Hồi Thứ Chín Mươi Chín Phấn độc biển bức hại người
Trận huyền nhiệm Áo Ly hiến kế
Các tướng nghe tế tác trình chẳng khác nào như vừa có tiếng sét đánh ngang mang tai. Pháp sư An Dương Thanh Sứ hung hăng đứng lên trước hò hét các tướng, mau mau theo ông đi lấy mạng Hoa Lư Động chúa Đinh Bộ Lĩnh. Soái tướng Lương Tích Lịch vội vàng đem hết các thuộc tướng ra ngoài cửa đại doanh xem xét tình hình.
Cứ doanh Phục Tượng trấn dài một dải từ Tây sang Đông, lọt vào giữa hai triền núi thấp cuối rặng Phục Tượng. Nằm trên con đường chạy về phía Đông là phủ đường Tế Giang mở rộng trong một vùng đồng bằng bao la. Cứ doanh trấn trên đường núi không còn con đường nào khác như cái nút chặn kín cổ vò. Vượt qua được nút và là thấy được phủ đường. Khe núi thật rộng, hai triền cách nhau nhìn không thấy cảnh. Ngày trước tướng Trình Kế Ngọc lập trại nằm ngay giữa khoảng trống hai triền núi, ông bảo: “Như thế, tuy có thể bị binh ngoài tấn công ba mặt, nhưng chắc chắn là không bị ngoại địch tranh chiến triền núi cao mà dụng trận đá”. Khi Trình Kế Ngọc viễn chinh tử trận thì tướng Lương Tích Lịch thay thế. Lịch xem xét lập thế của doanh trại xong thì bảo: “Lão tướng Trình Kế Ngọc lập trại như thế, chưa chắc đã tránh được thạch trận của ngoại địch. Vả chăng muốn tới được cứ doanh Phục Tượng để cướp cửa ngõ vào phủ đường, thì ngoại địch cũng phải qua được thủy doanh Bồ Đề trước đã. Không những thế ngoại địch không chỉ phải có thủy quân cho thật mạnh, mà còn phải có cả quân bộ chiến vào hàng cự phách nữa mới mong tới được Phục Tượng”. Rồi Lương Tích Lịch cho di trại vào sát chân núi phía Bắc. Bảo là: Như thế mùa Đông tránh được gió Bắc rét cóng, mùa hạ giảm được sức nóng vì trại chơ vơ giữa khoảng bao la.
Khi Sứ quân Lữ Đường hỏi, Lương Tích Lịch còn giảng giải: “Vả chăng, phủ đường là tim óc của Tế Giang, phía Bắc có cả một dãy doanh trại che chắn. Bắc Nam hai mặt giằng co làm thế ỷ dốc cho nhau. Ngoại địch nếu không biết chỉ dốc hết sức đánh một mặt thì cho dù sức mạnh ngang với Hạng Vương cũng không thể qua được. Tế Giang ta trời ban địa thế tốt, mặt nào cũng được che chắn tốt, doanh trại liền lạc, đồng ruộng phì nhiêu, dân cư thuần hậu, rõ ra là đất cho bậc đế vương ngự trị. Có thể gác tay ngủ yên được…” Vì thế Sứ quân Lữ Đường rất yên lòng, không còn lo gì đến việc phải đối phó với chinh chiến nữa.
Hồi ấy, ở phía Bắc phủ đường là những khu rừng bạt ngàn, núi thấp như đồi cao. Dân cư chen chúc sinh sống nương vào núi rừng với sông nước hiền lành. Đời sống ở vùng ấy được kể là nơi an lạc hạnh phúc nhất. Ở nơi bờ sông xã Đại Than (Gia Bình), có một ngôi miếu cổ cả trăm năm nghe nói rất linh thiêng. Người đến cầu khấn thường linh ứng, cho nên trên từ Sứ quân xuống đến hàng thứ dân bá tánh ai qua lại cũng xuống kiệu xuống ngựa tỏ ý tôn kính. Ngày nọ, có một người đàn bà lạ ở đâu đến che lá làm mái, ngủ ngay trước cửa miếu. Bá tánh lấy làm bất bình đuổi đi, người đàn bà ấy không đi. Tự xưng mình là vợ của thần Cao Thông, đến để chỉ vẽ cho Sứ quân.
Nhiều người nghe bà ấy nói thì kinh sợ, vội hương hoa cúng lạy, xì xụp khấn vái. Người đàn bà chẳng nhìn đồ cúng chẳng đuổi những người đến khấn lạy, chỉ một mực nói là “vợ Cao Thông” đến chỉ bảo cho Sứ quân.
Việc đồn đến tai Sứ quân. Lữ Đường vốn là tay đi lại sông hồ, hiểu rằng bản lĩnh tự thân mới là bí quyết sinh tử ở đời. Thần thánh chẳng qua chỉ là do lòng người nghĩ ra như thế, cho nên Lữ Đường ít tin ở quỷ thần. Bây giờ nghe trình, Lữ Đường bảo: “Việc nhảm nhí, vợ Cao Thông là ai mà dám đến chỉ bảo cho bậc chân mệnh đế vương được!”. Sứ quân cậy có binh hùng tướng mạnh, tin mình là chân mệnh đế vương tức là mệnh tự trời cao xếp đặt. Cho nên bác bỏ hết thảy những quỷ thần lặt vặt, nhưng Minh Minh phu nhân là người đọc sách, rất tin ở Trời Phật Thánh Thần. Khi nghe chuyện người đàn bà lạ, lại biết ý Sứ quân, thì bà liền sai nữ tỳ sửa soạn đồ lễ. Đích thân phu nhân lên kiệu đến miếu để gặp dị nhân.
Phu nhân Minh Minh thường hay kể cho thuộc hạ chung quanh nghe những việc Phật Trời thần thánh ma quỷ. Trong đó có chuyện miếu cổ nơi bờ sông Đại Than, cạnh đền có cây đại thụ cao ngất trời. Bà kể:
“… Cổ thư có chép. Ông Cao Biền đời Đường đi Nam chinh qua châu Vũ Ninh. Ban đêm mộng thấy thần nhân xưng tên là Cao Lỗ, bảo rằng: “Ngày xưa Thần đã giúp An Dương Vương chế tạo cái ‘Linh quang kim trảo thần nỗ’, có công đánh đuổi quân thù, mà bị Lạc Hầu gièm pha, sau mất. Thiên Đế thương có lòng trung, cho Thần quản lãnh một dòng sông. Nay theo ông đánh giặc, trở về bản bộ, nên đến đáp tạ”. Cao Biền thức dậy đem việc mộng kiến ấy nói lại với bọn liêu thuộc và đề bài thơ ở nơi miếu” [→12] . Sau, trong sách “Tục Bác Vật Chí” cũng có nói: Vua An Dương Vương có một vị thần tên là Cao Thông chế tạo cái nỏ một lần trương lên rồi bắn ra có thể giết chết đến hai trăm người.
Bây giờ phu nhân nghe nói có người đàn bà tự xưng là vợ Cao Thông thì tin ngay rằng đây là thần nhân xuất hiện, có điềm lành chỉ bảo. Phu nhân vội đi gặp người đàn bà là vì thế. Việc phu nhân đến cúng miếu lễ kiến người đàn bà, chớp mắt lan truyền trăm họ đều biết cả. Người người chen nhau đi, trước là xem phu nhân đi lễ thánh, sau là cũng đến để thắp hương cầu xin phù hộ.
Phu nhân gặp người đàn bà lạ, chẳng quản y thị là người áo quần lôi thôi, vóc dáng chẳng có gì là thanh thoát của bậc thần tiên. Bà vẫn thắp hương rồi kính cẩn trình:
- Thánh thần giáng phàm, người trần mắt chẳng thấy được Thánh thần, xin ngài đại xá!
Người đàn bà lạ thản nhiên nhìn phu nhân, nghe phu nhân nói như thế thì thong thả bảo:
- Ta xem sắc tướng bà chẳng phải là hạng tầm thường, cốt cách thanh cao. Sao lại vướng vào nghiệp nặng đến thế này!
Phu nhân kính cẩn nói là xin được nghe lời thánh nhân chỉ dạy cho. Người đàn bà đuổi hết mọi người ra, rồi nói với phu nhân:
- Tướng tinh bà là sao Ngọc Nữ trong cung Diêu Trì của Thánh Mẫu. Xuống thế chỉ vì thích rong chơi, nay sắp hết hạn trở về, nhưng cũng còn phải chứng kiến tang thương bi lụy trước đã. Nay chỉ vì tình nghĩa chị em đồng đạo với Thiên Đình, thường đi lại với nhau giữa cung Đâu Xuất với cung Diêu Trì. Ta mách bảo cho bà biết: mau mau đổi hướng nhà, quay mặt về Đông, bỏ hết sản nghiệp mà đi thì được an toàn. Đừng thương tiếc gì nữa, hãy trở lại cung tiên là hơn...
