← Quay lại trang sách

Chương 4 CUỘC

Ngày 16 tháng tư, trận đánh sông Oder mở màn, đây là trận cuối cùng trong số các trận đánh lớn đã diễn ra tại Đức. Ngay từ hửng đông, một đợt pháo kích liên tục dữ dội không thể tưởng tượng đã được bắt đầu. Nó báo hiệu rằng màn sắp kéo lên để diễn lớp cuối cùng của vở bi kịch vĩ đại. Pháo binh Nga đã được tập trung trong một khu vực nhiều cây số vuông, các khẩu súng được đặt sát nhau. Cuộc pháo kích kéo dài một tiếng rưỡi đồng hồ và rồi thì binh sĩ Đức nhào ra khỏi hầm ấn trú một lần chót trong cuộc chiến để chận đứng đợt xung phong của Hồng quân.

Đường phố tại thủ đô hoàn toàn bị ngự trị bởi một vẻ náo động trong cơn sốt. Tiếng động điếc tai và đều đặn của cuộc pháo kích đã làm cho dân chúng từ trong nhà hoặc dưới hầm túa ra đường ngay lúc tờ mờ sáng. Các binh sĩ thuộc các đợt trưng binh cuối cùng của đội Wolkssturm vội vàng tiến đến các địa điểm tập họp. Ngay từ giữa trưa, các phân đội đầu tiên lên đường đến các vị trí báo động đằng sau phòng tuyến. Các rào chặn chống chiến xa tại Bá-linh và các khu vực phụ cận được đóng chặt. Người ta chỉ thấy ngoài đường phố toàn đàn bà và các bé gái, họ lo lắng nghe ngóng tiếng động đe dọa vẳng từ mặt trận vọng về. Liệu ngọn triều đó có sẽ tràn vào thành phố của họ hay là nó sẽ còn bị chặn đứng cho đến khi quân Mỹ đến Bá-linh? Đấy là vấn đề dằn vặt xâu xé tâm can hiện trên nét mặt mệt mỏi của những người đứng sắp thành hàng dài trước các cửa tiệm nơi người ta phân phát thực phẩm. Chỉ có một niềm hy vọng duy nhứt còn giữ họ khỏi lâm vào tình trạng khiếp đảm... quân Mỹ. Quân Mỹ phải đến, phải đến!

Tôi ngồi nơi bàn giấy trong phòng đợi kế văn phòng tướng Krebs, trong Tổng Hành Dinh tại Zossen. Chuông điện thoại liên tục reo vang. Thường thường có ba máy cùng reo một lúc. Vị Tư lịnh gọi tôi. Tôi mở cánh cửa hai lớp có nhồi bông đưa vào phòng làm việc của ông và hỏi xem ông cần điều chi. Ông ta đứng ở bên trái chiếc bàn lớn, nghiêng người trên những tấm bản đồ được kẻ nhiều đường xanh đó tượng trưng cho mặt trận Oder. Tôi phải bảo cho ông biết là đã vào phòng. Ông ta đứng thẳng dậy. Ông Tướng nhỏ bé mập mạp thường ngày vui vẻ nay trông có vẻ mệt mỏi và ưu tư quá. "Tôi muốn anh liên lạc với Tướng Burgdorf. Tôi muốn biết rốt cuộc chúng ta và Tổng Hành Dinh sẽ phải dời đến đâu. Cố gắng tiếp tục để liên lạc với Berchtesgađen. Bảo Freytag đến đây... và luôn tiện anh cho tôi một ly Vermouth". ông đặc biệt ưa thích loại rượu ngọt nầy và chính tôi giữ chai rượu ấy dưới đáy tủ sắt, gần hộp thuốc xì gà để mời khách. Tôi trở ra văn phòng và xin liên lạc, rồi tôi đi kiếm Thiếu tá Freytag Von Loringhoven. Chính ông nầy sáng nay đã báo cho tôi biết rằng quân Nga đã pháo kích dữ dội vào vùng Kustrin và chúng đã chuyển qua giai đoạn xung phong một giờ rưỡi đồng hồ sau đó, lúc nầy là 10 giờ sáng. Từ lúc đó tin tức từ mặt trận được đưa về cho chúng tôi rất ít. Hệ thống truyền tin chắc là đã bị tan tành rồi.

