← Quay lại trang sách

Hồi Thứ Một Trăm Lẻ Năm Siêu Loại tàn vong, Sứ quân chiến tử
Thủ Tiệp muốn làm Vương, Hoa Lư bàn thế trận

Binh đôi bên lúc ấy vừa mới vào trận, các tướng vừa tranh hùng vừa có ý dè dặt thận trọng dò xét tài nhau, thì tế tác gấp đường đến trước trận trình Sứ quân Lý Khuê:

- Bẩm trình chúa công, phu nhân đi lễ tạ miếu đền thiêng giữa đường bị quân lạ bắt mất, không biết lúc này ở đâu!

Sứ quân nghe trình thì như bất chợt có cục than hồng ấn vào tay, tay trống trận của Sứ quân khựng lại. Ngài điếng hồn chưa định thần được, thì tế tác từ hậu quân ào tới hổn hển trình:

- Bẩm trình chúa công, binh Hoa Lư vượt ải Thiên Ma, có chim thần cõng xuống. Đã tràn tới cướp mất phủ đường rồi!

Tay gươm của Sứ quân bủn rủn, ngài buông rơi thanh gươm, tay trống cũng rơi cả dùi. Văn sĩ Lý Thưởng đứng ngay bên cạnh Sứ quân rõ hết các tin tế tác trình, thì mặt xám ngoẹt, lắp bắp:

- Truyền lui binh! Sứ quân mau truyền lui quân sang phía Đông tránh họa!

Lúc ấy, Luy Lâu Thần Nữ chiến với tướng Nguyễn Minh Khánh chỉ muốn mau mau hạ tướng này để còn đi tìm vị Quân sư tài hoa của Hoa Lư. Nhưng khốn thay muốn hạ được thanh gươm Đông Ba Hàng Yêu lại chẳng phải dễ. Nguyễn Minh Khánh đem hết tài nghệ phổ vào hai tay cầm gươm, thanh gươm tung hoành mở rộng phạm vi, khiến cho bảy ngọn liễu đao của Thần Nữ ngay tức thì chưa làm gì được ông. Đứng bên ngoài cùng các tướng giám trận, Vạn Thắng Vương tấm tắc khen tài Thần Nữ, ngài quay lại bảo các tướng:

- Luy Lâu Thần Nữ quả thật xứng danh, tiếc rằng cô lại theo phò tướng giặc cướp, lại để uổng cả thanh xuân vào những việc gió trăng chẳng xứng!

Vạn Thắng Vương vừa nói xong, thì bảy ngọn liễu đao biến hóa như quấn lấy gươm Đông Ba Hàng Yêu. Tướng Nguyễn Minh Khánh xoay trở thế nào thì bảy ngọn đao mỏng manh ấy cũng vẫn như dính chặt lấy thanh gươm dài. Lúc này, chính tay gươm của Khánh lại dẫn đường cho bảy ngọn đạo múa lượn chực bay xuống. Nguyễn Minh Khánh kinh hãi, hồi gươm thủ thế, hai tay nắm chặt chuôi gươm, mũi gươm chĩa thẳng ra phía trước. Gươm cách ngực Luy Lâu Thần Nữ chẳng qua một gang tay. Vạn Thắng Vương cùng các tướng chú hết mục vào xem trận chiến sắp biến hóa.

Luy Lâu Thần Nữ cười lên lanh lảnh mà rằng:

- Nguyễn Minh Khánh, danh tiếng Đông Ba Hàng Yêu Khách của ông cũng đủ để ta nương tay tha chết cho. Mau mau trở về gọi Quân sư Lê Thảo ra đây!

Nguyễn Minh Khánh chẳng nói, ông biết tại mình không hàng phục được phép thuật của Luy Lâu. Khi nghe nàng nói như thế thì liền thét lên tiếng lớn, thanh gươm dài rung rung hất mũi lên, rồi tướng quân như trận cuồng phong ào tới gươm liên tiếp chém ra năm sáu đường liền. Khiến cho Luy Lâu Thần Nữ cũng phải lui ngựa sáu bảy bước tránh gươm. Đến đây thì Thần Nữ không còn nương tay nữa, hai tay cô uốn éo sai khiến bảy ngọn liễu đao lọt hẳn vào trong vòng hoạt động của thanh trường kiếm. Cả bảy ngọn đao cùng lúc ùa tới giữa ngực Nguyễn Minh Khánh.

Cùng lúc bảy ngọn đao lọt qua gươm của Khánh, có tiếng thét lớn âm vang như sấm rền:

- Không được hại tướng của ta!

Cùng với tiếng thét có tiếng vó ngựa băng lên. Một vệt sáng lớn bay vọt đi trước cực nhanh, đấy chính là Vạn Thắng Vương vào trận!

Đứng bên ngoài xem trận, cặp mắt như sao sáng của vương theo dõi từng đường đi của đao với kiếm. Ngài nhận ra ngay bảy ngọn đao nhỏ luồn qua đường kiếm dài bay đi chực đâm cả vào ngực tướng Nguyễn Minh Khánh. Vương tay phóng cây đại phủ đi, miệng thét lớn. Lưỡi phủ bay cực nhanh, cực mạnh, lướt đi như một luồng sáng trắng sát ngực tướng Khánh, đánh bay cả bảy ngọn liễu diệp phi đao của Thần Nữ đi. Kịp cứu Nguyễn Minh Khánh khỏi chết với bảy ngọn đao phanh ngực!

Minh Khánh kinh hoàng, thần nữ cũng kinh hãi, nàng không thể nào ngờ được lưỡi đại phủ của Hoa Lư Động chúa lại lợi hại đến như thế. Chính các tướng đứng bên ngoài cũng không kịp thấy hết tình thế!

Vạn Thắng Vương bay ngựa tới cũng là lúc Nguyễn Minh Khánh đã hiểu hết sự việc. Ngựa của Khánh giạt ra một phía đuổi theo cây đại phủ. Khánh thu hồi cây búa lại cho vương.

Vạn Thắng Vương kìm ngựa trước ngựa Luy Lâu Thần Nữ, ngài nghiêm giọng bảo:

- Thần Nữ, ta tiếc tài người không nỡ xuống tay! Mau mau trở về hồi tâm tu định, đừng để uổng phí cuộc đời!

Luy Lâu Thần Nữ nghe danh Hoa Lư Động chúa lẫy lừng trong thiên hạ. Lúc vào trận chưa kịp quan sát thì lúc này nàng đã được thấy thật rõ tướng mạo vóc dáng của vương. Con người này quả thật danh tiếng trùm thiên hạ là phải!

Thần Nữ còn đang mở rộng cặp mắt đẹp êm như nhung ngắm nhìn vương, thì tướng Nguyễn Minh Khánh đã trở lại. Ông trao lại vương cây đại phủ, rồi tay gươm hàng yêu của ông bỗng múa lên mở rộng một đường vòng sang phía bên trái Vạn Thắng Vương. Vương nghe thấy giữa những tiếng ồn ào nơi chiến trường có tiếng cồng kêu âm u đồng thời với gió kiếm dài của tướng Khánh lướt gần sát má Vương cùng với một tiếng “chát!”. Thanh gươm của Khánh đã chặt trúng một ngọn tên phóng lén toan ám hại vương!

