Hồi Thứ Một Trăm Quân sư luận kế lấy Phục Tượng
Bắt tướng địch giết xong yêu quái
Lúc ấy, đại binh của Lê Hoàn men theo dòng Nghĩa Trụ tràn xuống Xuân Lâm như vũ bão. Ba tướng Hoa Lư trong lòng vô cùng mừng rỡ. Không thể nào ngờ được là vâng lệnh cầm quân vượt đường xa mở một mặt trận quan trọng như thế, lại có thể thành công mau lẹ như vậy. Ba tướng bàn với nhau: Chắc là vì biết trước như thế, cho nên Quân sư không thấy có dặn dò gì quan trọng về chiến trận. Vào đến phạm vi Xuân Lâm, binh chấn chỉnh lại hàng ngũ. Tướng Lê Hoàn bảo:
- Cứ theo lời Quân sư chỉ, thì trận Xuân Lâm này mới là hệ trọng. Vượt được Xuân Lâm là ta vào được phía Bắc phủ đường Tế Giang. Cho đến lúc này, không thấy phủ đường Tế Giang có dấu hiệu gì tỏ ra là quan tâm đến mặt Bắc này. Như thế thì một là Tế Giang ỷ vào thế lợi của mặt Bắc nên không phòng bị đại quân. Hai là Tế Giang không quan tâm ở các tiểu doanh ta đã đi qua, đại binh Tế Giang sẽ đón đợi ta ở Xuân Lâm. Vậy, chiến trận Xuân Lâm tất sẽ khốc liệt đây!
Tướng Trịnh Tú nói:
- Chắc đúng thế! Cứ xem như Quân sư bảo bọn ta mang đến số binh như vậy lên mặt trận này, cũng đủ thấy chẳng phải phía Bắc không có thịch sự. Một đạo binh lớn của ta lên dây, tất là để ứng chiến với cường binh của Tế Giang rồi. Ứng chiến thế nào chính là điều chúng ta phải hiểu rõ!
Đến lượt tướng Đỗ Tuấn Kiệt bàn:
- Xem như từ lúc ngược Xích Đằng lên đến ngã ba. Tuy rằng binh ta được thủy quân của ông Nghi Bá Tường ngầm yểm trợ, nhưng chẳng phải là quân hành của ta đi vào chỗ trống! Ở Lê Xá cũng như Phú Thị, tế tác giúp ta thật quan trọng. Ta qua được hai nơi ấy chẳng khó khăn, nhưng tế tác cho ta hay: Xuân Lâm là nơi Tế Giang trấn doanh lớn đang đợi quân ta. Vậy ta nên đánh Xuân Lâm như thế nào?
Lê Hoàn bảo:
- Theo như tế tác cho hay, thì Xuân Lâm địa thế nơi Tế Giang lập đại trấn doanh là một vùng rộng lớn. Phía Bắc là chân Lạn Kha núi không cao nhưng địa thế có lợi cho quân trấn giữ các nơi cao, sử dụng cung tên hay thạch trận thì lợi hại. Phía Đông rừng lẫn với những gò đồi đất đá lẫn lộn kéo dài đến tận chân núi Bát Vạn, tiếp dòng sông Bái, vào tận giang sơn của Sứ quân Lý Khuê ở Siêu Loại. Tại suốt khoảng mênh mông này, rải rác có dân cư, ruộng đồng có nơi dày đặc phì nhiêu. Thông xuống phía Nam tiếp vào giới địa của Bình Kiều, chính là kho lương thực của Tế Giang với Bình Kiều. Trong phạm vi địa thế như vậy, trấn doanh Xuân Lâm của Tế Giang tế tác cho tôi hay: Đại doanh trấn dài một giải từ Tây sang Đông, như thế thì ta phải biết là vùng binh trấn ấy có chiều hẹp. Hai phía Bắc Nam tất phải có dị thế yểm trợ thì tướng cầm quân mới lập doanh trấn như vậy!
Đỗ Tuấn Kiệt bàn:
- Theo như ông Lê Hoàn vừa nói, thì ta có thể tưởng tượng ra được trấn doanh Tế Giang nằm trong một vùng trũng. Hai bên hoặc có núi hay có sông làm giới hạn, cho nên doanh mới thiết lập như thế. Giả sử đúng doanh ấy đủ quân nằm ở chỗ trũng, kéo dài từ Tây sang Đông. Chẳng khác nào như bức thành lớn trấn giữ mặt Bắc phủ đường thật hùng hậu, vững vàng, thì doanh này khó phá. Tuy nhiên, nếu doanh nằm ở chỗ trũng, lại là điều tối kỵ của binh gia lúc lập trận, địch có thể dùng hỏa công từ trên cao đánh xuống. Hay nếu thuận đường nước thì dùng thủy công ngâm cả vùng. Chẳng lẽ nào tướng Tế Giang lại không biết như thế! Ta cần phải suy nghĩ xem sao?
Tướng quân Trịnh Tú ứng lời:
- Đúng như vậy! Ông Kiệt nói chẳng sai, địa thế lập doanh của Tế Giang có nhiều điều thất thế, tại sao lại như vậy? Sứ quân Lữ Đường sai tướng trấn giữ một mặt hệ trọng như thế, tất không trao việc vào tay người mơ ngủ, ắt có những khả năng gì mà ta chưa biết. Trước khi tiến quân cướp doanh ta cần phải tỏ tường tất cả mọi mặt mới được!
Lê Hoàn bảo:
- Bình thường mà nhìn, thì quả thật trấn doanh Xuân Lâm nằm ở địa thế bất lợi, nhưng theo lời ông Kiệt thì nếu dụng hỏa công từ trên cao đánh xuống tất phải nhờ đồi cao vách núi. Ở đây núi không cao lắm nhưng ở hơi xa, đồi thì lại ở mãi phía Đông đằng sau trận doanh. Thế là không dụng hỏa công từ cao đổ xuống được. Còn dụng thủy kế, tháo nước ngâm doanh, thì Nghĩa Trụ ở xa, phía sau trận doanh về phía Đông có một hồ không rộng lắm thông với một nhánh sông nhỏ, ta cũng lại không dụng thủy kế được. Như vậy, binh ta đông, tướng ta không kém, ta dàn binh lập trận “Nhất tự trường xà”. Nương vào chân Lạn Kha ở xa, lấy vùng đất rộng phía Bắc phủ đường là chiến trường, trấn không cho đại doanh Xuân Lâm động đậy. Với trận Trường Xà ta được lợi lập thế công chính ở giữa, hai đầu trợ chiến. Hay cả ba vị trí cùng vào trận cũng đều được cả. Sau đó, ta đợi xem trận doanh cử động thế nào?
Thế là ba tướng đem quân dàn ra, lập thành thế trận “Nhất tự trường xà”. Trận giăng dài một dải nhờ có quân đông. Tướng quân Lê Hoàn thủ trận chính giữa mặt đối mặt với chính môn trấn doanh Xuân Lâm. Tướng quân Trịnh Tú giữ tả vu, tướng quân Đỗ Tuấn Kiệt giữ hữu vu, binh nương vào nhau giằng co yểm trợ vững như tường đồng vách sắt. Tuy dài nhưng không bị thưa mỏng, vây lấy doanh trại Tế Giang. Ba tướng lập trận xong, cho quân sẵn sàng vào trận. Lại sai tế tác đi các nơi dò la tình hình chuyển động của địch. Trịnh Tú còn khuyên tướng Lê Hoàn cho tế tác gấp đường trình tin để Động chúa với Quân sư được rõ mọi việc.
Quân sư lúc ấy còn đang ở đại doanh của Nguyễn Minh Khánh trên đường ra Đông, chinh phục Siêu Loại. Được tin trình của Lê Hoàn thì Quân sư tủm tỉm cười. Bảo Nguyễn Minh Khánh:
- Quả nhiên ba tướng của ta lên phía Bắc lấy đại danh Động chúa mà tiến binh, quân hành như nước chảy mây trôi. Bây giờ đã tới Xuân Lâm, chỉ sớm tối là chiến lớn. Xuân Lâm ở phía Bắc cũng như Phục Tượng ở phía Nam phủ đường Tế Giang. Chính là hai ngón tay ép mạnh vắt múi chanh phủ đường Tế Giang khiến cho Sứ quân Lữ Đường phải gấp đường bỏ chạy tới Cự Linh bây giờ đấy!
Nguyễn Minh Khánh cũng mừng ra mặt. Tuy rằng trong lòng ông đã hết thắc mắc về việc tại sao Quân sư cho gọi tướng Hồ Tường Thụy tới gấp rồi lại bảo Thụy gấp trở lại Tế Giang. Bây giờ lại đến việc Nam Bắc phủ đường Tế Giang nữa. Quả thật tính toán của Quân sư Lê Thảo người thường chẳng làm sao hiểu nổi!
