Hồi Thứ Nhất Kim Tinh Bắc Đẩu ở nơi phong cảnh kì tú
Giữ chợ bắt gái, Huyện Quan bị mổ bụng cắt đầu
Lúc ấy là vào thời Ngô. Thiên hạ đại loạn, triều chính nát bét không có minh quân trị vì, ngoài dân gian nhan nhản hạng quan lại tham nhũng thi nhau đục khoét, hành hạ trăm dân, nhà nhà sống trong tình cảnh khổ cực chưa từng thấy, giặc cướp không đâu là không có.
Cuối năm Mậu Thân (948), trời bỗng đổi thời tiết, khác hẳn với mọi năm, năm ấy rét mướt lại nhiều mưa to, gió lớn vật ngã cả cây đại thụ ở bến đò Bồ Điền, ai cũng cho là điềm xấu, dân tình chắc còn khổ nhiều. Cuối năm tuy đói khổ giặc cướp, dân gian cũng cố chạy tiền lo gạo, những tưởng được yên ổn đón Xuân sang, hy vọng ở ngày mai thanh bình. Nào ngờ, huyện quan Bồ Điền vốn là đứa vô hạnh bất tài, nhưng đem bạc vàng ra mua quan tìm chức, nay được trấn nhậm tại nơi đất lành, dân tuy không giàu nhưng cũng dư ăn, thừa mặc. Liền thả cửa đục khoét, dân tình oán thán đã nhiều.
Có lần huyện quan đi tuần thị giữa ban ngày qua chợ, gặp nàng con gái nhà họ Phạm có sắc đẹp, huyện quan nổi lòng tà dâm truyền lính bắt thiếu nữ về, ngày đêm giở trò loạn dâm, khiến cho ai nghe biết chuyện cũng không khỏi căm lòng uất hận. Huyện quan có lệ: bất luận dân gian chẳng kể sang hèn, hễ có việc đến cửa quan đều lấy bạc vàng làm phép phân xử, bạc vàng càng lớn thì phép nước càng nhẹ về phía kẻ bỏ ra nhiều bạc, không bạc vàng thì trăm tội đều phải giưo đầu chịu cả.
Kể từ khi các vua Ngô tranh giành ngai vàng với nhau, làm mất kỉ cương, loạn nhaan luân, cường hào nổi lên như nấm gặp mưa, mỗi người xưng hùng một phương, đánh giết lẫn nhau khiến bá tính đã khốn khổ càng lầm than thêm, thì huyện quan Bồ Điền tên gọi Phạm Đình Ngọc càng được thể, thôi thì trên chẳng cần phải sợ đến vua, dưới chẳng còn ai hơn được mình, liền tự do vơ vét, thỏa tình hút máu của dân, khiến cho một vùng Bồ Điền dọc sông Lớn trước kia sầm uất như thế, nay ngày đêm vắng hoe như đang giữa lúc có tin giặc về. Bá tính ngửa cổ chỉ thấy trời cao lặng lẽ, nhìn lại chung quanh toàn thấy người đồng cảnh khốn cùng, biết kêu vào đâu cho được. Nhà nào còn có tí máu mặt, chẳng khác nào tự chuốc lấy tội vào thân. Ở đâu có con gái đẹp, chẳng khác nào tìm khổ vào mình, huyện quan Đình Ngọc trước sau cũng đến viếng mà thôi!
Ở phía Bắc huyện, có một vùng phong cảnh kì tú: phía Tây là sông Lớn, Bắc có gò cao, Nam có núi che chở, Đông là cả một giải ruộng đồng màu mỡ, nơi đây từng sinh ra lắm bậc hiền tài thủa trước. Vùng này thường được các thầy địa lý gọi là “chốn phục long, tàng hổ”, lúc loạn thì xuất hiện danh tướng, lúc nước trị văn quan ra đời, chưa đời nào lại thiếu hiền tài ở đất lạ này. Hồi ấy, trong vùng có gia đình họ Lê, cha mẹ mất sớm, nay chỉ còn hai anh em sống bằng nghề cày ruộng, vào rừng săn thú bắt về đổi lấy vật dụng, xuống sông bắt cá quẫy lộn sóng nước cho thỏa chí. Cuộc sống của anh em họ Lê như chẳng vướng vào hệ lụy xã hội, như dứng riêng hẳn một góc trời. Dân trong vùng thường thấy hai anh em cặm cụi đọc sách trong những buổi chiều tà, múa gươm dưới ánh trăng, đêm đem nhìn trời quan sát thiên văn có khi suốt cả đêm không biết mệt. Cả vùng ai cũng kính nể anh em họ Lê là người hiền hậu, hiểu biết quán cổ đạt kim, nhưng thật ra chưa ai biết tài học của anh em họ Lê như thế nào, chỉ biết rằng dân trong vùng ai có việc gì nhờ vả thì anh em họ Lê bao giờ cũng mau mắn giúp đỡ, việc khó cũng thành dễ như trở bàn tay, việc bí cũng khai thông trong chớp mắt, dân trong vùng gọi anh em họ Lê là Kim Tinh Bắc Đẩu.
