← Quay lại trang sách

Hồi Thứ Chín Mươi Bảy Định kế thu phục Tế Giang
Ra tay diệt trừ hoa lạ

Lê Thảo đón tin của Đinh Liễn ở Tây Phù Liệt trình rõ mọi việc, liền nói với Động chúa Đinh Bộ Lĩnh:

- Thưa Động chúa, Linh Diên phu nhân đã vào Tam Đảo ẩn cư. Có gửi lời chào đến ngài, lại nói là ngày nào cũng sẽ cầu khấn Trời đất Tổ tiên phù trì cho ngài chóng thành đại nghiệp! Quả thật đây là người đàn bà hiếm có! Phu nhân cầu cho ta, còn ta sẽ làm cho lời cầu khẩn ấy thành toàn như thế nào?

Động chúa không được thấy Linh Diên phu nhân nhưng được nghe nói nhiều về bà. Bây giờ thì mọi sự đã an bài, ngài thở dài rồi nói:

- Thế mới biết việc đời không thể nào lường hết trước được, sao thuật sĩ ngày xưa lại có thể nhìn thấy được mai sau như vậy? Việc ấy ta không biết, nhưng việc ta ngày nay thì Quân sư đã nhìn thấy như thế nào, để ta phải gấp có mặt ở đây thế này?

Quân sư đáp:

- Thưa Động chúa, lúc Hoa Lư ta còn đang dàn xếp để vào thiên hạ thì cầu được thêm một vài năm nữa cho kịp thời gian. Nay thì Hoa Lư ta lại cầu làm sao việc đại định thiên hạ chỉ trong vòng vài tháng. Cùng lắm là một năm thì phải Xong! Lúc nào cái họa Bắc phương cũng vẫn là nguồn gốc của mọi suy tính của ta để sao cho kịp đối phó. Nay cái họa ấy đã trở thành nguy hiểm lắm rồi! Bắc phương đã xuống Giao Châu ta!

Động chúa, các tướng theo Lê Hoàn lên đánh Tế Giang sửng sốt. Động chúa hỏi:

- Nhà Tống đã vào nước ta?

- Thưa, đúng thế! Trước đây, tôi có nói là có những tin cho hay Bắc phương chưa thể công khai xuống nước ta được, nhưng đã cho tế tác tiến phương vào giang sơn ta. Vì thế tôi mới quyết định phá Tế Giang này trước. Mới đây, tướng Mạc Sa Cảnh lại bắt được một phong thư mật. Trong đó Triệu Khuông Dẫn cho người đi lại với người nước ta, chọn Tế Giang này để làm nơi ẩn náu sai bảo. Bởi vậy mới có việc làm phiền đến Động chúa phải bí mật lên Tế Giang này là thế!

- Thư mật ấy gửi cho ai? Trong đó nói gì?

- Thưa, thư của triều Tống gửi cho một người nào đó ở Tế Giang với cái tên là A Khả Li, không nói rõ là y ở nơi nào. Trong thư dặn dò về những mưu kế đi lại với Sứ quân Lữ Đường, mượn tay Lữ Đường với đám thuộc hạ. Nhất là tay phù thủy An Dương Thanh Sứ, để thu thập các báu vật, quấy rối nước ta. Mở đường cho quân Tống vào đất ta. Như thế, lo lắng của ta là đúng, ta lên lấy Tế Giang để có đường vừa nhìn lên Cổ Loa, vừa bảo vệ Cổ Loa là rất phải!

Lê Thảo lại nói:

- Nếu ta biết đích xác những người của Bắc phương là ai, ta cũng không nên ra tay bắt giết họ vội, mà việc trước tiên của ta là phải gấp rút giải quyết cho xong Sứ quân Lữ Đường. Thu phục Tế Giang cho thật nhanh. Cuối cùng xem bọn người ấy mất Tế Giang thì toan tính tiếp theo như thế nào? Vì việc hệ trọng ấy, Động chúa có mặt ở đây trước là để thu phục Lữ Đường. Sau là bảo cho cả thiên hạ biết rằng nay Hoa Lư ra khỏi cứ địa. Ấy là lúc để giang sơn nước Nam thu về một mối. Mưu định của Bắc phương đã bị ta phá nát. Tống triều đừng mơ màng với việc biến Giao Châu ta thành quận huyện của Tống triều!

Những lời Quân sư nói ra, làm cho mọi người thấy việc Động chúa phải tới Tế Giang là nghiêm trọng thật. Tướng quân Lê Hoàn hỏi:

- Thưa Quân sư. Nếu thế, sao ta lại không báo cho cả thiên hạ biết việc này. Sao không cho cả thiên hạ hay Động chúa của ta lên Tế Giang?

Thắc mắc của Lê Hoàn thật là phải, chẳng ai lại không thắc mắc như thế. Quân sư đáp:

- Phải, tướng quân nói phải lắm, lẽ ra ta nên báo cho cả thiên hạ biết việc Bắc phương xuống nước ta, nhưng nếu làm như thế là ta đã hủy mất hẳn cái thế tạm thời yên lặng an bình của nước ta. Làm cho cả thiên hạ biết việc của triều đình, làm cho việc lúc trước tiêu địch hòa tấu ở Siêu Loại chẳng còn hiệu lực giữ yên thiên hạ nữa. Mà nguy hiểm nữa là làm cho Tống triều dễ nổi giận có thể cãi là ta vu cáo cho họ. Cũng là cái cớ để cho nước lớn ăn hiếp nước nhỏ. Vả chăng, Hoa Lư ta đi thu phục thiên hạ, chẳng phải chỉ có riêng một nơi nào. Ngoài Tế Giang còn nhiều nơi khác. Thế thì việc Động chúa có mặt ở Tế Giang, rồi sẽ lại có mặt ở khắp các nơi. Lúc ấy mới thật là “mặt trời soi khắp mọi nơi, nắng ở đâu cũng có”. Hư thực thực hư, chính là điều giúp cho các tướng vào trận thêm dễ dàng đấy!

Động chúa hỏi:

- Như thế, ta phải làm gì ở Tế Giang? Còn Siêu Loại?

Quân sư đáp:

- Thưa Động chúa, tôi xin nói vắn tắt: trước tiên ta tiến đánh Tế Giang thật bất ngờ, dù rằng ta vừa dứt xong Tây Phù Liệt, nhưng hoàn toàn chẳng có dấu hiệu gì để Tế Giang nghi ngờ là ta hành động ở Tế Giang. Cho đến lúc này thì Tế Giang vẫn hoàn toàn được yên lặng. Tôi xin Động chúa lên Tế Giang là để ngay sau khi binh ta mở trận. Động chúa sẽ xuất hiện để Sứ quân Lữ Đường thấy rõ, sau thì Động chúa trở lại Siêu Loại ngay. Như vậy, Hoa Lư ta đã giành lấy thế chủ động không cho Tế Giang được đòi hỏi gì nữa, khi ta vẫn im lặng không để Tế Giang biết: Ta đã đọc được mật thư của Tống triều gửi cho Lữ Đường. Tế Giang cũng như người bí mật của Bắc phương yên lòng vẫn tưởng là ta không biết gì về mưu định của họ. Mặt khác, cũng vì có việc Động chúa rõ ràng là đang cầm quân ở Tế Giang. Thành ra Siêu Loại vững tin ở thế trận của họ. Cho đến khi Động chúa xuất hiện thì lúc ấy thế trận của Siêu Loại đã tan nát! Bên kia Xích Đằng, Sứ quân Cảnh Thạc khi được tin Động chúa ở Tế Giang, sẽ không dám động đậy. Nguyễn Thủ Tiệp ở Tiên Du hoang mang không hiểu Động chúa ở nơi nào cho nên cũng không dám hành động. Cho đến khi binh ta từ Tế Giang tiến lấy Lạn Kha, từ Siêu Loại tiến lấy Bát Vạn, từ Cổ Loa kéo ra chặn phía trên Lục Đầu. Lúc ấy ta dứt xong nạn Nguyễn Thủ Tiệp ở Tiên Du…

Lời giảng của Lê Thảo thật vắn tắt, khó có thể nhất thời hiểu được những liên quan của mỗi sự việc. Động chúa hỏi:

- Như vậy, tôi ở lại Tế Giang này bao nhiêu lâu? Phía Siêu Loại thì thế nào?