Đến gần lúc trời ngả về chiều, thì Quân sư bảo Nguyễn Minh Khánh:
- Bây giờ ông cứ chậm chậm đưa binh tiếp tục đường đi, tôi đi xem nơi khác! Việc ba người khách của Động chúa ông cứ im lặng. Tuyệt đối không tiết lộ cho ai biết, việc ông Thu bị chết cũng thế, sau này sẽ hay! Việc tôi với ông Cảnh về doanh, ông phải giữ thật kín, không cho ai bay biết. Động chúa có khi nào hỏi đến ông cũng nói là không thấy tôi là được.
Nguyễn Minh Khánh vâng lời Quân sư dặn. Quân sư cùng Mạc Sa Cảnh hóa trang vừa xong, thì có tế tác bí mật phía Bắc gấp trình Mạc Sa Cảnh: “Binh tiền phong đánh phía Nam phủ đường Tế Giang bất lợi vì có Quân sư pháp sư An Dương Thanh Sứ vào trận. Tướng quân Đinh Điền trúng độc nguy kịch...”.
Quân sư cùng Mạc Sa Cảnh nghe tin cả kinh, vội lên đường trở lại mặt trận phía Nam phủ đường Tế Giang ngay.
Vừa vào doanh, Quân sư đã gặp ngay Động chúa. Động chúa bảo:
- Trong doanh Phục Tượng của Tế Giang có tên pháp sư yêu nghiệt, làm cho ông Đinh Điền trúng độc. Nếu không có Thần y kịp đến thì nguy mất. Phía Tế Giang cũng không thấy đến khiêu chiến thêm, chắc là có điều gì không thuận?
Tướng Hồ Tường Thụy vừa thấy cả Quân sư lẫn Mạc Sa Cảnh thì ngạc nhiên lắm, ông nói:
- Thưa Động chúa, lúc tôi vừa đến trận, thấy có mấy con dơi to lớn bay trên phía trận ngay trên đầu pháp sư. Tôi nhớ ngay mấy con dơi ma của pháp sư liền bắn trúng được bốn con thì phải. Lúc ấy trời sắp tối hẳn tôi trông không được rõ lắm, nhưng cũng thấy khi bị trúng tên thì những con dơi ấy không rơi xuống mà lại tan thành bụi. Chắc bụi ấy là chất độc khi ông Đinh Điền phá được một con thì vì không biết nên bị bụi ấy dính vào khiến hôn mê, nay thì tỉnh hẳn rồi. Chỉ khoảng sáng mai là lại vào trận được rồi!
Quân sư nghe nói thì ngồi im suy nghĩ. Bất thần Quân sư bảo:
- Ông Hồ Tường Thụy đem binh đến doanh trại giặc khiêu chiến ngay. Nếu giặc không ra thì ông dùng tên lửa cho quân đốt doanh trại của nó ngay!
Hồ Tường Thụy vâng lệnh đi điểm quân ngay. Động chúa hỏi:
- Tại sao Quân sư lại cho quân đi khiêu chiến lúc này?
- Bẩm, từ khi Tế Giang suýt hại được Đinh Điền của ta, họ thắng rõ ràng. Sau chỉ vì Động chúa tới kịp, rồi khi ông Thụy nói, thì tôi cho rằng: Tế Giang thắng mà không xuất chiến, ấy là vì trong quân đang có bối rối. Tế Giang không có tướng nào bị nguy cả, chỉ riêng có pháp sư theo như lời ông Thụy nói là khi bắn trúng mấy con dơi ma, nó tan thành bụi rơi xuống pháp sư. Ông Điền trúng bụi ấy bị nguy đến tính mạng, cũng có thể pháp sư cũng đang nguy vì chính những bụi độc ấy. Pháp sư dụng được độc, tất chế ngự được độc. Y không chết được nhưng chắc là trúng độc nhiều quá thành ra không thể chỉ trong chốc lát là giải độc được. Vì thế Tế Giang mới không xuất chiến thêm nữa. Ta đợi lát nữa xem ông Thụy đi khiêu chiến thế nào là biết ngay!
Quân sư vừa nói xong, tế tác vào trình: “Ông Thụy đem quân khiêu chiến. Tế Giang không ra khỏi doanh. Ông Thụy đang cho quân dùng tên lửa bắn phá doanh trại Tế Giang”.
Nghe trình, Quân sư liền nói với Động chúa:
- Thưa Động chúa, có thể trong quân của Tế Giang có biến rồi. Ngài nên xuất binh thì có thể trong đêm hôm nay ra phá xong Phục Tượng!
Động chúa nghe lời, liền đem hết quân đi, trong quân tướng Đinh Điền đã khỏe mạnh lại, đến lạy chào Quân sư. Điền bảo:
- Tôi trúng kịch độc của tên yêu nghiệt, tinh thần chẳng còn chẳng khác nào cái xác chết. May được Thần y chạy chữa, lại được Động chúa tiếp sức, nay đã hoàn toàn khỏe mạnh, lại xin vào trận!
Động chúa vui lòng lắm. Ngài quay sang Thần y mà rằng:
- Nhờ tài của thần tiên mấy lần giúp cho Hoa Lư tôi. Tài này quả thật dưới thế gian này không có đến người thứ hai! Như ngài biết, thứ bụi độc ấy chính pháp sư yêu ma của Tế Giang tự chuốc lấy thì liệu y sẽ thế nào?
Thần y bảo:
- Bụi độc ấy nhiều loại độc hợp lại, chỉ dính phải chút ít tính mạng cũng tiêu tan trong khoảng hai ba ngày. Nhưng kịch độc nhiều thứ cho nên không dồn tất cả vào một tạng nào mà phá, nó phân tán đi các nơi vì thế sức bị yếu đi. Người trúng độc không chết ngay là vì thế. Pháp sư yêu ma tự trúng độc thì thế nào y cũng có thuốc giải. Tôi tin chắc là y không chết nhưng không thể hoàn toàn bình phục chỉ trong vòng vài ba ngày được. Riêng Động chúa, ngài giúp chuyển lực cứu ông Đinh Điền, ông Điền thì khỏe lại nhưng ngài cũng phải đến trưa ngày mai mới hoàn toàn phục hồi được nội lực. Xin ngài để tâm!
Động chúa hai ba phen nói lời cảm tạ Thần y, rồi bảo:
- Như thế, ta nên tận lực phá trấn doanh Phục Tượng của Tế Giang ngay trong đêm nay. Ông Đinh Điền đã khỏe mạnh lại rồi, thì lại cầm quân ra trận. Ta đi theo xem trận thế nào?
Đinh Điền vâng lệnh, lúc ấy bước đến trước Thần y. Điền nói:
- Đinh Điền tôi dại dột không biết tự chuốc lấy cái chết, may được Thần y đến cứu kịp. Ân sâu này xin được ghi nhớ suốt đời!
Thần y xua tay bảo:
- Không nhờ có sức mạnh của Động chúa, thì ông chưa thể đứng ở đây được. Đấy là công ơn của Động chúa mới phải!
Đinh Điền vốn là người trung cang chân thật. Nghe Thần y nói như thế thì chẳng suy nghĩ, đáp:
- Ngài nói như thế cũng không đúng hơn, giả sử không có tài trời đất của ngài thì sức mạnh của Động chúa cho dù có muốn cứu tôi cũng chẳng làm sao được! Xin ngài nhận một lạy này để tôi tạm được yên lòng!
Rồi Đinh Điền thản nhiên quỳ gối lạy Thần y một lạy. Lạy rồi, Đinh Điền mới quay sang Động chúa mà rằng:
- Ơn lớn nhờ Động chúa ban sức, chẳng quản thiệt thòi, thuộc hạ xin được nhớ mãi ơn sâu!
Đinh Điền không lạy Động chúa, không phải là ông không biết lễ trên dưới, nhưng khách anh hùng trong cuộc tranh đua sống với nhau cùng làng, cùng tuổi, tình không khác người ruột thịt một nhà. Cho nên Đinh Điền chỉ thành tâm thưa với Động chúa như thế. Tính thẳng thắn trung cương có lúc dễ làm mếch lòng người của Đinh Điền, mai sau việc Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi ai cũng được phong chỉ có Đinh Điền và một người nữa bị bỏ quên là do từ những ngày hôm nay. Khiến sử thần Lê Văn Hưu đời sau phải than thở, nhưng đây là việc của mai sau.
Lúc ấy, Đinh Động chúa nghe Đinh Điền nói thì ngài thản nhiên. Điền không thấy nhưng Quân sư Lê Thảo và Thần y đều thấy cả.