Người anh tên gọi Lê Hiền, mặt chữ Điền, đôi mắt long lanh, tóc cứng, môi dày, minh cao sáu thước, tướng đi như hổ vờn trăng, tiếng nói như sấm vang đầu ghềnh, rõ ràng là dũng tướng mưu trí. Người em, tên gọi Lê Thảo vóc dáng mảnh mai, mặt trắng đẹp như con gái, cặp mắt với hàng mi dài mà cong êm như nước hồ thu, Thảo có cặp môi đỏ như môi con gái ăn trầu, hai má trắng hồng đẹp khôn tả, nên người đời thườn gọi đùa là Mỹ - quân tử, Lê Thảo có tài sử dụng cây đàn ba dây kết bằng tơ dứa dại. Mỗi khi Thảo đánh đàn, bao giờ cũng chọn những đêm trăng tròn, trời không gợn mây, gió không thổi mạnh, lúc ấy mới tấu lên những khúc đàn kì lạ có mãnh lực huyền diệu sai khiến con người ta theo ý muốn. Ai cũng bảo là Lê Thảo hạnh ngộ thần tiên trong chốn rừng sâu và học được những khúc đàn huyền diệu, Lê Thảo nghe nói chỉ mỉm cười. Thảo ưa đọc sách hơn múa gươm, ngẫm nghĩ việc thiên hạ như nghĩ đến việc riêng tư hàng ngày.
Một hôm, hai anh em vừa cuốc xong mảnh ruộng hoa màu, xuống sông rửa tay chân, sực thấy một đoàn sáu chiếc thuyền tuần la hét om sòm, phía sau có chiếc thuyền con lẽo đẽo đuổi theo, từ trong thuyền con có tiếng khóc lóc kêu van. Đoàn thuyền đến đúng chỗ hai anh em họ Lê đang rửa tay chân, thì trên thuyền tuần có người bị quăng xuống sông, nháy mắt mặt nước khép lại như cũ. Đoàn thuyền tuần giương hết buồm bọc gió Bắc vùn vụt đổ xuống phía Nam, thoáng lát đã mất dạng. Dân chúng đổ ra xem, thì chiếc thuyền con cũng vừa ghé lại bờ.
Trên thuyền hai vợ chồng ngư phủ khóc lóc thảm thiết, kể rằng: xế trưa, đang bỏ lưới ở mạn trên, chẳng may gặp phải thuyền tuần của huyện quan Bồ Điền Phạm Đình Ngọc. Huyện quan thấy con gái vợ chồng ngư phủ có chút nhan sắc, động lòng tà dâm, truyền bắt đưa sang thuyền quan hầu hạ. Vợ chồng ngư phủ khóc than van nài, suốt từ xế trưa đến bây giờ sắp về chiều, thuyền quan vẫn thong thả trẩy trên mặt nước, đến khúc này thì vợ chồng ngư phủ bàn nhau đánh liều gắng đẩy mái chèo, cố bắt kịp thuyền quan để xin tha cho con gái. Thuyền quan liền mở rèm ném nàng con gái xuống sông, rồi bỏ đi mất. Kể xong, vợ chồng ngư phủ càng khóc lóc thảm thiết, vạch đất kêu trời hỏi có thấu cho nỗi uất hận này không.
Trên trời, chỉ có mây bạc cuối năm, dưới đất chỉ có dòng sông lặng lờ chảy. Hai hôm sau, xác người con gái bất hạnh nổi lên, tấp vào mạn Lục Tảo, dân bên sông vớt thi thể cô gái lên, mới biết cô bị lột trần, chắc là bị huyện quan hãm hiếp chán chê rồi ném xuống sông cho mất tích. Ai nghe chuyện cũng không khỏi xót xa cảm khái.