- Bẩm, hôm nay là ngày Đinh Dậu 18, tháng Giêng, năm Đinh Mão (967). Binh ta có mặt ở Tế Giang, việc bây giờ khẩn cấp không thể từ tốn từng bước một, mà phải ào ạt như cuồng phong làm sao càng sớm dứt cho xong được tất cả các Sứ quân càng tốt! Vừa rồi, ta đã xong Tây Phù Liệt mau chóng, rõ ràng là Hoa Lư ta có thể dứt được các nơi cũng mau như vậy. Phía Đông Bắc, các Sứ quân ở xa nhau, ta không thể gom họ lại để mở một trận chiến được. Cho nên binh tướng của ta mới phải vất vả đi xa các nẻo. Như vậy, tôi tính, ta phải làm sao xong được việc Tế Giang vào ngày Canh Tí tháng này. Tức là chỉ trong khoảng ba ngày là hoàn tất các việc. Riêng Động chúa, khoảng chiều ngày hai mươi mốt tức ngày Canh Tí của tháng Nhâm Dần này có thể ngài trở lại Siêu Loại được rồi!

Thời gian thật ngắn ngủi. Chính như tướng Lê Hoàn nhận lệnh cầm quân đánh Tế Giang, còn chưa rõ phải mở trận như thế nào. Thế mà Quân sư lại bảo là chỉ trong vòng vài ba ngày là xong việc Tế Giang, thật là khó tin được! Chẳng riêng gì một mình Lê Hoàn thắc mắc, tất cả mọi người đều thắc mắc. Lê Hoàn hỏi:

- Thưa Quân sư, tôi nhận lệnh cầm quân ở mặt này. Thật ra cũng chưa được thật hiểu rõ về Tế Giang. Ngay lúc này, cũng chưa quyết hẳn là nên mở trận ở nơi nào. Như thế thì, nếu một mình tôi mở trận chắc không thể nào chỉ trong vòng vài ba ngày là xong trọn vẹn được! Quân sư dạy như thế, tất Quân sư đã có thần mưu để chỉ rõ cho tôi!

Quân sư gật đầu, đáp:

- Phải, tướng quân nói rất thẳng thắn, rất đúng! Ta cần phải biết rõ Tế Giang không chỉ về một mặt nào, mà cần phải hiểu hết mọi vấn đề. Lúc này, ta cũng còn thì giờ, vậy tôi kể để tướng quân rõ...

Tế Giang thật ra đất không rộng lắm. Từ Đông đến Tây ngựa chạy chỉ khoảng một ngày là hết, từ Nam đến Bắc chỉ hơn nửa Đông Tây, nằm giữa Đường Hào, Thanh Trì, Đông An và Gia Lâm. Sứ quân Lữ Đường vốn là tay giang hồ sông nước. Quy tụ được nhiều thuộc hạ giỏi, lại thêm tay pháp sư hết sức dâm dục xưng là An Dương Thanh Sứ Đại Pháp sư. Nhân buổi loạn li cưỡng mệnh triều đình, xưng hùng cát cứ một phương, tự cho là đáng mặt vương giả. Cũng phong tướng cho thuộc hạ, đặt ra những chức cai trị thay triều đình cai quản chúng dân. Lữ Đường sợ các sứ ở chung quanh nhòm ngó đến giang sơn của mình. Cho nên mới sai tướng lập doanh trấn giữ ở núi Phục Tượng, sông Bồ Đề, đầm Cự Linh, và Hỏa Châu Bát Trường. Tức là từ ngã ba Xích Đằng lần lượt vào Lê Xá, rồi Phú Thị, theo dòng Nghĩa Tru, xuống Xuân Lâm, qua khỏi Xuân Lâm là vào mặt Bắc phủ đường Tế Giang. Lữ Đường cũng còn e ngại triều đình ở Cổ Loa cho nên mở doanh Chương Mĩ ở phía Bắc. Đắp thành ở chân núi Lạn Kha để phòng phía Đông, làm đầu mối nghe ngóng dòm chừng Thủ Tiệp với Lý Khuê. Lữ Đường ngày trước trúng kế Hoa Lư đem binh đi đánh Tây Phù Liệt bị thiệt mất đại tướng Trình Kế Ngọc và hổ tướng Dương Lệ Thống. Tuy thế, lúc này Lữ Đường cũng còn được gần hai chục tướng. Trong đó có tướng xử cây A Hồ Lục Cương kiếm tên gọi là Lương Tích Lịch vốn danh rất lớn. Giang sơn của Lữ Đường phía Tây dựa sông Xích Đằng. Vì thế Lữ Đường cho lập thủy trại đề phòng Đỗ Cảnh Thạc ở Đỗ Động.

Lữ Đường là tay giang hồ nhưng lại rất mê tín, tôn thờ thần thánh ma quỷ. Cho nên đặt An Dương Thanh Sứ pháp sư vào ghế Quân sư, lại cho tay thương lái Hồ Minh Duy là em vợ Sứ quân giữ chức Quân lương tướng. Duy có vợ hết sức tham lam xúi giục chồng ra sức tham nhũng vơ vét của cải chẳng kể là của Sứ quân hay bá tánh. Vì thế người đời bảo là gia sản của họ Hồ còn nhiều hơn cả của Sứ quân. Hồ Minh Duy nhờ thế chị, ỷ là thuộc hạ được Sứ quân tin dùng, giàu có vạn ức thì sinh tật lén lút nuôi người tình là một sương phụ tên gọi là Hài Xảo Thông người châu Diên gốc Mường. Người đời bảo rằng người đàn bà này cực dâm đãng, lại có ma thuật ở chốn phòng the. Có thể tự làm cho mình bao giờ cũng là trinh nữ được. Khiến Hồ Minh Duy mê man, chiều chuộng lắm. Hài xúi điều gì cũng nhắm mắt nghe ngay.

Sứ quân như thế, các thuộc hạ như thế. Cả bọn đua nhau làm cho trăm họ ở đất Tế Giang không làm sao sống yên ổn được, muốn bỏ trốn đi nơi khác cũng không xong. Đánh Tế Giang, giả sử có thì giờ lâu dài, chỉ cần chặn hết các đường thông thương không cho lương thực đi lại, thì chỉ một thời gian là Tế Giang lâm nạn đói phải đầu hàng. Nay ta phải gấp rút càng sớm càng tốt, trước hết chia quân hai đường cùng một lúc đánh núi Phục Tượng với sông Bồ Đề. Ở hai nơi này Lữ Đường trấn nhiều quân, cốt đề phòng hai mặt Tây và Bắc. Mặt Nam thì Phù Liệt ta đã lấy xong, mặt Tây thì nhất định Đỗ Cảnh Thạc sẽ ngồi im không dám động đậy. Cái kinh nghiệm hốt hoảng chém sứ của Phù Liệt rồi hấp tấp ra quân vu vơ, lần này Thạc không vấp phải nữa. Ta được yên để lập trận của ta.

Động chúa hỏi:

- Doanh trấn núi Phục Tượng với doanh Bồ Đề như thế nào?

- Thưa, doanh Bồ Đề là thủy doanh. Lữ Đường sai tướng Đỗ Hùng Liệt cai quản; doanh núi Phục Tượng sai tướng Hoàng Tích Lịch trông nom. Thủy doanh của Tế Giang lập ở bến Bồ Đề theo hình Bát quái, mở ra tám cửa. Dùng toàn thuyền nhẹ để dễ đi lại, mỗi cửa trấn ba trăm quân. Chủ yếu là quân xung sát dùng toàn gươm ngắn, như thế thủy binh của Tế Giang đông hai nghìn bốn trăm người. Lữ Đường đã hay mê tín học đòi những pháp thuật mơ hồ, đến thuộc hạ lại càng mê tín mơ hồ hơn nữa. Cho nên tướng coi thủy trại mới lập doanh theo hình Bát quái. Bảo là như thế thu được cả trời đất vạn vật vào trong trận. Trận có thể biến hóa không bao giờ hết!

Tướng Hồ Tường Thụy hỏi:

- Thưa Quân sư, có thật thủy trận Bát quái của Tế Giang lợi hại, thu được cả trời đất vạn vật vào trận không?

Quân sư cười mà rằng:

- Sông tuy có rộng, bến Bồ Đề thế nào cũng chỉ có một mặt nhìn ra sông rộng. Vậy doanh mở ra tám cửa rõ ràng là làm cho phí phạm cả sức quân. Không tiếp ứng được cho nhau khi chiến trận chỉ ở một phía. Phá thủy binh của Tế Giang, không cần phải đem thủy binh tới giáp chiến. Chỉ cần dùng quân bộ tận lực đánh từ trên bộ tràn xuống. Ngay từ đầu như thế là đã phá được hơn một nửa trận, tức là năm cửa. Trận còn lại, chỉ có ba cửa chính Bắc, Tây, Nam là trông ra ngoài sông. Quân thủy không thể đưa thuyền lên bộ được. Như vậy là ba cửa trận ấy chẳng cứu gì được cho năm cửa kia, chỉ một trận đánh là xong thủy trại. Bát quái thủy trận của Tế Giang chủ yếu là lấy các trại phía sau trợ chiến cho ba trại nhìn ra sông, phòng giữ mặt sông. Tế Giang không nghĩ đến việc ba trại ngoài trợ chiến cho năm trại trong. Tai hại của thủy trại Tế Giang là ở chỗ ấy?