Nguyễn Minh Khánh thừa đà ngựa lướt tới nhằm ngang lưng Thần Nữ phạt tới cực kỳ hung hiểm. Thần Nữ uốn mình vọt khỏi lưng ngựa, hai tay như múa lên huy động bảy ngọn liễu đao đã bay trở lại quấn lấy Nguyễn Minh Khánh.

Khánh kêu to lên:

- Đại vương cẩn thận, có kẻ bắn lén!

Bây giờ, các tướng Hoa Lư đứng bên ngoài đã thấy rõ tình thế.

Đối trận, các tướng Siêu Loại cũng thấy hết mọi việc, cùng với các tướng khác đứng bên cạnh Sứ quân Lý Khuê là tướng Điểm Quân Hồng. Hồng mấy lần tưởng là Luy Lâu Thần Nữ giết xong tướng Hoa Lư, thế mà vẫn không làm gì được. Đến khi cây búa của Vạn Thắng Vương bay đi, rồi Nguyễn Minh Khánh trở lại. Điểm Quân Hồng chợt nảy ý: Giết chết Hoa Lư Động chúa!

Thế là Điểm Quân Hồng hạ cây cung lớn dây đồng, đặt tên rồi chờ cơ hội. Điểm Quân Hồng là tướng Siêu Loại tính tình rất hung dữ, có tài sử dụng cung tên, vẫn tự khoe: “Cách xa tầm mắt còn nhìn được, trăm phát tên của ông bắn đi đều trúng sợi tơ con nhện đang giăng trên cành cao”. Vì tài sử dụng cung tên như thế, Điểm Quân Hồng muốn thị uy tài mình, liền lấy dây đồng làm dây cung. Mỗi lần phóng tên đi thì sợi dây đồng ấy phát tiếng kêu như tiếng cồng âm u làm cho mọi người ở chung quanh phải khiếp hãi.

Lúc Vạn Thắng Vương phóng búa cứu Nguyễn Minh Khánh rồi ngài trụ ngựa. Điểm Quân Hồng thấy cơ hội đã đến liền phát mũi tên đi, nào ngờ tướng Nguyễn Minh Khánh đã quay ngựa lại kịp thấy hành động của tướng Siêu Loại. Khánh đi một đường gươm Đông Ba Hàng Yêu kịp chặt ngọn tên bắn lén, rồi nhân đà ngựa tràn tới công kích Luy Lâu Thần Nữ!

Chính lúc ấy, tế tác đến trình tin Lục Hồ cho Sứ quân Lý Khuê biết.

Vạn Thắng Vương vừa nhận ra việc bắn lén của tướng Siêu Loại. Ngài quay ngựa toan xốc thẳng tới trận Siêu Loại, thì các tướng đã tràn ra. Rồi tướng Đinh Điền nói:

- Bẩm vương, ngài không cần phải vào trận. Thế nào cũng sắp có tin rồi!

Các tướng vây lấy vương thì cũng là lúc Sứ quân Lý Khuê được tế tác đến báo tin là: Binh tướng Hoa Lư vượt ải Thiên Ma đã bất thần đánh úp cướp mất phủ đường rồi!

Khi nghe văn sĩ Lý Thưởng bảo mau chạy sang Đông, các tướng chẳng còn hồn vía. Lập tức hộ tống cho Sứ quân bỏ trận gấp chạy đi.

Trận hỗn loạn, binh Hoa Lư hò reo như sấm dậy kêu gọi binh Siêu Loại mau mau đầu hàng. Vướng lại trong trận, chỉ còn một mình Luy Lâu Thần Nữ. Nàng thấy sự thể thì hồn vía chẳng còn, hai tay muốn thu đao để bỏ chạy. Nguyễn Minh Khánh thấy thế thì bao nhiêu tài nghệ dốc ra hết quyết giết cho được yêu nữ khét tiếng này. Vì thế tay gươm của Khánh càng phấn chấn múa liên miên công kích như mưa lớn đổ xuống Luy Lâu Thần Nữ.

Ở phía sau, Sứ quân Lý Khuê đã bỏ chạy, chung quanh quan Siêu Loại kêu la xin quy hàng. Luy Lâu Thần Nữ luống cuống chẳng làm sao thu lại được bảy ngọn đao, thì một gươm của Nguyễn Minh Khánh chặt trúng đánh bằng cả bảy ngọn đao đi. Luy Lâu Thần Nữ tay không làm sao chống trả lại được với thanh gươm danh tiếng trong thiên hạ!

Lúc Nguyễn Minh Khánh phạt tới một gươm. Thần Nữ lại uốn mình tránh gươm, tay cương giạt ngựa quay lại toan chạy đi, thì gươm hàng yêu của Khánh lại kích ra. Lần này bổ thẳng từ trên cao xuống, sức gươm đi cực mạnh. Thần Nữ thấy chết mà chẳng làm sao tránh được nữa, nhắm mắt chờ chết! Nhưng nàng nghe “choang” một tiếng, thì đã bị một cánh tay mạnh như mình trăn gió cuốn lấy bắt sống. Chính Vạn Thắng Vương đã kịp huy phủ đỡ đường gươm hàng yêu của tướng Khánh, rồi vươn tay bắt sống Luy Lâu Thần Nữ!

Cùng lúc ấy, tế tác giục ngựa đến trình:

- Bẩm trình vương, phủ đường Siêu Loại tướng quân Nguyễn Bặc đã lấy xong!

Các tướng nghe trình thì nhất tề hô to: “Vạn tuế Vạn Thắng Vương!” Chúng quân của cả hai bên đều cũng ầm ầm hô vang: “Vạn tuế Vạn Thắng Vương! Vạn tuế Vạn Thắng Vương!”.

Tướng quân Nguyễn Minh Khánh phát lệnh thu quân, binh các mặt khoảnh khắc tụ cả lại. Tướng tiên phong Nguyễn Minh Khánh cho ngựa đến trước ngựa vương kính cẩn trình:

- Bẩm trình vương, đại quân rước vương vào phủ đường!

Đại quân Hoa Lư rầm rập kéo nhau vào đại doanh phủ đường Siêu Loại. Chiến trận mở ra thật hết sức bất ngờ, binh Hoa Lư như từ trên trời xuống, từ dưới đất chui lên. Bất thần hiện ra nhanh còn hơn cả chớp giật vượt sông Kinh Phố, tiến như vũ bão vào phía Tây phủ đường Siêu Loại. Đến nỗi bá tánh mới thoạt đầu lại tưởng là binh tướng của Sứ quân trẩy qua. Đến khi nhìn hiệu cờ Hoa Lư thì rụng rời kinh khiếp, kêu gào gọi nhau mau mau đóng cửa chạy hết. Nhưng thấy binh tướng Hoa Lư chẳng có hành động chém giết nào, lại thấy có những người bắc loa kêu gọi bá tánh hãy yên lòng. Mau mau đi đón Vạn Thắng Vương vào phủ đường, thì dân chúng dần dần hết sợ, lại ùn ùn kéo nhau tranh chỗ để được thấy binh tướng Hoa Lư. Nhất là mong được thấy Vạn Thắng Vương. Bá tánh nhớ những chuyện kể ở các nơi khác, vội rủ nhau đem hương án bày ra ngoài lộ mừng lạy vương. Chẳng mấy chốc, khắp phủ đường Siêu Loại đã không thấy có cảnh máu tanh xương trắng, mà lại chỉ thấy ngào ngạt hương thơm. Trăm dân mong ngóng ngày hôm nay bây giờ đã thỏa nguyện!

