← Quay lại trang sách

Chương 2 HITLER VÀ CÁC TƯỚNG LÃNH CỦA ÔNG (1)

Như thường lệ, Hitler không chịu nghe theo các đề nghị của Bộ Tổng tham mưu. Số 22 Sư đoàn của các Binh đoàn XVI và XVIII vẫn ở lại Courlande. Quân đoàn Thiết kỵ SS và vài Sư đoàn có thể được trích ra từ mặt trận Miền Tây và tại Đức vẫn không được gởi đến Poméranie, nơi đây binh sĩ của chúng tôi coi thường cái chết đề chiến đấu chống lại một bức tường thép lửa. Nhưng tại Hung Gia Lợi, 1200 chiến xa được tập trung đề thực hiện một cuộc tấn công điên rồ lên mạn Bắc và mạn Đông hồ Balaton, nẳm về phía tây Budapest. Tại đấy đã có sẵn lực lượng tập trung của Binh đoàn VI chỉ huy bởi Tướng Balk, Quân đoàn VI Thiết kỵ của Sepp Dietrich và một đơn vị kỵ binh. Ý định của Hitler là bắt họ tấn công về phía Nam và phía Đông để tái chiếm tất cả khu vực nằm giữa Punfkirchen và ngã ba sông Danube với sông Drave, tái hội nhập Budapest vào hệ thống phòng thủ Đức lấy sông Danube làm xương sống của tuyến phòng thủ ấy. Ngược lại cuộc tấn công tại Poméranie thì được đảm trách bởi Binh đoàn III, rất yếu, với chừng 500 chiến xa.

Tuy nhiên Guderian vẫn không sờn lòng. Cho đến tháng 3, cùng hiệp ý với Tướng Gehlen, ông đã cố thuyết phục Hitler từ bỏ các kế hoạch của ông ta nhưng không có kết quả nào khác hơn là càng bị Hitler nhìn với một nhãn quan xấu.

Khi Gehlen tỏ ra khẩn khoản trong một cuộc tiếp xúc mới, trưng ra các tin tức tình báo chính xác, dựa trên các sự kiện hiển nhiên, chứng minh ưu thế to tác của địch quân, nhấn mạnh rằng địch quân làm chủ bầu trời và họ không ngừng gia tăng sản xuất chiến xa và đại bác, Hitler thình lình đứng bật dậy và tuyên bố một cách kiêu kỳ:

"Tôi bác công việc này của Bộ Tổng tham mưu. Đoán biết ý định của quân thù và từ đó rút ra những kết luận hữu ích là công việc của bậc thiên tài, và bậc thiên tài thì không bao giờ bận bịu vì các chuyện vụn vặt như các chuvện mấy ông trình tôi!"

Đến mức ông còn cấm Guderian và Gehlen trình bày tình hình "một cách có ẩn ý" mỗi khi họ phải trình báo lên ông những tin tức xấu. Nhiều lần ông ta tuyên bố rằng ông có bốn phận phải theo đuổi mà không vướng mắc một trở ngại nào các chủ tâm của một đại lãnh tụ quân sự của ông. Vào đầu tháng 4, ngay sau khi Guderian ra đi, Tướng Gehlen bị cất khỏi chức vụ chỉ huy "phân bộ quân đội ngoại quốc Miền Đông", và theo lệnh của Fuhrer, phân bộ này phải thu hẹp lại đến nỗi không còn có thể làm được việc gì nghiêm chỉnh nữa. Lưỡi búa cũng giáng lên chính Guderian sau đó.

Trong vòng tháng 3, nhiều khó khăn đã xảy ra trong việc lựa chọn các vị chỉ huy quân sự. Nhân một buổi họp, Guderian lưu ý Hitler về Thống chế Manstein, và đề nghị gọi Thống chế trở lại quân đội. Manstein là người đã chiến thắng tại Sévastopol và sau đó là một trong những Tướng lãnh sung sướng nhất hoạt động với Binh đoàn XI trong khu vực phía Nam của mặt trận Miền Đòng. Tuy nhiên ông đã phạm "lỗi lầm không thể tha thứ được" là nhiều lần dám khuyên Fuhrer cẩn thận trong đường lối chiến tranh tại Nga Sô. Ông ta phải về vườn. Khi Guderian nêu tên ông ta ra trước hội nghị, Hitler trả lời: "Nếu tôi có được 40 Sư đoàn xung kích được trang bị tuyệt hảo, tôi sẽ không giao cho ai khác chỉ huy ngoài Manstein. Có lẽ đó là sĩ quan giỏi nhất mà Bộ Tổng tham mưu đã sản xuất ra, nhưng tôi không thể dùng đến ông ta trong tình thế hiện tại. Ông ta không tin tưởng ở chủ nghĩa Quốc Xã. Do đó ông ta không thể nào chịu đựng nỗi gánh nặng trách nhiệm mà ngày nay là bổn phận của mỗi một đại lãnh tụ quân sự".