Các tướng xuýt xoa, Động chúa nói:

- Tế Giang chú trọng đề phòng mặt sông từ bên ngoài đánh vào. Không phòng lúc bị đánh từ trong đánh ra. Nhưng nếu như trên bộ có biến mà Tế Giang biết chắc là mặt sông được yên ổn. Thì cũng có thể xuất quân ở thủy doanh lên bộ trợ chiến được, ta cần đề phòng việc ấy.

Quân sư đáp:

- Bẩm đúng thế! Vì vậy, ông Nghi Bá Tường sau khi trở lại Chu Diên tôi đã bảo ông ấy lại kéo quân ngược dòng đi lên. Lần này không phải lo sau lưng là Tây Phù Liệt nữa cho nên được lợi là tạt hẳn sang bờ bên kia. Thuyền chiến cũng như quân sĩ trên thuyền lần này giả dạng là thủy quân của Đỗ Động. Toan tính đánh úp thủy trại của Tế Giang, như thế thì làm cho Tế Giang chú vào mặt trước bỏ ngỏ mặt sau...

Động chúa ngắt lời:

- Tế Giang có dễ phát giác ra thuyền của ta kéo ngược lên không?

Quân sư vui vẻ:

- Thưa, rõ ràng là có trời đất phù trợ cho ta, hôm kia ta vào Tế Giang, âm thầm sửa soạn định là chiều ngày mai mười chín, tức ngày Mậu Tuất. Ta mở trận đánh thủy trại Tế Giang, chặn phía Bắc, rồi quay sang trợ chiến cho trận Phục Tượng. Cùng lúc ấy, binh ta phá doanh lớn nhất của Tế Giang là doanh Đầm Cự Linh. Trên đường trở lại Siêu Loại, Động chúa giám trận Hỏa Châu Bát Trường. Dứt trận này có thể xem như đã xong Tế Giang. Thời gian ta mở trận cho đến lúc khép trận tôi tính không quá ngày hai mươi mốt! Thủy quân của ông Tường phải kéo lên kìm giữ thủy doanh của Tế Giang. Đường đi không xa nhưng sông rộng dễ bị phát giác. Trời đất xui khiến đêm hôm kia vào khoảng cuối giờ Sửu. Không dưng một cành cây lớn ngay trên lều tôi nằm không gió mà gãy chút xíu thì trúng lều. Vì thế tỉnh giấc tôi ra ngoài nhìn trời. Trời vẫn trong ngăn ngắt, trăng lạnh, sao nhiều mà cao thật yên tĩnh. Trời ấy, chính là điềm báo trước có sương mù lớn ít ra cũng phải ba bốn ngày mới hết. Mỗi ngày cũng phải khoảng tàn Thìn nắng mới thật sáng, chiều tối nhọ mặt người là sương xuống. Thế là nhờ sương mù thuyền ta có thể kéo lên, rồi nương vào hai bên bờ sông lau sậy ẩn kín đợi chờ!

Động chúa mừng lắm, ngài hỏi:

- Thế thủy binh của ta đã sửa soạn xong chưa?

- Bẩm, ngay lúc được thấy thiên tượng ấy, tôi đã nhờ ông Cảnh lập tức cho tin lệnh đi rồi. Tế tác cho hay: Chỉ chiều tối hôm nay là thủy quân của ông Tường sẽ tới đúng nơi đã định!

Động chúa cùng các tướng thốt lên mừng rỡ. Tướng Lê Hoàn nói:

- Bao giờ cũng thế, khi trời đã tựa là không chỉ có người khắp nơi theo về phù trì, thế nào cũng có cả trời đất cùng theo đại nghĩa! Như thế, Quân sư định khoảng nào thì ta mở trận?

Lê Thảo nói ngay:

- Ta có bốn trận lớn ở mặt Nam để đả bại Tế Giang. Thủy trại Tế Giang do tướng Đỗ Hùng Liệt cai quản là nơi bị binh ta đánh trước tiên. Xong được thủy trại là ta bỏ được cánh tay trái của Lữ Đường. Khi thủy trại Bồ Đề bị đánh, gần như cùng một lúc doanh trại núi Phục Tượng cũng bị đánh, lúc ấy Tế Giang hai mặt Tây Nam bị đánh. Một là phải chống cự lại, hai là nếu thất bại Lữ Đường sẽ phải dồn sang phía Đông để có lối thoát. Nếu Lữ Đường ra phía Đông, là ta mở trận Đầm Cự Linh, xua Lữ Đường đến Hỏa Châu Bát Trường. Tới lúc này thì có thể xem như việc Tế Giang đã xong!

Chiến trận chưa xảy ra, binh chưa vào mặt trận, thế mà Lê Thảo đã nói quyết là xong việc Tế Giang. Khiến cho ai cũng băn khoăn. Động chúa hỏi:

- Như thế, ta xếp đặt mở trận ra sao?

- Tế Giang sai Đỗ Hùng Liệt giữ thủy binh. Liệt là tay khá, có thanh gươm bạc có chín lỗ thông vào sống thanh kiếm. Bảo là luyện ma thuật lúc múa lên gió lùa vào chín lỗ ấy, khiến gươm phát ra tiếng như ma kêu quỷ khóc. Làm cho tướng địch bị rối loạn tinh thần, ngơ ngẩn không định tỉnh, vì thế mà bị giết. Nhưng nếu gặp lúc trời mưa hay thật lặng không có gió, thì khó lòng múa gươm cho phát ra tiếng kêu được. Liệt vốn là tay giang hồ trên sông nước, giỏi việc đi lại làm giàu chứ không biết việc chiến trận trên thuyền. Lữ Đường giao cho Liệt coi thủy binh chỉ vì tin ở thanh gươm bạc của y, lại nghe Liệt huênh hoang khoe tài, chứ thật ra chưa được thấy Liệt điều khiển thủy quân thế nào. Liệt có một nhược điểm là: Trước khi theo Lữ Đường, khi còn đi lại trên chốn giang hồ. Vì ân oán thế nào bị thiên hạ đầu độc suýt bỏ mạng, hai mắt vì thế đọng máu làm cho thị lực bị suy yếu. Tinh tường lúc trời râm mát, khi nắng lớn thì như quáng gà không thấy đường. Nay, muốn phá thủy binh của Lữ Đường thì trước hết bất thần đánh vào năm cửa trại ở mặt bộ, lại bất thần dụng đến hỏa công vừa để đốt ba cửa trại ngoài sông. Vừa khiến cho Đỗ Hùng Liệt bị ánh lửa lớn làm mù mắt, thế nào cũng thắng!

Động chúa mừng lắm, các tướng nghe Lê Thảo nói không ai lại chẳng hào hứng. Lê Thảo tiếp:

- Vậy, ông Hồ Tường Thụy giỏi cung tên hãy vào trận này mang năm nghìn quân. Sửa soạn phá thủy trại của Tế Giang, phải thu xếp cho nhiều hỏa liệu hỏa tiễn để dụng hỏa công!

Hồ Tường Thụy vâng lệnh đi lo việc ngay. Quay sang Lê Hoàn. Quân sư bảo:

- Ông là người cầm quân lấy Tế Giang. Ông hãy bỏ qua những nơi khác, đem binh lên ngã ba Xích Đằng, thúc binh gấp vào Lê Xá, rồi Phú Thị, theo dòng Nghĩa Trụ tràn xuống Xuân Lâm. Vượt qua được Xuân Lâm là đánh vào mặt Bắc phủ đường Tế Giang. Ông cầm quân, nửa giang sơn Tế Giang phía Bắc quan trọng hơn phía Nam, chia mất nhiều sức lực của Tế Giang. Ông thắng thì mặt Nam quân ta sẽ dễ dàng tràn đi như dòng nước mạnh. Lữ Đường không thể nào cản chống lại được. Như vậy, ông đã thấy trách nhiệm của mình, lúc nào cần ra sẽ có Động chúa đi lại trợ giúp.

Tướng quân Lê Hoàn cùng hai tướng Trịnh Tú, Đỗ Tuấn Kiệt đã hiểu rõ, vâng lệnh đi điểm quân ngay.