Phu nhân nghe nói thì kinh mang, hỏi nữa. Người đàn bà nói: Chỉ bảo cho như thế là nhiều rồi, về đi.
Phu nhân ra về lòng buồn rười rượi. Nhìn lại hướng phủ đường thấy quay về Nam thì càng lo lắng, liền đem việc nói với Sứ quân. Sứ quân nghe xong cả cười mà rằng:
- Có bao giờ việc lớn trong trời đất lại do nơi cửa miệng mụ đàn bà bẩn thỉu mà ra được. Chẳng qua y thì chỉ là hạng đồng bóng lừa bịp mê hoặc lòng người. Thấy phu nhân sang cả thì ngoa ngôn láo lếu để mong được nhiều lộc ban đây!
Rồi Sứ quân không nghe lời van xin can gián của phu nhân. Cứ sai binh tướng gấp ra miếu cổ bắt giết ngay người đàn bà lạ ấy. Binh tướng vâng lệnh Sứ quân, ầm ầm kéo đi, đến nơi chẳng thấy bóng dáng người đàn bà ở đâu. Nhìn ra chỉ thấy cây đại thụ cao ngất, quanh gốc cây không biết cơ man nào mà kẻ chân nhang (chân hương) cắm kín mặt đất. Đến lúc này vẫn còn hàng vạn cây nhang nghi ngút khói mờ cả một vùng trời. Hỏi thì chúng nhân bảo: Chiều hôm qua, trời không mấy không gió, bỗng dưng mưa trút xuống chỉ trong phạm vi miếu cổ. Người đứng bên ngoài chẳng mảy may ướt tí nào, trong trận mưa như trút nước ấy, người đàn bà lạ vẫn ngồi yên bên gốc cây. Nước chảy xối xả thành dòng chạy quanh gốc cây và người đàn bà. Sau mưa dần dần ngớt hạt. Hình bóng người đàn bà cũng tan dần lẫn với màn nước trộn vào thân cây. Mưa tạnh hơn thì chẳng còn dấu vết gì của người đàn bà ấy. Người đời cho là thần cây hiển linh, liền bảo nhau đốt hương cầu khấn đủ thứ, cho nên mới nhiều chân hương đến như thế.
Việc trình lên Sứ quân, ngài có phần suy nghĩ, mấy lần toan quyết định việc gì rồi lại thôi. Sau cùng thì khi Quân sư An Dương Thanh Sứ mang các tướng gấp đi hỗ trợ cho cứ doanh Phục Tượng, thì Sứ quân bất thần ra lệnh cho quân: Triệt hạ cây đại thụ, phá hủy miếu cổ. Quân vâng lệnh trong lòng run sợ không dám mạo phạm đến thánh thần, nhưng lệnh Sứ quân thì lại không dám cưỡng. Vì thế cứ dùng dằng chẳng binh tướng nào dám ra tay đốn cây. Đến chiều khi trời sắp tối, Sứ quân biết chuyện thì tức lắm. Ngài đích thân đem theo các tướng lên ngựa đến tận nơi miếu cổ. Ngửa mặt nhìn lên, đại thụ tán rộng không biết phải ước lượng thế nào mới gọi là tạm đúng được. Chỉ thấy một vùng mênh mông cành lá vươn ra che kín một khoảng trời tối thẫm, ngàn vạn con chim chiều hôm đã bay về tổ trên các cành cây ấy. Sứ quân xuống ngựa, các tướng dàn ra hai hàng. Sứ quân xăm xăm bước tới trước đại thụ rồi ngài quát lớn:
- Yêu nghiệt! Dám mê hoặc chúng nhân, làm rối lòng người. Bản đường vâng mệnh trời cao không thể dung dưỡng cho loài yêu nghiệt tác quái được!
Nói rồi, Sứ quân rút gươm Thuận Thiên sống vàng lưỡi bạc bước tới chém vào thân cây. Nhát gươm chém vào thân cây mạnh không nghe tiếng kim loại sắc bén chém ngập vào vỏ cây mà lại nghe “choang” một tiếng, như vồ vàng đập vào khánh bạc. Tiếng vang ngân mạnh đến rung cả nhĩ tai, bay xa đến cả dặm đường còn nghe thấy. Từ chỗ lưỡi gươm chém vào vỏ thân cây toác ra nhựa tuôn xối xả không trắng hay đục mà lại thẫm đỏ đặc sệt như máu sắp đông, mùi tanh tưởi. Sứ quân kinh hãi ra sức chém tới tấp vào thân cây, vừa chém ngài vừa thét “Yêu nghiệt! Yêu nghiệt”. Sứ quân chém đến cả trăm nhát, cánh tay mỏi nhừ mới dừng lại, thân cây nát bét lớp vỏ. Nhựa máu tuôn ngập mặt đất dính đầy cả giày thêu long phụng của Sứ quân.
Sứ quân truyền ngày mai quân sẽ phải đốn cây cho được, ngài bảo đã triệt hạ yêu ma trong cây ấy rồi.
Ngay trong đêm hôm ấy, Sứ quân không bệnh tật gì bỗng cảm thấy trong người như ngâm trong nước lạnh, run lẩy bẩy, tinh thần hoang mang, mệt mỏi muốn ngủ thì hai mắt không tài nào nhắm lại được. Vì cứ nhắm mắt là lại thấy cây đại thụ máu tuôn rào rào, tai nghe rõ tiếng thét “Yêu nghiệt! Yêu nghiệt!”. Đến sáng thì Sứ quân như người mất trí, chẳng còn biết mọi việc chung quanh. Trong đêm, bao nhiêu tin khẩn cấp trình về phủ đường, phu nhân Minh Minh phải thay chồng đón nhận, chỉ xử mọi việc. Sáng ra, giữa tiết xuân đầm ấm mà sương mù dày đặc, đứng cách nhau vài bước chân là không nhận được nhau. Rồi trong sương mù dày đặc ấy lại có tiếng vượn hú vang nghe thê lương. Phu nhân Minh Minh thấy điềm lạ, sao ở chốn phủ đường giữa nơi thị tứ lại có vượn đến kêu thương. Ở đây có phải là núi rừng hoang vắng đâu mà lại có điềm lạ như thế!
Phu nhân với truyền quân hầu sửa soạn kiệu để bà đến thăm đền sinh mẫu của Phù Đổng Thiên Vương. Đền ở xã Thị Cầu, huyện Vũ Giang. Đền này phu nhân mỗi khi có việc khó khăn không giải quyết được thường đến để cầu thần linh ứng giải.
Phu nhân giao việc phủ tường cho các tướng trông nom, lại dặn là săn sóc Sứ quân đừng để ngài biết là phu nhân đi vắng. Kiệu phu nhân ra đi, đường không khó khăn nhưng xa xôi vất vả. Nửa cung ngựa thay phu kiệu một lần, gấp rút đi cho nhanh. Đến gần buổi trưa thì đến nơi, phu nhân hấp tấp mang lễ vật lên đền. Bà đốt hương quỳ lạy thần linh, rồi khấn vái xin được linh thần giảng giải cho biết mọi việc. Rồi phu nhân xin thẻ được quẻ thứ bảy mươi ba trong một trăm lẻ tám quẻ. Cầm quẻ bói trong tay, phu nhân run run đọc những dòng chữ mơ hồ nhưng lại linh ứng chẳng sai mảy may với những việc xảy ra mới đây. Trong quẻ có câu: “Lửa tây thiên nửa đêm mặt trời dậy, vượn trắng phương Bắc không nhà về, chồn tinh đào hang đổ ngọn Nam sơn, sang Đông hoa tàn nguyệt ám”. Bài kệ vu vơ nhưng phu nhân là người thông minh linh tuệ, bà lờ mờ thấy những việc chẳng lành, đã chẳng có tin là thủy trai ngút lửa mà thủy trại chẳng ở phía trời Tây của Tế Giang là gì. Tiếp đến mới có tin binh tướng Hoa Lư theo đường ngã ba Xích Đằng, vượt Lê Xá, phá Phú Thị, theo dòng Nghĩa Trị tràn xuống Xuân Lâm. Sắp dứt xong phủ đường phía Bắc của Tế Giang là gì? Vả lại, Sứ quân Lữ Đường lúc chưa khởi nghiệp hay đi lại giang hồ, có tài leo núi vượt rừng. Người trong thiên hạ khen là tài đặt cho tên hiệu là Bạch Viên Thần (con vượn thần lông trắng). Thế thì vượn trắng không nhà về chẳng ứng vào Sứ quân còn ứng vào ai nữa! Còn mặt phía Nam, con chồn tinh đào hang làm đổ ngọn núi Nam, thì chắc là binh Hoa Lư ở mặt này chính là tai họa cho Sứ quân rồi chứ chẳng sai?
