Phong Nhã Tụng

Phong Nhã Tụng

Tổng số chương: 49

Quan thư, là một trong những bài tình ca nổi tiếng nhất trong "Kinh thi”, miêu tả một chàng trai phải lòng một cô gái hái rau hạnh bên sông. Tiếng thủy điểu hòa quyện trên bãi sông và rau hạnh trôi giữa dòng chảy đều khiến chàng trai nhớ đến bóng dáng xinh xinh mảnh mai của nàng. Từ hư ảo đến thực tế, bài ca mở rộng dần cảnh thơ, toát lên nỗi nhớ và những tình cảm sâu nặng. Khổng Tử gọi bài thơ này là "vui mà không dâm, buôn mà không đau".

Kể ra, khi từ bệnh viện tâm thần ở kinh thành về đến núi Bả Lâu, tôi đi không nhanh nhưng thời gian như dòng nước xiết chảy cuồn cuộn tung tóe dưới chân, khiến tôi nhớ đến một câu nói trong cuốn sách chuyên đề mới của mình "Phong nhã chi tụng nghiên cứu về nguồn gốc của tinh thần "Kinh thi" (trong câu chuyện dưới đây, tôi có thể gọi tắt cuốn sách chuyên đề này là "Phong nhã chi tụng" được không?).

Mỗi người, mặc dù lúc đầu bạn men theo lối mới của cuộc đời đi đến đâu, nhưng cuối cùng đều đành phải trở về theo lối cũ.

Theo tôi, "Phong nhã chi tụng" là một tác phẩm chuyên đề vĩ đại. Nó nói lại khởi nguồn và ý nghĩa cốt yếu của bộ sách kinh, miêu tả lại quê hương và chỗ dựa tinh thần cho một dân tộc không có tín ngưỡng. Trong đó mỗi chữ đều quý như vàng, ném kêu choang choang. Tôi viết xong nó mất năm năm trời. Khi dọn đến ngôi nhà ngói màu nâu của Phòng nghiên cứu trong rừng cây tùng của Trường đại học Thanh Yên, tôi lau đi lau lại kính cửa sổ sáng như gương, tường quét vôi sáng như bầu trời. Nhưng khi tôi đi khỏi, song cửa sổ màu đỏ đã tróc sơn lần nữa, lộ ra vết gỗ, sợi gỗ. Bức tường vôi trắng xóa cũng bám đầy cáu bẩn bụi bặm, y như một mảnh giẻ lau to đùng dính phân, treo trên bốn bức tường trong nhà.

Đương nhiên cuốn sách chuyên đề không chỉ đem lại cho tôi có thế. Báo đáp lớn nhất của nó cho tôi là mùa hè năm nay, khi cầm bản thảo cuốn sách về nhà, tôi đã nhìn thấy một đống quần áo đàn ông đàn bà vứt bừa bãi trên sô pha phòng khách nhà tôi. Vợ tôi Triệu Như Bình cùng Lý Quảng Trí, giáo sư hướng dẫn làm luận án tiến sĩ lúc ấy còn là phó hiệu trưởng đang nằm trên giường ngủ trong buồng. Triệu Như Bình da nhẵn trắng hồng, chỉ hơi sồ sề (cũng có thể nói cô ấy đẫy đà vừa phải). Nhưng Lý Quảng Trí thì gầy nhom như que củi, người thâm sì. Ông ta đè lên thân vợ tôi, y như con tôm nõn phơi khô co dúm trên thân một con cá dải trắng. Một đen một trắng, một béo một gầy, một sáng một tối, khiến tôi lúc ấy cứ nghĩ, họ khó có thể đạt tới cao trào của tính dục.

Lý Quảng Trí, ông ta đâu có năng lực ấy.

Tôi đứng ở cửa buồng ngủ, một tay cầm chìa khóa, một tay xách bản thảo cuốn sách "Phong nhã chi tụng", dằng dặc năm mươi vạn chữ, vừa sửa xong, dày hơn nửa thước, vết chữ còn nóng hổi, tư tưởng của nó nặng như bốn viên gạch. Công lớn đã lập, khải hoàn trở về, tôi muốn xách cái túi "vĩ đại", đột nhiên đứng trước mặt vợ, lấy đó để huênh hoang khoe công nhận thưởng. Nhưng cô ấy lại đang chung giường chung gối, chơi bời vụng trộm với lãnh đạo trường (giữa ban ngày ban mặt). Nhà tôi ở phòng 306, đơn nguyên 3, gác số 4 trong nhà gác khu gia đình phía đông nam nhà trường. Ngoài cửa sổ có cây dương hình mũi tên, chọc thẳng lên trời xanh như một cột cờ, có mấy cành xanh xanh đang lên cơn động cỡn cọ qua cọ lại trên kính cửa sổ. Tôi kinh ngạc nhìn hai người hoảng loạn bò trên giường co rúm lại với nhau, vai nọ hích vai kia, sắc mặt tái xám, toàn thân run rẩy. Cảm thấy mình vào không đúng lúc, không gặp thời, có vẻ đường đột và gấp gáp, tôi vội vàng lùi về sau một bước. Khi tôi nhìn hai người cùng một lúc cuống quýt vơ khăn trải gối ở đầu giường che thân, hai khớp xương tay va vào nhau kêu thành tiếng. Trên chiếc chiếu tre đan bằng những mảnh cật, hai xác thịt cứ lui, cứ lui, rồi rơi bịch xuống đất.