Quay sang tướng Đinh Điền. Quân sư nói:

- Ông lĩnh mệnh mang quân đánh ngay vào căn cứ Phục Tượng là nơi hơi chếch về phía Tây Bắc phủ đường. Cứ doanh Phục Tượng dựa vào tình thế núi lô nhô trong rặng Tượng Sơn, trông như con voi lớn nằm. Sứ quân Lữ Đường lập đại trại ở đây để phòng giữ cả một vùng Bắc lan sang phía Đông. Lữ Đường dồn nhiều sức lực vào đây, doanh trại không xa phủ đường. Đánh vào đấy chẳng khác nào như thọc gậy vào tổ ong, như đánh vào chính phủ đường. Cứ doanh này bình thường do tướng Hoàng Tích Lịch cai quản. Lúc có biến thì tất cả các tướng ở phủ đường có thể mau chóng đến tiếp cứu.

Tướng Đinh Điền nhận lệnh. Quân sư tiếp:

- Nay, nếu mặt thủy trại Bồ Đề đã bị đánh, lại đến Phục Tượng lâm nguy. Thế nào tinh thần binh tướng Tế Giang cũng hốt hoảng tán loạn. Lại thêm phía Nam là Bình Kiều thuộc ta. Cho nên chỉ cần thấy bóng dáng cùng tiếng nói của Động chúa, cũng đủ để Lữ Đường phải đầu hàng hay bỏ chạy. Dứt được Phục Tượng, nếu xong được việc phủ đường thì tốt, không xong thì Lữ Đường không có lối nào khác hơn là phải chạy ra phía Đông, tới vùng đầm Cự Linh. Ông Chu Kỷ Toàn mang binh đánh trận Đầm Cự Linh, xong được Cự Linh thì Lữ Đường cùng đường không còn lối chạy. Chỉ còn đầu hàng hay là nấp vào vùng Hỏa Châu Bát Trường. Nếu thế thì trên đường trở lại Siêu Loại, Động chúa sẽ tiếp tục đi theo Lữ Đường rồi dứt hẳn ông ta ở Hỏa Châu Bát Trường.

Nghe Quân sư nói về cứ doanh Phục Tượng của Tế Giang. Nhưng thật ra chưa ai mường tượng được quang cảnh doanh trại này của Tế Giang. Quân sư tiếp:

- Ông Trịnh Tú cùng đi với ông Lê Hoàn. Hai ông hỗ trợ cho nhau thì dù phải đối địch với tướng nào của Tế Giang cũng không có gì phải lo lắng.

Quay sang Đỗ Tuấn Kiệt. Lê Thảo bảo:

- Ông đi ở hậu quân, vừa làm thế yểm trợ, vừa có dịp để quan sát tình hình. Khi nào cần thì ông vào trận tiếp tay với ông Lê Hoàn, Trịnh Tú!

Các tướng chưa kịp hỏi gì thêm. Lê Thảo hướng tới Động chúa nói:

- Tôi xin được đi cùng Động chúa, các nơi khác các tướng ai cũng có trách nhiệm cả rồi. Vậy trước hết ta cùng đi theo, xem ông Đinh Điền đánh cứ doanh Phục Tượng như thế nào?

Đường xa hơn, vậy ông Hồ Tường Thụy hãy đem quân đi ngay lấy thủy trại Bát Quái. Xong việc ông quay ngay sang phía Đông hỗ trợ cho các mặt. Thủy trại ấy đã có ông Nghi Bá Tường trông nom rồi!

Hồ Tường Thụy vâng lệnh đem ba nghìn quân lên đường ngay. Lê Thảo nói riêng với Mạc Sa Cảnh:

- Khi nào xong thủy trại Tế Giang, ông cùng với tôi gấp lên đường đuổi theo ông Chu Trạch Phương ngay. Còn lúc này, ông cho tế tác theo chân ông Phương hết sức kín đáo theo dõi hành vi của ba người lạ. Khi nào ta theo kịp ông Phương thì ta phải biết rõ những người ấy mới được!

Mạc Sa Cảnh vâng lệnh đi ngay.

Các tướng trở lại nơi trấn quân ngay, quân các mặt lần lượt lên đường. Trong doanh chỉ còn lại Động chúa, Quân sư và vài quân hầu.

Đến nửa đêm hôm ấy, nhìn doanh vắng vẻ. Động chúa nói với Lê Thảo:

- Bây giờ ta đợi cho các đạo quân vào trận, rồi tới nơi nào trước?

- Thưa, nếu không sai lạc gì, thì lửa sẽ cháy trước ở doanh thủy trại Bồ Đề. Động chúa xuất hiện ở đây để rồi lại đi xem tướng Đinh Điền chinh phục doanh Phục Tượng. Cùng lúc với doanh Phục Tượng, phía cực Bắc Tế Giang tướng Lê Hoàn vượt qua các thành nhỏ để tới Xuân Lâm. Khoảng cuối Dần sang đầu Mão thì thế nào tướng Lê Hoàn cũng xong trận Xuân Lâm uy hiếp phía Bắc phủ đường. Từ doanh Phục Tượng tới Xuân Lâm đường không xa lắm. Động chúa lại vất vả đến để giúp ông Lê Hoàn. Nếu thấy Lữ Đường thoát chạy thì thế nào cũng gặp ông Chu Kỷ Toàn ở đầm Cự Linh, vậy Động chúa lại đến đây giúp ông Toàn. Cuối cùng trên đường trở lại với ông Chu Trạch Phương thì nơi cuối cùng, Động chúa có thể phải vất vả là Hỏa Châu Bát Trường. Dứt nơi ấy thì tôi tin chắc là hoàn toàn xong việc Tế Giang. Tôi cũng xin Động chúa mỗi khi rời một doanh trận, thì nên mang theo một ít quân cho trương cờ, gióng trống thật ầm ĩ, làm thế hư binh trợ chiến. Cốt để cho cả thiên hạ tưởng ra ngài đích thân cầm quân, ở đâu cũng có ngài. Có thể tôi bất thần phải ra phía Đông Bắc. Xem việc ông Bặc vượt con đường gian khổ, mà cũng là để xét việc Tiên Du sau khi xong Siêu Loại!

Rồi Lê Thảo quay sang tướng Mạc Sa Cảnh bảo:

- Ông đã xếp đặt tế tác đầy đủ các nơi. Động chúa có quân hộ tống cùng với tế tác để lúc nào cũng biết rõ tin về các mặt trận. Ông đã cắt đặt xong cả chưa?

Mạc Sa Cảnh thưa:

- Thưa, ngay dù khi Động chúa không cần ra khỏi doanh này, cũng vẫn có thể biết được rành rẽ việc tận Cổ Loa. Mặt trận nào ngài cũng có thể biết được ngay đang xảy ra những việc gì!

Động chúa bảo:

- Như vậy tốt lắm! Vậy, ngay trong lúc này tướng Chu Trạch Phương thay ta cầm quân ra phía Đông thế nào?

Mạc Sa Cảnh đáp ngay:

- Thưa, lúc này ông Phương đang tiến quân vượt qua phía Nam rặng núi Lạn Kha, quân sắp vào giới địa Phú Xuyên.

- Còn ông Bặc?

- Bẩm, tướng quân đã đi được nửa đường, sắp hết giới địa Bát Vạn để vào vùng Sông Bái!

Quân sư mỉm cười, nói:

- Hay lắm, các mặt đều quân hành thật tốt. Đến lúc này sắp sửa các trận Tế Giang bắt đầu rồi. Đợi khi nào lửa cháy ở bến Bồ Đề, quân reo ở Phục Tượng, thì ta lên đường nhé!

Quân sư vừa nói dứt, Động chúa chưa kịp lên tiếng. Đã thấy tế tác gấp tới trình:

- Bẩm, quân ta bắt đầu vào trận, thủy doanh Tế Giang ngút lửa phía ngoài sông!

Lúc ấy quá nửa đêm về sáng, trời còn tối. Ba người đứng lên. Quân sư quay sang Động chúa nói:

- Như vậy, các nơi đã chuyển động, nơi nào cũng cầu mong Động chúa xuất hiện. Xin ngài lên đường giúp các mặt!

Động chúa vui vẻ, ngài đứng lên sửa sang lại chiến bào, quân vác cây đại phủ đến trình. Động chúa bảo Lê Thảo:

- Vậy ngài cứ rong ruổi, ta vào trận giúp các nơi ngay!

Lê Thảo dặn thêm:

- Xong việc, ngài đừng ở lại Tế Giang để tránh mọi kêu nài. Tướng Chu Trạch Phương thế nào cũng mong đợi ngài nhiều lắm!

Động chúa bỗng đáp:

- Phải, ở nơi ông Phương thế nào cũng mong đợi ta!

Quân sư, tướng Mạc Sa Cảnh tiễn Động chúa ra khỏi doanh cùng với đám quân nhỏ xong, thì Quân sư bảo:

- Ta gấp thật kín đáo đến với tướng Chu Trạch Phương ngay. Ông có cần dặn gì tế tác không?