Bây giờ trận chiến chắc đang ở hồi sôi động cực điểm. Tôi không thể không nghĩ đến các bạn bè tôi đang chiến đấu ở đó. Đã bao nhiêu lần trong các năm qua tôi đã cùng chiến đấu với họ, đã bao nhiêu lần, giống như những người hiện đang ở trong địa ngục ấy tôi đã bấu chặt bàn tay xuống lòng đất chở che?

Nhưng bây giờ đâu có phải là lòng đất mẹ thiêng liêng mà là một mảnh đất nào đó trong vùng mênh mông của Nga Sô. Đối với những người trai trẻ như chúng tôi, tốt hơn là nên cùng chiến đấu với đồng đội ở tuyến đầu. Thật là trầm uất khi phải chờ đợi như thế nầy trong trạng thái bất lực, trong khi biết rằng các hy sinh của họ sẽ vô ích. Những người không ngừng run sợ cho số phận riêng của mình không thể nào biết được những cảm nghĩ như thế. Họ đâu biết được thế nào là bị thương nặng giữa một trận chiến ác liệt như vậy, họ làm sao biết được những cảm nghĩ của người bị thương khi được đồng bạn tiến đến và cuối cùng mang mình về hậu tuyến ngang qua các hố bom đạn. Những kinh nghiệm ấy tạo ra một dây liên lạc không bao giờ đổ vỡ được nữa và chính vì thế tôi cảm giác thấy bực dọc vô cùng về tình trạng xa cách của tôi với phòng tuyến.

Freytag và tôi im lặng ngồi đối diện nhau một lúc, chìm đắm trong tư tưởng riêng tư của mỗi người, Freytag cao lớn, lịch sự luôn luôn dửng dưng, nhưng lộ vẻ mệt mỏi. Chúng tôi đã cùng nhau làm việc ngày đêm. Sau cùng ông ta đứng dậy và đi vào phòng vị Tư lịnh. Tôi lôi chai rượu Vermoutb từ trong tủ ra và uống một ly. Một lát sau, năm phi cơ săn giặc Nga bay ầm ĩ ngang qua trên đầu chúng tôi. Đấy là một sự kiện hiếm có, vì cho đến lúc đó, không quân Nga không dám mạo hiểm bay sâu quả hai mươi cây số phía bên trong phòng tuyến của chúng tôi, ngoại trừ họ tin chắc là sẽ không gặp phi cơ săn giặc Đức. Tiếng điện thoại reo không ngừng, vẫn cùng câu hỏi: "Có tin gì về mặt trận không?" Trước 11 giờ ít phút, bàn giấy tôi tràn ngập Tướng lãnh và các vi Đại tá đến dự buổi họp tại văn phòng vị Tư lịnh. Hôm nay, giọng điệu trong các cuộc mạn đàm có vẻ cao hơn thường lệ. "Chúng ta sẽ di chuyển đi đảu? Phải chuẩn bị gì? Vẫn còn có thể đi đến Berchtesgaden ngang qua Bohême. Nhưng khả năng này còn kéo dài được bao lâu nữa?" Cuộc điện đàm giữa Krebs và Burgdorf không cho biết gì thêm. Hitler chưa quyết định. Trong buổi họp tôi được chỉ thị liên lạc vói Berchtesgađen. Ở đấy có một feldwebel của phân đội tiền phương của chúng tôi đến từ vài ngày trước. Phu nhân và ái nữ của vị Tư lịnh đến với ông. Tôi thu thập tất cả các tin tức mà ông Tướng thường đề tâm đến. Bên kia đầu dây có tiếng hỏi: "Chúng tôi sẽ ra sao?" Làm thế nào tôi biết được! Hiện tại, tại Đức ai có thể trả lời được câu hỏi ấy?