Đinh Điền tiếp:
- Động chúa nội lực chưa hồi phục hoàn toàn. Tôi lại xin được nhận trách nhiệm cũ mang binh đi lấy doanh trấn Phục Tượng ngay!
Đinh Điền lại mang binh xuất trại, tướng Trương Đức Xuân đi ở hữu dục, Hà Bảo Ninh lĩnh tả dực, Đào Long Vân đi ở hậu quân trông coi cả đạo quân đầu. Động chúa và Quân sư cùng đi để xem trận. Tướng Hồ Tường Thụy thì lại mang cung tên đi sau Động chúa, tướng quân thấy Lê Thảo lại theo binh Đinh Điền đi xem trận Phục Tượng thì trong lòng thắc mắc vô cùng. Vài lần lén nhìn Quân sư không làm sao hiểu được việc gì?
Binh đi lúc ấy quá nửa đêm. Quân sư truyền cả đạo quân đốt đuốc cho thật nhiều, rầm rộ mà đi chứ không lặng lẽ. Cốt ý uy hiếp tinh thần binh tướng Tế Giang trấn giữ cứ doanh Phục Tượng.
Đến sát doanh Phục Tượng, Đinh Điền truyền hai đạo tả hữu dực mở rộng ra xa, rồi đưa đạo tiền quân lên sát doanh trại Tế Giang. Đinh Điền cho lệnh trống khua chiêng gióng cho thật lớn, rồi cho quân hô to gọi tướng Lương Tích Lịch cùng với pháp sư mau mau ra nộp mạng. Một mình Đinh Điền cho ngựa đi lại, huơ thanh đồng còn diễu võ giương oai cốt để cho trong doanh trông thấy rõ ông.
Quả nhiên, quan trấn doanh đã nhìn thấy quang cảnh binh Hoa Lư bên ngoài, liền vội vàng trình vào cho soái tướng Lương Tích Lịch hay: Tướng cầm đồng côn của Hoa Lư trận trước bị trúng phép thần của đại pháp sư, nay lại đến trước trận hò hét đòi giao chiến!
Lương Tích Lịch nghe báo lấy làm lạ lắm, rõ ràng tướng cầm côn đồng bị trúng độc, hôn mê ngay trước trận. Theo lời pháp sư thì không có thuốc chữa thế nào cũng phải chết, ngay đến pháp sư trúng phải độc biển bức cũng còn phải dưỡng thương mấy ngày mới phục hồi được nguyên khí. Tại sao tướng này lại không việc gì?
Lương Tích Lịch vội vàng vào gặp pháp sư nói rõ việc. Pháp sư tuy đã trục được kịch độc ra khỏi lục phủ ngũ tạng, nhưng cũng còn phải vài ba ngày nữa mới lấy lại được nguyên khí. Thế thì tướng Hoa Lư tại sao lại không chết mà còn khỏe mạnh đến khiêu chiến là thế nào? Pháp sư liền cùng với Lương Tích Lịch lên đài cao trong doanh, kín đáo nhìn ra xem tình hình. Quả nhiên thấy bên ngoài đuốc lửa sáng rực, tướng cầm đồng côn đang cho ngựa đi lại hò hét gọi trong doanh ra giao chiến. Pháp sư cũng như Lương Tích Lịch chẳng hiểu ra sao cả, liền sai quân cố thủ, không ra ứng chiến, lại dùng đến cung tên để đuổi quân ngoài.
Pháp sư bảo:
- Sao lại có việc lạ như vậy được? Phấn độc biển bức của ta trên thế gian này không có thuốc giải, sao tên Hoa Lư này lại không chết? Hay là tên khác giả dạng nó chăng?
Lương Tích Lịch bảo:
- Đúng là y! binh Hoa Lư dám mang quân đến khiêu chiến ngay. Tức là nó đã không chết mà lại còn cố ý để cho ta thấy rõ. Như vậy tất thế nào nó cũng có mưu kế để lừa ta!
Lương Tích Lịch nhất định không xuất doanh nghênh chiến, làm cho Đinh Điền cùng cả đạo quân ra sức réo gọi chửi bới cũng không thấy tướng Tế Giang xuất hiện, thì không biết phải làm thế nào. Liền tới hỏi Quân sư:
Lê Thảo cùng với Động chúa đứng xem trận, thấy rõ tất cả, liền bảo Đinh Điền:
- Tướng giữ cứ doanh này là Lương Tích Lịch, y cây có thanh A Hồ Lục Cương kiếm khoe là có luyện huyền thuật dù có thất lạc cũng tự tìm về được. Cho nên y vô cùng ngông cuồng xem thiên hạ chẳng ai xứng đáng để y giao đấu. Nay gặp phải tình thế khó khăn, đóng cửa không ra ắt là vì tên pháp sư thọ thương nguy ngập. Vậy tướng quân cứ réo gọi một mình Lương Tích Lịch ra thi tài, lại hứa là cho quân lui lại không đánh lén. Thế nào Lương Tích Lịch cũng ra cho mà xem!
Đinh Điền nghe lời Lê Thảo, cho quân lui lại rồi một mình đến trước doanh. Ra sức réo gọi tướng trấn doanh ra giao chiến, lại thách rằng đôi bên giao chiến cho đến khi nào lấy xong gươm A Hồ thì sẽ tha mạng cho Lương Tích Lịch!
Lương Tích Lịch trên đài cao nghe tướng Hoa Lư réo gọi thách thức, thì giận lắm, mấy lần đã toan ra trận. Nhưng Quân sư pháp sư lần nào cũng ngăn cản không cho đi, đến khi tướng Hoa Lư truyền quân lui hẳn lại, rồi bảo rằng chỉ một mình ông với cây côn đồng sẽ lấy mạng Lương Tích Lịch, đập gãy gươm A Hồ, bắt sống pháp sư. Thì Lương Tích Lịch không nén được nữa, bỏ ngoài tai những lời khuyên can của pháp sư. Lương Tích Lịch truyền quân gióng trống ra hiệu trong doanh nghênh chiến. An Dương Thanh Sứ pháp sư thấy thế đành bảo Lương Tích Lịch:
- Lẽ ra ông không nên xuất trận, nó chửi cứ kệ nó. Nay ông nhất định ra đánh nhau với nó, thôi thì cứ đi. Tôi chưa khỏe hẳn cũng cố yểm trợ cho ông. Ông nên nhớ cho kỹ: Khi nào thấy có tên Đinh Bộ Lĩnh mà y như đang ngủ thì phải tìm cách giết nó đi nhé!
Lương Tích Lịch nghe pháp sư nói thì mừng lắm, liền lên ngựa ra ngoài doanh. Lúc ấy, Quân sư bảo Đinh Điền:
- Vào trận, ông đừng vội thắng tướng Tế Giang, cứ thử tài, đến lúc quyết liệt thì xin tạm đoạn chiến để lấy sức. Nói là phấn độc biển bức làm bị mệt đôi chút, xin được nghỉ đôi chút rồi lại tiếp tục trận đấu.
Đinh Điền không hiểu Quân sư mưu định những gì nhưng cứ vâng lời, ra trước doanh chờ đợi.
Lương Tích Lịch nhìn ra, thấy quân Hoa Lư lui hết ra xa, chỉ còn một mình tướng cầm côn đồng đang cho ngựa đi lại trước doanh, thì truyền quân giống trống báo hiệu mở cửa doanh. Rồi Lương Tích Lịch cũng một mình vọt ngựa bay ra, cửa doanh đóng ngay lại đề phòng quân Hoa Lư thừa cơ cướp doanh.
Trên đài cao giám trận, pháp sư An Dương Thanh Sứ không thể nào yên lòng được. Dù rằng phấn độc không làm hại được ông, nhưng sức còn yếu chưa thể nhất thời thi thố mưu ma chước quỷ để hại tướng Hoa Lư được. Nhưng pháp sư vẫn còn tin ở phép “nhiếp hồn” của ông, trong lúc nguy cấp vẫn có thể thi thố được nhiều phần hiệu lực.
Bên ngoài, hai tướng đối trận, cả hai đều vóc dáng to lớn như nhau. Đinh Điền nói ngay:
- Ta nghe danh Lương Tích Lịch có thanh A Hồ Lục Cương kiếm quý lắm, từng giết hại nhiều người. Như thế cũng là có bản lĩnh, sao lại chịu khuất thân phò tá cho Lữ Đường là kẻ bất xứng như thế?
Lương Tích Lịch chịu ơn sâu bổng hậu của Sứ quân. Có bao giờ lại nghĩ Sứ quân là kẻ bất xứng. Cho nên khi nghe Đinh Điền nói như vậy thì giận lắm, liền quát lớn:
- Tên giặc Hoa Lư này, sao dám càn rỡ nói năng hỗn láo như thế?