Vào phủ đường Siêu Loại. Vương nhìn những cảnh xa hoa mà bỗng rùng mình, thì ra ở đâu cũng vẫn chỉ là những cảnh như thế này đây. Ở đâu cũng vẫn chỉ là xa hoa phí phạm bên cạnh cuộc sống trâu ngựa khổ cực quá đỗi lầm than của muôn dân! Lòng Vương sôi nổi, Vương lại muốn thẳng tay trừng trị bọn cường bạo tội lỗi này!

Vương còn đang bâng khuâng nghĩ ngợi, các tướng còn đang lao xao bàn tán. Thì quân đã trình vào:

- Bẩm trình Đại vương, Quân sư đã về!

Tướng tiên phong đại binh Hoa Lư Nguyễn Minh Khánh bước tới thay vương ra đón Quân sư. Quân sư cùng với hai tướng Nguyễn Bặc, Mạc Sa Cảnh bước vào. Cả nghị sẵnh phủ đường Siêu Loại ồn ào. Vương bước tới, ngài vui vẻ bảo:

- Ta vừa được nghe Quân sư lại dùng phép tiên cho thiên tướng cũng binh của ta xuống ải Thiên Ma. Thật là kim cổ kỳ sự!

Quay sang tướng Nguyễn Bặc, hai tay Vương vỗ mạnh lên hai vai Bặc. Vương bảo:

- Chỉ mới mấy ngày, ông tiều tụy quá, rõ là đường Bình An chẳng bình an chút nào. Nhưng chính con đường ấy khiến cho đại binh của ta được bình an vào nơi này!

Vương nhìn Mạc Sa Cảnh cũng lại tiều tụy lôi thôi còn hơn cả Nguyễn Bặc. Vương cảm động nói:

- Nhờ có ông đi lại trăm nghìn lối còn hơn cả đàn nhện giăng tơ. Thành ra binh ta ra khắp thiên hạ mà ở đâu ta cũng biết hết mọi việc, ông chính là tai là mắt của ta!

Rồi Vương sánh vai cùng Quân sư bước tới. Áo văn sĩ của Quân sư còn hai chỗ rách! Nghị sảnh đại doanh phủ đường Siêu Loại còn đang ồn ào, thì quân đã trình vào:

- Tướng quân Hồ Tường Thụy đã về!

Quân sư nói vội:

- Mời ông ấy vào ngay!

Cả nghị sảnh im lặng. Phải rồi, trong niềm vui lớn quá làm các tướng quên mất là còn thiếu một người, người ấy là Hồ Tường Thụy! Lát sau Hồ Tường Thụy bước nhanh vào. Vừa thấy Vạn Thắng Vương, Thụy đã hô to:

- Vạn tuế Vạn Thắng Vương!

Cả nghị sinh hiểu rằng lại vừa có việc lành. Quân sư nói ngay:

- Việc thế nào, ông nói ngay đi?

Trăm cặp mắt đổ dồn nhìn cả vào Hồ Tường Thụy, Thuy vui vẻ trình:

- Bẩm, quả nhiên Sứ quân Lý Khuê đem binh tướng chạy sang phía Đông, toan vượt sông. Thuộc hạ tuy vâng lệnh Quân sư nhưng không thể làm được gì hơn, đành phải phóng tên bắn chết mất Lý Khuê. Các tướng của ông ấy đều đã quy hàng cả rồi!...

Ngay lúc ấy, có tiếng kêu ở phía dưới, đằng sau các tướng: “Trời ơi!”. Rồi có tiếng ồn ào, có điều gì xáo trộn ở đấy?

Vẫn tướng Nguyễn Minh Khánh rảo bước đi xuống. Hóa ra Lục Hồ phu nhân khi nghe tướng Hồ Tường Thụy trình việc Sứ quân chồng bà thì bà thốt kêu lên, rồi ngất đi hôn mê bất tỉnh! Sảnh doanh xôn xao, các tướng xúm lại cứu tỉnh Lục Hồ phu nhân, rồi đưa đến trình trước Vương.

Quân sư thuật qua việc, rồi nói:

- Bẩm trình Vương, Lục Hồ phu nhân chẳng thể làm khác được, phải theo chồng là Sứ quân Lý Khuê, nhưng phong cách phẩm chất thì thật thanh cao. Tôi mạn phép Vương đón phu nhân để phu nhân cố dàn xếp tránh việc giao tranh nhưng không kịp. Thật đáng tiếc!

Vương sai quân lấy ghế tốt mời phu nhân ngồi, nhìn gương mặt diễm lệ của phu nhân đầm đìa nước mắt. Phu nhân có phần hốc hác, ai thấy tình cảnh ấy cũng phải xúc động. Vương bảo:

- Từ Hoa Lư, tôi đã được nghe thiên hạ ca tụng phu nhân, nay gặp ở đây lại trong cảnh bi thương của phu nhân, thật là điều chẳng thể nào tránh được! Binh tôi ra ngoài thiên hạ, chẳng phải là để chèn ép ai hay mong cướp đất của ai. Chỉ mong một điều là đưa được trăm họ ra khỏi cảnh lầm than, đem giang sơn Giao Châu thu về một mối, góp lực chung để đón đồ họa Bắc phương. Cho nên trong lúc quân hành binh tướng vào trận chẳng thể nào tránh được việc chết chóc. Nay, Sứ quân Lý Khuê liễu mệnh, trong ngần ấy năm công tội thế nào thì trăm họ đều thấy, phần Sứ quân đã xong. Tuy vậy phu nhân là vừng trăng sáng trong đêm tối, thì trăng ấy phải được thảnh thơi tự do tỏa sáng. Phu nhân được toàn quyền muốn thế nào tôi cũng xin thuận theo. Trừ có việc phu nhân muốn theo Sứ quân!

Lại thêm một lần nữa Vạn Thắng Vương bỏ tội cho những người ở cạnh Sứ quân. Lục Hồ phu nhân giọng thanh tao đáp trong tiếng nấc còn chưa hết:

- Bẩm trình đại vương, từ ở nơi Siêu Loại xa xôi này, ngần ấy năm trời hành động của Hoa Lư Động chúa ai cũng biết. Tôi cố chuyển con đường đưa Sứ quân chồng tôi có cơ hội như của ông Phạm Phòng Át mà chưa được, thì bây giờ ngài đã tới đây! Dù thế nào chăng nữa, ông Lý Khuê cũng là chồng tôi. Lẽ ra tôi theo chồng là điều phải lẽ, nhưng lại có lệnh của Vương thành ra tôi chẳng trọn đạo làm vợ được! Đã không tự quyết được, tôi vẫn có thể xin ân huệ ở Vương được!