Quá 12 giờ trưa, chúng tôi nhận được báo cáo chi tiết đầu tiên về mặt trận. "Đợt tấn công đã bị đẩy lui. Hiện vẫn còn đang đánh nhau tại một vài điểm xâm nhập. Tổn thất rất cao". Phải, luôn luôn cùng một công thức. Nó đã được dùng trong trận Wolkhov, trong trận chung quanh hồ Ilmen, ven sông Pripet, trước Yarsovie... Vào lúc đúng 4 giờ chiều, cuộc pháo kích lại tái diễn với tất cả cường độ của nó, và lại kéo dài một giờ rưỡi, rồi quân Nga lại tấn công, hết đợt nầy đến đợt khác. Báo cáo được gởi về chập tối. "Toàn bộ mặt trận còn vững. Vài sự xâm nhập sẽ có thể được khóa chặt. Tăng viện cho chúng tôi binh sĩ và đạn dược!".

Đến 22 giờ, Krebs và ông Nam tước hôm nay đi theo, từ buổi họp hàng ngày tại Dinh Tể Tướng trở về. Tôi đã chuẩn bị cho họ hai phần ăn để sẵn trên bàn của mỗi người, bởi vì công việc bây giờ mới thực sự bắt đầu và sẽ không chấm dứt trườc ba hay bốn giờ sáng, nếu không phải là sẽ kéo dài suốt đêm. Vừa uống cà-phê, ông Nam tước nói với tôi: "Đêm nay ta sẽ di tản phòng tuyến về phía Tây Kustrin. Kháng tuyến chánh sẽ được dời về các vi trí ở Hardenberg. Tại mặt trận hiện quân ta đã kiệt sức. Có lẽ ta sẽ còn có thể cầm cự được 24 giờ nữa tại Hardenberg. Phía Tây tình hình cũng không sáng sủa gì hơn. Quân Anh tiến lên phía Bắc về Luneburg. Quân Mỹ đã vượt qua sông Elbe giữa Magdebourg và Dessau và hiện đến gần Bá-linh hơn cả quân Nga. Tại Saxe, họ đã tiến sâu vào Halle và Leipzig. Phía Nam, họ đã đến Bavière. Quân Nga đang ở trước Brunn và phía Tây kinh thành Vienne".

Ông ngưng nói, mắt nhìn đăm đăm vào khoảng không. Có lẽ ông đang nghĩ đến vợ và con ông đang ở Leipzig? "À còn chuyện nầy nữa, ông ta nói tiếp, khi đi ngang Tempelhof, một nhóm người hét vào chúng tôi: "Các ông chỉ là loài cọp khát máu!". Rồi ông quay trở lại bàn giấy và bắt đầu đọc các công văn vừa đến.

Ngày hôm sau, 17 tháng tư, các trận đánh tiếp diễn tại Bá-linh với một cường độ càng lúc càng tăng. Các Sư đoàn Đức phải nhường từng bước dưới các đợt xung phong dữ dội của quân Nga. Ngày 18 là một ngày mùa xuân trong sáng nhưng mang lại nhiều trận đánh mới. Cuộc tấn công của Nga Sô lan tràn về phía Nam. Đụng độ khốc liệt xảy ra tại Silésie và trong vùng rừng núi Lausitz, nơi mà ưu thế quân số của địch quá to lớn. Vào 9 giờ sáng một binh sĩ truyền tin còn thành công trong việc giúp cho tôi liên lạc được với vợ tôi lúc đó đang ở Lubeck. Mặc dầu khỏng biết tình hình đã tuyệt vọng đến mức nào, nàng tỏ ra lo sợ: "Quân Nga chắc đã đến trước Bá-linh được rồi. Em sợ cho anh quá. Anh còn nghe em đó không? Anh không đến kiếm em được sao? Chúng ta sẽ ra sao anh? Ở đây người ta nói rằng quân Anh đã đến Luneburg rồi, đúng không anh?".

Tôi không thể trả lời tất cả các câu hỏi dồn dập đó, điện đàm đã bị cắt. Bốn tuần lễ sau người ta đã báo tin cho nàng rằng tôi đã bị giết tại Bá-linh.