Vào tháng 3, khi Hitler được báo cho biết sự thất bại của trận phản công tại hồ Balaton, ông ta nổi một con thịnh nộ kinh hồn chưa từng thấy. Ông ta quên mất rằng chính mình đã ra lệnh mở cuộc tấn công đó. Theo ý ông, cuộc thất trận này phát sinh do sự thiếu nhiệt tình của Tướng Woohler, Tư lệnh Đạo quân miền Nam. Tay nắm chặt, ông ta hét lớn với Guderian: "Woohler đã luôn luôn chống lại chủ nghĩa Quốc Xã với thái độ ngạo mạn tệ hại nhứt. Hắn không có nhiệt tâm. Một con người nắm trong tay nhiều trách nhiệm to lớn mà như vậy thì thử hỏi tôi còn có thề trông cậy được gì?" Lập tức Woohler bị bãi chức.

Khi cần phải chỉ định một Quân ủy trưởng cho vùng Fradfort-sur-Oder, Guderian và Jodl tìm cách đề nghị Đại tá Von Bonin, trưởng phòng hành quân của Bộ Tư lệnh Lục quân (O.K.H). Khi phòng tuyến Đức bị chọc thủng trên sông Vistula bởi đợt tấn công của Nga sô ngày 12 tháng giêng năm 1945. Hitler đã ban hành mệnh lệnh nổi danh về việc trấn giữ các thành lũy, lệnh này ấn định rõ ràng rằng các thành lũy phải được tử thủ dầu cho hoàn cảnh có đến thế nào đi chăng nữa. Đặc biệt là Varsovie phải được chống giữ cho đến người lính cuối cùng. Năm ngàn binh sĩ trú đóng ở đầy dưới quyền chỉ huy của một tướng lãnh. Lệnh tử thủ được chuyển đến thành phố chậm mất 12 tiếng đồng hồ. Do đó, đội quân trú phòng Đức đã có thể di tản chiến thuật để không bị vây hãm trong thủ đô Ba Lan. Không có một chứng cớ nào cả, nhưng Hitler vẫn đổ trút hết trách nhiệm về sự chậm trễ ấy cho Bonin và giao ông ta cho Sở Mật thám Gestapo. Viên đại tá biến mất trong nhà lao Lehrter Bahnhot, dù tội trạng của ông ta không bao giờ được xác định rõ ràng.

Jodl nói với Hitler: "Thưa Fuhrer, để chống giữ Francfort, nếu Ngài muốn cử một sĩ quan có khả năng nhất, cương quyết nhất trong Quân lực, thì cần phải dùng Đại tá Von Bonin".

"Không thể được, Hitler gầm lên, tôi không thể dùng một người không chịu thi hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh của tôi". Vấn đề được giải quyết xong và Đại tá Von Bonin tiếp tục nằm khám. Và không ai biết được số phận của ông ta như thế nào cả.

Cơn thịnh nộ của Fuhrer đã vượt khỏi mọi giới hạn khi người ta báo cho ông tin thất trận của một "đảng viên Quốc Xã cuồng tín". Khi biết Vienne thất thủ, Hitler đã lâm vào một trong những cơn giận dữ dễ sợ nhất đời. ông ra lệnh giáng Sepp Dietrich 1 xuống thành binh nhì và lột hết huy chương.

Đúng y lệnh về các thành lũy, tất cả các thành phố và các địa phương quan trọng nằm phía sau đường giới tuyến đã được lịnh thành lập nhiều đồn lũy phòng ngự. Nếu quân đội Đức bị bắt buộc rút lui nữa, thì tất cả các cái gọi là "pháo đài" ấy, được đặt dưới quyền chỉ huy của một tướng lãnh, phải chiến đấu, ngay cả trong các trường hợp tuyệt vọng nhứt, cho đến giọt máu cuối cùng. Vì lẽ từ lâu đã không còn các đơn vị được huấn luvện kỹ càng để đảm nhận sứ mạng ấy nữa, nên lịnh tử thủ đã trở thành tương đương với việc làm cho nhiều ngàn người Đức không có khả năng chiến đấu bị thảm sát một cách vô ích.

Vào tháng 2 và 3 năm 1945, tình hình bước sang một khúc quanh bi thảm cả ở phía Tây lẫn phía Đông. Sau khi vượt qua cầu Remagen, quân lực Anh Mỹ như một triều sóng ồ ạt tràn qua Đức quốc. Không có ngưng nghỉ, nhịp độ tiến quân tăng dần. Chính lúc đó, được hậu thuẫn bởi sự tuyên truyền ồn ào của Goebbels, Hitler tuyên bố phát động chiến tranh du kích với sự hiện hữu của tổ chức Werwolf. Mô phỏng theo khuôn mẫu của du kích quân Ba Lan, và Nga và Các phong trào bí mật tại các Quốc gia bị Đức chiếm đỏng, các toán quân võ trang sẽ từ mặt đất chui lên thình lình. Con nít, đàn bà, ông lão mọi người phải cố gắng tiêu diệt kẻ thù bằng các cuộc phục kích liên miên bất tận.

