
NỢ VĂN CHƯƠNG
Tổng số chương: 1
Trần Sinh quê ở Đại huyện, vốn con nhà thế phiệt, nổi tiếng là người văn hay chữ tốt. Cùng huyện có Lê Vũ, con quan vệ úy, là người cùng trang lứa, thường hay qua lại kết giao, Thuở nhỏ, cả hai cùng học chung một thầy. Lớn lên, cả hai cũng đều đỗ đạt. Nhưng trong lúc Lê Vũ quyết dấn thân tìm kiếm công danh thì Sinh lại quay về với túi thơ bầu rượu, làm bạn với cỏ nội mây ngàn, lãng du khắp các danh sơn kỳ động. Sinh thường lý luận rằng: quan trường là nơi hung hiểm, nếu đua tranh lắm thì cũng làm đến chức tể tướng là cùng. Nhưng quan tể tướng rồi cũng phải có lúc quay về với cát bụi, lúc ấy chẳng những ngài không thể mang theo một chút vinh hoa phú quý nào mà ngay cả tuổi tên của ngài sau này rồi cũng chẳng ai còn nhớ. Những lúc trà dư tửu hậu, Sinh vẫn thường nửa đùa nửa thật bảo rằng trong lúc bất ngờ, một người có thể kể đủ tên của mười bậc văn nhân danh tiếng mọi thời nhưng không ai có thể kể đủ tên của mười vị tể tướng từng làm quan trong lịch sử! Nhiều ngươi đã thử tự kiểm nghiệm, bằng trí nhớ của mình và đều đồng tình với những điều Sinh nói. Tử đó Sinh càng quyết chí xa rời cuộc đua tranh danh lợi, quay về ở ẩn trong trang viên do cha chàng để lại, thường lấy làm tâm đắc với những lời của Lưu Linh trong bài Tửu Đức Tụng: “Có một đại nhân, lấy trời đất làm một buổi, lấy muôn năm làm một chốc, lấy mặt trời, mặt trăng làm cửa, làm ngõ, lấy cả thiên hạ làm sân, làm đường. Đi không có vết xe, ở không cần nhà cửa, trời tức là màn, đất tức là chiếu...!”. Năm ba mươi tuổi, Sinh đã nổi tiếng là một người tài hoa rất mực, lão luyện cả cầm kỳ thi tửu, nhất là tài văn chương đã đạt đến mức siêu việt. Cũng năm ấy, Sinh được mời dự lễ thành thân của Lê Vũ, người bạn đồng môn năm xưa, nay đã thăng đến chức tri phủ Bình Triều. Vợ của Vũ là con gái của tổng đốc Trà Giang, vừa hai mươi tuổi, có tiếng là một tiểu thư nhu mì, hiền thục, lại rất sành văn chương.
Sau đám cưới của Lê Vũ, Sinh lại quay về với cuộc sống tiêu dao thoát tục, lòng không mảy may gợn chút ham muốn trần thế. Thời gian như nước chảy qua cầu, chốc đà mười mấy năm trôi qua. Sinh lúc này đã ngấp nghé bước vào tuổi tri thiên mệnh nhưng vẫn một mình một bóng lặng lẽ trong Trần gia trang, thỉnh thoảng ra ngoài ngao du lưng nửa tháng rồi lại trở về làm bạn với cỏ cây, kinh sách. Lúc này Lê Vũ cũng đã được thăng đến chức tổng đốc Trà Giang, quyền nghiêng một cõi. Riêng Vũ phu nhân tuổi đã xấp xỉ tứ tuần nhưng vẫn giữ được vẻ yêu kiều của ngày trước, song gương mặt lúc nào cũng phảng phất một nét buồn kín đáo. Mối giao hảo giữa hai nhà ngày càng khăng khít. Lê Vũ thường xuyên mời Sinh đến phủ dự tiệc để cùng uống rượu, ngâm thơ cùng các bạn đồng liêu những khi cao hứng. Những lần có Sinh đến dự tiệc, Vũ phu nhân bao giờ cũng chăm sóc Sinh một cách ân cần vì phu nhân biết tính Sinh chỉ vui chuyện thù tạc mà chẳng chú ý đến chuyện ẩm thực nên người xanh xao. Tuy phu nhân đã ý tứ che giấu sự quan tâm của mình, nhưng nhà Lê Vũ thì cứ dăm bảy ngày lại có một cuộc tiệc nên dần dà Sinh cũng nhận ra mối thiện cảm của Vũ phu nhân dành cho mình. Một hôm, sau dịp uống rượu thưởng trăng rằm tháng hai, phu nhân tiễn Sinh ra về. Khi gần đến cổng, phu nhân chỉ vào một cây mai đang ra nụ rồi hỏi Sinh:
- Thưa tiên sinh, tết đã qua rồi, xuân cũng sắp hết, không hiểu sao cây mai này lại ra hoa lần nữa?