Chiều hôm nay, hai anh em họ Lê không đi thăm ruộng nữa, tiết Đại Hàn đưa những đợt gió Bắc thổi về từng cơn lạnh cắt da, lại thêm mưa phùn như rây bột đổ xuống, làm cho cái lạnh càng thêm thấm thía. Anh em họ Lê nhóm lửa giữa nhà, đem vò rượu cuối cùng ra uống với kẹo mạch nha. Vừa uống, hai anh em vừa bàn bạc. Lê Hiền nói:
- Này chú Thảo, cuộc đời hai anh em mình không có gì ràng buộc, đất ruộng là nhà ta, trăm họ là anh em. Bây giờ trăm họ lầm than, nước ta tan nát, anh em ta sống mãi thế này được sao?
Lê Thảo sụp mi mắt èm buồn xuống, hớp nốt hớp rượu, chậm rãi nói:
- Em không nghĩ như thế, việc gì em cũng tin là sẽ đến thời của nó. Nay, em thấy thời đã đến rồi, chỉ còn đợi anh em ta ra tay nữa mà thôi.
- Chú định ra tay như thế nào?
- Ý anh như thế nào đã?
- Anh nghĩ: tài sức anh em ta, trong thiên hạ này tuy chưa phải là chót đỉnh, nhưng chắc chắn phải hơn vạn kẻ. Nay, thiên hạ đại loạn, các thổ hảo không phục triều đình, mỗi người nổi lên hùng cứ một nơi, tại sao anh em ta không cùng đứng lên, trước giết huyện quan, sau giành lấy quyền chăm sóc trăm dân, lần lần mở rộng bờ cõi, dựng lên nghiệp lớn, như thế lại chẳng hợp lòng người, thuận lẽ trời sao?
- Giết huyện quan, đấy là việc trước sau anh em ta cũng phải làm, là để rửa hận cho trăm họ, bớt đi một đứa hại dân hại nước. Còn cướp đất, mưu đồ dựng vương nghiệp, em xét thấy khó lòng thành tựu được.
- Tại sao lại khó lòng? Chú sợ ta không đủ tài đủ sức ư?
- Tài sức thì không sợ, nhưng không phải tài sức của riêng anh em ta đã là đủ, làm sao để phục được lòng người tránh được tiếng phản loạn, em sợ rằng lại bị thiên hạ chê cười xếp mình vào hạng các Sứ quân mà thôi...
- Vậy là khoanh tay...
- Cũng không phải thế. Em nghĩ rằng: chúng ta không cầu danh lợi, nhưng cần được thỏa sức bình sinh, tìm được nơi để dụng võ, thấy được minh chúa để mà thờ. Lúc nào công thành, ta lui về rừng xanh cho tên tuổi nhạt dần trong trí nhớ thế gian, có phải là hơn không, lận đận trong vòng danh lợi vương gia mà làm gì.
- Em nói phải, mới đầu anh muốn dựng nghiệp cũng chỉ vì nóng lòng nhìn thiên hạ. Trời đất rộng, người đông như thế, vậy mà xem ra được mấy người tài, chẳng lẽ ta khuất thân đi nhờ kẻ bất tài thiếu đức!
- Chúng ta không khuất thân thờ ai cả, nhưng góp thân này để cứu nước cứu dân mà thôi.
- Hay! Quả là tinh thần của bực thần tiên. Anh xin bái phục!
Hai anh em họ Lê lại nghiêng vò nát rượu. Đêm càng về khuya bên ngoài càng lạnh, nhưng hào khí trong phòng lại càng ngất cao. Lê Hiền dần mạnh chén rượu xuống mặt bàn gỗ mộc, giọng trầm hẳn xuống.
- Bây giờ chú nghĩ anh em mình nên phải làm gì?
Cặp mắt Lê Thảo nhìn thật xa xôi, hun hút như cả chiều dài của ngày mai trên đất nước. Giây lâu, chàng đáp:
- Chúng ta không nên ở lại đất này. Đất này chỉ có tham quan lại nhũng, chứ không có lực để quật cường, vả lại minh chúa không hiện ra ở đây...
- Vậy anh em ta sẽ ra đi. Nhưng trước khi đi, anh em ta cũng nên để lại cho dân ở đây một kỉ niệm nào chứ.
- Đã hẳn là thế. Kỉ niệm thì cuộc sống của anh em ta với người trong vùng, ai không cảm mếm. Nay trước lúc lên đường, em nghĩ: anh em ta gắng giết tên huyện quan tham tàn, bêu đầu nó trước chợ, như thế bá tánh mới hởi lòng hởi dạ được.