Phu nhân đọc quẻ kệ, hai hàng nước mắt bỗng lã chã tuôn rơi. Bà quỳ lạy linh thần tạ ơn đã chỉ giáo, lại nguyện rằng: “Nếu như quả thật sự nghiệp của Sứ quân đến lúc tàn vong, thì xin được về trời êm ả”. Phu nhân khấn nguyện xong đứng dậy, trời đang giữa trưa nắng đầu năm ấm áp dịu dàng bỗng chuyển sang u ám mờ mịt như lúc trời sắp mưa lớn giữa mùa mưa. Rồi sương mù lại từ trong cây cỏ núi rừng đùn ra chớp mắt kín cả trời đất. Kiệu của phu nhân lúc trở về phải đốt đuốc mà đi, nhiều nơi phu kiệu phải lần từng bước chân. Sương tối như vậy cũng phải đến một giờ hai khắc mới tan hết. Lúc ấy trời đã xế về chiều.
Phu nhân Minh Minh về đến phủ đường trong lòng đang rối bời với quẻ xin miếu sinh mẫu Đổng Thiên Vương, lại càng kinh hãi hơn với sự thể nơi phủ đường hơn nữa!
Từ lúc phu nhân ra đi, trao việc trông nom phủ đường lại cho các tướng. Các tướng lại cử em vợ Sứ quân là quân lương tướng Hồ Minh Duy cai quản mọi việc. Duy vốn bất tài, ỷ mình là em vợ Sứ quân. Nay trong lúc việc quân rối loạn phủ đường có chủ mà như không chủ, thì ra lệnh cho quân tướng còn ở lại phủ phải thu xếp để ra đi. Duy bảo: Tình thế này không xong rồi, quân Hoa Lư chỉ khoảng chiều tối là tràn đến phủ đường. Phải mau mau lui về cứ doanh Đầm Cự Linh. Thế là phủ đường náo loạn, mạnh ai thu xếp việc riêng của nhà mình, chung quanh tấp nập mà phủ đường lại yên tĩnh. Sứ quân vẫn cứ thiêm thiếp như người say ngủ chẳng biết gì.
Phu nhân vội lệnh cho binh tướng không được náo loạn, phải vững kỷ luật, đợi lệnh của bà. Phu nhân duyệt các tin tế tác suốt từ sáng đến giờ trình về, càng xem phu nhân càng thấy run trong lòng. Binh tướng ở phủ đường hấp tấp lo bỏ chạy là phải lắm rồi. Phu nhân quyết định đóng xe bốn ngựa trận, lót nệm êm để Sứ quân nằm, sửa soạn thật nhanh mọi việc để theo các tướng lui về Cự Linh. Lúc ấy, phu nhân thoăn thoắt đi lại chỉ huy mọi việc thật minh mẫn, đến lúc trời bắt đầu tối thì mọi việc xong xuôi. Phu nhân cho lệnh lên đường.
Đúng vào lúc ấy, tế tác phía Bắc tranh đường với tế tác phía Tây tràn ngựa đến hô lớn xin trình tin tối khẩn. Phu nhân cưỡi ngựa trận, khoác chiến bào vàng tươi, ngang lưng treo thanh kiếm lệnh bằng bạc. Phu nhân chẳng quen việc chiến trận nhưng lúc này bà lại hăng hái lên ngựa điều khiển bình tướng. Bà hi vọng hoặc là các tướng kịp lui về giữ phủ đường, hoặc là Sứ quân chồng bà sẽ qua cơn kinh động sẽ tỉnh lại. Hi vọng chưa thấy có chút gì làm phu nhân hởi lòng thì tin đã dồn dập trình tới.
Trước hết là tế tác phương Bắc tung dây cương xuống ngựa quỳ gối thưa:
- Bẩm trình phu nhân, binh tướng Hoa Lư có Động chúa Hoa Lư Đinh Bộ Lĩnh cai quản, đã phá xong doanh trấn phòng Xuân Lâm, một tướng giữ trận là Tôn Quang Phiệt tử trận. Trước nữa, tướng Nghiêm Bắc Sơn trấn ở Phú Thị vừa vào trận thì bị quân làm phản giết chết dâng doanh cho tướng Hoa Lư. Xa hơn nữa trấn ở ải địa đầu Lê Xá là tướng Nguyễn Kỳ Cao. Nghe danh Động chúa Hoa Lư đích thân cầm quân, lại mắt thấy Động chúa đi đầu dẫn quan công thành thì sợ quá. Vội vàng trương cao cờ trắng xin đầu hàng rồi! Hiện giờ, phía Bắc phủ đường không còn cách gì giữ được nữa. Tướng chết, quân vứt khí giới đầu hàng xin tha chết đông có đến cả muôn người!
Phu nhân kinh hãi, ngồi cơ hồ không muốn vững trên lưng ngựa. Đến lượt tế tác phía Tây quỳ xuống trình tin:
- Bẩm trình phu nhân. Động chúa Hoa Lư đích thân cầm quân ở phía Tây, đi đầu dẫn các tướng lấy cứ doanh Phục Tượng. Soái tướng Lương Tích Lịch đem gươm thần ra cự chiến suốt một buổi sáng đến gần giữa trưa thì thế trận lung lay, không giữ được sắp tan vỡ. May thay có Quân sư pháp sư An Dương Thanh Sứ kịp đem các tướng đến cứu, thế trận tạm vững. Nhưng xem ra vì trong trận Hoa Lư có Động chúa cầm quân, cho nên tinh thần binh địch rất hăng. Quân ta vì thế mà sợ hãi, soái tướng sai chúng con về trình tin Sứ quân, gấp di dời phủ doanh sang cứ địa Cự Linh. Nếu trận Phục Tượng thất lợi thì binh có đường triệt thoái. Lúc ấy chúa công mới an toàn được!
Phu nhân bủn rủn tay chân. Tại sao ở đâu tế tác cũng trình là có Động chúa Hoa Lư đích thân cầm quân xuất trận. Chẳng lẽ nào Đinh Bộ Lĩnh lại có phép phân thân cùng một lúc hiện ra ở nhiều nơi được sao? Trong lo sợ ấy phu nhân cũng chợt thấy bồi hồi. Bà cố nghĩ mà không hình dung ra được hình ảnh khách anh hùng lẫy lừng ấy thế nào?
Tức thì phu nhân truyền các tướng lên đường ngay. Binh tướng Tế Giang ra đi vội vã, các đồ riêng tư rơi vãi la liệt trên đường. Bá tánh nhiều người cũng vội thu xếp bồng bế nhau chạy theo. Lại có những kẻ lưu manh thừa lúc hỗn độn tha hồ cướp bóc, gây ra những tai họa trời sầu đất thảm rồi lại tự xưng là: “Quân tiên phong của Hoa Lư vào thành phủ đường trước để mở đường cho đại quân vào sau”. Tình cảnh dân lành ở quanh phủ đường Tế Giang lúc ấy thật khốn khổ không sao tả xiết được!
Trên đường sang Cự Linh, phu nhân Minh Minh liên miên nhận tin tế tác ở hai mặt Nam Bắc đến trình. Với mặt Bắc phu nhân thấy không còn hi vọng gì nữa. Ở mặt Bắc chỉ vì Sứ quân cho là chẳng bao giờ lại có thể binh ngoài kéo tới, hoặc giả có chiến trận ở đấy thì đường xa, địa thế không thuận lợi cho phía Bắc đánh xuống. Cho nên không cần phải bố trí nhiều binh tướng. Phía Bắc mất thật nhanh chóng là điều phải lắm, không có gì phải ngạc nhiên hay thắc mắc cả. Phía Tây, bao nhiêu sức lực Tế Giang đều đã dồn cả vào cứ doanh Phục Tượng. Cứ doanh này thành công vì có thể cản hay đánh lui được binh Hoa Lư. Vì thế Quân Sư pháp sư An Dương Thanh Sứ đã mang thêm các tướng đi cứu viện. Bao nhiêu tướng giỏi của Tế Giang đều đã tụ hội cả lại ở mặt trận này. Phu nhân thấy có đôi chút hi vọng.
Phu nhân Minh Minh hi vọng ở trận Phục Tượng là phải lắm. Bởi lúc ấy binh đôi bên chiến nhau suốt từ nửa đêm đến sáng vẫn chưa phân thắng bại.
Tướng quân Đinh Điền khi thấy phía Tây lửa cháy, thì biết là tướng Hồ Tường Thụy đã mở trận. Lửa cháy chỉ trong một thời gian ngắn là đã rực đỏ cả một vùng trời. Vẳng trong gió đưa còn nghe có cả tiếng quân reo mơ hồ, thỉnh thoảng còn thấy tàn lửa lớn cuốn gió hút lên cao. Tức thì Đinh Điền hô quân nhập trận.