Họ nhìn tôi. Ánh mắt tối sầm và lo lắng như hai tên lính bị bắt làm tù binh, đang nhìn vào nòng súng đen ngòm, khiến tôi cảm thấy hơi ngài ngại và ân hận, đành phải nói rối rít, xin lỗi, xin lỗi, viết xong cuốn sách chuyên đề là tôi về, lẽ ra tôi nên gọi điện báo trước, nên gọi điện báo trước rồi hãy về.

Tôi vừa nói vừa lui ra, y như vào nhầm cửa, y như gã đàn ông mót đại tiện quá lao bừa vào nhà vệ sinh nữ. Lùi ra phòng khách, tôi quay người, ngoái đầu nói, này, mặc quần áo vào cái đã, hai người hãy mặc quần áo vào cái đã.

Tôi đi ra khỏi nhà.

Khẽ đóng cửa, tôi đứng bần thần ở cửa cầu thang. Trên bức tường trước mặt, lớp vôi trắng quét chưa được một năm đã nứt tróc. Khi mắt tôi thẫn thờ nhìn vào nó, hình như không chịu nổi cái nhìn thẳng và sắc lạnh của tôi, bịch một tiếng, mảng vữa từ trên tường chợt rơi xuống. Tôi giật mình đánh thót. Tôi cứ ngỡ bước chân mình đá vào tai mình. Lúc này, tôi sợ nhất có người hàng xóm đi đâu về, sợ họ hỏi mình: "Giáo sư Dương không về nhà, anh đứng đây làm gì?". Nhưng ông trời chiếu cố tôi, không an bài bà con láng giềng của tôi về lúc này.

Việc còn lại là tiếng sột soạt mặc quần áo trong nhà tôi, có cả tiếng lôi ghế và tiếng bước chân của vợ tôi Triệu Như Bình đi ra cửa. Rồi cửa mở, tiếng vợ tôi như lá thu bay chao đảo lọt ra ngoài khe cửa, thầy giáo Dương, anh vào đi, có chuyện về nhà nói.

Quay người lại, tôi nhìn thấy nửa khuôn mặt của cô ấy kẹp trong khe cửa rộng bằng bàn tay. Sau khi tôi quay vào nhà như mong đợi, hình như cô ấy còn có động tác mở cửa ra đón. Vào nhà, đóng cửa, cô ấy đứng một bên phòng khách. Cô ấy mặc chiếc váy màu hồng nhạt, thắt ngang eo dải lụa xanh, còn kết một cái nút hình con bướm chỉ chực bay ở trước ngực. Trông dáng y như cô ấy sắp sửa ra khỏi nhà đi giảng bài cho sinh viên khoa điện ảnh và truyền hình của mình, chỉ có điều cô ấy không cầm bài giảng trong tay, nách cô ấy cũng không kẹp đại cương bài giảng và phim ảnh chuẩn bị phát cho học trò xem. Hai tay cô ấy buông thõng, giao chéo nhau trước bụng dưới, lòng bàn tay để ngửa, cánh tay hơi cong, hình như sợ không khí ở hai tay lọt mất. Cô liếc nhìn tôi một cái, khi cô cúi đầu xuống, không kịp vuốt cẩn thận mái tóc, có vài sợi lòa xòa rủ trên trán. Khuôn mặt cô giống như có dòng mực chảy qua vuông vải trắng. Lấy nhau mười mấy năm, tôi đã bốn mươi hai tuổi tròn, cô ấy cũng vừa tròn ba mươi nhăm, chưa bao giờ tôi nhìn thấy cô ấy có dáng dấp đáng thương như hôm nay. Dáng dấp đáng thương khiến người ta yêu thích này, y hệt như sinh viên của tôi không được thông qua luận án mà không biếu quà, đành phải đứng tần ngần trước mặt tôi van xin. Lướt ánh mắt khỏi người cô, tôi nhìn Lý Quảng Trí, nhà trí thức cấp thứ trưởng. Lúc này ông ta không còn là phó hiệu trưởng cai quản về nghiên cứu khoa học và giảng dạy của một trường đại học nổi tiếng ở kinh thành, cũng không còn là chuyên gia Tây học, viện sĩ Viện khoa học, không còn là nhóm trưởng có thẩm quyền của nhóm xét duyệt điểm tiến sĩ của toàn bộ trường đại học trong nước. Ông ta đã hoàn toàn trở thành một lão già nhỏ thó đi ăn cắp bị bắt quả tang. Tuy vẫn mặc bộ complê, nhưng chiếc áo lót trắng bên trong vẫn chưa kịp cài cúc cổ, chiếc cà vạt vẫn cầm trên tay như một sợi dây thừng, sắc mặt đen sạm như vỏ củ cải đang mọng mùa hè. Tôi đoán, trước kia, khi tôi vắng nhà, ông ta sẽ ngồi chễm chệ trên sô pha nhà tôi như chủ nhà, nhấm nháp trà Long tỉnh vợ tôi pha và gọt vỏ táo tàu cho ông ta hưởng thụ. Nhưng hôm nay thì không, ông ta như hố rơi xuống hố. Ông ta ngồi nửa mông trên một chiếc ghế trước bộ sô pha, cúi đầu im lặng, chốc chốc lại liếc nhìn ra cửa.