Sảnh đường im phăng phắc, ngần ấy con người lắng nghe Lục Hồ phu nhân nói. Vương bảo:

- Phu nhân muốn việc gì, muốn thế nào, tôi cũng xin nghe, chỉ trừ việc tôi đã nói! Phu nhân cứ nói ra!

Phu nhân Lục Hồ giọng rất quyền uy, đáp:

- Chồng tôi đã chết, số phận của ông ấy đã xong! Bây giờ là số phận các thuộc hạ của ông ấy, cũng có người lành người ác. Bây giờ luận công luận tội cũng là điều phải, tôi đã xin Vương ban ơn huệ cho tôi, thì tôi xin nói ơn huệ ấy: Xin Vương chẳng ban thưởng cho người có công, cũng không quy phạt cho người có tội. Mọi việc đã xong xin Vương lấy đức của bậc quân vương mà tha tội cho tất cả!

Vượng cười lớn, tiếng cười của Vương các tướng hiểu ngay nên ông nào cũng cười theo, có người cười thành tiếng! Vương bảo:

- Phu nhân yên lòng, ngay trước trận tôi đã chẳng ra tay tha mạng cho người của Sứ quân là gì! Vậy ngay bây giờ, điều phu nhân muốn tôi để phu nhân được thỏa lòng ngay.

Rồi Vương truyền đưa tất cả các tướng Siêu Loại vào. Trong số đó có cả Luy Lâu Thần Nữ, Vương bảo:

- Các ngươi thờ chủ hết dạ trung thành, đây là điều đáng khen. Chỉ có điều, lẽ ra các ngươi phải hiểu được như phu nhân đây hiểu, để giúp cho chủ dựng nghiệp mới phải. Vậy mà lại mờ mắt vì quyền chức cùng nhau đem họa đến cho dân suốt ngần ấy năm. Lẽ ra với các ngươi thì chỉ có tội chết mới phải! Nay, chủ các ngươi nhân đức tội của các ngươi đã chẳng kể đến. Lại còn xin cho các ngươi được sống, như thế đã đủ để các ngươi ăn năn thấy tội của mình chưa? Ta hưng binh chẳng phải là để tranh chấp với các ngươi, nhưng dường ta đi cứu nước cứu dân thì những kẻ nào cản trở đều phải bị diệt, lẽ ấy chính là lẽ phải, hành động ấy chính là hành động thuận ý trời hợp lòng người. Tội chết của các ngươi ngay từ khi các ngươi vào trận là đã được định xong, nay thì ta định lại theo ý nhân đức của chủ các ngươi. Các ngươi được tự do ở hay đi cũng được cả! Hãy nhớ ơn sâu của chủ, hành động cho phải lẽ!

Các tướng Siêu Loại quỳ cả xuống lạy tạ vương, rồi lạy tạ Lục Hồ phu nhân. Tướng Phạm Thừa Ân thay cho mọi người nói:

- Bẩm trình đại vương, chúng tôi xin tạ ân sâu của Vương tha cho tội chết, lại cho được tự do hành động. Tôi biết là các tướng bạn tôi đây đều muốn xin được theo hầu trong quân của Vương, điều mong ước ấy cầu mong Vương không từ chối! Riêng tôi tuổi đã già, vợ con chẳng có, ở với Sứ quân Lý Khuê mấy chục năm rồi. Nay chủ chết thảm trên sông, mắt nhìn thấy mà không cứu được. Vậy xin Vương ban ơn cho tôi được theo chủ, tôi tuổi già sống thêm nữa cũng chẳng ích gì?

Thật là bất ngờ, sảnh đường im phăng phắc nặng nề, Vương ôn tồn hỏi:

- Như thế, ông không cho con đường Hoa Lư ta đi là đúng?

Phạm Thừa Ân đĩnh đạc đáp:

- Bẩm trình Vương, con đường ấy là con đường cứu nguy cho cả dân tộc, giữ được giang sơn của giống nòi. Con đường di ấy là con đường đúng!

- Vậy tại sao ông còn có chỗ để góp sức làm cho dân, làm cho nước, lại muốn ngoảnh mặt?

- Bẩm tinh Vương, không thể nói được rằng chủ tôi, chúng tôi, suốt ngần ấy năm không có tội! Chủ tôi có tội đã chịu tội, chúng tôi có tội lại được sống. Vậy tôi xin chết thay cho tất cả các bạn tôi để đền tội cũng là điều phải. Như thế là quay mặt nhìn vào sự thật, chứ có phải là ngoảnh mặt đi đâu? Thêm nữa, tôi tin rằng Vương không muốn thấy một người đầy tớ thương chủ mà lại bảo là người ấy đáng tội! Cúi xin Vương minh xét!

Vạn Thắng Vương thở dài, ngài biết nói nữa cũng không nên, bèn cho Phạm Thừa Ân được hành động theo ý muốn.

Phạm Thừa Ân lạy tạ Vương xong, quay sang Lục Hồ phu nhân lạy ba lạy mà rằng:

- Thuộc hạ cầu xin Trời cao phù hộ cho phu nhân. Kẻ tôi tớ đành xin phụ lòng của chủ!

Lạy phu nhân xong, Phạm Thừa Ân lại quay sang tướng Hồ Tường Thụy bảo:

- Tướng quân là tay cung hiếm có ở Giao Châu. Chính tướng quân đã đưa chủ tôi về trời. Bây giờ tôi xin tướng quân ban ơn cho tôi cũng lại được chết như chủ, để rồi khi gặp lại mặt chủ tôi không còn có gì phải e ngượng nữa!

Thật là bất ngờ, bất ngờ này mới thật là lớn! Cả sảnh doanh im phăng phắc. Thật là khó xử cho Hồ Tường Thụy! Nghe tướng Siêu Loại nói. Hồ Tường Thụy bối rối vô cùng, rồi đáp:

- Không được! Đối trận, việc chém giết là bình thường, ai cũng có thể làm được. Còn trong việc này thì nhất định tôi không thể nào làm được! Xin ông đừng buộc tôi như thế. Tôi bắn Sứ quân lúc ấy là việc phải làm, còn việc phóng tên giết ông lúc này thì không thể nào làm được!

Phạm Thừa Ân nhất định nài nỉ làm cho không ai biết phải làm thế nào. Vạn Thắng Vương không biết phải giải quyết ra sao. Hỏi đến Lục Hồ phu nhân thì phu nhân càng không muốn nghĩ tới những việc như thế. Các tướng bàn tán thật xôn xao, việc kéo dài mãi mà Phạm Thừa Ân thì cứ quy đợi Hồ Tường Thụy ra tay!

Cuối cùng, Lục Hồ phu nhân bảo:

- Việc ông Phạm Thừa Ân muốn chết theo chủ là điều đáng khen. Phóng tên bắn người chẳng phải lúc như thế thật chẳng phải là dễ làm! Vậy, việc này lại phải nhờ đến Quân sư Hoa Lư giải quyết mới được!