Cứ doanh Phục Tượng lập hai cửa chính Đông Tây, cửa phía Tây do soái tướng Lương Tích Lịch đích thân cai quản. Thêm tướng Hầu Nhân Đạo và vợ của soái tướng là Đào Thẩm Chi hỗ trợ.
Lương Tích Lịch là hổ tướng của Tế Giang, tinh thông vũ nghệ nhưng không giỏi phép lập trận hành quân. Tuy thế bên cạnh Lịch lại có tướng Hầu Nhân Đạo vốn xuất thân là kẻ sĩ đọc sách, chủ trương đem trí tuệ ra để thắng bạo lực. Đạo rất được Sứ quân thương yêu nhưng không dám cất nhắc cao vì nhiều tướng không ưa Đạo. Sứ quân cho Đạo luôn luôn đi bên cạnh hổ tướng Lương Tích Lịch là để giúp Lịch về mặt trí óc. Như thế hai người dễ tạo thành được một tướng tài kiêm văn võ. Hầu Nhân Đạo dáng người nho nhã, lúc ấy ở vào tuổi ngoài ba mười một chút, trong quân thời chiến mã vẫn chẳng bao giờ lại không có sách trong tay. Hầu Nhân Đạo xem địa hình khe núi Phục Tượng, xét thế lập doanh trấn của soái tướng Lương Tích Lịch thì nhiều lần bàn với Lịch rằng:
- Ông vâng lệnh Chúa công trấn giữ ở nơi quan trọng này, có khác nào cổ họng người ta. Qua được là xuống đến dạ dày, cho nên doanh trấn tuy hùng hậu nhưng cũng cần phải được địa thế hỗ trợ. Ngày xưa, lão tướng Trình Kế Ngọc không lập trại sát chân núi cũng có lý, ngày nay ông cho trại dựa hẳn vào chân núi để tránh bị công kích nhiều mặt cũng lại có lý! Tuy thế, binh ngoài không thể cùng một lúc đánh nhiều mặt được. Cho nên doanh trấn xa ra khỏi chân núi lợi hơn nhiều, có thể tránh được thạch trận, xa cây rừng tránh được hỏa công, lúc chuyển động dễ biến trận.
Lương Tích Lịch cậy tài riêng, ỷ là soái tướng. Hầu Nhân Đạo dù thế nào chăng nữa cũng chỉ là một thuộc tướng của Lịch chứ có phải là Quân sư của Lịch đâu. Cho nên bao nhiêu lời bàn khuyên bảo của Đạo đều bị Lịch bác bỏ. Lịch bảo:
- Ông đọc sách thấy người xưa nghĩ, làm như thế nào thì lại muốn ta nghĩ rồi làm như thế, lại thêm địch có phải là ai cũng đọc sách rồi làm như ông đâu mà ta phải lo theo cái lo của người xưa! Vả lại, quân viễn chinh Hoa Lư đường xa tới đây, chiến với ta là quân trấn thủ có đầy đủ các điều bình thư quy là lợi thế. Làm sao binh ngoài có thể trong chớp mắt lập được thạch trận ở trên cao, mặt trước dụng đến quân công thành để phá ta được. Ông chẳng nên lo nhiều như thế!
Hầu Nhân Đạo không thể nào khuyễn Lương Tích Lịch được, đành ngậm miệng đợi xem tình thế. Đến khi thấy lửa cháy ở phía Tây, tế tác trình tin cho hay binh Hoa Lư đánh thủy trại, thì Hầu Nhân Đạo hoang mang lắm. Không hiểu tại sao Hoa Lư lại hành động như thế, rõ ràng là Hoa Lư phạm nhiều sai lầm.
Lương Tích Lịch thì hân hoan bảo với Hầu Nhân Đạo:
- Ông thấy chưa! Người xưa trong sách vở của ông có phải bao giờ cũng là mẫu mực cho đời nay đâu? Hoa Lư đánh thủy trại của ta, làm sao qua được Bát quái Trận đồ trên sông của ông Đỗ Hùng Liệt với thanh gươm thần bạc đúc, biết gọi âm binh thần tướng! Giả sử ông Liệt cầu ta tiếp trợ, phỏng Hoa Lư làm sao còn manh giáp mỏng để chạy về được nữa! Ta chỉ cần đợi vài khắc là biết ngay sự thật. Nếu ông Liệt không cầu cứu ta thì cũng là báo cho ta biết Hoa Lư thảm bại. Binh ta ở Phục Tượng chẳng phải vất vả mất công vào trận, ông cứ đợi mà xem!
Lửa trận trên sông Xích Đằng càng lúc càng lớn, rực sáng cả một vùng trời. Chẳng thấy có tế tác nào chạy về báo tin, Lương Tích Lịch thắc mắc, Hầu Nhân Đạo cũng thắc mắc, mỗi ông thắc mắc một cách. Cuối cùng, khi đêm đã quá giờ Sửu sang đầu Dần. Lúc ấy mới thấy tế tác hớt hơ hớt hải chạy về doanh Phục Tương trình: Động chúa Hoa Lư đích thân cầm quân phá trận Bát quái, mặt ngoài sông lại có binh thủy tiếp chiến. Phía Bắc không hiểu sao lại có binh tướng Hoa Lư trấn giữ, làm cho binh thủy Tế Giang không có lối thoát, cự không lại đã tan vỡ rồi!
Lương Tích Lịch kinh hãi đến ngơ ngác, tướng văn nhân Hầu Nhân Đạo lắp bắp:
- Tướng quân, mau mau cho quân ứng chiến. Hoa Lư thế nào cũng sắp đánh cứ doanh của ta!
Lương Tích Lịch hốt hoảng:
- Sao Hoa Lư sắp đánh doanh ta?
- Tôi tin là Hoa Lư đánh doanh ta để không cho ta tiếp cứu thủy trại. Vừa bất thần mở trận tranh lợi thế binh tiến như vũ bão!
Hầu Nhân Đạo vừa nói xong, tế tác đã lại hấp tấp đến trình: Phía Bắc phủ đường, binh Hoa Lư có Động chúa Đinh Bộ Lĩnh sai khiến trận, đã vượt qua được tất cả các trận doanh của ta. Sắp vào thẳng phủ đường rồi!
Nghe tin trình, Hầu Nhân Đạo lại vội vã bảo:
- Không xong! Đinh Bộ Lĩnh có phép phân thân hay sao mà ở đâu cũng thấy y xuất trận! Nếu các trấn doanh phía Bắc của ta bị mất cả rồi, thì phủ đường không còn doanh nào bảo vệ nữa. Doanh Phục Tượng ta vừa không giúp ích được gì cho phủ đường mà lại còn bị bốn mặt vây vào giữa không có lối thoát! Tướng quân mau mau cho quân lui về một là để cứu phủ tường, hai là để khỏi bị quân Hoa Lư cắt mất đường lui của ta!
Lương Tích Lịch là tướng dũng mãnh, trước kia theo các danh tướng lão luyện vào trận thì chỉ vâng lệnh sai bảo, chứ chưa từng bao giờ một minh cai quản hay lập trận cả. Nay Tế Giang bị thiệt nhiều tướng vì trúng kế Hoa Lư, cho nên Sứ quân Lữ Đường chọn Lịch là tướng giỏi nhất sai ra trấn giữ doanh Phục Tượng. Bây giờ, tình thế khẩn cấp chẳng khác nào như nước đang sôi trong nồi lại còn thêm lửa, củi đang cháy lớn lại thêm gió mạnh thổi tới. Lương Tích Lịch bàng hoàng đến mụ cả người chẳng biết phải hành động ra sao nữa!
Vợ của Lương Tích Lịch là Đào Thẩm Chi bàn:
- Lời ông Đạo nói chẳng phải là sai, nhưng có điều chúa công sai bọn ta ra trấn ở nơi trọng yếu này, giặc chưa tới đã bỏ lui. Liệu như thế có phạm vào quân pháp hay không?
Vừa lúc ấy, tin trình vào là có Quân sư pháp sư An Dương Thanh Sứ, cùng một số các tướng nữa vâng lệnh Sứ quân tới hỗ trợ cho cứ doanh. Tướng Lương Tích Lịch cả mừng vội vàng ra đón, riêng Đào Thẩm Chi thì bỏ vào trong, nàng không muốn gặp mặt An Dương Thanh Sứ.
Vào hội, An Dương Thanh Sứ nghe các tin, duyệt tình hình. Đúng vào lúc ấy tin ngoài trình vào là binh Hoa Lư có Động chúa đích thân chỉ huy các tướng đã đến sát Phục Tượng. Pháp sư hăng hái bảo là để ông đi bắt sống Đinh Bộ Lĩnh.