Có thật là Hitler đã nghĩ rằng công trình tuyệt vọng ấy còn có thể làm chậm lại sự suy đổ về mặt quân sự, có thể chận đứng được dòng biến chuyển của tình thế không? Liệu có phải ông đã tin tưởng một cách chân thật rằng dân tộc Đức sẽ đi theo ông trong ý định tự sát không? Hay là ông ta tự thấy mình như một vĩ nhân anh hùng trong một vở tuồng vĩ đại của Wagner, một anh hùng duy thực một cách tàn khoe, đứng giữa đống lửa đang cháy muốn kéo theo tất cả dân tộc Đức trong buổi hoàng hôn của "Đại Đức quốc ngàn năm" của ông ta? Thật không thể nào đoán được cái gì thực sự đã xảy ra phía sau vầng trán của con người ấy. Đã từ rất lâu, Hitler không còn tiếp xúc với dân tộc Đức và không còn hiểu họ nữa. Dân tộc nầy đã mệt vì chiến tranh, mệt mỏi không thể tả được, dân tộc ấy đã trở nên bạc nhược sau sáu năm chiến đấu và chịu đựng oanh tạc. Họ muốn hòa bình, chỉ có hòa bình mà thôi. Chắc tổ chức Werwolf phải được một nhân vật nào lạc quan lắm chuẩn bị, mới có thể hứa hẹn cả bóng dáng của sự thành công được. Nếu chiến tranh du kích thành công được ở Nga, ở Ukraine, ấy chính là vì một chính sách điên cuồng đã buộc dân chúng phải tham gia để loại trừ nó, ấy chính là vì phòng tuyến quá rộng và vì Đức quốc không có đủ người để trải đầy khoảng đất ấy. Nếu các phong trào bí mật đã thành công tại Pháp, Na Uy, Đan Mạch ấy chính là nhờ họ nhận được vũ khi và một sự trợ giúp tích cực về mặt tinh thần từ sự tuyên truyền của địch (Đồng minh), và cũng vì họ có thể tin tưởng vào một sự cứu giúp trực tiếp rất gần gũi, Đức quốc không hề có bất cứ điều kiện nào trên đây.

Hoạt động của phong trào Werwolf đã nhanh chóng được xác nhận là con số không, bởi vì các quân lực của địch tiến quá mau và, ngoài ra, vì dân tộc Đức đã gần như hoàn toàn từ chối theo đuổi hình thức chiến tranh ấy. Ngay cả người binh sĩ ưu tú nhất của Hitler cũng gần như không đáp ứng lời kêu gọi của ông ta. Khi Sư đoàn VI chuyên chiến đấu trong rừng núi gồm toàn quân SS. Sau khi từ Na Uy rút về, bị quân Mỹ vây hãm trong vùng Taunus, Hitler ra lịnh cho mười lăm ngàn người của ông phân tán mỏng để làm nòng cốt cho các tổ chức của phong trào Werwolf. Mệnh lệnh đã không đạt được kết quả nào.

Nếu sứ mạng của tổ chức Werwolf ở phía Tây là ít ra cũng làm chậm đà tiến quân của địch, thì về phía Đông, bằng một chiến dịch báo chí và tuyên truyền, người ta cố gắng khích động dân chúng chống lại Hồng quân theo phương cách dã man, tàn bạo nhứt. Vào tháng 3, Guderian đưọc kêu gọi tham dự chiến dịch nầy. Trong một cuộc họp báo tại phòng hội của Bộ tuyên truyền, ông ta nói về các hành động bạo tàn của quân Nga ở phía Đông. Trong khi đó làn sóng tị nạn kinh hoàng và bất tận lại dâng cao, cấp bách. Một bức tường liên tục gồm toàn xe cộ bị phá hư, người và vật đang ngoắc ngoải vì đói và lạnh, dựng lên hai bên cảc con đường từ phía Đông đến. Trong những nhà ga tại Bá- linh vô số các chuyến tàu liên miên đổ xuống những con người khốn khổ đó, mà phần nhiều đã phải di chuyển trên các toa lộ thiên dưới trời tuyết giá. Vô số người đã ngã chết, họ đã chịu đựng các nỗi thống khổ không thể tả được và phi cơ Đồng minh đã làm gia tăng nỗi nguy khốn của họ.