- Bẩm không, tôi đã sắp xếp xong hết cả rồi! Sao không ra phía Đông tìm ông Bặc, mà lại đi gặp ông Phương?

- Phải, việc chính là như vậy! Ta đi thôi!

Ngay trong đêm trời chưa ngả hẳn về sáng. Quân sư cùng với tướng tế sứ Mạc Sa Cảnh giục ngựa bỏ cứ doanh Tế Giang cho ngựa ra phía Đông đi gấp. Đằng sau hai người là cả giang sơn Tế Giang của Sứ quân Lữ Đường ngập khói lửa binh đao.

Hai ngựa lặng lẽ đi trong đêm, khoảng trời phía trước mặt vẫn chưa hửng đỏ. Chợt ở phía chính Đông trời bừng sáng, sáng như mặt trời đã lên. Rồi một ngôi sao lạc vệt một đường dài bay sang phía Bắc, lạ là vệt sao lạc ấy không bay thẳng lại quay một vòng tròn rồi tắt ngấm. Cùng lúc ánh sao lạc tắt, ráng hồng đỏ rực cũng hết theo. Thiên tượng xảy ra chỉ chừng một lần nháy mắt, nhưng Lê Thảo với Mạc Sa Cảnh nhìn thấy chẳng sót chút nào.

Chợt Lê Thảo dừng ngựa, đưa tay bấm đốt tính toán điều gì, rồi vội ngửng đầu hơi quay sang bên trái quan sát bầu trời. Tìm sao trời lúc ấy rất nhiều chưa bị nhạt vì ánh dương. Mạc Sa Cảnh thấy Quân sư dừng lại cũng vội ghìm cương. Con ngựa của tướng tế sứ cực khôn không bao giờ lại tự dưng thốt lên tiếng hí, thế mà nó bỗng vươn cổ hí vang.

Quân sư thôi không bấm tay tính toán, trong bóng tối Mạc Sa Cảnh không trông thấy nét mặt Quân sư. Chỉ thấy Quân sư ngồi như pho tượng trên lưng ngựa không có cử chỉ nào khác nữa.

Một lát, Quân sư khẽ bảo Mạc Sa Cảnh:

- Ông có thấy ráng trời, sao lạc xoay tròn với sao trụ co giật không?

Mạc Sa Cảnh đáp ngay:

- Bẩm, tôi thấy cả, duy sao trụ co giật thì là sao nào, tôi không thấy gì cả! Quân sư đã thấy có điềm gì?

- Ráng trời, sao lạc, sao co, ba việc xảy ra ở phương Đông. Ta sợ rằng có người quan trọng nào của ta vừa mới bị hại rồi!

Hai điều ông thấy rõ, còn sao co chính là ngôi sao chốt của sao Bánh Lái mờ nhất không bao giờ thay đổi vị trí. Trong khi sáu ngôi sao lớn kia quay chung quanh nó không rời phương Bắc, sao chót vừa rồi rung rinh co giật. Ngày xưa lúc Hạng Vương tuẫn tiết bên dòng Ô Giang ba thiên tượng ấy đã xảy ra! Ngày nay, binh ta hai đường ra phía Đông, điềm gở ngày xưa lại hiện. Thế thì người nào của ta bị hại?

Mạc Sa Cảnh nghe Quân sư nói thì kinh hãi! Nếu như có người trong quân bị hại, thì một là chiến trận đã phải xảy ra nghiêm trọng, sao tế tác không thấy báo trình gì cả? Như vậy có phải là tế tác của ông kém cỏi không kịp hay biết những việc hệ trọng hay không? Hai là, nếu thiên tượng đã hiện, trong quân có tướng bị hại! Như vậy trong quân có biến chăng? Mạc Sa Cảnh không biết nói thế nào, đành im lặng. Lê Thảo bảo:

- Thế nào ta cũng sắp có tin ngay đấy. Từ lúc ta ra đi cũng được khoảng đường dài, chưa thấy có tế tác nào đến trình báo tin. Như thế thì sao lại có thể có biến được thế này?

Bây giờ thì Mạc Sa Cảnh mới nói:

- Thưa Quân sư, chỉ khi nào có tin tế tác mới trình, còn thì không bao giờ ta thấy bóng dáng chúng ở đâu. Nay, việc lớn xảy ra, tất nhiên phải có những việc, những hành động nào đấy trước rồi mới có việc được. Sao tế tác lại không biết? Nếu ta ở xa chưa được trình kịp, thì thế nào tướng cai quản cũng phải được biết ngay!

Hai người tiếp tục đường đi, đến khi trời sáng hẳn cũng vẫn không thấy có tế tác nào đến trình báo tin gì cả! Quân sư và Mạc Sa Cảnh lấy làm thắc mắc lắm. Cứ như thế này thì những điềm trời xảy ra trong đêm vừa rồi không phải là ứng vào binh tướng Hoa Lư. Vậy, ứng vào đâu? Ở phía Đông chủ vị hành động lúc này là binh Hoa Lư, vậy những điềm ấy nhất định phải ứng vào binh tướng Hoa Lư rồi! Hay là Quân sư đã giải thiện tượng không đúng! Mạc Sa Cảnh băn khoăn không tin là Lê Thảo nhìn sai thiên tượng, giải sai điểm trời!

Đến khi vào đến địa phận Gia Bình thì tế tác đến trình: “Binh ra phía Đông hiện tạm dừng ở Đại Than, đợi tin của đạo phía Bắc đi đường An Bình hiện thời gian ước định còn sớm lắm”.

Quân sư hài lòng, bảo tướng Mạc Sa Cảnh:

- Bây giờ ta vào doanh gặp ông Chu Trạch Phương. Nhưng ông đừng để một ai biết là ông với tôi hiện có mặt ở đây nhé!

Mạc Sa Cảnh vâng lệnh, sại tế tác báo tin trước cho Chu Trạch Phượng hay. Lại dặn phải hết sức kín đáo không được để tướng nào ngoài tướng Phương biết.

Gặp Chu Trạch Phương. Quân sư bảo:

- Trong đêm, trên đường tới doanh này, ông Cảnh với ta có thấy thiên tượng xấu. Không biết việc quan thế nào?

Quân sư thuật hết mọi việc cho Chu Trạch Phương nghe, rồi bảo:

- Như vậy, thì trong quân có việc gì hệ trọng không?

Chu Trạch Phương là tướng cũ của Đằng Châu, tính tình thuần hậu kín đáo, rất thận trọng. Phương xử cây đại phủ, vóc người to lớn, mặt đỏ như trát chu sa, búi tóc ngược giữa đỉnh đầu. Thân là tướng thật oai hùng thế mà giọng nói lại cực êm. Bây giờ tạm thay Động chúa cai quản đạo quân Đông chinh thì tự nhủ là sẽ hết sức thận trọng, tự thân xem xét mọi việc không bê trễ. Lại nhớ lời dặn của Quân sư cho nên đặc biệt nói riêng với tướng Trịnh Xuân Thu:

- Lúc Động chúa lên đường lên Tế Giang có dặn tôi trông coi mọi việc, chỉ vài ba ngày là ngài lại trở về. Việc quân hành không có gì hệ trọng, chỉ có việc ba người khách của Động chúa đều là những người ta không biết. Riêng cô gái thì Động chúa ưu ái lắm, có dặn ta phải đặc biệt đối xử. Lại thêm tôi được mật lệnh của Quân sư bảo cũng phải hết sức để ý đến ba người ấy, không được để cho họ tự do ra khỏi doanh. Như vậy thì ba người này là những người như thế nào, ta không biết. Vậy ông hãy kín đáo giám sát ba người ấy, đừng để một việc gì họ làm mà ta không biết nhé! Trong doanh hiện giờ ngoài ông với tôi ra, không một người nào nữa biết là Động chúa đi vắng. Như thế ta phải tìm mọi cách để cho ba người ấy cũng không biết là Động chúa vắng mặt. Ông hãy cẩn thận, có gì lạ cho tôi hay ngay, ta cùng tìm cách đối phó!

Thế là từ lúc ấy trở đi Trịnh Xuân Thu như bóng với hình, luôn luôn theo dõi ba người khách của Động chúa.