Pháp sư đứng dậy, các tướng vội kéo theo. Pháp sư bảo Lương Tích Lịch mang quân dàn ra phía trước, chặn đường binh Hoa Lư. Pháp sư một mình cưỡi con trâu trắng sừng vẽ đủ thứ bùa lòe loẹt xanh đỏ nhiều màu. Pháp sư khoác đạo bào màu vàng đất bẩn, lưng vẽ hình âm dương giao hội. Đầu pháp sư quấn khăn Khôi Nguyệt vành móng lẹm ở giữa, hai bên mang tai tóc kéo xõa ra ngoài. Ngang lưng treo túi gấm đựng xác chín con biển bức khô núi Sài Sơn, lại thêm thanh gươm gỗ ba la mật. Trông pháp sư thật là quái đản. Pháp sư cho ngựa trắng nghênh ngang đứng ở giữa lối đi. Đằng sau xa xa, các tướng dàn hàng ngang chờ đợi.
Đợi chưa lâu, đã thấy xa xa bụi vẩn mờ, cờ xí phất phới, kỵ binh đang ào ào vào trận. Binh tướng Hoa Lư trong đêm tối không trông rõ hình dáng thế nào, nhưng cứ xem cách tiến tới thì quả thật đông mà dũng mãnh lắm. Pháp sư nheo nheo cặp mắt tròn nhỏ tí nhìn. Mắt pháp sư thật tinh tường còn hơn cả mắt linh miêu. Ông đã nhìn rõ một tướng vóc dáng to lớn, tay cầm cây côn đồng dẫn đầu đoàn quân. Pháp sư cho là người này chính là Hoa Lư Động chúa Đinh Bộ Lĩnh.
Đợi cho tướng Hoa Lư lại gần, đạo quân theo lệnh ngừng bước. Lúc ấy pháp sư mới the thé gọi:
- Tướng giặc kia, thằng chăn trâu cắt cỏ ngông cuồng kia, sao tự dưng lại xâm phạm Tế Giang ta. Hôm nay bản pháp sư trước khi vào trận có xem quẻ bói “ma linh thần quẻ” thấy đấng tổ sư Lão đam dạy rằng: Hôm nay pháp sư ta phải mất công hóa độ cho bầy ma quỷ. Ta chưa biết bầy ma quỷ nào, hóa ra lại là bọn Hoa Lư chúng bay!
Tướng Hoa Lư chính là Đinh Điền, nghe pháp sư thét thì giận lắm. Nhớ lời Quân sư dặn về pháp sư An Dương Thanh Sứ ở Tế Giang, thì liền đáp:
- Con ma dâm dật tự nhận danh của thần tiên kia, mày hại nhiều người quá rồi. Hôm nay Đinh Điền ta vâng lệnh Hoa Lư Động chúa Đinh Bộ Lĩnh đến để tru diệt mày đây. Sao dám càn rỡ nhắc đến Động chúa ta như vậy!
Đinh Điền thúc ngựa bay lên, thét quân xung trận. Tức thì bên Tế Giang các tướng cũng nhất loạt xông lên cản Đinh Điền, để cho pháp sư lui lại giám trận. Các tướng Tế Giang cậy đông toan vây lấy Đinh Điền. Điền thét lớn:
- Ta nghe Tế Giang có tướng Lương Tích Lịch có gươm A Hồ Lục Cương chưa ai thắng được. Tướng ấy đâu mau mau ra đấu với ta trăm hiệp xem sao?
Tức thì cửa trận rẽ ra, một tướng xốc ngựa bay đến. Tướng này vóc dáng to lớn chẳng thua gì Đinh Điền. Mặt vuông vức gân guốc rõ ra là tay dữ dội. Thanh đoản kiếm treo ở chiến đai, chiến bào vàng nhạt. Tướng này không cầm dây cương ngựa mà vẫn điều khiển được ngựa theo ý muốn của chủ.
Tới trước trận, tướng cao lớn hô to:
- Lương Tích Lịch là ta, dưới gầm trời này quả thật danh lớn của ta ai cũng biết, đến bọn ở hang hốc Hoa Lư chúng bay cũng còn nghe thấy. Vậy sao dám càn rỡ muốn đối địch với ta?
Đinh Điền ngắm nghía Lương Tích Lịch, nhớ những lời dặn của Quân sư về thanh gươm A Hồ, liền đáp:
- Trong thiên hạ, gươm ma A Hồ Lục Cương trong tay yêu nghiệt Lương Tích Lịch đã hại bao nhiêu người. Ngày nay gặp Đinh Điền ta thì bao nhiêu nợ ngươi còn thiếu của thiên hạ ta đòi lại hết cho thiên hạ! Ta đã đến đây, thì người phải hiểu tình thế mới phải. Sao vẫn còn u tối ngớ ngẩn đến như vậy!
Quả thật việc binh tướng Hoa Lư đã tới tận nơi này, là một điều để Tế Giang phải hiểu ra tình hình nguy ngập rồi. Làm gì còn có cơ hội để tướng Tế Giang lớn tiếng nữa. Cho nên khi nghe Đinh Điền nói xong, thì Lương Tích Lịch cũng thấy lo lắng, liền rút gươm A Hồ thét các tướng vào trận.
A Hồ Lục Cương kiếm ra khỏi bao, ánh xanh mờ ảo của gang xanh tôi luyện đến mức độ cứng như kim cương. Nhoáng nhoáng trong ánh lửa đuốc chiến trường lúc trời còn tối. Đinh Điền thấy tướng Tế Giang đã hoa gươm báu thì lập tức giục ngựa vọt tới. Côn đồng cướp đường đánh ra một đòn quét rộng, đẩy lui tất cả các tướng Tế Giang lại.
Nhân lúc Đinh Điền chú hết tinh thần vào đối địch với các tướng Tế Giang. Pháp sư An Dương Thanh Sứ cởi túi phép treo ở thắt lưng ra. Pháp sư mở rộng miệng túi, miệng lẩm bẩm chẳng biết niệm chú thế nào. Chỉ thấy một lát giữa khi các tướng đang nỗ lực tranh hùng với nhau, thì trong bóng tối có chín con dơi to lớn dị thường bay lượn. Các tướng Tế Giang hiểu ngay sự việc lập tức huơ binh khí tìm đường giạt cả ra. Để cho Đinh Điền chơ vơ giữa trận.
Mới đầu, Đinh Điền tưởng là các tướng Tế Giang lui ra nhường chỗ cho tướng Lương Tích Lịch một mình cự chiến với ông. Đến khi thấy chính Lương Tích Lịch cũng gác gươm A Hồ trên đầu ngựa lui ra đợi chờ, rồi lại thấy nhiều bóng dơi to lớn bay cực nhanh trong bóng tối. Thì Đinh Điền hiểu ngay là pháp sư đã sai chín cái xác dơi khô ma quái vào trận.
Định Điền, hổ tướng Hoa Lư, vào trận có kể gì sinh tử. Bây giờ gặp pháp sư thi thố tài phép yêu ma thì ông chẳng chút lo ngại. Cặp mắt tinh anh của Kim Côn Tướng nheo nheo nhìn trong bóng đêm xem những con dơi ma quái ấy làm gì. Đinh Điền thấy những con dơi thật lớn bay như những cái bóng không hề có tiếng động nào, chúng bay đi bay lại rồi dần dần quần tụ lại phía trên đầu Đinh Điền. Đinh Điền vẫn không tỏ chút gì nao núng, cũng chưa biết mấy con dơi sẽ làm gì, chỉ thấy chúng bay nhanh lạ lùng. Cuối cùng thì chín con dơi ma tụ lại ngay trên đầu Đinh Điền rồi dần dần bay thấp xuống như thể chúng muốn đậu lên đầu Đinh Điền.
Việc kể thì lâu, nhưng tại chiến trường lúc ấy việc xảy ra lại mau lắm. Đằng xa, pháp sư ngồi trên mình con trâu trắng vẽ đủ thứ bùa xanh đỏ. Pháp sư một tay chắp trước ngực, một tay cầm thanh gươm gỗ chỉ thẳng ra phía trước. Lúc ấy, pháp sư chợt rú lên the thé, miệng pháp sư thốt lên những câu bùa phép nghe lạ tai chẳng giống tiếng người, tay gươm đang giữ thẳng ra đằng trước bỗng chém bổ xuống.