Phu nhân cột Lê Thảo vào một việc khó làm, trăm cặp mắt lại dồn vào nhìn Quân sư. Vương nghiêm nghị nói:

- Ông Hồ Tường Thụy hãy thực hiện mong muốn của tướng Siêu Loại! Nhờ Quân sư chỉ cách là phải!

Lê Thảo khó nghĩ, ngập ngừng rồi bảo:

- Sứ quân Lý Khuê chiến tử trên sông, lúc ấy chỉ có một mình tướng quân Hồ Tường Thụy cầm binh ở đấy. Chính tay ông phóng đường tên, vậy một mình ông Thụy đi và bắn lại đường tên ấy!

Hồ Tường Thụy giật mình rõ ràng là muốn cãi lại từ chối, thì Quân sư nghiêm giọng bảo:

- Ông vâng lệnh Vương nên thi hành lệnh ngay!

Hồ Tường Thụy như người mất hồn hết nhìn Phạm Thừa Ân lại nhìn Quân sư, rồi cuối cùng Hồ Tường Thụy lẳng lặng bước ra. Phạm Thừa Ân không nhìn một ai cũng đứng lên thật ung dung thanh thản đi theo tướng Hoa Lư!

Quân sư Lê Thảo đợi cho Phạm Thừa Ân đi qua rồi mới quay gót đi theo. Quân sư vừa bước đi thì đến lượt Lục Hồ phu nhân cũng lại đi theo ngay. Quân sư cả kinh dừng bước, bảo:

- Phu nhân không nên đi, xin mời phu nhân ở lại sẽ có phán định của Vương!

Lục Hồ phu nhân giọng rắn rỏi:

- Thưa Quân sư, vợ chồng sống chết có nhau. Tôi vâng lệnh không được chết theo chồng, nhưng nhất định là được nhìn thấy cách chồng mình chết. Tôi tin là đại vương cho phép, Quân sư đừng ngăn cản tôi!

Phía trên, Vạn Thắng Vương khe khẽ gật đầu, ngài thấy bâng khuâng xen lẫn khâm phục người đàn bà diễm lệ này quá. Vương để cho phu nhân được đi!

Quân sư bước ra, cả sảnh doanh vẫn im phăng phắc. Bên ngoài có tiếng vó ngựa đập. Quân sư không cho một người nào nữa đi theo.

Bốn người ra đến bờ sông Nhật Đức, nơi ba sông Thiên Đức, Nhật Đức và Nguyệt Đức chảy xuống ngã ba sông Phao (gọi là sông Lục Đầu) phía Đông phủ Siêu Loại phía dưới sông Bái xa, là nơi Sứ quân Lý Khuê thọ tử. Tới bên sông, Quân sư bảo Phạm Thừa Ân:

- Tôi cảm phục lòng trung can đảm của ông, ông hãy ra dòng nơi chủ ông chịu nạn. Ở đấy ông dừng ngựa hô to lên để chủ ông biết, rồi ông sẽ được theo chủ!

Phạm Thừa Ân nghe theo, cho ngựa đi xuống dòng nước, con ngựa chậm chậm ngập dần. Quân sư quay sang Hồ Tường Thụy bảo:

- Ông sẵn sàng cung tên, quay lưng lại. Đợi khi thấy ông Ân kêu to lên như ta đã dặn thì phát tên đi!

Thế là Hồ Tường Thụy đã được Quân sư chỉ cho cách phải giết Phạm Thừa Ân mà mắt khỏi phải chứng kiến cảnh thê thảm ấy! Hồ Tường Thụy mừng quá, vội quay ngựa đợi chờ, Thụy lắng hết tinh thần đợi nghe tiếng kêu. Phu nhân Lục Hồ sắc mặt nhợt nhạt nhìn theo tướng Phạm Thừa Ân cùng con ngựa vẫn đang chậm chậm ra xa dòng.

Bây giờ chỉ còn đầu ngựa và đầu người nhấp nhô, khoảng cách vẫn không xa, dòng nước chảy không mạnh.

Trong dòng nước, Phạm Thừa Ân kêu to lên giọng thảm thiết:

- Chúa công, chúa công! Thuộc hạ xin được theo ngài!

Hồ Tường Thụy nghe tiếng kêu định cực chuẩn vị trí, mắt không nhìn thấy đích, mà tay vẫn buông dây cung.

Chỉ thấy Phạm Thừa Ân kêu lên như thế thì bỗng ông chìm xuống nước, mặt nước rung động, chỉ còn có đầu con ngựa, con ngựa loay hoay rồi quay đầu bơi trở lại bờ.

Lục Hồ phu nhân tinh thần tán loạn, bà cố nhìn xem tướng của bà chết như thế nào, nhưng bà không thể nào thấy được Hồ Tường Thụy buông tên ra sao. Bà cũng không thấy được đường tên đi còn nhanh hơn cả tia chớp cực chuẩn đã ghim vào gáy Phạm Thừa Ân. Thụy không trông thấy, Lục Hồ phu nhân không trông thấy, nhưng Quân sư Lê Thảo hai mắt sáng hơn sao đã nhìn thấy đường tên đi. Và mặt nước khép lại đem theo người tướng trung thành can đảm!

Trên bờ sông, Thụy phóng mũi tên đi xong thì quay ngay trở lại, không kịp thấy bóng Phạm Thừa Ân, nhưng kịp thấy Lục Hồ phu nhân từ trên mình ngựa ngã xuống. Tướng quân nhanh vô cùng vọt tới đỡ lấy phu nhân. Phu nhân đã lại ngất đi. Trong một thời gian ngắn, phu nhân kinh qua không biết bao nhiêu là biến động kinh hồn. Đến đây thì sức bà đã kiệt hẳn, phu nhân hôn mê gục xuống!

Quân sư cùng Hồ Tường Thụy đưa phu nhân trở về, cả sảnh doanh vẫn còn im lặng đợi chờ. Hồ Tường Thụy mang Lục Hồ phu nhân vào làm cho cả sảnh doanh hốt nhiên xao động xôn xao. Các tướng xúm lại cứu tỉnh phu nhân. Tỉnh lại phu nhân từ đây lặng lẽ chẳng nói, nhưng bệnh nhức đầu ngày trước đột nhiên tái phát. Phu nhân lăn lộn đau đớn.

Sau theo lời xin của phu nhân, Vạn Thắng Vương cho người đưa bà đến tận núi Hiến Sơn ở nơi đời Hùng Vương gọi là châu Vũ Định, đời Tần đổi thành Tượng quận, đời Hán đổi lại là Giao Chỉ (đến đời Tây Sơn gọi là Cao Bằng). Để bà an dưỡng tại một tịnh thất ngay dưới chân núi.