Trịnh Xuân Thu người ở Vũ Giang chỗ ngã ba Hương Ninh. Ông cha làm nghề sông nước, cho nên Thu rất giỏi việc bơi lặn. Thu đầu đội mũ Bình Nhạn, chân đi giày da rái cá, giỏi đánh kiếm, lại hết sức nhanh nhẹn. Có tài vuột thoát khỏi khi bị ôm chặt. Chẳng khác nào như con lươn vuột khỏi tay người nắm. Có lần thiên hạ thử tài Thu đem hai trăm bảy chục thân cây chuối chặt cao bằng đầu người rồi dựng đứng la liệt trên khoảng đất không rộng. Thân cây san sát dựng cách nhau có chỗ hẹp phải thật thận trọng len người đi qua mới không chạm đổ cây. Thách Trịnh Xuân Thu chạy thật nhanh qua tất cả các khe thân cây ấy mà không được để đổ một cây nào. Lúc chạy tay Thu lại cầm một ống tương lớn, trong đựng vôi nước đặc, mỗi lần qua một khe giữa hai thân cây thì phải mau tay lấy vôi ấy đánh dấu lên thân cây. Chúng lại hẹn: dứt ba hồi chín tiếng trống thì Trịnh Xuân Thu phải chạy qua hết các cây. Trịnh Xuân Thu đòi lại, nếu Thu chạy vượt qua được cả, thì phải trả cho chủ vườn chuối mỗi cây một lạng bạc, vì đã phá mất cả vườn chuối của người ta. Rồi Trịnh Xuân Thu trổ tài, trống vừa đánh, Thu đã như làn gió nhẹ uốn éo quanh co giữa những thân cây. Thiên hạ đứng ngoài hò reo cổ vũ. Trống khoan thai đập hết hồi thứ hai rồi đến tiếng thứ sáu của hồi thứ ba. Trịnh Xuân Thu đã vượt qua được cuộc thách thức, không một cây nào bị đổ, không sót một cây nào Thu lại không điểm vôi đánh dấu. Quả thật tài nghệ phi hành uốn lượn của Trịnh Xuân Thu đến thế thì cả cõi chắc không có người thứ hai. Nhờ ở tài uốn lượn vượt thoát ấy Trịnh Xuân Thu có thể để cho ba bốn người ôm chặt rồi Thu cựa mình uốn éo dễ dàng thoát ra được. Người thời ấy tặng cho Trịnh Xuân Thu mĩ hiệu “Vô Cốt Thần Tiên” ý nói vị thần tiền thân mình không có xương có thể luồn lách vượt thoát được tất cả mọi sự kiềm tỏa.

Bây giờ Động chúa đi vắng, được Chu Trạch Phương giao cho trách nhiệm giám sát ba người khách lạ của Động chúa. Thì Thu hết sức chăm chú vào công việc, lại thêm lúc nào cũng được ngắm nghía mĩ nhân Phượng Mai quận chúa. Thu thấy cũng là một hạnh phúc lớn!

Trịnh Xuân Thu nhận trách nhiệm giám sát ba người lạ, có hẹn với Chu Trạch Phương là chỉ khi nào thấy có hiện tượng gì lạ mới báo cho Phương biết. Và Thu chỉ mới theo dõi ba người khách lạ được một ngày một đêm, thì một sáng tinh mơ tế tác gấp đến trình cho Chu Trạch Phương biết: “Trịnh Xuân Thu chết đứng trong một khu rừng cây thị ở phía Đông Đại Than. Nơi này là rừng thị đỏ, còn thị trắng mọc nhiều ở An Khê và Như Quỳnh huyện Gia Lâm”.

Chu Trạch Phương được tin tình thì kinh hãi. Đích thân Phương theo tế tác đến tận nơi quan sát rồi thật kín đáo đưa xác Trịnh Xuân Thu về. Chu Trạch Phương nghĩ rằng: Như thế, tất trong quân bất ổn. Phương ra lệnh cho tế tác phải hết sức kín đáo theo dõi ba người khách, nhưng không thu được tin gì khác lạ cả. Phương còn đang bối rối thì Quân sư đã tới.

Chu Trạch Phương thấy Quân sư với tướng tế sứ vừa mới tới đã kể điềm lạ, thì giật mình. Rồi khi nghe Quân sư hỏi thì vội thưa:

- Bẩm Quân sư, mọi việc thấy yên lặng, duy có việc điềm thiên tượng Quân sư thấy ở dọc đường đã ứng nghiệm rồi!

Quân sư hỏi vội:

- Việc ứng nghiệm như thế nào?

- Bẩm, tôi có cử ông Trịnh Xuân Thu kín đáo theo dõi ba người khách lạ theo như lời Quân sư dặn bảo. Không thấy có gì lạ, thì tinh mơ hôm nay đã thấy ông Thu bị giết chết đứng trong rừng thị ở gần Đại Than rồi!.

Quân sư hỏi:

- Ông Trịnh Xuân Thu bị giết, chung quanh có dấu vết gì không? Ông ấy bị giết như thế nào?

Chu Trạch Phương thưa:

- Khi được tin tế tác, tôi vội đến tận nơi mới biết ông ấy chết vẫn còn đứng ngay. Trong tay ông ấy còn cầm thanh gươm cụt này...

Vừa nói Chu Trạch Phương vừa trình ra thanh gươm cụt gần sát tận chuôi. Mạc Sa Cảnh đỡ lấy gươm rồi trình lên Quân sư. Chu Trạch Phương trình tiếp:

- Bẩm, chúng tôi quan sát kĩ, không thấy chung quanh có dấu vết gì lạ. Chỉ thấy trên người ông Trịnh Xuân Thu bị ba vết đâm, hai vết vào ngực, một vết giữa trán!

Quân sư gật đầu, bảo:

- Các vết thương ấy ông thấy có gì lạ không?

- Bẩm, có điều lạ! Lạ thứ nhất, là máu chảy rất ít. Lạ thứ hai, là các vết đâm đều có hình ngôi sao ba góc!

Quân sư đang nhíu mày, chợt khẽ rùng mình, nhưng vẫn ôn tồn hỏi:

- Ống nhận thấy đúng như thế chứ?

Chu Trạch Phương quả quyết:

- Bẩm, nhất định đúng như vậy!

Hai tướng im lặng có vẻ băn khoăn nóng lòng nhưng không dám hỏi. Quân sư gật gù, rồi lát sau bảo:

- Thôi được, các ông liệu đưa ông Trịnh Xuân Thu về Đằng Châu nhé! Các ông hãy hết sức kín đáo mà đưa ông Thu về Đằng Châu. Tuyệt đối không để cho người ngoài biết. Còn ngay bây giờ, hãy bí mật cho người đi mời ông Nguyễn Minh Khánh đến đây ngay. Cũng phải thật kín đáo đừng để ai biết ông Khánh đến gặp ta nhé!

Tướng Mạc Sa Cảnh lĩnh mệnh, cắt đặt tế tác thi hành lệnh. Đợi cho Mac Sa Cảnh xếp đặt xong xuôi, lúc ấy hai tướng Chu Trạch Phương với Mạc Sa Cảnh kín đáo đưa mắt nhìn nhau vẻ lo lắng. Lúc ấy Quân sư mới nói:

- Hai ông thấy việc ông Trịnh Xuân Thu bị giết là thế nào?

Hai tướng không biết nói sao, đành nín lặng. Quân sư chậm rãi nói:

- Ông Trịnh Xuân Thu chết, đáng tiếc lắm, nhưng cũng nhờ ở ông ấy mà ta đã hiểu được thêm mối họa đang đợi chờ bên cạnh Động chúa. Họa lớn đang đợi dân tộc ta! Ta đợi ông Nguyễn Minh Khánh nữa là biết chắc chắn!

Chu Trạch Phương rụt rè hỏi:

- Bẩm, Quân sư thấy ông Nguyễn Minh Khánh biết việc này?

Quân sư mỉm cười đáp:

- Ông Khánh chắc chưa biết, ta mời ông ấy tới là để xét thêm vài việc nữa là có thể hiểu được tất cả. Vả lại ông ấy cũng cần có lệnh mới!

Hai tướng nghe lại càng thắc mắc thêm. Quân sư biết ý bảo:

- Ông Nguyễn Minh Khánh theo Động chúa từ lâu, người trung hậu, làm việc thận trọng lại rất tôn trọng lệnh trên. Vì thế mới được lĩnh mệnh Thám quản của ông Cảnh ở phía Siêu Loại này. Ta chắc thế nào ông ấy cũng có một việc gì đấy lạ lắm, mà ông ấy không biết giải thích ra sao?

Chu Trạch Phương ngập ngừng rồi hỏi:

- Bẩm, lúc nãy Quân sư có vẻ chú ý lắm đến các vết đâm trên người ông Trịnh Xuân Thu. Chẳng hay Quân sư thấy có gì lạ? Xin Quân sư cho chúng tôi biết có được không?