Nhưng Hitler chẳng thấy gì về tất cả các chuyện đó, hoặc giả, ông ta không muốn thấy để khỏi mâu thuẫn với "nguồn cảm hứng thần thánh của ông". Trong những năm sau cùng của cuộc chiến, ông ta ít khi rời khỏi Tổng Hành Dinh đặt tại Rastenburg, ở Đông Phổ, nơi đây ông sống trong cảnh đồng ruộng mênh mông, rừng núi bao la và những hồ vĩ đại. Sự tĩnh mịch và vẻ mỹ lệ của phong cảnh không hề gợi ra một tí gì về các sự khiếp đảm của chiến tranh. Đối với ông, chiến tranh chỉ gồm trong những con số, những đường vạch bằng viết chì xanh đỏ trên bản đồ tham mưu. Ông cũng lại chẳng hạ lệnh trình ông coi các hình ảnh của các sự tàn phá thực sự do các cuộc oanh tạc gây ra, hình ảnh có thể cho ông ít ra là một ý tưởng gần gũi với thực tại. ông ta biết được gì về nỗi đau khổ của dân chúng? Những kẻ thân cận đã rất khổ sở khi tìm cách dấu ông tất cả những tin tức xấu để khỏi khuấy động niềm tin tai hại của chính ông. Trong khi Churchill, ngày trước bị Hitler cho là "một tên ngu ngốc về phương diện quân sự", trèo lên các đống đổ nát tại Luân-đôn đề truyền niềm hy vọng cho dân chúng, tiến lên tuyến đầu với điếu xì gà nơi miệng và võ trang bằng một chiếc gậy, đề khuyến khích quân sĩ bằng sự hiện diện của mình, thì Hitler lại ẩn náu trong vùng rừng núi Đông Phổ, đằng sau một đạo quân SS võ trang cùng mình mà không hề một lần xuất hiện cả trước dân chúng của các thành phố đã bị tàn phá, lẫn binh sĩ đang chiến đấu ngoài tiền tuyến. Mặt khác ông lại để thì giờ lo những việc vô ích nhất. Quốc sự cũng như các quyết định liên quan đến sự sống chết của hàng ngàn người có thể phải bị chờ đợi đó khi ông ta bận xem xét một vài mẫu hình vẽ vài huy chương mới. Ngay cả vào thảng 3 năm 1945 ông ta vẫn còn đòi trình bày một dự án thuộc loại nầy. ông cũng còn có thể trình bày hàng giờ về các kế hoạch kỳ dị mà ông đã dày công hoạch định đề tái thiết Thủ đô và các thành phố lớn tại Đức. Người ta có thể chấp nhận rằng đó là những lúc nghỉ ngơi của ông, một kiểu xả hơi như Roosevelt chơi tem, nhưng ít ra các tên "ngốc nghếch" Churchill và Roosevelt ấy cũng còn khả thông minh biết để cho các tướng lãnh của họ lo liệu cảc vấn đề quân sự. Trong một lần duy nhất Hitler có cơ hội thoảng nhìn quang cảnh thủ đỏ bị san bằng. Đấy là vào cuối tháng 11 năm 1944, khi ông rời Tổng Hành Dinh tại Rastenburg được mệnh danh là "Wolfschanze" (hang sói) và là nơi đã xảy ra cuộc mưu sát ngày 20 tháng 7, để đến đóng đô "tạm thời" ở Bá-linh. Khi đi qua vùng ngoại ô trên chuyến xe lửa đặc biệt, ông ta đã tỏ ra vô cùng kinh ngạc và xúc động khi thấy quang cảnh hoang tàn sụp đổ. Ông nói với đảm thân cận rằng không bao giờ ông có thề ngờ rằng các quả bom lại có thề có hiệu quả đến như vậy!

Năm 1945, khi tình hình kinh tế và quân sự biến chuyền ngày càng nhanh về phía thảm họa, Guderian cố thử can thiệp vào lãnh vực chinh trị. Bác sĩ P. Barandon, người nhân viên liên lạc mới giữa Bộ ngoại giao và Bộ Tổng tham mưu đến trình diện ông lần đầu tiên đêm 23 tháng giêng, Ông trình bày cho bác sĩ nghe nguyên nhân và hậu quả của sự sụp đổ của phòng tuyến Miền Đông và so sánh tình hình hiện tại với tình hình tháng 10 năm 1918. Để kết thúc, Guderian tuyên bố rằng phải lập tức cố tìm cách thương thuyết một cuộc ngưng bắn với đối phương của chúng tôi ở phương Tây.

Ngay tối hôm đó, Barandon đến tư đinh Tổng trưởng Ngoại giao. Cuộc tiếp xúc ban đêm với von Ribbentrop có tính cách khá đơn phương và không mang lại kết quả mào. Ribbentrop không hề hỏi Hitler liệu ông ta có thuận cho điều đình ngay tức khắc một cuộc ngưng bắn ở phía Tây không. Và để kết thúc, ông ta tuyên bố trong dáng điệu của một nhân vật lớn của Quốc Gia rằng Bộ Tổng Tham mưu trở nên điên rồ rồi sao. Guderian và Ribbentrop lại được cơ hội gặp nhau ngày 25 thảng Giêng, nhưng kết quả vẫn không có gì. Hai ngày sau, Bộ Tổng Tham Mưu lại đòi hỏi một cách thúc bách hơn nữa, phải mở các cuộc thương thuyết để đi đến ký kết ngưng bắn với Tây phương, vẫn không có gì xảy ra cả.