Sau người đời kể lại rằng: Ở núi Hiến Sơn có ông già Lý Vĩ, người thôn Phù Vạn, có con gái nhan sắc xinh đẹp. Một hôm Vĩ vắng nhà, người con gái ngồi dệt cửi ở trong buồng chợt trông thấy một người con trai ở trên tường nhà nhảy xuống. Tự xưng tên là Kim Long (rồng vàng), người con gái sợ chạy, người con trai biến hình thành giao long quấn chặt lấy người con gái kéo xuống bến sông Hiến Giang. Khi Vĩ về nhà theo vết đi tìm, thì chỉ thấy sợi tơ từ khung cửi kéo dài mãi đến bến sông rồi mất tích. Vĩ lặn xuống sông, thấy dưới có một hang đá, lần hang vào được mấy chục bước, thì hình thế rộng lớn dần ra. Có lầu cao nhà gác, nghiêm trang như nơi cung phủ, lại nghe có đàn sáo nhộn nhịp, như cảnh tượng vui mừng tân hôn. Vĩ liền bơi ra, về nhà làm một cái lồng tre, trong lồng chứa diễm tiêu và thứ bắt lửa, chung quanh thân lồng trát kín bằng sáp vàng. Vĩ lại lặn xuống nước đốt cái lồng ấy ở sau động, rồi vội vàng bơi lên trên bến, bèn thấy ngọn lửa từ dưới đất bốc lên. Do đấy Hiến Sơn bị đổ. Chỗ núi đổ còn nghi ngút như có ẩn phục ngọn lửa, người ta thử đem cành khô ném vào chỗ ấy thì lửa liền bốc cháy, ba ngày mới tắt. Sau, trong Truyền Kỳ Mạn Lục có câu: “Giao tinh đoạt thú ư nhân hoàn, tột ô Hán kiếm. Lý Vĩ phục thù ư thủy quốc, diệm cử Tần Khôi” (Giao tinh cướp vợ trên trần, tội giây gươm Hán. Lý Vĩ phục thù dưới nước, lửa đốt tro Tần). Chính là nói về việc này. Người ở đấy bảo: Người con gái bị Giao tinh bắt chính là Lục Hồ phu nhân, nên kính cẩn lập miếu thờ, hiện còn dấu tích.

Việc Phạm Thừa Ân như thế nào, chỉ một mình Hồ Tường Thụy và Quân sư biết. Chẳng ai muốn nhắc đến chuyện thê thảm ấy nữa, nhưng ai cũng nhớ hoài.

Xong mọi việc, hôm ấy là ngày Giáp Thìn, hai mươi lăm tháng Nhâm Dần. Vạn Thắng Vương hoàn tất việc Siêu Loại. Vạn Thắng Vương cho binh tướng mở hội mừng ba ngày liền, tướng nào của Siêu Loại xin theo quân, vương đều thuận cho. Ai muốn trở về quê cũ cũng được vương cấp lương cho ra về. Riêng Luy Lâu Thần Nữ thì Quân sư trình với vương:

- Bẩm, Luy Lâu Thần Nữ vốn không phải là người thường sinh ra, mà là tinh khí của trời đất đá cây tụ hội mà thành. Không nên hủy diệt nhưng cũng không thể làm sai tự nhiên của Trời mà nuôi dưỡng. Vậy nên đem trở lại Luy Lâu sơn là hơn!

Vương nghe theo, Quân sư liền bảo Luy Lâu Thần Nữ:

- Gốc gác ngươi là thế, được thiên lôi khai thạch mà ra đời, lẽ ra nên hưởng phúc trời tiếp tục tu luyện đợi ngày thành đạo mới phải, lại nối theo nghiệp chướng của cha mẹ, gieo rắc những chuyện ô uế cho đời. Hoang đường mị hoặc chỉ có thể mê hoặc được tầm thường, làm sao thắng nổi được chính nhân quân tử. Nay Vương còn thương tình tu dưỡng nghìn năm nên tha cho về, nên trở lại chốn xưa im lặng suy ngẫm là hơn!

Rồi Quân sư đưa trả Luy Lâu Thần Nữ trở lại núi rừng Luy Lâu. Sau người ta kể rằng thần nữ oán hận Quân sư Lê Thảo. Trong một đêm mưa to gió dữ, Thần Nữ tan vào trời đất, từ đấy hay hiện lên quấy phá người qua lại núi rừng Luy Lâu. Người đời sợ lập nhiều miếu thờ ở khắp nơi trong rừng núi, đến nay cũng còn vài dấu tích.

Vạn Thắng Vương vỗ về trăm họ, mở ngục cởi oan cho người bị oan, cứu giúp cho người bị tan sản nghiệp. Lại phát nghiêm lệnh đem chém đầu sáu hào mục khét tiếng hung ác thời Sứ quân Lý Khuê ngự trị. Báo truyền cho các bạn cường khấu đạo tặc mau mau bỏ nghề, còn tiếp tục nghề lạc thảo binh tướng bắt được lập tức chém đầu tại chỗ. Nhờ thế mà dân tình được yên ổn, trăm họ đi lại làm ăn dù là đi đêm qua rừng cũng yên lòng như đi trên quan lộ giữa ban ngày.

Vương cho binh tướng nghỉ ngơi lấy lại sức, chấn chỉnh lại mọi việc quân bị.

Một ngày, Vương xem lại việc quân, thấy lúc này binh tướng thật là hùng hậu, liền truyền tất cả các tướng vào đại sảnh doanh nghị hội nghe lệnh. Hôm ấy là ngày Tân Hợi, mồng hai tháng Hai, Đinh Mão (967).

Vào hội, vương nói:

- Này các ông, binh ta đi từ Hoa Lư đến tận nơi này, công lao chẳng phải là nhỏ. Bao nhiêu xương máu đại nghĩa của ta theo chân binh tướng lan rộng mãi ra ngoài thiên hạ. Cả vùng phía Đông, nay chỉ còn có Tiên Du với Sứ quân Thủ Tiệp là chưa thuộc ta trông nom. Việc lấy Tiên Du ổn định trọn vẹn phía Đông là điều ta phải làm trong nay mai. Vì thế hôm nay ta mở hội tập tướng nghe bàn việc dứt Tiên Du, các tướng ai cũng được nghe mọi việc, được trình bày ý kiến!

Tức thì chúng tướng đồng thanh hô lớn:

- Vạn tuế Vạn Thắng Vương!

Tiếng hô xưng tụng vương từ đại sảnh doanh Siêu Loại vượt đường xa theo chân tế tác trình về phủ đường Tiên Du. Lập tức Sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp sai đập trống, triệu tập chúng tướng bàn việc lớn hệ trọng.

Khai hội, Sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp bảo:

- Này các tướng, điều ta lo nghĩ nay đã đến. Hoa Lư đang hội binh tướng để quyết định việc đánh Tiên Du ta. Các ông nghĩ thế nào?

Dưới trướng của Sứ quân Thủ Tiệp hiện còn mười tám tướng. Trong đó có năm lão tướng rất giỏi được Sứ quân sai trấn giữ các nơi trọng yếu hiểm địa. Sứ quân vốn là tay vũ dũng, tính việc rất độc đoán, không dùng văn sĩ làm Quân sư. Sứ quân thường bảo: “Bọn văn sĩ chuyên đem những chuyện cũ chẳng liên quan gì đến việc trước mắt để mê hoặc lòng người”. Mỗi lần có việc thì bao giờ đích thân Sứ quân cũng quyết định rồi sai bảo chúng thuộc tướng. Thái độ, hành động như vậy của Sứ quân có làm cho nhiều người không vui, nhất là mấy đại tướng được sai trông nom các nơi trọng yếu.