Tức thì Đinh Điền nhớ lời Quân sư dặn, liền chọc tức Lương Tích Lịch:
- Vậy thì thằng đầy tớ ngu muội tăm tối kia, mày hãy chết thay cho chủ trước cho sáng mắt ra đã! Bây giờ xem tài của Kim Côn Tướng Đinh Điền của Hoa Lư là ta đây!
Lương Tích Lịch từng nghe danh Kim Côn Tướng Đinh Điền, nhất là những hành động của Đinh Điền ngày trước khi ông theo Lê Thảo sang Đằng Châu. Cho nên khi nghe Đinh Điền xưng danh thì ngửa cổ cười ha hả mà rằng:
- Hóa ra thằng lỗ mãng chẳng biết lễ độ ở đời, ngày trước hung hăng bẻ gãy ghế, đập chết ngựa, bẻ cong cái que sắt vậy mà vẫn cứ tưởng mình là tài giỏi. Lại dám xưng là Kim Côn Tướng, sao không xưng là “Que Tre Tướng” có phải là đúng hơn không?
Đinh Điền cả giận, vỗ ngựa xốc tới, côn đồng xử ra một thế “Thiên lôi giáng trần”, tận lực đập xuống đỉnh đầu Lương Tích Lịch. Lịch nghiêng đầu nhượng cho Côn đồng bay qua nghe “vù” một tiếng kinh khủng, tay gươm A Hồ theo với cử động nghiêng của đầu mượn đà thân trên, hơi nghiêng đi. Lương Tích Lịch triển ra một gươm thần tốc nhằm vào cổ Đinh Điền.
Tướng tài vào trận, đang trong lúc tức giận dễ bị phân tâm trúng đòn của địch. Đinh Điền vì giận dữ đánh ra một côn bị Lương Tích Lịch phản đòn thật hung hiểm, tức thì tay côn hất ngược cán lên đỡ đường gươm chém tới nghe “xoảng” một tiếng khủng khiếp. Hai tướng dội lại đến ba bốn bước chân ngựa trụ lại mới được.
Ngay lúc ấy, Động chúa Đinh Bộ Lĩnh có Lê Thảo rong ngựa chạy bên phải, tướng Hồ Tường Thụy đi bên trái tiến tới sát trận xem hai tướng giao tranh.
Trong trận, tướng Lương Tích Lịch với Đinh Điền đôi bên chỉ vừa mới thi thố với nhau có một đòn, thì đã thấy bên Hoa Lư có ba tướng cho ngựa chạy tới. Lương Tích Lịch lui ngựa nhìn ra thì giật mình. Rõ ràng người cưỡi con ngựa cao lớn lông đen mướt đi ở giữa có vóc dáng cao lớn, cây đại phủ gác trên đầu ngựa, chính là Hoa Lư Động chúa thường được thiên hạ nói đến. Lịch kinh hãi đến ngẩn người, đã tưởng là Hoa Lư cậy đông bất thần đến chực áp đảo!
Đinh Điền thấy thế, liền nói lớn lên:
- Tướng Tế Giang, cứ giao chiến với ta. Động chủ ta với Quân sư Hoa Lư ta có bao giờ lại thèm động thủ với một kẻ như ngươi!
Dứt lời, Đinh Điền lại xốc ngựa bay tới, côn đồng ra sức tiến đánh Lương Tích Lịch. Lịch nghe Đinh Điền nói, cũng tạm yên lòng dốc hết tài xử kiếm ra tranh tài với đồng côn. Hai tướng qua lại, chớp mắt đã ngoài hai chục hiệp, cả hai đều nể tài nhau.
Ở trong doanh, trên đài cao pháp sư giám trận tuy cặp mắt bé ti hí nhưng lại cực kỳ tinh tường, ông đã thấy tất cả. Ông đã nhận ra vóc dáng cao lớn của Động chúa Hoa Lư người đời thường nói đến. Óc ranh ma quỷ quái của pháp sư liền nảy ra một hiểm kế. Pháp sư tụ hết thần, lắng hết nội lực còn chưa phục hồi được đến một nửa, từ trên đài cao thi thố thuật “nhiếp hồn” uy hiếp Hoa Lư Động chúa.
Lúc ấy tại trận hai tướng một côn đồng một gươm gang xanh tung hoành đang đến lúc dữ dội. Gươm bay tỏa ra những màu sắc như sắc cầu vồng ngang dọc khắp trời, lại nghe như trong tiếng gió kiếm phát ra có tiếng rên rỉ lạnh lẽo. Những màu sắc cầu vồng ấy ngoằn ngoèo như muốn vây kín Đinh Điền, còn côn đồng tuy nặng nề nhưng lại nhanh hơn cả giông bão, thổi giật đập tan những luồng kiếm quang ma quái của Lương Tích Lịch.
Đinh Điền thử tài với tướng Tế Giang đến lúc ấy cũng đã hơn ba chục hiệp, ông cho như thế là đủ rồi. Cái danh Kim Côn Tướng của ông không thể đem ra để đùa mãi với một thanh gươm ma quái của một tướng như thế này của Tế Giang, quên cả lời dặn tạm hưu chiến của Quân sư. Thế là côn đồng chuyển phép đánh đang trong thế chống đỡ đột nhiên biến thành tấn công cực kỳ dũng mãnh. Chỉ trong khoảnh khắc là Lương Tích Lịch nhận thấy ngay tình thế.
Nhưng, Đinh Điền dữ dội với cây côn đồng. Tài múa côn và sức mạnh phi thường của ông chưa phải là nhất thời có thể áp đảo được thanh gươm mỏng mảnh trong tay Lương Tích Lịch. Từ đầu đến giờ, gươm A Hồ mấy phen chạm vào đồng côn phát ra những tiếng dội chói tai vẫn không bị tổn hại gì. Ấy là vì Lương Tích Lịch còn e dè nương là côn để ước lượng khả năng của cây côn xem gươm A Hồ của ông có thể bị nguy hại gì không. Đến khi biết là gươm báu không bị cây côn đồng trì trọng của tướng Hoa Lư phá gãy, lại thấy tướng Hoa Lư thay đổi phép đánh, thì lập tức Lương Tích Lịch cũng chuyển đường gươm. Lần này gươm không còn nương đà côn để đỡ nữa mà tận lực chém thẳng vào cây côn.
Tướng Đinh Điền mấy lần thấy côn chạm vào gươm A Hồ của tướng Tế Giang mà chẳng bị thiệt hại gì. Bây giờ thấy tướng Tế Giang lại chém thẳng vào côn thì ông chẳng nương đà gươm để đỡ, vận lực tung côn lên chặn lưỡi gươm.
A Hồ Lục Cương kiếm quả thật lợi hại phi thường. Đường chém xuống may nhờ Lương Tích Lịch nương tay chỉ dụng một phần sức cho nên không mạnh lắm. Vì thế gươm báu chém vào côn đồng nghe “choeng” một tiếng thì lưỡi gươm gang xanh ngập hẳn vào đến gần nửa côn đồng! Đinh Điền vã mồ hôi, bây giờ ông mới thấy sức lợi hại của cây gươm lừng danh trong thiên hạ. Lương Tích Lịch thử một đường gươm xong thì cả mừng. Tin là phen này gươm báu gang xanh A Hồ kết thúc được đại danh Kim Côn Tướng của Hoa Lư.
Đứng xem trận bên ngoài, Động chúa, Quân sư và Hồ Tường Thụy đều thấy sức lợi hại của cây gươm trong tay tướng Tế Giang. Đến khi gươm chém ngập vào côn đồng thì tướng Hồ Tường Thụy rung cương cho ngựa vọt ra, nhưng Lê Thảo đã kịp gọi lớn:
- Hồ Tường Thụy, quay lại!
Thụy ghì cương, vó ngựa xiết xuống đất tung bụi. Quân Hoa Lư reo hò rầm rầm trợ oai cho hai tướng.
Đúng vào lúc sự việc xảy ra, tướng Đinh Điền lúc ấy mới tỉnh ngộ biết gươm A Hồ quả thật lợi hại. Tay côn bây giờ không còn dám xem thường cây kiếm nữa. Đinh Điền thận trọng, thì đến lượt Lương Tích Lịch lại ỷ sự lợi hại của thanh gươm. Lương bây giờ ra sức thi thố hết tài nghệ múa kiếm lăm le toan chặt cây côn đồng lớn đứt làm mấy đoạn. Phải chi Lương Tích Lịch dừng ỷ gươm rồi áp đảo Đinh Điền thì chắc Đinh Điền còn lúng túng chưa biết xử trí ra sao. Nay Lịch ra sức đâm chém rõ ràng là nhằm vào cây côn trước, thì Đinh Điền vì phải gìn giữ côn, nên chợt nghĩ ra.