Quân sư gật gật:

- Phải, ta chú ý đến các vết đâm ấy, vì chính các vết ấy mà ta đã tìm ra manh mối! Bây giờ ta nói cho hai ông nghe, tới khi ông Khánh tới ta lại phải nhắc lại. Vậy hai ông nén lòng đợi đến khi ông Khánh tới nhé. Lúc này trời đã sáng tỏ hắn rồi!

Hai tướng đành nén lòng đợi chờ. Quân sư ngồi ở tướng án của Chu Trạch Phương suy nghĩ. Lâu lâu lại khẽ gật gật đầu, có lúc nhíu mày!

Đến gần giữa trưa thì tế quản của Hoa Lư ở Siêu Loại được tướng Mạc Sa Cảnh cử là Nguyễn Minh Khánh đến doanh. Khánh vóc người nhỏ nhắn, mặt mũi rất tầm thường, nhìn bên ngoài không ai lại bảo Khánh là người rất trầm tĩnh, chín chắn, giấu kín được những chỗ lợi hại của mình ở bên trong, để làm cho thiên hạ hiểu lầm về giá trị con người của mình.

Nguyễn Minh Khánh vào doanh chào Quân sư. Dáng dấp Khánh lúc nào cũng thật tự nhiên, thật thà, vẻ tôn kính đối với bề trên vẫn không mất. Trang trọng đối với hai tướng Chu Trạch Phương và Mạc Sa Cảnh lúc nào cũng vẹn toàn. Tuy thế Khánh vẫn chẳng bao giờ lại tỏ ra quá săn sóc đến những thái độ ấy.

Quân sư đợi cho ba người ngồi yên chỗ, lúc ấy mới chậm rãi nói:

- Ông Khánh xem xét việc Siêu Loại, gìn giữ tại mặt trong doanh nơi này, hẳn là ông một mình biết rõ tình hình hơn tất cả mọi người. Vậy ông có biết việc ông Trịnh Xuân Thu bị giết không?

Nguyễn Minh Khánh thận trọng đáp:

- Bẩm, tế tác chúng tôi hết sức đặt tai mắt ở khắp mọi nơi, thu thập cũng được nhiều tin tức tuy chẳng dám nói không còn chuyển động nào của địch là lại chẳng biết. Riêng việc ông Trịnh Xuân Thu thì đầu sáng hôm nay tôi đã biết!

- Ông thấy thế nào?

- Bẩm, ông Thu được ông Mạc Sa Cảnh cắt riêng để làm việc riêng, rồi bất thần lại bị giết thì tôi nghĩ là: Việc Siêu Loại chúng tôi biết rõ, nhất định không phải là Siêu Loại cho người giết ông Thu. Vả lại nếu người Siêu Loại muốn giết thì trước tất cả phải là Động chúa, hay Quân sư mới phải. Chứ sao lại giết ông Thu? Như thế, thì ông Thu chết từ bên trong ta!

- Ông thấy ai trong chúng ta muốn giết ông Thu, vì sao?

- Bẩm, không có ai trong chúng ta. Hoa Lư hay Đằng Châu, Bình Kiều đều không ai muốn giết ông Thu. Vì không có lý do gì để chúng ta thấy phải giết ông Thu!

- Vậy, ông nói ông Thu chết từ bên trong ta là thế nào?

- Bẩm, tôi quả quyết Siêu Loại không giết ông Thu, mà các nơi khác muốn giết ông Thu thì thế nào ông Cảnh cũng biết ngay. Và ông Cảnh không biết ai muốn giết ông Thu!

Quân sư nghiêm giọng:

- Ông trông coi tế tác quân doanh Đông chinh, tất phải biết rõ ràng từ trong doanh cho đến cả giang sơn Siêu Loại chứ. Vậy sao lại không biết trong doanh ta có kẻ thù tàng ẩn?

Cả ba tướng giật mình, Nguyễn Minh Khánh đăm đăm nhìn Quân sư rồi nói:

- Tất cả các nơi bên ngoài không nơi nào có lý do gì để phải giết ông Thu. Ông Thu chết không phải ở ngay trong doanh ta nhưng ở trong phạm vi trấn của ta, thì nhất định ông ấy chết từ bên trong ta rồi! Trong doanh, tất cả đều là anh em, chỉ riêng có ba người khách lạ của Động chúa thì tế tác nội doanh chúng tôi không được biết là người thế nào?

- Ông thấy ba người ấy thế nào?

- Bẩm, họ là khách quý của Động chúa. Động chúa đi vắng chúng tôi được lệnh phải đối xử kính trọng với ba người ấy. Cho nên cũng không có gì nghi ngờ. Vả lại Động chúa mới đi khỏi doanh có hơn hai ngày thì ông Thu chết. Chúng tôi chưa thấy manh mối gì cả!

- Như vậy, ông có thể nào nghĩ là hiện giờ trong doanh ra có ngoại địch tàng ẩn, để mưu đồ việc tai hại được không?

Nguyễn Minh Khánh đáp ngay:

- Bẩm, bất cứ lúc nào cũng có thể có: Có như thế nào, vì mục đích gì, thì luôn luôn đấy là điều tế tác chúng tôi phải biết đích xác. Trong việc ông Thu, chúng tôi chỉ mới có thể nói chắc được là có ngoại địch tàng ẩn, họ là ai, mục đích của họ là gì chúng tôi chưa được biết. Tuy nhiên, chúng tôi nghĩ: Giết ông Thu không phải là việc họ chủ trương, cũng không phải là người họ nhắm vào. Như thế thì ông Thu bị chết oan. Tại sao thì chúng tôi không biết, nếu biết được tại sao ông Thu phải chết thì có thể hiểu được mục đích hành động của ngoại địch tàng ẩn trong doanh ta!

Những lời nói của Nguyễn Minh Khánh thật rành mạch khúc chiết, thẳng thắn và thật sắc sảo. Quân sư ngồi nghe luôn luôn gật đầu tỏ ý khen ngợi. Hai tướng Mạc Sa Cảnh, Chu Trạch Phương ngồi nghe có khi tưởng là đã rõ việc rút cuộc việc vẫn chẳng lần ra đầu mối.

Quân sư bảo:

- Ông Khánh luận giải thật đúng! Giết ông Thu không phải là việc họ chủ trương, ông Thu cũng không phải là người họ nhắm vào. Ở đây, trong việc ông Thu, thật ra ngoại địch không nhắm vào giết một ai cả mà nhắm vào giết cả dân tộc ta! Đúng như lời ông Khánh nói: Ông Thu phải chết chắc chỉ vì đã tình cờ mà thấy được một điều bí mật nào của họ nên họ phải ra tay! Bây giờ ông Thu chết ở một nơi không xa doanh, thuộc phạm vi quân trấn của ta, là rừng thị. Các ông thấy thế nào?

Tướng Nguyễn Minh Khánh đáp:

- Thưa, rừng thị rộng lớn, là nơi không có dân cư hoặc dân cư ở thưa thớt rải rác. Lan rộng phía Bắc lên đến chân núi Bát Vạn, phía Đông nối sang vùng đồng ruộng Siêu Loại, rừng già chen lẫn nhiều giống cây lớn hoang vắng không có đường đi. Là nơi quân ta tạm trấn vì thế được kín đáo an toàn không sợ bị Siêu Loại phát giác. Ông Trịnh Xuân Thu không hiểu vì đâu lại tới đây để bị giết. Chỗ ấy là một khoảng rừng hơi thưa ven rừng. Ông ấy tay cầm gươm rõ ràng là có việc giao tranh. Chung quanh rất ít dấu vết nhiều người đạp xéo, cuộc giao tranh chắc là không lâu. Đoạn gươm bị chém cụt chúng tôi tìm thấy cách chỗ ông Thu chết khoảng chừng bốn bước chân dài. Ông Thu chết đứng dựa vào gốc cây lớn, vì thế mới không ngã xuống. Cứ xem nét mặt thì ông ấy chết nhanh lắm!

Lê Thảo gật gù, bảo:

- Hay lắm! Như thế đã rõ nhiều điều về bên trong quân doanh của ta. Ở đây, ông Mạc Sa Cảnh là người biết hết mọi việc phương Bắc, ta nói vắn tắt để hai ông Chu Trạch Phương và Nguyễn Minh Khánh biết: Tống triều đã cho người vào nước ta, gây loạn dọn đường cho Tống triều dứt nhà Ngô lấy nước ta. Bọn tế tác tiền phong của Tống triều là bọn Hỏa Thần giáo gốc ở Ba Tư muốn truyền bá sang phương Đông, ra tay giúp Triệu Khuông Dẫn. Trước, ta đã được tin, chưa biết ngoại địch ẩn nấp ở đâu, nay thì đã biết. Riêng ở đây thì việc ông Trịnh Xuân Thu bị giết làm ta quyết chắc là bọn người ấy chính là thủ phạm. Ông Trịnh Xuân Thu đã nhìn thấy gì, đã biết gì về họ để đến nỗi phải chết ngay như thế? Ta sẽ tìm ra lời giải cho câu hỏi này. Bây giờ, xem những điều ta nói, những gì ta biết có đúng hay sai? Tất cả những vật chứng trong việc giết người này, để ta xem xét!

