy dự tiệc nhẹ, tiệc thân mật gia đình, thường có phần ngực bó sát và độ dài váy không quá gối quá nhiều.

Khi cháu mở hộp, bên trong là một chiếc váy màu hồng. Phần ngực và diềm váy được viền bằng lông vũ trắng, vai và hông có đính những bông hồng tím cỡ đại. Sau khi thay xong váy, cháu còn được cài lên đầu chiếc trâm cài tóc làm từ bông hồng tím và lông vũ trắng nữa. Nói vậy cháu mới nghĩ tới, có lẽ vốn ban đầu bộ váy đã

Danh sách chương


Sách tương tự