Ngày 19 thảng tư, cơn tuyết băng lại gia tăng thêm nữa. Mặt trận còn đứng vững trên sông Oder, ở hai bên Francfort, nhưng về phía Oranienburg và phía Đông thủ đô, quân Nga đã đến một cách nguy hiềm gần vùng ngoại ô. Phía Nam, họ đã tiến thật sâu với lực lượng thiết kỵ quan trọng vào vùng Lausitz. Các trận đánh ở đó đặc biệt ác liệt, tất cả các lực lượng cơ hữu đều được tung vào trận đánh. Cùng ngàv hôm đó Goebbels đã lên đài phát thanh đọc một bài hiệu triệu dân tộc Đức, bài nầy, hôm sau được tất cả báo chí còn phát hành đăng lại. Trong đó ông ta nói"... Bá- linh vẫn còn của Đức quốc, Vienne sẽ lại trở về với Đức quốc...". Và hàng triệu người Đức được thở một cách thong thả hơn khi nghĩ: "Fuhrer đã tuyên bố điều đó, ông ta chắc phải biết rõ điều mình nói".

Làm sao mà họ có thế nghi ngờ được, người ta đã nói láo với họ từ nhiều năm qua, dân chúng đã được huấn luyện để tin tưởng mù quáng vào sự tuyên truyền cùa Goebbels. Chắc chắn là các vũ khí bí mật (1) nổi tiếng sẽ được đem xử dụng ngay, và... Mặt khác, chẳng bao lâu nữa Nga và Mỹ sẽ lại đánh nhau. Goebbels đã đạt đưọc kết quả mỹ mãn đến nỗi phần đông binh sĩ chiến đấu trước Bá-linh đều tuyệt đối tin tưởng rằng không mấy chốc nữa quân Mỹ sẽ đến Bá-linh để giúp họ đẩy lui quân Nga! Đôi khi người ta dùng các phương tiện thô bỉ hơn. Có tin đồn đại rằng một đạo quân tiếp viện sẽ đến ngay. Truyền đơn được rải đầy trên thủ đô: "Binh đoàn Wenck đang tiến đến đế giải thoát các anh và mang lại chiến thắng cho các anh". Và dân chúng Bá-linh cũng như binh sĩ lại hy vọng. Nhưng Binh đoàn thứ XII ấy, mang tên tướng thiết giáp Wenck không hề có trong thực tế. Nó gồm có chín sư đoàn trên giấy tờ nhưng chỉ có ba sư đoàn nghĩa là một quân đoàn, đã có thể tập họp được. Quân đoàn được chỉ huy bởi tướng kỵ binh Kohler. Ông nầy, 15 ngày trước đây, khi từ Thụy Điển về và đến trình diện Tướng Krebs, đã nói cho tôi biết rằng người con trai độc nhất của ông vừa tử trận. Ba sư đoàn này ở trong một tình trạng tệ hại về vũ khí và trang bị. Chúng gồm 90% khóa sinh trẻ trong các trung tâm huấn luyện từ 17 đến 18 tuổi. Trong một vài đơn vị, binh sĩ không có vũ khí. Những cậu bé con đáng thương đó lại cũng sẽ bị đưa vào chỗ chết. Đó "Đạo quân giải phóng" như vậy đó. Khi Hitler trao quyền chỉ huy Binh đoàn cho Wenck ngày 5 hav 6 tháng tư, ông ta nói với viên Tư lịnh bằng một g:ọng trang trọng: "Wenck tôi trao số phận của Đức quốc vào tay ông!"( 2)...

Ngày 20 tháng tư, sinh nhật thứ 56 của Hitler, quân Nga chọc thủng phòng tuyến hướng tây Bắc, giữa Guben và Powrst và tiến đến sông Spreewald ngay đêm đó. O.K.H tung lực lượng trừ bị cuối cùng gồm một thiết đoàn chiến xa tăng cường và võ trang đầy đủ khoảng 250 người, chặn địch quân tại Luckau, cách Zossen 40 cây số về phía Nam. Hai trăm năm mươi người có thể làm được gì đối lại với hàng trăm thiết giáp và phi cơ Nga? Vào 6 giờ sáng ngày hôm sau tôi bị đánh thức bởi một cú điện thoại của Trung úy Krankel, chỉ huy chiến đoàn gọi về. Chính anh ta nói: "Khoảng 10 chiến xa Nga đi ngang trước mặt chúng tôi. Tôi sẽ cho tấn công lúc 7 giờ". Mối đe dọa đã cực kỳ nguy hiếm đối với Tổng Hành Dinh của chúng tôi và đối với Bá-linh.