Nguyễn Minh Khánh trình nốt lên phần thanh gươm bị chém đứt. Quân sư Lê Thảo xem xét cẩn thận thanh gươm, thỉnh thoảng lại thấy Quân sư gật gù. Nguyễn Minh Khánh nói:

- Thưa Quân sư, tôi thấy thanh gươm này bị khí giới của địch chém đứt rất ngọt, chứng tỏ là địch sử dụng vũ khí quý lắm. Ngoài ra, tôi thấy không có gì khác thêm!

Quay sang Chu Trạch Phương. Quân sư hỏi:

- Còn ông Phương?

Chu Trạch Phương thận trọng đáp:

- Bẩm, tôi thấy cũng như ông Khánh. Duy có điều: Vết chém hình như không phẳng lì. Chỗ không phẳng lì ấy có gì khác lạ chăng thì tôi không được biết!

Quân sư gật gù:

- Ông Khánh nói đúng, ông Phương thêm cái chỗ không phẳng lì lại càng đúng hơn nữa! Thoạt tiên, khi quan sát thanh gươm cụt của ông Trịnh Xuân Thu ta cũng đã thấy ngay cái chỗ không phẳng lì ấy. Ta thấy bên cạnh vết chém còn mờ mờ một vết xước nữa. Vết xước này cũng do một khí giới thật quý đụng vào. Ta nghĩ: Không lẽ địch có hai người cùng chém vào gươm của ông Trịnh Xuân Thu một lúc, đúng vào một chỗ. Nghi ngờ ấy ta nghĩ mãi mà không tìm ra được sự thật! Cho đến khi chợt nhớ đến các vết đâm trên người ông Thu lúc ấy ta mới bật hiểu ra!

Chu Trạch Phương nhắc lại:

- Bẩm, các vết thương ấy thảy đều có hình ngôi sao ba cánh, máu chảy ra rất ít!

Quân sư gật đầu nói:

- Đúng, các vết đâm đều thẳng vào người ông Trịnh Xuân Thu chẽ ra làm ba cánh. Như vậy thì vũ khí của địch chẽ ra ba cánh! Các ông có biết loại vũ khí nào như vậy không?

Các tướng đều lắc đầu, nói là không biết, Lê Thảo giảng:

- Trong sách “Âm phủ” của Hoàng Đế có thiên nói về vũ khí, có nói rằng: “Vũ khí cùng với nhu cầu của Con người mà ra đời, xưa dùng đá, rồi dần dần biến hóa thành gươm đao...”. Sách ấy giảng về tất cả các loại vũ khí, kể đến lai lịch từng thứ một, gươm báu, đao quý, thảy đều có chép trong sách ấy. Trong sách, kể đến một võ phái có loại vũ khí rất lạ lùng, vũ khí ấy là một con dao ngắn lưỡi chẻ ra làm ba, tức là cây dao có ba lưới chĩa ra ba góc. Dao này của kiếm phái Bạch Quang thuộc Hỏa Thần giáo, được rèn đúc cực kì tinh mật, sắc bén. Có thể gọt đá nhẹ nhàng như ta cứa dao vào nước. Bạch Quang kiếm phái trong Hỏa Thần giáo vốn là võ phái thiên về những sự huyền bí, cho nên đem những quang chất thoa lên ba lưỡi đao. Khi múa lên theo đúng phép múa của kiểm phái Bạch Quang thì dao ba lưỡi biến thành cực kì huyền ảo, phát ánh sáng làm mê hoặc đối phương. Bạch Quang kiếm phái lại dùng đến phép đả huyệt cực kì khắc nghiệt. Mỗi lần dao ba lưỡi trúng đích bao giờ cũng đâm trúng sinh huyệt, khiến cho địch thủ trong chớp mắt hết thảy các kinh huyệt trong người đều bị đóng kín hết. Chết không biết mình bị chết, toàn thân cứng lại tức thì. Ông Trịnh Xuân Thu bị chết như vậy thì ta quả quyết là bị chết về tay Bạch Quang kiếm phái, và Hỏa Thần giáo hiện đang có mặt ở chung quanh ta!

Nguyễn Minh Khánh kinh hãi, Chu Trạch Phương ngẩn người, Mạc Sa Cảnh có vẻ bứt rứt. Nguyễn Minh Khánh nói:

- Bẩm, nếu đúng như thế thì tế tác chúng tôi thật có lỗi lớn lắm!

Quân sư lắc đầu:

- Không phải, tế tác của ông ở đây không biết là phải, các ông không có lỗi gì hết! Tuy thế, ông một mặt xem xét tình hình chiến sự, một mặt vẫn theo dõi các hành động ngấm ngầm của địch cũng như của ta. Vậy ông có thấy gì khác lạ trong quân của ta, hoặc có người nào mới nữa chăng?

Nguyễn Minh Khánh tự nhiên vã mồ hôi trán, tiết trời mát mẻ thế mà Khánh tưởng như đang buổi trưa hè oi bức. Nguyễn Minh Khánh run giọng:

- Bẩm Quân sư, nếu thế thì đúng rồi!

Quân sư mỉm cười:

- Đúng thế nào?

Chu Trạch Phương, Mạc Sa Cảnh vẻ mặt gay cấn đợi chờ nghe. Nguyễn Minh Khánh hít một hơi dài rồi mới nói:

- Bẩm, khi binh ta đo Động chúa thống lĩnh vượt sông lớn sang đất Phù Liệt, tế tác chúng tôi đi trước xem xét mọi việc không có gì sơ suất. Chỉ riêng có việc là Động chúa trong lúc đợi chờ mọi việc dàn xếp, ngài có đem thuyền đi dạo lên mạn ngược. Trong chuyến đi này ngài có gặp một cô gái, ngài đem cô gái ấy về doanh…

Quân sư cắt ngang:

- Bây giờ cô gái ấy ở đâu?

- Bẩm, sau khi Động chúa lên Tế Giang, cô gái ấy vẫn ở lại trong doanh.

- Cô ấy có biết Động chúa bây giờ ở đâu không?

- Bẩm, vì lệnh của ông Mạc Sa Cảnh. Cho nên không một ai trong doanh biết là Động chúa đang vắng mặt.

- Ông có biết cô ta là người thế nào không?

- Bẩm, tôi chưa được biết rõ, nhưng nghe nói cô là Phượng Mai quận chúa từ Cổ Loa tới...

Quân sư nhíu mày:

- Ở Cổ Loa, dòng dõi nhà vua thì không thiếu gì người. Quận chúa chẳng qua chỉ là cái hiệu gọi các cô gái các quan lớn, hoặc họ hàng xa gần với hoàng gia mà thôi. Thế thì một cô Quận chúa có khác gì một cô gái dân giã bình thường?

Ba tướng im lặng. Quân sư vẫn nhíu mày suy nghĩ, chợt Quân sư ngửng cao đầu giọng chững chạc:

- Phải, đúng rồi! Chị thứ tư dòng dõi Nam Tấn Vương có người Quận chúa tên là Phượng Mai thật, nhưng Phượng Mai quận chúa trong những lúc biến loạn trong hoàng tộc đã thất lạc từ lâu lắm rồi. Sao bây giờ lại xuất hiện ở đây? Thế ông có nghe biết Phượng Mai quận chúa đi đâu mà lại gặp Động chúa hay không?

Nguyễn Minh Khánh kính cẩn đáp:

- Bẩm, tôi không được biết về chỗ ấy, chắc Động chúa biết. Quân sư có thể nào bỏi Động chúa về điều ấy được không?

Hai tướng Mạc Sa Cảnh, Chu Trạch Phương đăm đăm nhìn Quân sư. Quân sư nhẹ lắc đầu:

- Không thể được! Việc riêng của Động chúa tại sao ta lại tò mò như thế! Tuy nhiên, ta sẽ tìm hiểu việc này! Ta không tin người con gái ở bên cạnh Động chúa hiện giờ lại đúng là Phượng Mai quận chúa ở thành Cổ Loa! Ta sẽ biết sau! Ngoài Phượng Mai quận chúa ra, ông có thấy hai người kia thế nào?

Nguyễn Minh Khánh thẳng thắn:

- Bẩm Quân sư, từ lúc Quân sư hỏi câu đầu, tôi đã kinh hãi, đến bây giờ Quân sư mới hỏi đến câu tôi vẫ