Nay vào hội, Sứ quân đem những tin những việc tế tác tình cho ngài biết, nói cho các tướng nghe. Rồi bảo:

- Như thế, rõ ràng Hoa Lư đang muốn gồm thâu thiên hạ! Ở phía Đông này, chỉ còn có một mình Tiên Du ta. Hoa Lư sẽ tới, nhưng vào được giang sơn ta không phải là dễ như Hoa Lư đi lại ở những nơi khác. Vả lại, ta đứng trong trời đất, tranh hùng với thiên hạ, chẳng phải là chỉ muốn khư khư mãi với một giang sơn nhỏ bé của một Sứ quân. Việc lớn của ta là Cổ Loa, ta chưa hành động thì Hoa Lư đã muốn hành động trước ta, đánh dẹp các nơi. Nay Hoa Lư nếu thắng được ta thì đường đi đến Cổ Loa chỉ ngày một ngày hai là tới, vậy ta tới Cổ Loa trước!

Thật là bất ngờ! Bao nhiêu năm nay, chưa từng nghe Sứ quân nói đến việc lấy Cổ Loa bao giờ. Chỉ thấy Sứ quân lo việc tìm tướng tuyển binh, trấn giữ các trọng địa. Nay lần đầu các tướng mới được nghe Sứ quân nói như vậy. Tức thì tướng Triệu Đằng Long ứng tiếng ca ngợi:

- Bẩm trình chúa công, thế mới đúng là thần ý của bậc nhân thần! Bao nhiêu năm nay, Chúa công dưới trướng binh hùng tướng mạnh chưa có nơi nào lại dám xâm phạm ta. Nay vì Hoa Lư muốn lấy Cổ Loa thành ra Chúa công phải ra tay trước, đúng là điều binh pháp nói là “tiên hạ thủ vi cường”, đánh trước là hơn!

Triệu Đằng Long cùng người em ruột là Triệu Đằng Giao cùng phò tá Sứ quân Thủ Tiệp. Ngược lại với em là Đằng Giao, tuấn tú khôn ngoan, tài giỏi, thận trọng ít nói, thì Đằng Long là người đã chẳng đẹp về tướng mạo, lại có tính huênh hoang, khoác lác ưa khoe khoang. Long vẫn tự xưng là dòng dõi Triệu Việt Vương cho nên cũng nhiều lần làm Sứ quân thấy trái tai, nhiều người không ưa. Nay trong hội, nghe Sứ quân bảo là muốn ra tay lấy Cổ Loa trước Hoa Lư, thì hùa ngay vào vừa để làm vui lòng Sứ quân. Vừa tỏ ra mình là người quảng kiến không thua kém ai.

Sứ quân hỏi các tướng:

- Thế còn các ông nghĩ thế nào? Ta về Cổ Loa thay vua Ngô hay là quay lại chiến với Đinh Bộ Lĩnh? Lúc này chính Đinh Bộ Lĩnh cũng đã tự xưng là Vạn Thắng Vương rồi, y đang nghênh ngang chẳng coi thiên hạ ra gì!

Lão tướng Điền Mẫu Nghị là người được Sứ quân sai trông nom việc quân bị phủ đường Tiên Du, là người thường thay Sứ quân chỉ xử mọi việc. Nay nghe Sứ quân hỏi thì lên tiếng trước:

- Bẩm chúa công, việc chúa công khởi nghiệp, trấn giữ Tiên Du, phía Đông chẳng còn có nơi nào phải lo đến. Phía Bắc có sông lớn làm đường ranh đi ngược lên là đất ruộng, núi rừng chen nhau không có gì khác lạ. Phía Nam có hai răng Lạn Kha với Bát Vạn che dỡ, lại có hai đại tướng giữ hai tòa thành chắc chắn không có binh tướng nào vượt qua được. Nếu chúa công bằng lòng với một giang sơn Tiên Du, thì có thể yên tâm ngủ ngon được! Nhìn sang phía Tây hơi quá về phương Bắc, là đế thành Cổ Loa, lúc này là tàn triều nhà Ngô. Nếu như một triều đại khác thay thế nhà Ngô mà hùng mạnh thì có thể ta ở đây sẽ chẳng được yên lành. Còn nếu ta nhìn tới Cổ Loa, thì sức mạnh của ta ngày nay thật là mạnh. Ngày trước Hạng Vương ở Giang Đông chỉ có tám trăm đệ tử mà đã làm nên đại nghiệp. Ngày nay chúa công có ba nghìn đệ tử mang bùa thiêng vào trận không chết, tướng mấy chục người, thì sức mạnh của ta đủ sức lấy Cổ Loa đang tàn hôm nay. Tuy thế, cứ xét sử sách, thì triều đại mới ra đời bao giờ cũng là công lao của bậc mở trước, trên cao được Trời xanh thuận ý, dưới thấp được muôn dân mong đợi. Nghiệp lớn vì thế mà thành chứ chưa hề bao giờ lại có việc “nửa đêm ánh sáng chợt loé lên lại bảo được là ngày mới đã đến”. Cho nên tiến tới Cổ Loa thuộc hạ nghĩ là chúa công nên thận trọng!

Điền Mẫu Nghị là lão tướng Sứ quân sai giữ phủ đường, cho là Sứ quân xem mình không bằng bốn tướng kia trấn giữ bốn trọng địa nên mới cho ở nhà. Nghị thường hay mặc giáp chiến bằng bạc trắng dát bạc xanh óng ánh như vẩy rồng, hộ tâm trước ngực sáng bóng, thanh đoản đao cài ở chiến đai. Nghị là thuộc tướng của một Sứ quân, thế mà lại thích cái vẻ của một đại tướng nơi triều đình. Tuy nhiên, Điền Mẫu Nghị chưa làm ai mất lòng. Chỉ có lần vâng lệnh Sứ quân mang binh đi đánh Siêu Loại, thì lại làm cho mấy tướng không ưa thành ra có xích mích. Lúc này lão cũng như các tướng già khác bề ngoài tuy trông còn tráng kiện, nhưng chắc là sức khỏe đã sa sút nhiều rồi. Các tướng tuy phục tài Điền Mẫu Nghị nhưng không kính trọng bằng kính trọng lão tướng Khắc Việt Thư giữ trấn thành Bát Vạn. Rồi đến lão tướng thần tiên Đổng Thừa Trọng giữ trấn thành Lạn Kha. Tất cả các tướng cũng như Sứ quân hiểu rằng: Vượt qua được hai trấn thành Bát Vạn rồi Lạn Kha thì có thể dễ dàng lấy xong Tiên Du. Cho nên Sứ quân cử hai lão đại tướng ra hai thành ấy, thì đã tỏ ra cho mọi người biết là Sứ quân coi trọng hai lão tướng này thế nào.

Nay trong hội, nghe Điền Mẫu Nghị nói, thì cả hội im lặng có ý đợi nghe ý kiến của hai lão tướng. Nhưng cả hai ông đều chẳng nói gì, mỗi người có một ý nghĩ riêng. Bởi vậy, Sứ quân bảo:

- Ông Nghị khuyên ta nếu nhìn về Cổ Loa thì phải nên thận trọng. Việc gì cũng phải nên thận trọng là đúng, còn việc Cổ Loa thì ta nên thận trọng thế nào?