Guderian không sờn lòng và cố gắng hoạt động thêm trên bình diện chính trị. Vào giữa tháng ba, qua một đài phát thanh trung lập, ông ta biết có một bác sĩ Hess nào đó đã thăm dò tại Stockholm về một giải pháp hòa bình. Bác sĩ Barandon vẫn đóng vai trò trung gian. Ông ta gặp Ribbentrop ngày 21 tháng 3 và một cuộc gặp gỡ, có tôi tham dự, đã được tổ chức giữa ông Tổng trưởng và Đại tướng. Buổi họp không đưa đến một điều gì tích cực cả. "Quân đội không nên kêu gọi Bộ Ngoại giao điều đó mà phải chiến đấu, chiến đấu nữa, luôn luôn chiến đấu", đấy là những lời mà Ribbentrop đã nói để chấm dứt buổi hội đàm.

Từ đó, Guderian và Barandon đã hiểu rằng tìm kiếm một giải pháp mau lẹ qua ngõ Bộ Ngoại giao là vô ích. Do đó họ quyết định nói với Himmler. Ngay hôm sau khi tiếp xúc với Ribbentrop, Guderian đến kiếm Himmler tại Prenzlau. Himmler đã tỏ ra rất cởi mở và khá quan tâm đến những lời trình bày của Guderian, tuy nhiên ông ta từ chối hậu thuẫn Guderian và tuyên bố rằng Hitler sẽ đuổi cổ ông ta lập tức hoặc xử bắn ngay nếu ông ta dám trình các đề nghị như thế.

Vậy thì phải dò ý tứ Goering. Chính Himmler tự nguyện tiếp xúc với ông nầy. Ông ta đến Karinhall và nói chuyện với Thống chế trong bốn giờ. Goering tuyên bố phần ông thì hoàn toàn đồng ý rằng phải hành động, nhưng từ chối nói với Hitler vì như vậy là phạm vào lời thề trung thành với ông này. Vả lại, ông ta giải thích, trong trường hợp đó Hitler sẽ đuổi cổ ông ta ngay. Từ đó, Himmler hành động riêng rẽ, sáng suốt hơn Hitler về phương diện chính trị, Himmler đã có các cuộc tiếp xúc với Bá tước Polke Bernadotte qua trung gian của bác sĩ Kersten người Thụy Điển, và do lời khẩn cầu của các người Thụy Điển, ông cho phóng thích khỏi các trại tập trung vài ngàn tù nhân chính trị Na Uy và Đan Mạch mà không cho Hitler biết. Chắc chắn ông ta hy vọng rằng bằng cách ấy, một ngày nào đó, mạng sống của ông sẽ được cứu thoát. Schellenberg đóng một vai trò quan trọng các cuộc thương thảo nầy, ông ta cùng được giao cho nhiệm vụ hồi hương lén lút các tù nhân được phóng thích và đã đến Thụy Điển nhiều lần. Khi Ribbentrop nghe tin Bernadotte có mặt ở Bá-linh, ông ta yêu cầu Bá tước đến gặp, nhưng câu chuyện của họ không dính dáng gì đến chính trị. Bây giờ Himmler cho Bá tước biết ông ta sẵn sàng thương thuyết với Anh Mỹ về vấn đề đầu hàng của Đức quốc, nhưng không thương thuyết với Nga sô. Ông ta nghĩ có thể ly gián Đòng minh bằng cách đề nghị quân đội Đức buông khí giới tại mặt trận Miền Tây và phía Nam, trong khi cuộc chiến vẫn tiếp diễn ở Miền Đông. Hitler và đám cận thần sẽ bị loại trừ, chính ông ta, Himmler sẽ nắm quyền lãnh đạo Đức quốc. Tất nhiên là Đồng minh không chấp nhận đề nghị này. Bá tước Bornađotte kể lại chi tiết các cuộc thương lượng nầy trong cuốn "Slutet" (Hồi chung cuộc). Lời xét đoán của Bá tước về Ribbentrop rất là bất thuận lợi.

Ít lâu sau, ngày 20 tháng 3, trong một phiên họp tại phòng làm việc, Hitler khuyên vị Tổng tư lệnh Guderian nên đi dưỡng bệnh tim tại một dưỡng đường. Guderian hiểu và cám ơn. Ngày 30 tháng 3 ông nộp đơn từ chức.

Trong khoảng thời gian đó, cuộc bại trận diễn ra dưới các hình thái hỗn loạn, tại Poméranie, và tại Hung Gia Lợi. Poméranie đã thất thủ và hai Binh đoàn chiến đấu tại Dantzig và Đông Phổ bị cắt làm đôi. Lệnh tấn công tại Hung Gia Lợi thì đưa đến một cuộc triệt thoái với hậu quả nặng nề. Phần lớn các cuộc tấn công đều do cảc đơn vị SS đảm trách, và vì lẽ Hitler quan niệm sự thất trận vốn do tình trạng thiếu cuồng tín, vì thế đến phiên các đơn vị SS cũng bị thất sủng. Himmler bị giải chức Tư lệnh tại Poméranie vì thiếu khả năng. Do lệnh của Hitler, không những chỉ có Sepp Dietrich mà tất cả các Sư đoàn SS tại Hung Gia Lợi, từ sĩ quan đến binh sĩ đều bị tước quyền mang chiếc băng tay đặc biệt của đơn vị SS. Trong số đó có đơn vị "Leibstandarte Adolf Hitler", đơn vị "Hitler - Jugend" và "Das Reich" mà ngày trước được coi như ưu tú của các đơn vị ưu tú và đặc biệt rất hãnh diện với huy hiệu của họ. Trong khi ra mệnh lệnh truất quyền nầy, Hitler giận bốc khói, la hét như một kẻ điên tiết.