Ánh mắt ông ta nhắc nhở tôi.

Tôi bước tới khép cánh cửa đang hé mở (gài chốt ngầm trong cửa vào). Quay người về, tôi ngồi ung dung trên sô pha giả da màu trắng sữa nhà mình như chủ nhà. Tôi định nói gì, nhưng chỉ thở dài, nhìn hai người, nuốt vào bụng lời định nói. Ngả lưng lên số pha nhìn bản thảo cuốn sách của mình để trên đất, tôi im lặng.

Tôi không biết mình bắt quả tang họ thông dâm là chuyện hay hay dở.

Trong nhà ngột ngạt, giống như không khí đã đông thành sắt hoặc đá. Con người cũng đã bị đúc thành sắt hoặc đá. Máy điều hòa nhiệt độ vẫn mở, nhưng trên mặt ông Lí phó hiệu trưởng có mồ hôi (có vẻ đáng thương hại).

Mặt vợ tôi cũng có mấy giọt mồ hôi. Mặt tôi không có mồ hôi, chỉ có lòng bàn tay nong nóng. Khi tôi bóp hai tay, giống như bóp hai túi nước, khi buông ra, hơi lạnh từ lòng bàn tay ùa vào trong nắm tay. Tôi theo học và dạy học ở Trường đại học Thanh Yên hai mươi năm, lúc này, nỗi cay đắng khổ sở và thỏa mãn dễ chịu chưa từng có bao giờ, đang từ lòng bàn tay, qua hai cánh tay loang ra toàn thân. Tôi lại nhìn hai người một lần nữa, khi chạm vào ánh mắt họ nhìn tôi, ánh mắt họ lấm lét, dè dặt, run run, như đầu con rùa thử thò ra xem an nguy như thế nào trong sợ hãi, thoáng nhìn một cái rồi lại nhạy bén thụt vào ngay lập tức.

– Phó giáo sư Dương, tôi đã sai, anh muốn thế nào cứ nói thẳng.