Sinh nhìn cây mai, khẽ đáp:
- Thưa phu nhân, cây mai này thuộc giống nhị độ mai, là một loài mai quý. Mỗi năm ra hoa hai lần, lần đầu đúng vào dịp tết, lần thứ hai vào cữ cuối xuân.
Phu nhân cười buồn:
- Xuân đã tàn rồi, còn ra hoa làm chi nữa, biết có còn ai chịu ngắm nữa chăng?
Sinh vô tình trả lời:
- Hẳn phu nhân còn nhớ bài thơ “Cáo tật thị chúng” của Mãn Giác thiền sư mà tiểu sinh vừa mạo muội luận bàn lúc nãy, trong đó có hai câu: “Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận - Tiền đình tạc dạ nhất chi mai”(1)? Tiểu sinh cho rằng nếu còn ra hoa thì vẫn còn người ngắm, vì tâm hồn con người bao giờ cũng rung cảm trước cái đẹp, nhất là đối với những người thích vịnh cảnh làm thơ.
Vũ phu nhân lại cười héo hắt:
- Đời hoa như đời người, hương sắc chỉ tỏa được một lần. Về sau nếu có còn nở lại thì cũng chỉ là gắng gượng, chẳng còn được ai chú ý đến nữa.
Đêm ấy Sinh về suy nghĩ mông lung. Chàng nhận ra trong những câu nói, điệu cười của Vũ phu nhân phảng phất một tâm sự buồn, dường như còn có một ẩn ý gì đấy. Từ ấy Sinh để tâm quan sát và ngày càng nhận ra tình cảm kín đáo của Vũ phu nhân. Lúc đầu Sinh rất bối rối, khó xử, nhưng rồi về sau chàng lại thấy cảm động trước tình cảm ấy. Sinh đâu thể ngờ rằng những tình cảm ấy chính là rượu đã chín trong vò, tro còn râm trong bếp đã dần dà khuấy động cuộc sống ung dung tự tại bấy lâu, buộc chàng vào một mối bi tình sầu muộn làm chao đảo cả cuộc đời, bởi từ chỗ cảm động, chàng lại đâm ra ngẩn ngơ tơ tưởng, lòng cứ mãi vương vấn hình bóng của Vũ phu nhân, lúc đầu còn lưa thưa, loáng thoáng, sau ngày càng đắm say, cuồng nhiệt đến độ quên ăn, mất ngủ, người càng ngày càng hốc hác, tiều tụy.
Một hôm, không cầm được nỗi nhớ, Sinh đánh bạo qua Lê phủ, vừa lúc Lê Vũ có việc phải ra kinh đô, ở nhà chỉ có mình Vũ phu nhân tiếp chàng nơi phòng khách. Nhân lúc vắng vẻ, Sinh liền cầm lấy tay Vũ phu nhân mà thổ lộ:
- Thưa phu nhân, Sinh tôi từ ngày biết chuyện nhị độ mai đến nay đã hơn ba năm, không đêm nào là không tơ tưởng, không ngày nào là không nhớ mong. Nay được gặp đây, dám xin phu nhân đoái hoài đến kẻ si tình này mà quá bước sang tệ xá một lần cho thỏa niềm khao khát...
Vũ phu nhân vội rụt tay về rồi nhìn Sinh nghiêm nghị:
- Thưa tiên sinh, thiếp từ ngày được quen biết tiên sinh đến nay, cảm tình không phải là không có, nhưng thiếp đã là kẻ có gia đình, xin tiên sinh nói năng cẩn thận.
Sinh toát mồ hôi hột, sượng sùng cáo biệt ra về. Hóa ra những điều chàng suy nghĩ lâu nay chỉ là ngộ nhận. Vũ phu nhân không hề có tình ý gì với chàng cả. Đêm ấy, Sinh quyết định đóng cửa Trần gia trang, lên đường ra kinh đô sinh sống.