Vào thời đó, một nhân vật mới xuất hiện trong các buổi họp: Tướng Krebs, người kế vị Guderian, vốn là Tham mưu phó của O.K.H. Những người được chứng kiến các biến cố cuối cùng tại Dinh Tể Tướng đều nhận thấy rằng Hitler chắc chắn sẽ chọn Tướng Krebs. Ông Tướng nầy là một đảng viên Quốc Xã khích động, một kẻ cuồng tín của Hitler, một người không bao giờ mang lại một điều gì mâu thuẫn với ý nghĩ của lãnh tụ mình. Lúc được chỉ định vào chức vụ mới, ông đang là Tham mưu trưởng của Thống chế Model.

Mặt khác, ông ta lại là bạn thân của Bormann.

Trong khi cuộc chiến hãy còn tiếp diễn tại biên thùy Đông Phổ, Guderian đã đưa ra một mệnh lệnh về vấn đề huấn luyện và gia nhập các đơn vị Wolkssturm. Bormann cho rằng như thế là xen vào lãnh vực hành động của ông. Những đụng chạm dữ dội đã xảy ra và Guderian phải nhượng bộ. Ít lâu sau, cả hai lại gây gổ nhau dữ dội về vấn đề các sĩ quan Quốc Xã chỉ đạo, những quân nhân N.S.F.O. được bổ nhiệm tới các đơn vị sau cuộc mưu sát ngày 20 tháng bảy. Các sĩ quan nầy được tổ chức mô phỏng theo kiểu chính ủy trong Hồng quàn và được giao cho thi hành một sự "giám sát" chính trị trên các đơn vị. Một vài sĩ quan loại này liên lạc thẳng với Bormann và báo cáo với ông này "thái độ chủ bại của tập thể sĩ quan trong Binh đoàn đang hoạt động tại Silésie". Trong thực tế, đấy là một điều láo khoét. Tuy nhiên Bormann đã không làm gì khác hơn là hấp tấp báo cáo với Hitler, ông nầy lập tức triệu Guderian tới. Guderian phàn nàn, trong một bức thư với những lời mạnh mẽ, sự can thiệp của Bormann vào một lãnh vực hoàn toàn xa lạ với ông ta, và các sĩ quan đã báo cáo thẳng với Bormann đã bị trừng phạt kỷ luật nghiêm khắc, vì đã vượt hệ thống quân giai.

Không kể tư cách chính trị của họ, các quân nhân N.S.F.O, thuộc Lục quân Đức chứ không phải thuộc Đảng.

Tiếp theo đó, Hitler lại hướng sự nghi ngờ qua Goering.

Chúng tôi lại tụ họp trong căn phòng làm việc của Dinh Tể Tướng để dự buổi họp hằng ngày. Lục quân và Hải quân đã báo cáo xong. Tướng Christians bắt đầu nói về tình hình trên không, nhưng Hitler đã ngắt ngang câu nói và hỏi đã có bao nhiêu máy bay săn giặc kiểu mới nhất đưực hoàn thành rồi. Đó là một câu hỏi mà Hitler đã đều đặn đặt ra từ mấy tháng qua. Christians tìm cách tránh khéo, nhưng vẻ bối rối của ông chứng tỏ một cách quả rõ ràng rằng chẳng có một máy bay mới nào được cất cánh cả. Hitler im lặng một lát. Nắm tay siết chặt cứng, vẻ mặt xanh nhợt trong lúc bình thường đã trở nên đỏ gay, ông ta bặm môi.

Thế rồi cái nhìn sáng hoắc như ánh chớp hướng về phía Goering: "Goering, Không quân của ông không còn xứng đáng là một đơn vị độc lập trong quân đội nữa!". Những câu nói gay gắt, chạm tự ái tuôn ra sau đó. Ông ta đối xử với viên Thống Chế như với một cậu sinh viên sĩ quan. Khi ông hơi nguôi giận, Goering đi ra phòng đợi và nuốt ừng ực từng hơi mấy ly cô nhắc liền.

Như thường lệ, khi khí sắc Hitler không vui, các người tham dự lần lượt biến mất đề cho cơn bão to giận dữ đừng quét đến họ. Nếu Fuhrer có hỏi gì thêm nữa thì các viên phụ tá của họ phải cố mà thay thế họ.