Không còn một lực lượng trừ bị nào khác nữa. Wenck đánh nhau với quân Mỹ trên sông Elbe. Krankel gọi tôi lúc 9 giờ: "Cuộc tấn công của chúng tôi thất bại, và chúng tôi bị tổn thất nặng. Tiền sát của chúng tôi cho biết chiến xa địch tiến rất sâu về phía Bắc". Vậy là chúng tràn về phía Bá-linh và cũng về phía Zossen. Tướng Krebs chuyển lập tức tin trên về Dinh Tể Tướng. Tuyệt đối cần phải có một quyết định, về vấn đề di tản Tổng Hành Dinh. Nhưng Hitler vẫn còn do dự. Một lúc sau chúng tôi được tin quân Nga đã đẩy mạnh mũi dùi về phía Bắc Bá-linh và đã tràn ngập Oranienburg.

Tin tức lan tràn như lửa được quăng vào thùng thuốc súng. Tôi gần như không còn có thể đặt ống điện thoại xuống được nữa. Người ta không ngừng đặt cùng một câu hỏi: "Liệu buổi họp có vẫn còn được triệu tập hôm nay không?", câu trả lời của tôi vẫn là: "Họp như thường lệ lúc 11 giờ". Bất kể lệnh của thượng cấp, tôi đã ra lệnh chuẩn bị cho một cuộc ra đi cấp lốc. Sắp sửa tới giờ họp, phòng việc của tôi bị tràn ngập, nào là tùy phái, thư ký, sĩ quan cận vệ đi đi lại lại với sự náo nhiệt. Các tướng tá thì nói chuyện ồn ào đến nỗi tôi phải nhiều lần xin im lặng để nghe người ta nói gì trong điện thoại. Nhưng lúc còn vài phủt nữa là đến 11 giờ, mọi người lặng thinh, sự yên tĩnh đột ngột đến nỗi có thể nghe cả tiếng ruồi bay. Bên ngoài vẳng đến tiếng động rầm rầm không còn lầm lẫn gì được nữa và rất quen thuộc đối với ai đã từng ở ngoài tiền tuyến. Chúng tôi người nầy nhìn người kia và một người nào đó đã phá vỡ sự im lặng: "Đó là các chiến xa Nga, chúng đã đến Baruth. Theo tôi thì chúng còn cách chúng ta 10 có lẽ 12 cây số nữa". Một người khác tuyên bố: "Chúng có thể đến đây trong nửa giờ nữa". Tướng Krebs mở cửa: "Xin mời các ông vào". Buổi họp hàng ngày cuối cùng, bắt đầu tại Tổng Hành Dinh quân lực Đức. Bên ngoài có người gọi tôi. Tôi thấy Krankel, hốc hác, kiệt sực. Một nhúm chiến xa và 20 người, đó là những gì còn lại của thiết đoàn do anh chỉ huy! Baruth đã lọt vào tay quân Nga, họ chỉ tạm thời dừng lại đấy. Tại đấy chúng tôi còn có hai giàn cao xạ, 20 binh sĩ và một nhóm người của đội Wolkssturm. Để chấm dứt, anh hỏi tôi có mệnh lệnh gì cho anh không. "Có chứ, tôi nói, anh phải sẵn sàng chiến xa và binh sĩ để tham chiến trở lại". Đoạn tôi bước vào báo cáo tự sự cho Tướng Krebs. Ông ta lập tức gọi điện thoại với giọng khẩn khoản, xin Hitler cho phép di tản Tổng Hành Dinh. Hitler từ chối.

Trên nét mặt của các sĩ quan từ trong phòng họp bước ra, ta cỏ thể đọc thấy ý nghĩ: Như vậy là chúng ta sẽ lọt vào tay quân Nga.