Ôi trời, ông ấy mở miệng. Giọng lí nhí, ướt át, y như hơi nước từ bên kia hồ sen vườn trường bay sang. Thì ra, khi ông ấy diễn giảng ở trường học, hoặc báo cáo, đọc văn kiện trên đại hội thầy trò toàn trường, giọng ông không như thế. Lúc ấy giọng ông sang sảng, vang như chuông, đập inh tai nhức óc. Ông biết tiếng Pháp, thông tiếng Anh, đã từng học mỹ học và triết học phương Tây tại trường đại học Cambridge. Trong thời gian học tiến sĩ, ông đã phiên dịch mấy quyển sách khó nhất của triết học phương Tây, sau đó còn dịch một loạt tiểu thuyết thăm dò và tác phẩm bàn về mỹ học mới nhất của phương Tây, viết hàng loạt sách chuyên đề và học thuyết như "Lịch sử mỹ học phương Tây", "Lịch sử phát triển triết học phương Tây", "Lí luận so sánh giáo dục Cambridge và Oxford", "Lí luận so sánh mỹ học Âu Mỹ và Trung Quốc". Mười tám năm dạy ở khoa triết học Trường đại học Thanh Yên, ông dẫn dắt gần tám mươi sinh viên làm luận án tiến sĩ, về sau đương nhiên đã làm phó hiệu trưởng nhà trường. Phần đông sinh viên chỉ có thể nghe ông diễn giảng trên lễ đường, rất hiếm được nhìn thấy phong thái, thần thái của ông trên bục giảng trong lớp (tôi đã từng muốn có cơ hội nghe ông giảng một tiết ở cự ly gần, nhưng rút cuộc vẫn chưa có). Sau đó nữa, ông hầu như không còn giảng cho sinh viên, trở thành lãnh đạo bận trên bận dưới của trường đại học nổi tiếng này. Đầu tiên ông là một phó hiệu trưởng cuối cùng quản lí hành chính và tạp vụ của nhà trường, sau đó làm phó hiệu trưởng thứ nhất quản lý giảng dạy (ở mãi trên cao, quyền nặng như núi). Khi tôi cứ tưởng mình không bao giờ có cơ hội tiếp xúc với vị đại gia Tây học này, thì ông lại ngồi đối diện trước mặt tôi. Dù nói như thế nào, ông già ngồi trước mặt lùn nhỏ gầy yếu, lông mày đã có vài sợi bạc, trán đã hói gần đỉnh đầu, khiến tôi và ông phó hiệu trưởng thanh danh như sấm không cân xứng. Tôi nhìn mặt ông như nhìn một lá rau xanh treo lơ lửng trước mặt mình (hình như khuôn mặt như lá rau xanh kia còn có một thứ kiến nghị và cứng rắn cứ làm theo mình). Cứ thế tôi nhìn ông, nắm bắt xem, rút cuộc trên khuôn mặt kia có biểu hiện của tư tưởng ta cứ làm theo ý mình hay không, thì ông đã mở miệng nói ra.

Ông nói, phó giáo sư Dương, anh yên tâm, trong năm nay tôi sẽ đưa anh từ phó giáo sư lên giáo sư được không? Ông nói, còn nữa, tôi xin hứa cuối năm báo cáo phê chuẩn anh là học giả gương mẫu cấp nhà nước. Bình chọn là học giả gương mẫu, tiền thưởng sẽ là năm vạn đồng.

Ông nói, nếu anh muốn làm chủ nhiệm phòng nghiên cứu giáo dục của anh, hoặc phó chủ nhiệm trong khoa, tôi sẽ hết sức nâng đỡ anh.

Ông ta nói như thế, giống như viết cho tôi một chuỗi hóa đơn thanh toán, cảm thấy điều kiện có thể, giá tăng đủ cao, ông có thể làm trong tầm tay, cuối cùng ông nhìn vào mặt tôi bằng ánh mắt vừa mềm vừa cứng, chờ tôi trả lời và cò kẻ ngã giá. Nhưng khi ông nhìn tôi, trong giây phút ông chờ tôi trả lời, tôi đã nhìn vào đống bản thảo bên cạnh bàn uống trà, rồi cười nhạt với ông (cười rất yếu ớt, ý vị sâu xa). Tôi nói, thưa ông Lí phó hiệu trưởng, tôi đã viết xong cuốn "Phong nhã chi tụng - nghiên cứu về nguồn gốc của tinh thần Kinh thi". Có cuốn sách chuyên đề này, thứ gì tôi cũng có, tôi không còn cần cái gì nữa. Nếu từ trong lòng, ông cảm thấy sai, cảm thấy có lỗi với Dương Khoa tôi, muốn thật tâm thật ý hối cải, tôi có mấy điều đề nghị hai người giúp đỡ. Một là tư tưởng tôi chưa giải phóng, việc giữa ông và Triệu Như Bình, đề nghị lần sau không thế nữa, có được không? Hai là quan niệm của tôi chưa đổi mới, xin hai người lần sau không thế nữa, có được không? Tôi vừa nói, nỗi buồn cũng vừa ùa trỗi dậy trong lòng, chỉ chực khóc. Nhưng giữa lúc mặt tôi sắp giàn giụa nước mắt, lòng tôi quặn đau, như quỷ khiến thần sai, từ sô pha tôi đứng dậy, như sấm sét giữa trời nắng tôi quỳ sụp trước mặt ông (quỳ mạnh lắm, y như cây gỗ đổ để chinh phục một trái núi). Quỳ xuống tôi nhìn mặt ông, cũng nhìn vợ tôi Triệu Như Bình đang sợ hãi đứng thẫn thờ một bên, tôi nhắc lại, lấy danh dự của một nhà trí thức, tôi đề nghị một là xin hai người lần sau đừng thế nữa, có được không? Hai là lần sau xin hai người đừng thế nữa, có được không? Ba là tôi quỳ xuống xin hai người lần sau đừng thế nữa, có được không?

Danh sách chương


Sách tương tự