Từ vài tuần nay, Goering mặc một bộ quân phục Không quân không huy chương. Biết rõ cảnh ngộ, ông ta nghĩ rằng tốt hơn là không nên mặc bộ quân phục bằng da hoẵng màu xanh, với giày ống da của Nga sô với phản diện màu đỏ chói, đinh thúc ngựa bằng vàng, và vài kiểu nón cầu kỳ không thể tả được, cũng như càng không nên mặc các bộ quân phục bay bướm màu sắc rực rỡ khác. Ông nghĩ rằng bắt buộc cần phải ăn mặc khiêm nhường hơn. Mặt khác, ông ta tỏ ra càng lúc càng ít chú ý đến các vấn đề quân sự. Trước đây, trong các cuộc hội nghị, ông ta thường nghiêng thân mình đồ sộ trên tấm bản đồ trại rộng trên mặt bàn giấy đến mức gần như án hết không để cho người khác nhìn thấy. Trong khi Jodl hay Guderian thuyết trình, người ta thấy ông thường dò ngón tay đeo đầy nhẫn, trên bản đồ để theo dõi các lời giải thích, và đôi khi ông cố bày tỏ ý kiến ngay cả trong trường hợp những ý kiến ấy chẳng có gì chính xác lắm đối với các nhà chuyên môn. Tôi đã có dự khán một cảnh đặc biệt khổ não trong một buổi họp đêm trong căn hầm của Fuhrer. Chúng tôi đứng chung quanh chiếc bàn trải bản đồ trong căn phòng hẹp dùng làm phòng họp. Chỉ một mình Goering ngồi đối diện với Hitler. Mặt bàn bao phủ đầy bản đồ của Bộ Tổng tham mưu. Goering công khai biểu lộ vẻ buồn chán. Ngoài ra ông lại còn có vẻ mệt nhọc vì ông ngáp liên hồi. Sau cùng ông không cưỡng lại được. Lấy chiếc cặp bằng da cừu màu lục, ông ta chống hai khuỷu tay lên bàn, úp chiếc đầu vĩ đại vào mảnh da mềm mại. Hitler có vẻ như không thấy gì cả. Goering chắc sẽ ngủ thật nếu Hitler không đột nhiên yêu cầu ông dở khuỷu tay để lấy tấm bản đồ trên cùng ra.

Năng lực quyết định xưa cũ của Hitler giảm sút rất nhiều trong các tuẫn lễ cuối cùng. Có lẽ tình trạng ấy phát sinh từ chỗ chính ông cũng không còn có thể chịu đựng nổi các "trách nhiệm" ghê gớm nữa, cũng có lẽ là vì nhiều lý do khác. Dầu sao, rõ rệt là ông đã biểu lộ một vài hỗn loạn không những về thể chất mà cả tinh thần nữa. Chiếc đầu càng lắc lư thêm, bàn tay trái càng ngày càng run rẩy thêm lên. Ông ta trở nên do dự, bất định. Vào cuối tháng ba chẳng hạn, cần phải gởi gấp 20 thiết giáp đến tiếp cứu cho các đơn vị đang chiến đấu trong vùng Rhénanie. Địch quân làm chủ tuyệt đối không phận, và hệ thống thiết lộ thì bị tàn phá nặng nề, một hoạt động như thế không thể là vấn đề hàng giờ nữa mà là hàng ngày. Trước hết Hitler ra lệnh đưa các chiến xa đến vùng Pirmasens thế rồi khi tình hình trên sông Moselle bị nguy ngập, ông ta ra lệnh đưa đến "vùng Trèves". Vì chiến xa không đến đó kịp, chúng lại được đưa đến Coblentz. Hitler còn đưa ra nhiều phản lịnh đến nối cuối cùng không ai biết là các chiến xa ấy ở đâu nữa. Kết quả là chẳng bao giờ các chiến xa ấy đến được tiền tuyến, và mới vừa ra khỏi xưởng, chúng bị rơi vào tay địch quân ngay.

Khi quân Nga tiến đến sông Oder, đến gần Bá-linh một cách nguy hiểm, Hitler ra lệnh chuẩn bị dời Tổng Hành Dinh về vùng miền Trung nước Đức. Một phần chính phủ và Bộ Tư lệnh quân sự phải được đặt tại Thuringe, gần trung tâm huấn luyện Ohrdruf. Nhưng các đội quân tiền phương cơ giới của các Binh đoàn Mỹ đã vượt qua sông Rhin và đến phía Tây Darmstadt, tiến đến địa điểm được mệnh danh là "Tổng Hành Dinh Olga" trước cả các nhà chức trách Đức. Các toán tiền phong và các cơ sở tình báo phải chuyến hướng về vùng "Sérail" tên gọi của Tổng Hành Dinh mà Hitler vừa quyết định đặt trong vùng Berchtesgaden. Tất cả vật liệu không cần thiết, các hồ sơ và nhân viên xét thấy có thể thông qua đều được đưa đến địa điểm ấy trong hy vọng sẽ có thể thu hồi lại được sau nầy. Thế nhưng Hitler lại cũng bỏ "Sérail" khi quân Nga tiến vào Áo quốc và vùng Bohême, và quyết định đặt Tổng Hành Dinh tương lai tại vùng Schleswig-Holstein. Cuối cùng chủng tôi vẫn còn ở lại Bá-linh, hoàn toàn bị cắt đứt với mọi liên lạc tình báo.