Một lát sau, Burgdorf gọi điện thoại. Hitler ra lịnh đưa về Bá-linh bằng cách lợi dụng bóng tối, tất cả những toán quân hãy còn cầm cự ở hai bên sông Elbe, giữa Dresden và Dessau. Cuộc điều quân này sẽ giúp cho quân Nga và Mỹ gặp được nhau. Vài giờ sau, những quân xa sau cùng của Đức chạy ngang qua một hành lang rộng 15 cây số hãy còn nối liền miền Nam nước Đức với phần còn lại của lãnh thổ thuộc chế độ. Sáng mai, sự phân cách sẽ thành vĩnh viễn. Tuy nhiên như nhiều lần đã xảy ra trong cuộc chiến, quân Nga dừng lại vào lúc mà chúng tôi ít mong đợi nhứt. Chúng tôi may mắn. Chiến xa Nga đã ở tại Baruth, cách Tổng Hành Dinh của chúng tôi 10 cây số nơi chúng có thể chiếm luôn mà không gặp một sự kháng cự quan trọng nào, nhưng chúng lại án binh bất động! Sau cùng, đến 13 giờ, Hitler mới ra lệnh di tản Bộ Tổng Tư Lịnh đến doanh trại của không quân tại Potsdam-Eiche. Đồng thời chủng tôi cũng được báo cho biết là buổi họp thường nhựt hôm nay sẽ bắt đầu lúc 14 giờ 30 tại Dinh Tể Tướng. Tại Tổng Hành Dinh, ai nấy hối hả chuẩn bị ra đi. Tất cả các phương tiện truyền tin được tháo gỡ. Đến 14 giờ tôi cùng đoàn xe ra khỏi cổng doanh trại tiến về phía Bá-linh. Ông Tướng đã ra đi cách 15 phút với viên sĩ quan phụ tá....

Đường xá tràn ngập người chạy loạn. Nhiều người ngồi xe do ngựa kéo, có người đi xe đạp, có người đẩy xe cây nhỏ, xe bò ệt, xe trẻ con, đa số đi bộ, tiến thẳng về phía trước, không chủ định, chỉ lo chạy trốn quân Nga. Các rào chặn chống chiến xa ven các thị trấn chỉ để cho họ đi qua từng hàng mỏng. Trên các rào chặn vĩ đại bằng cây và đá, trẻ con trèo lên đùa giỡn. Đội nón bằng giấy và võ trang bằng gươm cây, hoàn toàn vô tư lự, chúng làm điệu bộ quan trọng chào chúng tôi. Chúng tôi vạch một đường trong biển người hỗn loạn tiến về phía Potsdam. Tài xế một chiếc xe chạy ngược lại cho chúng tôi biết là trung tâm thủ đô đã lọt vào tầm tác xạ của quân Nga, có nhiều người đã bị chết trên con đường Dorotheenstrasse.....

Trong lúc ấy tại Dinh Tể Tướng, buổi đại hội nghị cuối cùng diễn ra với sự chủ tọa của Fuhrer. Rủi thay tôi lại không được tham dự, nhưng về sau Nam tước Von Loringhoven đã kể lại tôi nghe quang cảnh ấy: Hitler đã tập họp xung quanh ông một lần chót các đại diện Đảng, Chánh phủ và Quân đội. Trong ngày đáng ghi nhớ ấy, ngày 22 tháng tư năm 1945, trong khi các quả đạn đại bác của Nga Sô nổ vang trên đường phố Bá-linh, lần đầu tiên ông ta công nhận thua trận. Đến trước các cộng sự viên, ông ta tuyên bố: "... Chiến tranh đã thất bại... Tôi sẽ tự sát...". Ông ta cũng tuyên bố là vẫn ở lại Bá-linh, rằng ông không đi về phía Tây cùng với Tổng Hành Dinh. Thống chế Kesselring nhận tất cả các quyền hành quân sự và dân sự "để liệu lý công việc Quốc Gia" trong phần phía Nam của lãnh thổ thuộc chế độ. Thủy sư Đô đốc Doenitz đưọc giao cho các quyền hành tương tự ở phía Bắc. Goebbels, Bormann và Krebs phải ở lại hầm ẩn trú dưới Dinh Tể Tướng với Fuhrer.