- Phải, ta sẽ ra tay. Nhưng ta ra tay vào lúc nào?
- Nếu ta hành thích nó về đêm, tất việc dễ như trở bàn tay, có khó khăn gì. Nhưng làm như vậy, cũng không hơn gì hành vi của kẻ đạo tặc. Tội của huyện quan nặng như núi Thái Sơn, xả thây nó ra trăm mảnh cũng chưa nguôi được. Vậy, em nghĩ...
- Em nghĩ sao?
- Huyện quan Phạm Đình Ngọc có thói quen: cứ vào giờ Mùi mỗi ngày lại lên kiệu ra xem kẻ chợ, nhất là vào lúc cuối năm Tết sắp đến nơi. Huyện quan ngày nào cũng du hành có ý tìm cách đục khoét dân gian, hẳn cũng có ý rình xem có gái đẹp thì bắt về chứ chẳng đi không. Vậy, anh em ta đón đường nó giữa nơi kẻ chợ ra tay chém đầu mổ bụng nó bêu tại chợ, như thế là rửa được hận cho mọi người.
- Chú nói thì dễ, thế bộ bọn lính tiền vệ của nó đứng im cho ta ra tay chắc?
- Anh đừng lo. Em... Em...
Lê Thảo bỗng bẽn lẽn, men rượu ngà ngà, hai má chàng hồng như hai quả đào chín còn ở trên cành. Chàng tiếp giọng thật êm...
- Em sẽ giả gái, để cho tên tham dâm nó chú ý. Thế nào nó cũng sẽ bắt em về huyện đường. Anh đi theo, đợi đến khi nào nó lôi em lên kiệu, em sẽ ra tay. Tới lúc ấy, em hô lên thì anh phải mau tay áp đảo bọn lính. Em sẽ giúp anh đánh lui bọn lính ấy.
- Chú ngồi trên kiệu với tên tham quan êm ái như vậy, thì làm sao giúp anh được. Không phải là anh sợ địch không nổi mấy tên lính, vạn tên cũng chẳng coi ra gì, nhưng anh không muốn giết hại chúng làm gì...
- Em sẽ giúp anh, anh cứ thế mà hành động, thế nào cũng thành công.
Vào ngày rằm tháng chạp năm ấy, gió lạnh bớt thổi về từng loạt, nắng ấm vào xuân đẹp vô ngần. Trăm họ như tạm quên nỗi khổ cực, tấp nập sắm sửa để mừng ngày trọng đại.
Vào khoảng cuối giờ Mùi, huyện quan Phạm Đình Ngọc đi kiệu tiến ra phía kẻ chợ. Huyện quan truyền vén rèm để ngài được thấy rõ dân tình. Đám lính ra sức hò hét, nạt nộ, đẩy gạt người qua kẻ lại để lấy lối cho kiệu quan đi. Kiệu quan đến bên cầu Lục Tảo thoàng thấy ả con gái mặt đẹp như hoa, da mịn như phấn, gánh gánh rượu bước vào bên lộ. Từ trên kiệu, huyện quan Phạm Đình Ngọc giật mình ngơ ngẩn, tại sao ở chốn này lại có người đẹp đến như vậy mà mãi đến bây giờ quan mới thấy được thấy! Lập tức, quan truyền lệnh dừng kiệu sai lính gọi gấp ả bán rượu lại.
Lính hùng hổ nạt nộ người đẹp, thẳng tay lôi cô bán rượu lại bên kiệu quan. Huyện quan Phạm Đình Ngọc như tỉnh như mê, lập bập:
- Ơ... nàng... ơ... Quan muốn mua rượu...
Cô bán rượu run sợ, khẽ đưa tay khép vạt áo nâu gụ giơ bàn tay nhỏ nhắn kéo thấp vành nón xuống thêm chút nữa. Huyện quan vừa tỉnh cơn mê, lòng dạ tên quan tham tàn xảo quyệt chợt tỉnh lại, y quyết ra tay bắt cho được con mồi trăm năm dễ gặp được mấy lần như thế này! Huyện quan không muốn để cho người kẻ chợ tò mò nhìn ngó, vì kiệu quan dừng lại quá lâu. Quan truyền bảo cô bán rượu lại sát bên kiệu cho quan hỏi. Gã lính tiền vệ chắn hẳn đã quá thạo nghề, liền mau tay đẩy cô hàng lại sát kiệu. Quan vừa nháy mắt ra hiệu, ả bán rượu đã bị những bàn tay của đám lính hổ bôn nhấc bổng lên kiệu chẳng kịp la một tiếng.