Đinh Điền dốc hết lực, lợi thế trì trọng của côn đồng bây giờ không đón đỡ đòn của thanh gươm nữa. Điền tránh đòn nhưng lại tìm hết cách để triệt hạ ngay chính Lương Tích Lịch hay con ngựa của Lịch. Hành động ấy của Điền làm cho Lương Tích Lịch dần dần thấy lúng túng. Bao nhiêu đường gươm chém tới tướng Hoa Lư đều né tránh rồi trả đòn nguy hiểm quá. Đinh Điền bỏ hẳn không chặn đỡ gươm của Lương Tích Lịch.
Chẳng mấy chốc, Lương Tích Lịch đã phải quần ngựa loay hoay chống đỡ với cây côn đồng hung dữ quá. Lương Tích Lịch giạt ngựa ra xa tránh cây côn, rồi uốn người rạp mình tránh đường côn vừa lia tới. Tay Lịch phóng cây A Hồ Lục Cương kiếm bay đi như lằn chớp.
Vừa lúc ấy, đang bên ngoài xem trận. Động chúa Đinh Bộ Lĩnh từ trước vẫn im lặng, ngài ngồi như pho tượng trên lưng con ngựa lông đen bốn vó trắng mướt. Bỗng nhiên cây đại phủ gác trên đầu chiến mã rơi xuống đất “huỵch” một tiếng! Ngay trong tiếng chạm mạnh của cây đại phủ lúc rơi xuống. Lê Thảo như làn chớp bay ngay tới kịp đỡ Động chúa khỏi ngã ngựa. Quân sư thét lên:
- Thụy, bắn mau!
Cây cung thiết đăng theo cùng mắt nhìn của chính Hồ Tường Thụy và tiếng thét của Lê Thảo đã phát ra tiếng “phừng” dữ dội. Hồ Tường Thụy quả là tay thần tiên hiếm có trên thế gian, tiếng dây cung bật mạnh vô cùng chen lẫn tiếng “chát” mạnh cũng lại vô cùng kịp đánh bay dải hào quang của thanh A Hồ Lục Cương kiếm vừa bay đến toan lén giết Động chúa!
Thì ra, trong trận Lương Tích Lịch giạt ngựa tránh đòn của Đinh Điền mắt vẫn để ý đã thấy Động chúa Hoa Lư hai mắt nhắm lại ngồi im trên lưng ngựa. Vừa lúc Lịch giạt ngựa ra vẻ tránh côn của Đinh Điền liền phóng ngay gươm A Hổ đi toan đoạt mệnh Hoa Lư Động chúa.
Đứng bên ngoài cùng xem trận, Lê Thảo vẫn cẩn thận đề phòng mọi bất trắc có thể xảy ra giữa lúc chiến trận trong bóng đêm nhiều đuốc lửa. Quân sư đã nhận ra thế tranh hùng của hai tướng, khi thấy tướng Tế Giang giạt ngựa thì Lê Thảo thấy ngay không phải là vì thua mà tướng ấy bỏ tránh. Cùng lúc nghe tiếng cây đại phủ rơi thì Lê Thảo kịp rời ngựa bay tới đỡ Động chúa khỏi ngã ngựa và thét gọi Hồ Tường Thụy.
Còn tướng Hồ Tường Thụy hai mắt cực tinh theo dõi những vạch hào quang phát ra từ thanh gươm A Hồ. Gươm múa lượn đến đâu ông nhìn thấy rõ ràng đến dấy không một đường nào thoát khỏi cặp mắt thần của ông được. Đến khi thấy một vệt như dải cầu vồng bay khỏi trận, thì tay cung của ông mau lẹ lạ lùng đã kịp phát đi đường tên nhanh hơn tiếng thét của Lê Thảo. Chỉ một phần của lần chớp mắt, mũi tên đập trúng gươm A Hồ, sức mạnh đánh bay thanh gươm gang xanh bật bay ngược trở lại vệt một vệt xanh như dải lụa.
Việc xảy ra cực nhanh, tướng Đinh Điền trong trận không kịp hiểu sự thể. Tai nghe tiếng thét của Lê Thảo thì tay công khựng ngay lại. Đinh Điền còn thấy một vệt ánh sáng xanh bay vút đi xa. Cùng lúc ấy Lương Tích Lịch giục ngựa bay về cửa cứ doanh. Lạ một điều giải sáng xanh lung linh phát ra từ gươm A Hồ Lục Cương kiếm như hiểu biết bay theo rồi lại lọt vào tay tướng Lương Tích Lịch! Trên ải nhận ngay ra liền mở cửa đón tướng Lương Tích Lịch trở vào. Lúc Đinh Điền kìm được ngựa lại thì của doanh Phục Tượng đã đóng chặt.
Đinh Điền quay ngựa đến chỗ Động chúa, bây giờ Động chúa đã hồi tỉnh. Binh Hoa Lư hai cánh tả hữu dục tràn đến, đuốc lửa sáng rực trời, và trên đài cao trong doanh pháp sư An Dương Thanh Sứ nghiến răng tức giận. Thuật “nhiếp hồn” của ông đã làm cho ông nguyên khí chưa hồi phục nay lại mất nhiều quá. Thế mà tướng Lương Tích Lịch phóng gươm đoạt mạng Đinh Bộ Lĩnh lúc đang bị ông dẫn vào giấc “yêu miên” lại không thành công!
Quân sư bảo Đinh Điền thu quân, nhưng vẫn giữ nguyên thế trận đợi khi trời sáng. Về đến doanh, Động chúa bảo:
- Lúc đang xem trận, tự nhiên ta thấy buồn ngủ cố cưỡng cũng không được, rồi ngủ thiếp ngay đi, chẳng biết gì cả nữa!
Quân sư nói:
- Pháp sư yêu ma của Tế Giang không ra trận, chắc là y còn chưa khỏe hẳn. Ngồi nơi nào đó trong trận y thấy Động chúa nên dùng đến thuật “nhiếp hồn” để cho Lương Tích Lịch bất thần phóng gươm ám hại. May có tay cung thần của ông Hồ Tường Thụy kịp phá đường phi kiếm khiến cho Lương Tích Lịch phải bỏ chạy về!
Bây giờ thì Đinh Điền mới hiểu sự thể, và Hồ Tường Thụy bảo:
- Thưa Quân sư, nếu thế sao Quân sư không bảo ngay để tôi đi cướp lấy thanh gươm ấy?
Quân sư cười mà rằng:
- Không được đâu! Thanh gươm A Hồ Lục Cương tuy là gươm quý thật, nhưng nó được luyện ma thuật ngoài Lương Tích Lịch ra thì không ai giữ được nó đâu!
- Thế giả sử như Lương Tích Lịch bị chết, thì thanh gươm ấy thế nào?
- Tôi có nghe họ Lương rêu rao: Gươm luyện bằng gang ở động A Hồ tận phía Bắc sông lớn Hắc Long Giang, ở tận ngoài quan ải Vạn Lý Trường Thànnh. Gươm do chúa rợ Hồ sai thợ đúc luyện với huyền thuật, chỉ ai biết được bài kệ của Lưu Phương đời nhà Tùy lúc đem quân hai mươi bảy doanh sang đánh Lý Phật Tử thu phục Giao Châu ta, thì mới giữ được gươm. Trải qua nhiều đời không hiểu tại sao gươm lại vào tay Lương Tích Lịch cùng với bài kệ. Lịch thường bảo: “Thế gian này không ai làm chủ được gươm ấy, nếu như Lương Tích Lịch bị giết thì thanh gươm A Hồ Lục Cương sẽ chẳng còn huyền lực tự tìm về chủ cũ nữa. Mà gang xanh luyện kiếm cũng bị nát vụn ngay”, không biết có đúng thế không? Vì thế, lúc ông Hồ Tường Thụy phát mũi tên đánh bay thanh gươm ma ấy đi, Lương Tích Lịch chạy vào doanh có cần thu hồi thanh gươm đâu, tự nó tìm về với chủ.
Mọi người nghe Quân sư nói cũng đều lấy làm kinh ngạc lắm. Động chúa bảo:
- Lúc ấy, ta như ngủ mê, chắc là tên pháp sư yêu ma thu hồn ta để cho Lương Tích Lịch giết, lợi hại thật! Y không ra trận, thì nhất định là y trúng độc nặng. Vậy ta không nên để cho y có thì giờ kịp chữa thương, phải gấp rút lấy cho xong cứ doanh Phục Tượng mới được!