Trước khi đến Potsdam, tôi phải dừng lại để tái lập trật tự trong đoàn xe cứ mỗi lúc một kéo dài. Hai phi cơ săn giặc Đức bay trên đầu chúng tôi hướng về phía Đông, Chúng tôi chỉ còn nghe tiếng pháo kích như là một tiếng sấm động ầm ầm của một cơn giông bão từ xa. Gần nhà ga, chúng tôi đi ngang qua chừng 30 trái bom không nổ vẫn nằm ở đấy từ cuộc dội bom mới đây xuống Potsdam. Khi đến các chiếc cầu trước lâu đài cổ, chúng tôi lại phải bắt buộc dừng lại. Hàng trăm xe dồn cục trước rào chặn chống chiến xa được dựng lên giữa hai cây cầu. Tôi bước xuông và cố gắng vạch một lối đi trong đám hỗn loạn. Tại đây có những người quá bị khích động đứng trên xe la hét, những tài xế xe vận tải chửi thề ỏm tỏi, những phụ nữ khóc ròng ẵm trên tay các con dại được bọc trong mền. Cả thế giới ấy gây ra một sự huyên náo ghê rợn. Trong khi ấy, các đội công binh chiến đấu làm việc không ngừng, chung quanh hai cây cầu, để đặt các khối chất nổ và để phá hủy các trái bom không nổ. Sau cùng chúng tôi cũng tiến lên được. Ngôi lâu đài cổ của các vị vua Phổ xưa cũ đã bị phá hủy hoàn toàn. Chúng tôi lại phải đi theo các đường phụ. Đường phố luôn luôn bị chặn lại bởi các ngôi nhà sụp đổ hoặc các hố bom. Gác chuông nhà thờ cổ kính ở Potsdam, nơi Hitler khai sáng nền Đệ Tam Cộng Hòa Quốc Xã của ông ta và tuyên đọc một lời thề long trọng trước lăng của Đại đế Frédéric le Grand, đã sụp đổ và nằm sóng sượt giữa những đống gạch ngói đỗ nát và tro tàn. Ven thành phố, những biệt thự và công viên vẫn còn tồn tại trong một vẻ thanh bình yên tĩnh, biệt thư "Sans Souci" cũng được bom đạn chừa lại. Bây giờ chúng tôi đến trước trại Eiche rồi. Phân đội được gởi đến trước ra đón chúng tôi. Các bộ chỉ huy gặp nhau. Khi Freytag từ buổi hội nghị tại Dinh Tể Tướng trở về lúc 20 giờ, công việc khẩn cấp đã được làm xong. Tất cả đều tạm bợ bởi vì, có lẽ chúng tôi cũng chỉ ở đây không lâu. Vị chỉ huy trưởng của chúng đã được chỉ định ở lại trong hầm trú ẩn của Fuhrer tại thủ đô. Tôi không rõ chuyện gì sẽ xảy ra cho hai chúng tôi.

Sáng ngày hôm sau, người ta bắt đầu nghe nói rằng Tổng Hành Dinh lại phải di chuyển đến Rheinzberg, nơi đấy cơ sở có lẽ lại sẽ được đưa đến vùng Lubeck. Tôi không dám hy vọng điều đó. Liệu có thể nào trong vài ngày nữa tôi lại được gặp mặt vợ con chăng? Ngay hôm đó, Tướng Detlevsen ra lịnh cho tôi tổ chức phòng thủ O.K.H. Tôi cố sức tập họp một toán chiến đấu, đưa một vài chiến xa đi thám sát, và chặn tất cả lối đi qua giữa các hồ ở Geltow, Werder và Marquard, phía Bắc và Tây Potsdam. Làn sóng người trốn chạy không ngừng đông thêm. Khắp nơi bày ra cảnh tượng đau lòng. Sáng ngày 23, Nam tước được lịnh đến Dinh Tể Tướng ngay với những gì cần thiết để sống ở đó vài ngày, ông ta biết điều ấy có nghĩa là gì rồi. Tất cả chúng tôi đều buồn rầu trước sự ra đi của ông.