Đinh Điền trong trận không biết, nhưng các tướng Tế Giang thì biết rõ, ông nào cũng khấp khởi mừng trong bụng. Tướng Hoa Lư phen này không thoát được vòng vây của chín con biển bức rồi. Quả đúng thế, Đinh Điền tay côn vẫn chưa triển ra. Ông còn đợi xem đám dơi ma làm trò gì, đến khi thấy chúng như là xuống thấp sắp sát đầu thì lập tức côn đồng hoa lên. Đinh Điền ra một thế “Thiếu nữ dâng hoa” côn đi nhanh chẳng thua cánh dơi khô đang bay đập trúng ngay một con dơi nghe “bộp” một tiếng như thể đập vào túi nước đầy. Tức thì con dơi trúng côn tan ra như làn bụi mỏng bay xuống Đinh Điền. Trong bóng tối của ngày chưa rạng sáng, Đinh Điền dù mắt tinh đến đâu cũng không thể thấy những hạt bụi biển bức khô ấy bay xuống phủ lên đầu ông.
Chỉ trong chớp mắt, Đinh Điền thấy đầu nặng, hai mắt hoa lên, trời đất như tối sầm lại. Lúc ấy ông mới chợt hiểu ra nguy cơ thì đã muộn. Chúng tướng Tế Giang đứng bên ngoài thấy Đinh Điền đập trúng một con dơi ma thì hiểu là tướng Hoa Lư nguy rồi. Pháp sư thường bảo: Những con biển bức khô này luyện bằng ma thuật không phải là dơi còn sống có xương thịt bình thường, mà chúng là những túi độc dược cực mạnh. Chỉ cần chạm phải độc ấy là hôn mê. Ngoài pháp sư ra thì không ai có thuốc chữa. Chỉ trong hai hay ba ngày người bị trúng độc biển bức Sài Sơn là thân thể tan thành máu tanh. Đinh Điền đập trúng một con dơi những tưởng là tiêu diệt được nó, hóa ra lại chuốc lấy họa lớn!
Đinh Điền hiểu thế nguy, tay chân rã rời, nhưng tinh thần còn tỉnh táo lắm. Ông vừa quay ngựa chạy về vừa hô quân mau mau triệt thoái. Hô xong thì Đinh Điền gục xuống cổ ngựa mê man chẳng còn biết gì nữa!
Khi Đinh Điền đập một côn trúng xác con dơi khô, thì pháp sư cùng các tướng Tế Giang trong lòng mừng lắm. Quả nhiên thấy Đinh Điền quay ngựa bỏ chạy thì lập tức cả bọn nhất tề ùa lên hò reo đuổi theo.
Pháp sư chưa kịp thu lại những xác dơi khô, các tướng chưa đuổi theo được mấy bước, đã thấy phía trước binh Hoa Lư vừa rối loạn bỗng vững lại ngay. Rồi một tướng xốc ngựa bay đến cùng với tiếng thét:
- Giặc Tế Giang không được lộng hành! Có Động chúa Hoa Lư đến trừng trị các ngươi rồi đây!
Người vừa mới tới, chính là Động chúa Hoa Lư Đinh Bộ Lĩnh. Ngài đã kịp nhận thấy tất cả vội hô quân mau đưa Đinh Điền trở lại, một mình Động chúa xông vào trận.
Động chúa Hoa Lư nhập trận bất ngờ quá, ngài như thiên thần vừa hiện ra thì tay búa đã tung hoành đánh dội các tướng Tế Giang trở lại. Trên cao những con dơi ma vẫn còn bay lượn.
Các tướng Tế Giang kinh hoàng, có người như mê hoảng để mặc cho ngựa chạy không biết là chạy đi đâu! Tế tác trình là Động chúa Hoa Lư đang cầm quân ở phía Bắc, sao lại xuất hiện ở đây? Có thể nào tế tác lại không biết Động chúa Hoa Lư đang có mặt ở nơi này! Ở đâu Hoa Lư Động chúa xuất hiện, thì ở đấy phải là cuộc chiến lớn lao. Như vậy thì theo chân rộng chúa vào trận ở Phục Tượng này còn có những kỳ tướng nào của Hoa Lư?
Các tướng Tế Giang còn đang phân vân kinh hãi. Động chúa thét lớn:
- Có Động chúa Hoa Lư, Đinh Bộ Lĩnh đã tới đây rồi. Sao các ngươi còn chưa xuống ngựa quỳ lạy!?
Tiếng thét như sấm vang, có tướng không kịp suy nghĩ vội vàng quay ngựa bỏ chạy. Ngay sau tiếng thét của Động chúa, Quân sư pháp sư An Dương Thanh Sứ quan sát trận địa rồi hấp tấp toan thu hồi những con biển bức ma, để rồi lại niệm ma chú sai khiến chúng. Thì một loạt tên bắn đi cực nhanh, bốn con biển bức chưa kịp chui vào túi pháp sư đã bị tên bắn trúng. Xác bụi bay tung ngay phía trên các tướng Tế Giang. Pháp sư kinh hoàng rít lên, ông không thể ngờ được trong quân của Hoa Lư lại có tay thần tiễn Hồ Tường Thụy theo ngựa của Động chúa Hoa Lư vào trận.
Ngay sau khi hỏa công phá tan thủy trại của Tế Giang, tế tác đã đến trình Hồ Tường Thụy là: “Lệnh của Quân sư, tướng quân gấp sang phía Đông trợ trận cho Đinh Liễn”. Lập tức Hồ Tường Thụy trao lại binh quyền thu xếp việc thủy trại cho tướng Nghi Bá Tường rồi ra đi ngay. Thụy vào trận đúng lúc Động chúa Đinh Bộ Lĩnh kịp tới cứu Đinh Điền.
Tình thế không có lợi, tức thì tướng Lương Tích Lịch truyền phát lệnh thu quân. Động chúa thấy Đinh Điền trúng thương thì cũng không muốn tiếp chiến nữa cho nên cũng cho lệnh thu quân.
Quân đôi bên vừa lui trở lại, thì tướng Hồ Tường Thụy lại được mật lệnh của Quân sư gấp trở lại quân doanh đang trên đường ra Siêu Loại. Thụy tới lạy chào Động chúa rồi đi ngay. Động chúa trong lúc bối rối, nhìn Đinh Điền thiêm thiếp, khám khắp nơi trên toàn thân chẳng thấy có vết thương nào. Nghe quân kể lại thì ngài quyết đoán về độc chất ở những xác con dơi ma. Tức thì Động chúa truyền tế tác hết sức gấp đường trở về Hoa Lư đón Thần y, lại cho lệnh báo cho Quân sư biết mọi việc.
Ở trong quân Tế Giang, vì bốn phát tên thần của Hồ Tường Thụy phá tan bốn con biển bức khô, làm cho bụi độc bay vào chính pháp sư. Pháp sư trúng độc của mình thì bảo tướng Lương Tích Lịch:
- Biển bức thần của ta mang độc chất ngoài ta ra thì chẳng có ai trên thế gian này giải độc được. Tướng Hoa Lư mang đồng côn bị trúng độc hôn mê, không quá hai ngày toàn thân tan thành máu tanh tưởi. Tiếc rằng lúc Động chúa Hoa Lư tới chưa kịp trúng kế của ta thì có tên giặc bắn cung giỏi quá. Nó phá mất bốn con biển bức, lại làm ta trúng độc, thành ra phải ngưng trận mất một thời gian ngắn!
Rồi pháp sư tự trị độc, pháp sư lấy trong túi đựng chung với xác chín con biển bức ra chín viên thuốc. Mỗi viên chỉ bé bằng hạt vừng màu vàng nâu nhưng có hương thơm gắt và có vẻ nóng lắm. Pháp sư tĩnh tọa trên ghế cỏ, ngưng thần tụ khí, rồi nuốt chín viên thuốc. Chỉ trong một thoáng là việc lạ xảy ra, trên đầu pháp sư tóc rối bù thấy có làn khói nhẹ màu xanh biếc bay lên uốn éo. Khói xanh cứ như vậy tuôn ra cũng phải trong một thời gian tàn một cây nhang thì mới hết. Lúc ấy pháp sư mở mắt, thôi ngưng thần tụ khí, ông bảo:
- Thế là độc chất đã ra hết khỏi người ta, nhưng cũng phải ba ngày nữa nguyên khí mới hoàn toàn phục hồi!
Vì vậy, Lương Tích Lịch nghe lời Quân sư pháp sư bảo, đóng cửa đại doanh, không đem quân ra khiêu chiến với binh Hoa Lư. Có ý đợi cho Quân sư pháp sư hoàn toàn bình phục đã.
Nhờ có việc Lương Tích Lịch bế doanh bất xuất trại. Hoa Lư Động chúa kịp thì giờ đón Thần y Hồ Xích Tú từ Hoa Lư theo tế tác đã tới chiến doanh. Nhìn thần sắc Đinh Điền, Thần y nói:
- Tướng quân trúng độc “huyết phạt” rồi!