Ngày qua tháng lại, thấm thoắt đã gần mười năm nữa trôi qua. Sinh vẫn phòng không gối chiếc, lòng nhớ thương Vũ phu nhân không dứt được. Sinh sống âm thầm như chiếc bóng. Đêm thu, ngày hạ, niềm cô đơn đã làm chàng ngày càng héo hon, mòn mỏi.
Một đêm, Sinh đang mơ màng thì bỗng thấy Vũ phu nhân từ ngoài đi vào. Nàng vận bộ đồ trắng toát, khuôn mặt xanh xao như vừa qua cơn bệnh nặng. Vũ phu nhân nhìn chàng hồi lâu rồi mới nghẹn ngào lên tiếng:
- Trần Sinh ơi, chàng đi mà sao không hề trở lại, để thiếp đợi chàng vò võ cả tháng năm?
Sinh bối rối:
- Thưa phu nhân, Sinh tôi từ sau lần ấy, cảm thấy hổ thẹn vô cùng nên không dám quay về tạ tội.
Vũ phu nhân sụt sùi nói trong tiếng nấc:
- Chàng biết không, lần ấy sở dĩ thiếp khước từ chàng là vì lúc ấy ở phòng bên đang có người, chàng không biết điều ấy nên vội vã ra về, vội vã bỏ đi khiến thiếp khổ đau, ân hận suốt từ ấy cho đến nay.
Sinh bàng hoàng nhìn Vũ phu nhân, tự trách mình sao quá hồ đồ làm uổng phí cả một đời, nhưng rồi chàng cũng gượng gạo phân giải:
- Thưa phu nhân, dù sao thì như vậy vẫn hơn, chúng ta sẽ không ai lỗi đạo.
Vũ phu nhân bỗng òa khóc nức nở:
- Chàng ơi, chàng đâu biết rằng ngày xưa Lê Vũ cưới thiếp làm vợ chẳng qua chì vì cha thiếp là tổng đốc mà thôi. Gần hai mươi năm chung sống, thiếp chỉ là cái bục để Lê Vũ bước lên đài danh vọng. Nay Lê Vũ đã là tổng đốc đại thần, có đến năm thê bảy thiếp, đâu còn ngó ngàng gì đến thiếp nữa...
Sinh nhìn Vũ phu nhân dậm chân than thở:
- Ôi, ta thật là kẻ vô tình, ta thật là người có lỗi. Xin nàng hãy ở lại đây để ta được chuộc lại lỗi lầm...
Nói xong liền lao đến ôm chầm lấy Vũ phu nhân, nhưng chỉ nghe một hơi sương lạnh buốt phả vào mặt rồi không thấy bóng dáng Vũ phu nhân đâu cả.
Tỉnh dậy, Sinh thấy lòng nóng như lửa đốt, liền tức tốc trở về quê nhà. Đến nơi mới hay rằng Vũ phu nhân do lâm trọng bệnh đã qua đời hơn một tháng trước. Người hầu gái trao lại cho Sinh một bọc giấy hoa tiên, mở ra thấy toàn là thơ văn của Sinh sáng tác trong mười mấy năm qua do Vũ phu nhân nắn nót chép lại, trong đó có cả những bài chàng mới viết trong thời gian ở kinh đô, không hiểu sao nàng cũng sưu tập được.
Lòng xiết bao cảm động, Sinh bồi hồi tìm đến bên mộ nàng hắt hiu lau cỏ. Nhớ chuyện cũ, chàng trồng dưới chân mộ một cây nhị độ mai, ngày ngày tới lui chăm sóc. Lê Vũ biết chuyện, sai người mang đến tặng chàng một chiếc áo, một chiếc gối và một bức họa chân dung Vũ phu nhân lúc sinh thời. Sinh đem những vật ấy để trong thư phòng, đêm ngày chiêm bái cho khuây khỏa niềm thương tiếc.
Từ đó Sinh ở hẳn lại Trần gia trang chuyên tâm vào việc trước tác. Tương truyền vào mùa xuân năm Thiên Bảo thứ mười tám, khi Sinh viết đến dòng cuối cùng của kiệt tác “U Linh mệnh ký” thì cũng là lúc chàng thả bút lìa đời. Năm ấy, cây nhị độ mai ra hoa suốt ba tháng trời, sắc hoa rực rỡ bay đầy không gian, nhuộm vàng cả một vùng non xanh nước biếc.
Đà Nẵng, Nguyên tiêu năm Tân Hợi 2001
(1) “Chớ tưởng xuân tàn hoa rụng hết - Đêm qua sân trước một nhành mai”