Tôi lại chúi đầu vào công việc. Quang cảnh ngoài đường càng lúc càng trở nên thảm thương. Hôm nay người ta bắt đầu thấy nhiều binh sĩ trà trộn vào đám người chạy trốn. Lúc đầu chỉ lẻ tẻ vài người, rồi đến từng toán nhỏ và sau cùng rất đông. Một vài người còn mang vũ khí và nhắm đến một đích nhứt định, nhưng phần đông đều mất tinh thằn và chạy trốn trong hỗn loạn. Tất cả bọn họ đều trở nên vô cảm xúc. Người ta nhận ra điều đó qua dáng điệu, qua cái đầu và vẻ nhìn của họ. Dòng thương binh cũng tiếp nối không dứt.

Vào 17 giờ, tôi được gọi và đến trình diện Tướng Detlevsen. Đó là một người cao lớn, nóng nảy khi tôi đi vào, ông đứng dậy và đưa tay bắt tay tôi. Đoạn vắn tắt và rõ ràng, ông ta đọc bản án tử hình của tôi: "Đại tướng Krebs có gọi điện thoại cách đây nửa giờ. Anh phải đến ngay Dinh Tể Tướng để tiếp Freytag. Đem theo tất cả đồ đạc. Tôi nghĩ là anh biết điều đó có ý nghĩa gì rồi".

Ổng nhìn tôi rất lâu, đặt tay lên vai tôi và ôn tồn nói thêm:

"Khi quân Nga đến, khi giây phút phải mang mặt nạ hơi ngạt đến, bấy giờ hãy cố thoát ra khỏi hầm ẩn trú kịp thời và đi tìm cái chết như một chiến sĩ ở công trường Wilhelmpatz". Ông ta nói câu sau cùng này chầm chậm, gần như với giọng thì thầm.

Rồi ông nói tiếp:

"Anh có ước vọng gì mà tôi có thể thỏa mãn cho anh không?"

Một sự im lặng thâm thúy bao trùm. Tôi đưa cho ông địa chỉ của vợ tôi, chào kính rồi lui ra. Trong bóng tối lờ mờ nơi hành lang của doanh trại, tôi ý thức được tính cách trầm trọng của những lời nói cuối cùng của ông Tướng. Trong những ngày, những tuần lễ trước đây, tôi hoàn toàn bị thu hút vào một trách vụ quá nặng nề, và tôi đã sống giống như tất cả chủng tôi đã sống ngoài mặt trận trong những năm chiến tranh mà không bao giờ hỏi lý do của các sự việc, không tự hỏi gì về tương lai, không có cả thì giờ đề đắm mình vào những luyến tiếc hay mơ mộng. Chúng tôi biết rằng kẻ thù đang ở trước mặt, bạn bè ở bên cạnh, và một cách rất ư là giản dị, chúng tôi chu toàn nhiệm vụ. Nhưng trong chúng tôi có mấy người biết được tình trạng thực sự hiện tại của tổ quốc? Từ khi tôi phục vụ tại O.K.H., tôi đã biết rằng thất trận là chuyện không thể tránh được. Nhưng từ nay cái chết đang chờ đợi tôi. Sự sực tỉnh lại khủng khiếp làm sao ấy.

Tôi thu thập chầm chậm tất cả những gì cần thiết. Tôi từ biệt mọi người và lên đường. Tôi phải đi qua Potsdam, Neđlitz, Krampnitz và Kladow mới tới được đường Heerstrasse. Con đường đi thẳng qua Wannsee và Dahlem không còn dùng được nữa vì quân Nga đã cắt ngang. Bây giờ đường phố vắng ngắt, tiếng động điếc tai của các trận đánh chung quanh Bá-linh vẳng lại rất rõ. Trên trục giao thông mênh mông Đông - Tày, tôi chẳng gặp một ai. Đây đó có bóng người lướt từ một hầm nhà nầy qua hầm nhà khác. Càng đến gần trung tâm quang cảnh càng có vẻ là một thành phố chết. Chúng tôi đến Potsdamer Platz gần như không gặp trở ngại nào và chúng tôi tiến vào đường Wossstrasse. Mặt tiền đài của Dinh Tể Tướng mới và các đống đổ nát của những ngôi nhà kế cận sừng sững trong bầu trời đêm một cách ghê rợn.....

Chú thích:

1 Đọc "Hitler và vũ khí bí mật". Sông Kiên xuất bản. Sách đang in.

2 Đọc: "Những trận đánh lịch sử của Hitler" sách tái bản lần thứ hai