Thần y xem mạch cho Đinh Điền hồi lâu, rồi ngửng đầu thưa với Hoa Lư Động chúa:
- Tướng quân Đinh Điền trúng độc “huyết phạt” của thần phái Ba Tư yểm trấn trong các ngôi mộ cổ. Chất độc này chỉ chạm vào da hay hít phải nó cũng đủ để phải mạng vong, nặng thì trong vòng vài ngày, nhẹ thì mươi ngày. Lúc ấy toàn thân sẽ ứa máu nhũn ra mà chết, không có thuốc chữa, nhưng nếu phong tỏa hết các kinh mạch, khiến cho thần khí quy tụ cả vào huyệt Bách Hợp giữa đỉnh đầu, lấy nguyên khí chuyên chở ngoại lực để đẩy độc ra ngoài, thì việc chữa thương trục độc không lâu quá ba giờ hai khắc là xong. Nhưng người giúp ngoại lực sẽ mất nhiều nguyên khí phải một ngày một đêm mới phục hồi được nguyên khí.
Động chúa cười mà rằng:
- Vậy Thần y cứ chữa cho ông Điền, cần ngoại lực yểm trợ thì ta giúp ngay cho, nào có khó gì! Thần y nên thực hiện ngay, để ông ấy lại vào trận làm cho ma đạo bên Tế Giang phải kinh hoàng. Có thế mới dễ phá xong binh trận Phục Tượng này!
Thần y vâng lệnh, lại một phen trổ tài hiếm có trên thế gian, ra sức chữa chạy cho Đinh Điền ngay lúc ấy. Rồi lại nhờ đến Động chúa ngồi phía trước giữ Điền cho ngồi ngay ngắn trên ghế nệm êm, tay trái Động chúa xòe ra đặt lên đầu Điền, tay phải cũng xòe rộng năm ngón bọc lấy vùng “khí hải” của Điền. Thần y giúp Động chúa vận chuyển nội lực bằng cách hai tay Thần y ấp lên lưng Động chúa. Không biết Thần y vận chuyển kinh mạch nội lực thế nào để giúp Động chúa. Chỉ thấy Động chúa dần dần hai mắt nhắm lại, rồi ngủ đi.
Trong sảnh doanh cực im lặng, tướng quân Hà Bảo Ninh giữ việc tuần phòng thì lệnh cho tất cả mọi người trong trại không được gây tiếng động. Ninh sợ là tiếng động làm cho việc ngưng thần tụ khí của Thần y bị phân tán. Ninh lại nhờ hai tướng Đào Long Vân và Trương Đức Xuân đem quân tuần canh bên ngoài trại. Giữ không cho binh tướng Tế Giang đến cướp trại. Cả ba tướng không hay biết việc Quân Sư pháp sư của Tế Giang cũng trúng độc biển bức phải tự trị thương, và tướng Lương Tích Lịch tạm đoạn chiến lợi pháp sư. Nhờ thế mà chiến trận không xảy ra.
Nhưng, trận chiến đôi bên ở đây tạm ngưng, thì chiến trận phía Bắc vẫn tiếp diễn mau lẹ. Lúc ấy tướng quân Lê Hoàn đã mang hai tướng Trịnh Tú và Đỗ Tuấn Kiệt đến sát Xuân Lâm. Cả đạo binh theo dòng sông Nghĩa Trụ ào ạt trẩy đi. Lúc này quân không tránh những nơi dân cư sinh sống làm ăn nữa để cho khỏi phải đi xa. Nhưng quân lệnh ban ra là: Phải hết sức tránh mọi thiệt hại cho dân chúng. Nhờ thế mà binh đi chẳng làm cho trăm họ bị thiệt hại gì, chỉ làm cho trăm họ mới đầu hốt hoảng sau biết ra thì lại bảo: “Binh Hoa Lư là binh Trời Phật, Trời cứu dân, Phật thương dân”. Thế là bá tánh đã chẳng bỏ chạy lại còn bảo nhau nô nức ra đón binh tướng Hoa Lư, nhiều nơi còn đem cả rượu thịt ra mừng quân. Nhưng các tướng Hoa Lư vì gấp vào trận, không dám để mất đi cái thế bất ngờ cho nên đành tạ lòng trăm họ, xin hẹn đến lúc thành công. Rồi kéo binh đi ngay.
Tới Xuân Lâm, binh Hoa Lư bầy thành trận thế “Rắn dài một dải” bọc kín phía Đông Bắc cứ doanh hệ trọng này của Tế Giang. Lúc ấy trời còn tối đen nhưng đang sắp sáng. Binh đoàn phía Bắc của Lê Hoàn đã dốc hết lực vào chuyến đi, hai trận Lê Xá, Phú Thị các tướng Hoa Lư phá chẳng có gì khó khăn. Lần nào vào trận cũng chỉ có một tướng mang binh tấn công, hai tướng còn lại chia binh hai đường bọc lấy trại làm như thể ba mặt cùng tiến đánh. Nhưng kỳ thực chỉ có đạo quân ở giữa là vào trận, còn hai đạo tả hữu dực chỉ là đạo hư binh nhằm làm cho doanh trại Tế Giang kinh hoàng mà tan vỡ, hay chịu đầu hàng. Rồi ba tướng lại hợp quân kéo đi ngay. Nhờ thế binh tiến như vũ bão, vây hãm Xuân Lâm do tướng Bồi Thành Đức trấn giữ.
Bồi Thành Đức là một tướng giỏi của Tế Giang. Năm nay tướng họ Bồi đã bốn mươi hai tuổi, sức khỏe như hùm, tài khinh công được người đời thời ấy bảo là “cuồng phong cũng còn chậm hơn”. Bồi quen xử cây đoản đao có sống gợn sóng rất lợi hại, tự khoe là sức một mình thừa đủ có thể địch được ba tướng giỏi. Vì thế người đời gọi ông ta là “Lã Bố Tế Giang Dư Lực Chiến Tam Anh”. Bồi không vợ con, vì thế sống rất thanh đạm. Tính tình ngay thẳng, không xem những vinh hoa phú quý ở đời là trọng. Chỉ ưa kết bạn giao du với mọi hạng người trong thiên hạ. Bao nhiêu bổng lộc Sứ quân ban cho, Bồi đều đem cứu giúp người nghèo hay những người gặp khó khăn, đãi thập phương hết. Bồi sống như thế, được nhiều người yêu. Nhà giàu đi lại cầu thân đem bạc vàng đến tặng, Bồi tích tụ những vàng bạc ấy nhiều đến phải dựng riêng một căn nhà để chứa, rồi đem bạc vàng ban phát cho những ai khốn cùng. Trong nhà lúc nào cũng nuôi đến gần hai trăm người ăn ở. Bồi không chia khách ra thành nhiều hạng, tất cả chỉ có một hạng mà thôi. Bồi bảo: “Người thì ai cũng như nhau, giàu nghèo chẳng qua là như nơi trũng nước đọng, chỗ cao nước chẳng tụ, có gì mà phải trọng với khinh”. Nhờ Bồi mà cả một vùng chẳng có nhà nghèo, không có người đói. Danh họ Bồi vang khắp Tế Giang, thiên hạ tặng cho Bồi Thành Đức mỹ hiệu là “Cứu tinh Thần quân”. Ý nói là vị thần chuyên cứu người. Rồi người đời bảo là Sứ quân Lữ Đường phúc lớn được thuộc hạ là Bồi Thành Đức, khiến tụ tập được nhiều anh tài, mà chẳng biết. Nhiều người nhớ ơn Bồi, chẳng bao giờ Bồi nhớ mình đã gia ơn cho thiên hạ như thế nào, nhưng thiên hạ thì ai cũng có lần nợ ơn Bồi Thành Đức.
Bồi Thành Đức trấn giữ cứ doanh Xuân Lâm, đãi các thuộc tướng như hàng huynh đệ ruột thịt. Xem chúng quân như con cháu trong nhà, kỷ luật nghiêm nhưng để cho binh tướng tự giữ chẳng cần phải nhắc nhở. Ai có tội thì cứ tự mình định tội mà tự phạt. Ai có công thì cứ báo lên là có thưởng lớn. Vì thế vùng phía Bắc phủ đường Tế Giang thời ấy đúng là nơi “đất lành hơn những nơi khác chim đến, đồng hoang một cây rợp bóng người cũng tụ đến tránh nắng”. Quả thật là miền đất duy nhất ở cõi Giao Châu thời đại loạn lại được hưởng chút thái bình an lạc.
Vì thế, khi tướng quân Lê Hoàn dẫn đại binh Hoa Lư men theo dòng Nghĩa Trụ tràn xuống Xuân Lâm. Binh kéo đi tuyệt nhiên chẳng tơ hào đến tài sản của dân chúng. Ngựa chạy không xéo vào ruộng đồng của nông dân, gặp đình miếu thì binh tướng đi vòng phía sau, thấy quán sá hay thị tập (chợ búa) tân lương (bến dò và cầu nhỏ) đều cẩn thận tránh làm hư hại. Binh có nơi không có đường nào khác phải đi qua cầu Ngọc Bộ và cầu Khúc Lộng. Cầu xét không chịu nổi đoàn quân lớn đi qua. Lê Hoàn liền sai dòng dây ngang sông cho binh vượt nước chứ không chịu để sập cầu. Binh vì thế đến đây không tiến được nhanh.