Khi các mũi dùi thiết giáp của Mỹ tiến đến phía tây Magdebourg và vùng Dessau Aken vấn đề đặt ra là có cần phải giựt sập các cây cầu trên sông Elbe không, đặc biệt là các cầu trên xa lộ. Hitler ngần ngại. Trong ba lần tôi phải ra lịnh phá hủy cho bộ phận phụ trách việc phá hoại của O.K.H. thì đã lại phải hủy bỏ lịnh đến hai lần. Mỗi lần như vậy là phải điều động cả một hệ thống nhân sự chuyên môn đến tận cây cầu. Khi vừa đến nơi thì lịnh đã bị hủy bỏ và như thế rất nhiều lần đến nỗi không ai còn biết lịnh ra để làm cái gì cũng như không còn biết phải làm gì nữa.

Công việc phá hoại được tiếp tục, cầu cống bị phá sập, hết cây nầy đến cây khác, thành phố và làng mạc cũng bị biến thành tro tàn hay các đống đổ nát. Tất cả những gì mà bom còn chừa lại, nay hoàn toàn bị sụp đổ dưới đạn trọng pháo của địch. Di sản vô giá của cả một nền văn minh như vậy là bị hủy diệt. Thế nhưng ý tưởng từ bỏ một cuộc chiến đấu từ nay trở nên vô ích vẫn không có vẻ gì là có xuất hiện trong đầu óc của Hitler. Hai ví dụ chứng tỏ tình trạng tinh thần của ông ta.

Khi quân đội Mỹ tiến gần đến Munster, trong vùng Westphalie. Bá tước Giám mục Galen gởi các mật sứ đến xin cho thành phố được đầu hàng. Ông muốn cứu dân chúng và ngăn chặn sự tàn phá một vài đền đài quí báu. Tin tức nầy đến tai Hitler do đại diện báo chí, Lorenz, thông báo, nhưng dưới một hình thức không có gì trùng hợp với những gì đã xảy ra sau đó. Đức Giám mục là một đối thủ bất cộng đái thiên của Đảng Quốc Xã, ông không ngừng tấn công vào những tiến triển của chế độ bằng những lời chỉ trích chua chát và công khai và không bao giờ chịu ngừng tiếng vì các đe dọa, trong cuộc chiến đấu cho Công lý và Sự thật. Vả chăng, sau đó, ông cũng không quên chỉ trích cả nhà chức trách chiếm đóng khi xét thấy cần. Hitler, đang tiếp các người đến tham dự hội nghị tại phòng đợi dưới hầm trú ẩn, thì tờ giấy báo tin Munster đầu hàng được đưa trình ông. Tôi chỉ đứng cách đó vài bước. Nét mặt ông co rút lại lập tức trong một vẻ cuồng nộ và vừa cử động nắm tay, ông hét lớn bằng một giọng thù hận vô tả: "Nếu một ngày nào đó tên nầy rơi vào tay tôi, tôi sẽ cho treo cổ nó".

Fegelein, Tướng lãnh Waffen SS là đại biểu thường trực của Himmler cạnh Fuhrer. Ông ta đã có một thái độ tự phụ hết sức xấc xược đối với các sĩ quan và công chức cao cấp bậc nhứt. Ông ta lấy một bà em của Eva Braun và nghĩ rằng vì lý do đó ông ta có thể tự cho phép mình làm mọi chuyện. Mặc dầu mới 37 tuổi, ông ta tấn công và chỉ trích tất cả mọi người bất kể tuổi tác, cấp bực, ngay cả khi các lời tấn công, chỉ trích ấy hoàn toàn phi lý. Trong giới sĩ quan trẻ chúng tôi chỉ gọi ông ta là "Flegelein" (quân xấc xược). Chỉ cần kể lại một trường hợp thôi, vào tháng ba khi Guderian báo cáo tình hình tại Poméranie, Fegelein ngắt lời ông một cách thô lỗ và tuyên bố rằng ông tuôn ra các con số láo khoét, vừa nói vừa vung vẩy một tờ giấy có nhiều con số được đánh máy. Ông ta chứng minh sau đó rằng các con số ấy là hoàn toàn giả tạo. Fegelein có một vẻ gì tự mãn và kiêu căng đến mức lố bịch. Ông ta khoác lên thân thể béo phì một bộ quân phục bay bướm đến kỳ cục. Ngày 27 tháng 4 khi trận đánh Bá-linh sắp kết thúc và số phận của những người thân cận Hitler có thể coi như bị an bài rồi, ông ta tự ý bỏ trốn khỏi hầm trú ẩn. Quân SS bắt ông tại một vùng ngoại ô của thủ đô trong lúc ăn mặc thường phục để trốn. Ngày 28 tháng 4 ông ta bị tước đoạt binh quyền vì tội đào ngũ, bị tước hết mọi danh hiệu và huy chương. Bình minh ngày 29, Hitler ra lệnh bắn bỏ trong sân sau của Dinh Tể Tướng, con người đã từng là thuộc hạ tin cẩn và là người anh em bạn rể của mình.

Chú thích

[1] Đọc: "Hitler, người đã phát động thế chiến thứ hai". Sông-Kiên xuất bản — sách đã phát hành.