Quân sư tiếp:
- Thưa, đúng thế, ta không thể để cho pháp sư phục hồi sức khỏe yêu ma của y. Vậy ông Đinh Điền hãy mang binh, ngay tinh mơ hôm nay lại tới khiêu chiến. Nếu tướng Tế Giang không ra nghênh chiến thì tất cả các ông dồn sức đánh, thế nào cũng thắng.
Đinh Điền hỏi:
- Thưa Quân sư, Quân sư có cách nào để tôi đoạt thanh gươm gang xanh A Hồ, thử xem nó thế nào có được không?
Nghe Đinh Điền hỏi, ai cũng đợi nghe Lê Thảo trả lời. Ai cũng muốn được biết những điều lạ về thanh gươm ma. Quân sư có vẻ nghĩ ngợi rồi bảo:
- Giết Lương Tích Lịch chẳng khó, chỉ vì ai cũng muốn biết huyền lực của thanh gươm ma cho nên mới là việc khó! Vậy, ông Điền lại vào trận, lần này ông…
Quân sư ghé tai nói nhỏ chỉ một mình Định Điền nghe mà thôi, vẻ mặt Đinh Điền có lúc chăm chú, có lúc gay cấn. Điền luôn luôn gật gật đầu ra chiều đã hiểu, rồi Quân sư vui vẻ bảo:
- Ông cứ thế mà làm là được!
Rồi Đinh Điền lại mang quân cùng các tướng khác ra trận. Động chúa, Quận sư và Hồ Tường Thụy vẫn đứng xem trận đánh. Binh Hoa Lư lần này vẫn trấn ở xa, chỉ một mình Đinh Điền đến trước của doanh khiêu chiến.
Trong doanh, từ lúc Lương Tích Lịch phóng gươm A Hồ toan bất thần giết Hoa Lư Động chúa không thành, gươm bị đường tên thần của Hồ Tường Thụy đánh bạt đi. Lương Tích Lịch chẳng cần thu hồi thanh gươm quý gấp chạy vào doanh sai đóng chặt cửa cố thủ, không ra nghênh chiến nữa. Rồi hội tất cả các tướng lại mà rằng:
- Ta không hiểu tên Đinh Bộ Lĩnh là người thế nào, mà sao ở đâu cũng thấy có y xuất hiện? Hay là trong quân của Hoa Lư có những kẻ giống Đinh Bộ Lĩnh, cho nên chúng nó mới giả vờ ngụy trang đánh lừa ta như thế? Tiếc thay đường gươm A Hồ của ta phóng đi bất thần nhanh đến như vậy mà vẫn bị tên đứng bên cạnh kịp dùng đến cung tên làm hỏng việc của ta!
Đào Thảm Chi, vợ của Lương Tích Lịch bảo:
- Chắc đây đúng là Đinh Bộ Lĩnh, thiếp có nghe người ta nói Đinh Bộ Lĩnh vóc dáng to lớn. Lại nữa lúc ấy đứng bên cạnh ông ta còn có một người phong cách nho nhã không thấy mang khí giới gì cả. Chắc là Quân sư Lê Thảo của Hoa Lư. Còn người sử dụng cung tên giỏi quá ấy thì không biết là ai?
Đến lượt Quân sư pháp sư An Dương Thanh Sứ lên tiếng:
- Tiếc thật, ta dùng thuật nhiếp hồn từ trên đài cao trong doanh đã lấy được hồn Đinh Bộ Lĩnh. Thế mà mạng y còn lớn cho nên đường gươm của ông Lịch cũng không hại được y!
Giọng nói của pháp sư có phần mệt mỏi. Pháp sư đã tiêu hao mất nhiều nguyên khí để nhiếp hồn Động chúa, vì thế lúc này mệt mỏi nhiều lắm.
Tướng Công Tôn Thừa vừa định lên tiếng thì đã nghe thấy từ bên ngoài binh tướng Hoa Lư lại réo gọi thách đánh. Thừa liền bảo:
- Xin soái tướng để tôi ra giết tên tướng côn đồng cho nó im mồm đi. Khi nào tên Đinh Bộ Lĩnh vào trận soái tướng hãy ra đánh với nó nhé!
Lương Tích Lịch bằng lòng, nhưng pháp sư An Dương Thanh Sứ bảo:
- Chiến trận chỉ vừa mới dứt, thế mà địch đã lại đến khiêu chiến, rõ ràng là nó có mưu hiểm, không nên ra đánh. Cứ cố thủ là hơn đợi ta phục hồi nguyên khí xong đã!
Đào Thẩm Chi vốn ghét An Dương Thanh Sứ hoang dâm, nay nghe pháp sư nói thì mỉa mai:
- Pháp sư đạo cao tài lớn, bao nhiêu nguyên khí phân phát cả cho thiên hạ. Bây giờ đợi đòi lại được hết thì có khi binh tướng Hoa Lư đã lấy xong cả thiên hạ rồi cũng không chừng!
Pháp sư nghe thế thì giận lắm, nhưng lại lạnh nhạt bảo:
- Phải, trong thiên hạ ta ban phát ơn huệ đã nhiều, chỉ còn một người ta chưa có cơ hội thi ân thôi!
Đào Thẩm Chi đỏ bừng mặt, còn Lương Tích Lịch nghe vợ nói thế liền để cho Công Tôn Thừa mang quân xuất doanh. Lịch bảo:
- Tên xử côn đồng có hiệu là Kim Côn Tướng, côn nặng thế mà nó vận dụng nhẹ nhàng thảnh thơi lắm, ông vào trận đừng gượng nhẹ nể nang gì cả, hãy đem hết tài nghệ ra áp đảo nó ngay từ đầu là hơn!
Lúc ấy trời đã sáng rõ, cửa doanh mở ra để tướng Công Tôn Thừa thúc ngựa đi đầu đem một đạo quân không nhiều ra ngoài lập trận. Trong doanh, trên đài cao tất cả các tướng còn lại cùng với pháp sư đứng xem trận.
Công Tôn Thừa vừa thấy tướng Đinh Điền của Hoa Lư thì thét lớn:
- Giặc côn đồng, mày chưa chết vì gươm A Hồ, thì lần này tất chết vì Âm Dương Sát Thủ Giản của ta rồi!
Đinh Điền có nghe nói đến tướng này của Tế Giang, cặp thiết giản lớn bằng bàn tay thật lợi hại. Có thể cùng một lúc biểu diễn được cả âm lẫn dương, bên này hỗ trợ cho bên kia. Tướng Công Tôn Thừa của Tế Giang từng tung hoành đập chết nhiều giặc cướp thì lại tưởng là trong thiên hạ tướng nào cũng chỉ là giặc cướp mà thôi. Cho nên mới lớn lối khoe khoang cặp thiết giản Âm Dương của mình.
Đinh Điền nghe tướng Tế Giang thét, chưa biết tài nghệ thế nào nhưng cũng phải thận trọng cho ngựa vào trận. Lập tức, quân đôi bên trợ trận trống giục quân reo ầm ầm, hào khí chiến trường hốt nhiên bừng bừng.
Công Tôn Thừa không phải là đối thủ của Đinh Điền, chỉ qua vài hiệp là Đinh Điền nhận ra ngay tài nghệ của tướng Tế Giang. Tướng quân không muốn kéo dài trận chiến, chỉ muốn làm thế nào để Lương Tích Lịch lại ra trận. Vì thế ông tận lực đập xuống một côn để cho Công Tôn Thừa phải vội vàng hoành ngựa tránh sang một bên đúng như ý muốn của Đinh Điền.
Đinh Điền vừa thấy tướng Tế Giang chập cả hai cây thiết giản lại rồi tạt ngựa sang một bên, thì biết là y định thừa lúc quay ngựa sẽ quật cả cặp giản ngược trở lại. Nào ngờ “kẻ cắp lại gặp bà già”. Đinh Điền chỉ đợi có thế liền xoay côn đang đập xuống quét một đường đuổi theo tướng Tế Giang. Thương thay, Công Tôn Thừa không tư liệu tài sức, tưởng thiên hạ đều chỉ là những kẻ cường sơn cướp đảng. Cho nên bản lĩnh so với Đinh Điền non nớt quá, Thừa lãnh trọn một côn đồng vào ngang sườn bên trái, nghe “huỵch” một tiếng thì toàn thân bay vụt khỏi lưng ngựa, cặp thiết giản tuột khỏi tay bay vút lên cao. Binh Tế Giang kinh hồn tán dởm ùn ùn bỏ chạy trở về.
Đinh Điền giơ tay cản quân lại không cho đuổi theo, lại sai quân cùng nhau hô lớn, réo gọi tướng Lương Tích Lịch mau ra nộp mạng.