Tin trình là binh Hoa Lư bất thần như từ trên trời cao ập xuống đã vào đến địa phận Xuân Lâm. Làm cho tướng Bồi Thành Đức đang nửa đêm cũng vội khoác chiến bào, tự tay thúc trống hiệu triệu gọi hết thảy các tướng đến nghị sảnh. Cứ doanh Xuân Lâm ngay trong đêm đuốc sáng rực trời. Chớp mắt binh đã sẵn sàng vào trận được rồi.
Vào hội, Bồi Thành Đức nói:
- Cho đến tận chiều tối hôm qua, ta vẫn chẳng được tin gì là có binh ngoài vào Tế Giang. Chỉ có chiều hôm qua đến suốt đêm thấy có lửa cháy đỏ trời ở phía Tây, nhưng mọi nơi vẫn yên tĩnh. Vậy mà mới đây thôi tin đã cấp báo là binh Hoa Lư sắp tới cứ doanh Xuân Lâm của ta rồi là thế nào? Tế tác của ta không được tin gì thì, một là không làm việc, hai là địch biết chọn đường khiến cho tế tác của ta không thoát đi được. Nay, tình thế khẩn cấp, ngoại địch đã tới được Xuân Lâm, là nó hiểu thật rõ vị trí quan yếu của doanh trại ta đối với phía Bắc phủ đường. Việc giặc đi đường xa tới chẳng làm nơi nào náo động. Ta phải kiêng nể tướng cầm quân, binh ấy là binh ta khó chống cự. Các ông nghĩ thế nào?
Bồi Thành Đức dưới trướng có sáu thuộc tướng, thì hai người là “gia khách” mặc áo văn sĩ, cầm quạt giấy giữ ghế Quân sư. Một người quá tuổi trung niên mặt dài, nước da đen sạm gầy gò, hai mắt trũng sâu, râu ba chòm đen biếc mà dài. Người này tên là Tổ Sinh Bá, gốc người ở tận Vũ Lâm, Trung Quốc. Là nơi ngày xưa Khổng Minh bày thạch trận suýt giam chết đại đô đốc Lục Tốn. Không biết lưu lạc như thế nào mà lại tới tận nơi này. Ông ta tự gọi mình là hậu duệ của tay giang hồ hảo hán Tổ Ngoại Thường. Chẳng biết tổ tiên ông ta ra sao, riêng ông ta là tay đọc sách biết nhiều, đầu óc thâm hiểm lắm mưu sâu. Là gia khách của Bồi Thành Đức và được Đức trọng lắm vì cái kho “hung trung tàng vạn quyển”, trong bụng chứa vạn quyển sách của ông ta.
Văn sĩ thứ hai, là người ở châu Vũ Nga, trái hẳn lại với văn sĩ Tổ Sinh Bá. Ông này tuổi trẻ lắm, nước da trắng trẻo, mặt tròn xoe hai mắt lớn thoạt trông như mặt trẻ con. Văn sĩ này tên là Trang Tử Đồng hay nói đùa rằng mình là con cháu dòng dõi Trang Tử. Cho nên mỗi khi cơm nước xong thường “bắt chước cụ tổ” đùa gõ vào bát ăn rồi ca:
Việc đời như nước chảy xuôi Đục trong cũng vẫn theo dòng ra khơi Bao giờ nước cạn sông khô Trăng già soi bóng lên lòng cát khô
Chẳng biết họ Trang hát như thế là thế nào, nhưng ông văn sĩ gốc người Trung Quốc vốn vẫn ngầm kèn cựa với họ Trang thì có ý gièm pha bảo: “Ý Trang văn sĩ khinh bạc công đức của Bội chủ nhân. Rủa rằng mai sau dòng sông phải có lúc cạn, tức là chủ nhân sẽ phải chết. Lúc ấy trăng trên trời không còn dòng nước để soi bóng, ân nghĩa gió thoảng của Bồi chủ nhân cũng tiêu vong”. Bồi Thành Đức nghe thế chỉ cười, còn văn sĩ Trang Tử Đồng cũng không giận chỉ bảo: “Con sâu nằm trong tổ kén, mai sau lột xác vẫn lại là con bướm đen chứ làm sao thoát kiếp bướm để chuyển sinh thành loài phụng được”. Ý Trang văn sĩ muốn ngầm bảo họ Tổ trước sau thì cũng vẫn là người Trung Quốc, có phen nhớ đến gốc gác để làm hại phương Nam. Bồi Thành Đức nghe nói cũng chẳng để vào tai. Ông cũng chẳng quan tâm đến việc hai ông mưu sĩ này của mình chẳng lúc nào ngừng kèn cựa với nhau.
Bồi Thành Đức lòng nhân bao la, việc nghĩa ở đời chẳng có việc gì lại từ chối không làm. Ông bảo: “Kẻ trượng phu đứng trong trời đất. Tùy ở cái chí mà định được chỗ đứng nơi ngàn đời tranh đua mới là phải”. Vì thế họ Bồi thà chết chứ không bao giờ chịu để mờ mất chữ tín với thiên hạ, trong các hành động của mình. Nhờ thế, Bồi Thành Đức có được bốn thuộc tướng chính, tuy chẳng vào hàng cự phách, nhưng có thể tự lóc da cắt đầu để tạ lòng tri kỷ của chủ tướng.
Nay trong hội, nghe Bồi Thành Đức kể việc rồi hỏi như thế, tướng Phan Minh Hồ đáp:
- Thưa soái tướng, giặc đến thì ta ra binh cự chiến là điều bình thường. Chỉ tiếc một điều là ta không được biết trước để có thể bài binh bố trận cho thật chắc chắn. Tuy thế, thuộc hạ cũng xin đem quân đi trước cản giặc, để chủ tướng có thì giờ dàn trận!
Phan Minh Hồ người ở Lương Tài, không theo nghiệp ông cha làm nghề sông nước. Ngay từ nhỏ đã thích việc kiếm cung, tìm thầy học nghệ thành tài với phép đánh thiết côn, lang thang trên chốn giang hồ. Lúc gặp nguy chẳng nơi nương tựa được Bồi cưu mang thì nợ ơn sâu, trở thành thực khách của Bồi Thành Đức, rồi xin làm gia tướng của họ Bồi.
Phan Minh Hồ vừa dứt lời, đến lượt Phạm Đồng Văn lên tiếng:
- Tôi tuy chẳng bằng được ông Hồ, cũng xin chủ tướng cho tôi được đứng ở phía trước. Lấy cây búa sắt cản giặc để đền ơn lớn mới là đúng!
Phạm Đồng Văn, quê ở Đồng Văn, núi rừng thường sinh sản ra những tay hào kiệt can trường. Họ Phạm giỏi võ nghệ, phải năm đói kém trời lại giá lạnh bất thường không còn kế gì để sinh sống. Nhìn ra khắp chung quanh người chết vì đói vì rét nhiều quá, thì trong lòng không thể nào yên được. Phạm Đồng Văn không cha, vô cùng có hiếu với mẹ, liền lưng giắt cây búa sắt, cõng mẹ vượt mấy trăm dặm đường lần bước xuống Nam. Vừa đi vừa cầu xin của bố thí để nuôi mẹ. Sau đến được Tế Giang, nghe danh họ Bồi nhân đức thì cõng mẹ tìm đến xin cứu giúp. Bồi Thành Đức cảm động trước tấm lòng hiếu của Phạm Đồng Văn, liền cho được là thực khách; nhưng trời cao chẳng thương người con có hiếu, mẹ Đồng Văn ở nhà họ Bồi làm thực khách dưỡng già chẳng được mấy ngày thì bỗng nhiên không bệnh tật gì mà qua đời. Phạm Đồng Văn thương khóc mẹ đến mờ cả mắt, rồi lại dựng một cái chòi nhỏ bên mộ. Mùa lạnh thì đêm nằm ôm mộ bảo là để ủ cho mẹ khỏi lạnh, mùa hè thì suốt ngày quạt mồ bảo là để mẹ đỡ oi bức. Suốt ba năm cư tang như thế không một ngày nào sai lạc. Việc đến tai họ Bồi, Bồi nhiều lần đến khuyên bảo nhưng Phạm Đồng Văn vẫn cứ thế. Cho đến khi hết ba năm thì Đồng Văn đến lạy Bồi Thành Đức xin theo làm thuộc hạ. Bồi Thành Đức cảm động trước đức hiếu hiếm có của Đồng Văn, cho được dự vào hàng t