Rèm buông xuống, kiệu chạy nhanh như gió rẽ cỏ hướng về phía huyện đường. Người kẻ chợ còn ngơ ngẩn chưa hết bàng hoàng, nhưng nếu ai để ý thấy phía sau kiệu còn có một gã tiều phu vai vác cái rìu xăm xăm rảo bước theo thật sát.
Kiệu chạy chưa xa, vừa qua khỏi cầu Lục Tảo, trên kiệu tiếng quan run rẩy truyền lính dừng bước, hạ kiệu. Gã tiều phu lướt đến như bão táp, cán rìu đưa ngang đánh bắn một tên lính hổ bôn còn đang ngơ ngác. Rèm kiệu vén lên huyện quan mặt tái nhợt, đám lính chưa hiểu ra sao thì gã tiều phu đã hoa lưỡi rìu lên quát:
- Lui cả lại, chậm ta chém chết hết! Đứa nào nhúc nhích là chết ngay!
Bây giờ, mọi người mới nhận rõ gã tiều phu là hiền sĩ ở Bắc Bồ Điền.
Cũng vừa lúc ấy, huyện quan từ trong kiệu bước ra, hai đầu gối như muốn khụy xuống, ả bán rượu mặt vẫn đẹp như hoa khoác chặt tay hiện quan. Chiếc áo bào của quan rộng thùng thình, vải phủ lên tay cô bán rượu, người ngoài không thấy có ngọn chủy thủ đang ấn chặt vào sườn quan. Cô gái cất tiếng lạnh như dao, âm thanh rắn rỏi tràn đầy uy dũng chẳng giống như tiếng con gái chút nào:
- Hỡi anh em trong huyện, tên quan tham tàn hung ác này từng hại dân biết bao nhiêu, kể không hết được. Hôm nay trời cao nhưng có mắt, đất rộng nhưng không phải chẳng có rào cản, anh em tôi quyết vì dân trả hận, rửa thù, trừ tên tham tàn hại nước hại dân này. Vậy đám lính kia hãy mau mau về đi thì anh em ta tha chết cho, trái lời ta thì quan của bay chết trước đấy...
Dân chúng hởi lòng nức dạ, tụ lại thật đông, bỏ cả việc bán buôn để cùng nhau la hét rủa xả tên quan tham tàn. Đám lính kinh hoàng bỏ chủ chạy về. Huyện quan run lật bật. Gã năn nỉ:
- Trăm lạy hảo hán, xin tha mạng cho tôi, từ nay tôi xin tu tỉnh.
Lê Hiền múa cây rìu loang loáng trước mặt quan huyện, gã tưởng đã rụng đầu rồi tự nhiên hai đầu gối khụy xuống. Lê Hiền quát lớn:
- Bớ huyện quan, mi tham tàn hại dân hại nước, tội chất cao bằng núi, hờn của dân phải đến trăm năm mới nhạt được. Đầu mi chứa toàn mưu mô độc ác, tim ruột mi chất chứa toàn điều ác hại dân. Còn có ai ở đất này chưa phải là người bị mi làm cho khốn đốn. Còn gia đình nào ở đất này mi chưa có nợ máu xương? Hôm nay, đến lượt anh em ta phải bỏ nơi thôn dã, về kẻ chợ để vì trăm dân trừ mối họa. Đầu mi phải bị treo ở thành cầu Lục Tảo, xác mi phải bị mổ ruột moi gan bêu dưới dạ cầu cho chim muôn rỉa rói!
Người kẻ chợ la hét tưng bừng, trong lúc anh em Lê Hiền, Lê Thảo xuống tay chặt đầu, mổ bụng huyện quan Phạm Đình Ngọc. Xong việc, Lê Hiền ném rìu xuống sông cười ngất khoác tay cô bán rượu, tức chàng Lê Thảo, vượt qua cầu tiến về phía Bắc mất dạng.
Đầu lâu huyện quan treo ở đầu cầu, ai đi qua cũng phỉ nhổ, xác huyện quan vứt ở dạ cầu, được mấy hôm thì phát mùi hôi thối chịu không nổi, dân đem hất xuống sông cho khuất mắt.
Ngay trong chiều hôm ấy, giữa vùng phong cảnh kì tú, anh em Lê Thảo – Lê Hiền đóng chặt cửa bàn chuyện bỏ quê hương, lên đường tìm minh chúa.
—ooOoo—