Trên đài cao quan sát dựng trong doanh. Hết thảy mọi người đều thấy việc chiến trận ở bên ngoài, sự việc diễn ra mau quá khiến không ai kịp trở tay. Đến khi thấy Công Tôn Thừa trúng một côn bay đi, thì tướng Chương Ly Thảo vốn xuất thân là thầy lang buột miệng kêu lên:
- Không còn thuốc chữa!
Cũng trong tiếng kêu của Chương Ly Thảo. Nữ tướng Đào Thẩm Chi vợ của Lương Tích Lịch chẳng nói chẳng rằng băng băng chạy xuống đài, chực lên ngựa để ra trận, thì Lương Tích Lịch kịp phóng theo giữ lại. Lịch bảo:
- Để ta!
Dứt lời, Lương Tích Lịch giục ngựa như gió cuốn chạy ra, chẳng cần hô quân dừng lại. Lương Tích Lịch vừa ra khỏi doanh thì Đào Thẩm Chi cũng đã cản được đám bại quân đang ùn ùn xô nhau chạy vào. Nữ tướng thét quân dừng bước rồi đem thêm quân xuất doanh ra trợ chiến cho chồng.
Bên ngoài, Đinh Điền lại quần thảo với tướng Lương Tích Lịch của Tế Giang. Hai tướng quấn lấy nhau mà đâm chém. Bên nào cũng cẩn thận đề phòng nhau, cả hai hầm hè có vẻ chỉ chực ăn tươi nuốt sống nhau ngay mới hả dạ. Nữ tướng Đào Thẩm Chi đem quân tiếp viện, bà giục ngựa xông vào tiếp chiến với chồng chống lại Đinh Điền, thì tướng Lương Tích Lịch kêu to lên:
- Lui ra! Để mình ta!
Đinh Điền cũng hô lớn:
- Hay lắm! Cứ vào, Tế Giang hết người phải cho cả nữ nhân xông pha chỗ chém giết, hay thật!
Đào Thẩm Chi chưa kịp ra một đòn nào, thì Lương Tích Lịch đã giạt ngựa chắn lối không cho Thẩm Chi nhập trận. Thẩm Chi lui lại hô quân vây lấy tướng Hoa Lư.
Binh Hoa Lư được lệnh liền nhất tề hò reo xông tới, hai quân ra sức chém giết nhau. Chiến trường buổi sáng sớm ngụt sát khí.
Côn qua, gươm lại được ít hiệp nữa. Đinh Điền nhớ lời Quân sư dặn, tay côn nghiêng hẳn sang một bên khiến cho ngựa trận cũng lạng vó về một phía. Đinh Điền rõ ràng dồn tướng Tế Giang không cho có thể công kích được Điền ở cả hai bên sườn, mà chỉ có thể tấn công được ở một phía. Hai ngựa vì thế sát dần lại gần nhau, côn đồng to nặng mà dài lúc này khó xoay trở hơn thanh gươm gọn gàng trong tay Lương Tích Lịch.
Lương Tích Lịch thấy tướng Hoa Lư dồn mình về một phía thì mới đầu cảm thấy thất thế. Sau thì lại thấy thanh gươm lợi thế lúc vào sát tướng địch. Lương Tích Lịch mừng thầm trong lòng, tay cương khiến cho chiến mã bất thần xông tới cùng lúc gươm A Hồ Lục Cương kích ra một đường vào mạng sườn bên trái Đinh Điền. Điền như kinh hoàng co côn áp sát sườn chặn gươm A Hồ nghe “xoảng” một tiếng rùng rợn.
Cùng với tiếng “xoảng” ấy, hai ngựa sát vào nhau. Hồ Tường Thụy được Quân sư dặn trước, hết sức chú ý. Đến khi nghe Quân sư khẽ quát: “Đi!” thì cánh cung với mũi tên thần đã thi hành xong phận sự!
Hóa ra, hai tướng vào sát song song nhau, hai tướng một ra đòn một đỡ đòn. Bất thần một đường tên cực chuẩn bay nhanh chẳng ai kịp nhìn thấy. Nhưng hai tướng nghe rõ một tiếng “phập” thật ngọt thì Đinh Điền đã thấy ngực áo chiến vải hùng bố của ông bị một đường tên cắm vào. Mũi tên đi qua tay chiến bào cầm gươm của Lương Tích Lịch ghim chặt vào ngực Đinh Điền không làm sao giật ra được!
Đinh Điền nhanh như chớp vươn tay ôm ngay lấy Lương Tích Lịch bắt sống tướng Tế Giang rồi giục ngựa chạy ngay về trước trận. Ngay lúc ấy, Động chúa Đinh Bộ Lĩnh như một thiên thần giục ngựa chạy ra. Tay đại phủ giơ lên, hai bên Động chúa là hai tướng Hà Bảo Ninh và Trương Đức Xuân. Nữ tướng Đào Thẩm Chi còn đang bàng hoàng đến sững sờ chưa kịp trở tay thì cây búa sắt của tướng Trương Đức Xuân đã hoa lên, tính mạng nữ tướng mười phần chẳng còn một! Ngay lúc ấy, Động chúa thét lớn:
- Dừng tay!
Lưỡi búa sắt của tướng Trương Đức Xuân cố nhích đi tránh không chém xuống giữa đỉnh đầu Đào Thẩm Chi thì cũng bay ngay xuống mông con ngựa. Chiến mã của Đào Thẩm Chi rít lên một tiếng rùng rợn quăng nàng bắn ra xa, rồi cố lết đi mấy bước mới chịu gục xuống!
Ngay lúc Đào Thẩm Chi bị chiến mã hất văng đi, thì Hà Bảo Ninh đã như làn khói tràn đến xốc nàng lên rồi giục ngựa chạy về trận! Thế là hai vợ chồng tướng trấn cứ doanh Phục Tượng đều bị bắt sống. Bại binh Tế Giang ùn ùn chạy trở lại. Cửa doanh đóng ập ngay lại, nhiều người không kịp vào thì quăng khi giới xin đầu hàng.
Động chúa Đinh Bộ Lĩnh chẳng giục quân đánh doanh. Ngài quay trở lại kịp thấy Quân sư xuống ngựa đón Đào Thẩm Chi dẫn đến trước ngựa Đinh Điền. Lúc ấy Điền vẫn cứ ôm chặt lấy Lương Tích Lịch, hai tướng dường như không rời nhau ra được! Động chúa, Trương Đức Xuân, Hà Bảo Ninh và Đào Long Vân, kể cả Đào Thẩm Chi, tất cả nhìn quang cảnh ấy đều lấy làm lạ!
Đinh Điền nhìn Hồ Tường Thụy cười mà rằng:
- Ông ghim hai chúng tôi lại với nhau chặt quá, giúp tôi một tay!
Tới lúc này mọi người mới thấy: Một ngọn tên cắm giữa ngực Đinh Điền ghim chặt ống tay áo chiến cầm gươm của Lương Tích Lịch vào ngực Điền! Mũi tên dài đi suốt ngực Đinh Điền, tại sao Điền không chết?
Hồ Tường Thụy lại gần, lấy sức loay hoay rút mũi tên ra mà không được. Hà Bảo Ninh cho ngựa lại sát bên đoạt lấy thanh gươm còn nắm chặt trong tay Lương Tích Lịch. Ninh dùng ngay gươm ấy cắt đứt ngọn tên lúc ấy Lương Tích Lịch mới giật tay áo ra khỏi ngực Đinh Điền được. Đinh Điền lật áo chiến thủng ngực vì đường tên, mũi tên cắm sâu vào mảnh gỗ gõ đỏ che ngực Đinh Điền!
Bây giờ mọi người mới hiểu tại sao Đinh Điền không chết vì đường tên thần của Hồ Tường Thụy! Và các tướng Hoa Lư chợt hiểu ra những lời dặn của Lê Thảo nói thầm vào tai Đinh Điền trước khi ra trận! Đấy chính là kế của Quân sư giúp cho Đinh Điền bắt sống Lương Tích Lịch thu gươm A Hồ Lục Cương! Đường tên đi thật mạnh, gỗ gõ đỏ cứng lắm mới cản được ngọn tên không cho vào sâu, và vì thế mà Đinh Điền không bị thương tích nào?
Hai vợ chồng Lương Tích Lịch nhìn nhau ngỡ ngàng, chẳng ai thốt lời nào. Lê Thảo vui vẻ:
- Hôm nay Động chúa Hoa Lư chúng tôi đích thân ra trận đón vợ chồng ngài. Việc chiến trận có điều không được dịu dàng tôi xin thay mặt Động chúa đón chào ngài và phu nhân!
Hai vợ chồng Lương Tích Lịch liền quỳ xuống lạy trước ngựa Động chúa. Động chúa bảo:
- Các người đứng lên! Đại nghĩa trong thiên hạ ai hiểu thì tìm đến. Ai không biết cứ tự do ra đi!
Lời nói của Động chúa thật sảng khoái độ lượng, khiến vợ chồng Lương Tích Lịch tự dưng rơi lệ. Rồi Đào Thẩm Chi nói:
- Thưa Động chúa, vợ chồng thiếp là bại tướng, tạ ơn sâu của ngài không giết, xin để tùy ngài định đoạt!
Đào Thảm Chi vốn dòng dõi tướng Đào Hoàng do nhà Ngô cử sang giành lại Giao Châu trong tay nhà Tấn. Đào Hoàng lúc ấy được nhà Ngô phong là Giao Châu Mục cho đến năm Canh Tý (280). Nhà Ngô mất thì Đào Hoàng đem Giao Châu nộp cho nhà Tấn. Họ Đào nhờ thế mà được giữ nguyên địa vì rồi ở lại Giao Châu lập nghiệp. Thẩm Chi không có nhan sắc hoa lệ nhưng là người hiền thục, hiểu việc đời, theo chồng hầu hạ Sứ quân Lữ Đường thì tuy chẳng nói ra cho chồng nghe nhưng trong lòng Thẩm Chi vẫn không coi trọng Sứ quân. Nay vào trận tài chẳng bao nhiêu bị tướng Hoa Lư bắt sống thoát chết nhờ có tiếng thét của Động chúa, thì nàng trong lòng bồi hồi cảm kích lắm. Đến khi được thấy mặt Đinh Bộ Lĩnh thì Thẩm Chi nghĩ: Đây mới thật là hào kiệt anh hùng ở đời!
Sau, Đào Thẩm Chi lấy cớ chán nản việc thế gian. Xin Động chúa cho được một mình vào ẩn tu ở tận Vũ Nga. Từ đấy không còn ai biết tung tích nàng nữa, đấy là việc ở mai sau.
Còn gươm A Hồ thì tướng Hồ Tường Thụy đem trình Động chúa. Động chúa cùng Quân sư và các tướng xem xét thanh gươm nức tiếng, thấy: Gươm không dài, lưỡi cong vòng như khung trăng khuyết, nước thép gang xanh biếc cực bén, hỏi thì Lương Tích Lịch bảo: “Gươm không có phép tự tìm về với chủ, nhưng Lương Tích Lịch có phép đánh gươm riêng thật kỳ lạ. Có thể trong lúc vào trận phóng gươm ấy đi nếu không trúng đích thì gươm sẽ vòng trở lại tay chủ vì thế người đời mới bảo là gươm có thần biết tìm chủ!” Lương Tích Lịch cứ giữ im bí mật về phép xử gươm tài tình ấy để cho cây gươm quý thêm phần huyền bí! [→13] .
Lúc chiến trận trước cứ doanh Phục Tượng hết, trời mới chưa vào đến giữa buổi sáng. Trở lại sảnh doanh, Quân sư thưa với Động chúa:
- Lúc này trong doanh chẳng còn tướng nào đáng mặt, chỉ còn có pháp sư theo lời của ông Lương Tích Lịch thì đang nguy kịch. Vậy ta nên đem hết binh đến trước doanh, xua cho bọn còn lại trong đấy bỏ chạy nốt là xong. Đừng để chậm khiến chúng kịp thì giờ hoàn hồn!
Động chúa rất hài lòng, truyền tướng Đinh Điền chỉnh đốn đạo binh, rồi tức thì kéo đến trước của doanh kêu réo pháp sư An Dương Thanh Sứ mau mau ra hàng. Điền lại cho quan hô to: “Ai bắt được pháp sư đem nộp, được thưởng lớn, ai che chở cho pháp sư đến khi doanh mất vào tay Hoa Lư thì không thoát tội chết!”.
Tiếng hô ầm ầm của chiến binh Hoa Lư từng chập xen lẫn tiếng trống trận, khiến cho trong doanh hỗn loạn lớn.
Pháp sư An Dương Thanh Sứ thấy tình thế nguy ngập. Cứ tình cảnh này thì đám quân tướng còn lại có lúc bắt trói ông rồi mở cửa doanh dầu hàng Hoa Lư mất. Thế là pháp sư hội các tướng còn lại mà rằng:
- Trấn doanh Phục Tượng này, chúa công trao cho ông Lương Tích Lịch giữ, chẳng phải là binh ngoài lấy dễ dàng được, ấy chẳng may vì ta lúc này không được khỏe mạnh. Lúc nãy trong trận dù ngồi ở nhà ta cũng suýt chút nữa thì giết được thằng chăn trâu cắt cỏ, không hiểu tại sao ông Lịch lại để cho tên tướng Hoa Lư ôm được cho nên mới lỡ việc! Nay Hoa Lư lại đến khiêu chiến, nếu như giữ được cứ doanh thêm ít lâu hơn, ta khỏe mạnh lại thì với mấy con biển bức phép màu của ta việc lấy mạng tên Đinh Bộ Lĩnh nào có khó gì!
Pháp sư An Dương Thanh Sứ vẫn huênh hoang khoác lác về phép màu của mình, nhưng lại bảo các tướng là phải làm sao để giữ cho cứ doanh vững được ít lâu nữa làm cho các tướng ngao ngán nhìn nhau.
Pháp sư tiếp:
- Bây giờ, ta cho người gấp về phủ đường báo tin cầu cứu chúa công, xin viện binh. Như thế thì chỉ chiều mai là cùng, ta sẽ có binh tướng đến tăng viện giữ trại. Ngay trong lúc này bọn Đinh Bộ Lĩnh chưa thể làm gì được ta!
Rồi để trấn an các tướng pháp sư bảo:
- Ta tuy không được khỏe trong người, nhưng phép màu của ta cũng còn đủ sức để khiến cho binh tướng Hoa Lư không thể nào tới gần cửa cứ doanh của ta được! Các ngươi cứ yên lòng phòng thủ, cho quân dùng cung tên bắn giết bớt binh tướng giặc bên ngoài. Đợi binh tiếp viện, đợi ta phục hồi sức khỏe đầy đủ thì thế nào cũng được xem đầu của tên Đinh Bộ Lĩnh!
Những lời huênh hoang của pháp sư cũng có phần nào trấn an được các tướng. Vả lại cho người gặp về phủ đường báo tin cầu viện thì quả thật chỉ đến chiều mai là cùng, viện binh sẽ tới là rất đúng. Nhờ thế các tướng cũng tạm yên lòng khích lệ chúng quân cố thủ.
Pháp sư lại chọn người để về phủ đường báo tin cầu viện, pháp sư bảo:
- Lúc này cấp bách, gửi thư văn đi lại phải viết lâu mất thì giờ, vả lại như thế không được thật an toàn. Chỉ còn có cách: Một ông ở đây đích thân ra đi mới được, vừa hiểu rõ tình hình mọi việc, vừa kín đáo mau lẹ. Thế nào Hoa Lư cũng rình theo dõi tế tác của ta, không để ý đến một người thường đi lại, vậy ông nào đi được?
Lúc này, trong doanh chẳng còn tướng nào của Lương Tích Lịch đáng là tướng. Còn đám các tướng theo pháp sư An Dương Thanh Sứ đi cứu Phục Tượng có Trần Đức Kiệt, Lý Phúc Tảo, Phạm Đại Hải, Lê Doãn Hồ. Bốn tướng vốn không phải là tướng kém nhưng đi theo pháp sư vâng lệnh Sứ quân đi cứu Phục Tượng thì trong lòng đã thấy ngại. Trước trận lại tận mắt thấy Động chúa Hoa Lư xuất hiện, phép màu của Quân sư pháp sư chẳng giết được tướng Hoa Lư nhưng pháp sư thì lại bị hại nghiêm trọng. Tiếp đến là cả hai vợ chồng tướng trấn cứ doanh bị Hoa Lư bắt sống, thì chẳng tướng nào còn lòng dạ muốn ra trận nữa. Cho nên tướng còn đủ, binh chưa thiệt, thế mà nghe pháp sư bàn kế cầu viện binh các tướng cứ im thin thít cả. Chẳng ông nào xin ra trận đối địch với ngoại binh, cũng chẳng thấy ai ứng tiếng xin tình nguyện xuất doanh về phủ đường cầu viện binh!
Trong lúc hoang mang sợ hãi, pháp sư dù ranh ma xảo quyệt cũng vẫn không quên một điều hệ trọng: Phủ đường chẳng còn nhiều binh tướng, pháp sư đã đi cứu viện thế thì sao lại còn cầu cứu viện nữa!? Nhưng, pháp sư cứ cầu viện, nghĩ là để mai sau có lý lẽ để biện bạch được cho việc thất thế của mình hôm