Lần đầu tiên Sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp lại chịu khó hỏi và nghe ý kiến của thuộc hạ. Nhất là ý kiến ấy lại là những lời khuyên nên thận trọng!

Điền Mẫu Nghị thưa:

- Bẩm chúa công, việc lên ngôi giữ một ngai vàng, mở ra một triều đại mới, thường là việc xáo trộn cả việc nước việc trời, chứ không thể là việc nghĩ là được! Cứ xem như ngày xưa hơn một trăm lẻ tám hảo hán phương Bắc coi trời bằng vung núp trong bãi bờ bến nước, khuấy động cả một vùng trời. Những tưởng là hành vi “anh hùng hào kiệt giang hồ” của mình là xong được việc một triều đại. Chung cuộc cũng phải bỏ giáo lại hàng. Mới đây, Dương Diên Nghệ thọ tử vì thuộc hạ phản phúc. Việc nước trước đã hỗn loạn lại càng hỗn loạn. Cho nên mới có việc vị anh hùng Ngô Quyền dẹp loạn trong, chống đỡ giặc ngoài, lập nên một triều đại. Như thế mới thuận ý trời, được lòng người, triều đại mới không bị chung quanh quấy phá. Nay Ngô triều suy vi, cuộc tàn vong hoàn toàn chẳng còn bao lâu nữa, chúa công đứng lên tất phải dựng cao được cái nghĩa như của Ngô Quyền ngày trước thì mới yên được mọi bề. Ngày nay, triều đại nhà Ngô sắp tàn, ắt Bắc phương không thể không nhòm ngó, thế thì chúa công tính toán thể nào với Bắc phương? Ta theo gương Ngô Quyền, hay bắt chước Kiều Công Tiễn đợi quân ngoài vào thì theo về mà giữ ngôi quốc chủ? Tôi trình chúa công nên cẩn thận là vì thế!

Sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp độc đoán, chưa từng hỏi việc thuộc hạ. Nay nghe Điền Mẫu Nghị nói cũng không phải là không có lý, nhưng lại có phần làm cho Tiệp không bằng lòng. Vì thế Sứ quân hỏi thẳng lão tướng Khúc Việt Thư:

- Ông Khúc Việt Thư, ông nghĩ thế nào?

Lão tướng Khúc Việt Thư tuổi còn cao hơn cả Điền Mẫu Nghị, giữ trọng trách xây dựng rồi trấn giữ thành Bát Vạn từ lúc Sứ quân mới khởi nghiệp. Cả cuộc đời Khúc Việt Thư dốc vào nơi núi cao rừng rậm, xa hẳn những việc nơi kẻ chợ náo nhiệt. Dần dần làm cho Thư chẳng còn muốn nhìn đến việc đời, ngồi trên thành cao chỉ thấy việc đọc sách cổ, nghiền ngẫm việc bài binh bố trận của các danh tướng thời xưa. Lại tự tay bày ra trận đồ, một mình giữ cả hai phía thử giao tranh, cho nên vì thế Khúc Việt Thư rất mê đánh cờ. Ông thường bảo: “Trong cuộc cờ của Đế Thích, có đủ cả binh tướng các bộ, tiến thoái vô cùng trong trời đất. Có thể bảo được là cả huyền trận của thần tiên cho xuống đến thủ đoạn của quân cường sơn cướp đảng, đều có cả trong cuộc cờ”. Thế là Khúc Việt Thư ngồi trên núi cao ngày đêm mài miệt với cuộc cờ. Vả lại suốt từ ngày xây thành trấn giữ đến giờ, chưa bao giờ binh lại phải xuất thành cự địch, thành ra ngồi lâu sinh ra mòn mất cả tinh thần tranh đua. Đến nỗi Khúc Việt Thư bảo với chúng thuộc tướng: “Bây giờ ta mới thấy trên thế gian này, chẳng có gì hơn được một cuộc cờ. Cuộc đời chẳng phải là một cuộc cờ thì còn là gì nữa! Ta thắng cờ là thắng cuộc đời, ta thua cờ là thua cả cuộc đời! Ta ngồi trên cao bày trận giữ thành, cũng là bày một cuộc cờ, binh tướng nào bên ngoài thắng được ta một cuộc cờ, ta tình nguyện dâng thành!”. Khúc Việt Thư nghiên cứu đến độ tự khoe là “thắng được cả vua cờ Đế Thích”. Mà quả thật ở Giao Châu thời ấy, đấu cờ với Khúc Việt Thư chưa có ai thắng được ông ta. Dần dần ông lấy việc đánh cờ là lẽ sống cao quý, nhìn việc đời như xem cảnh trâu đầm bùn vũng!

Khúc Việt Thư là người như thế, nay việc trọng đại của giang sơn Tiên Du nên phải tuân lệnh Sứ quân về hội nghị. Trong hội ngồi nghe mà Thư chẳng muốn để vào tai. Đến khi Sứ quân hỏi thì lão tướng thản nhiên đáp:

- Bẩm chúa công, ông Nghị nói phải, ông Nghị nói cũng không phải! Phải, là vì việc nào cũng phải xem xét bước tiến bước thoái chẳng chỉ một, mà phải là chục là trăm bước trước sau. Không phải, ấy là bởi không vào cuộc, sao biết được hơn thua! Vậy, chúa công hãy tự xét việc của mình rồi quyết định là hơn!

Câu trả lời của Khúc Việt Thư thật đúng nhưng không khỏi có điều kiêu ngạo. Sứ quân không nói gì, lại hỏi:

- Còn ông Đổng Thừa Trọng?

Lão đại tướng Đổng Thừa Trọng vui vẻ thản nhiên như chẳng hề có gì ở đời này là quan trọng, đáp:

- Bẩm chúa công, ông Khúc Việt Thư bảo là chẳng vào cuộc sao biết được hơn thua, quả là đúng! Chẳng nghe sao biết được trong trời đất này lại có những thanh âm huyền nhiệm có thể làm đảo lộn được cả cuộc thế! Một triều đại suy vi, cứ nghe trong thanh âm của triều đại ấy cũng thấy, một xuất xử dụng nghiệp lớn. Chúa công hùng lực có thừa, thanh âm ắt là phải át Đầu Ngưu. Như thế chỉ còn có việc dàn xếp thế nào để cho những âm thanh ấy hiển hiện mà thành ra sự việc. Lúc ấy huyền nhiệm của trời đất sẽ biến thành việc thật trong đời! Nghe được âm thanh của trời đất, là nghe được huyền nhiệm tạo dựng được cuộc đời là thế!

Đổng Thừa Trọng có lẽ là tướng cao tuổi nhất của Tiên Du. Ông tự nhận là dòng dõi Đổng Quốc Cửu bên Tàu thời Tam Quốc lánh nạn xuống phương Nam lập nghiệp. Ông là người đọc sách, tính tình hiền hậu, không thích ỷ vào kiến thức sách vở của mình để chèn ép thiên hạ. Chỉ thấy lão tướng vô cùng ưa thích âm nhạc. Lão tướng bảo: “Trong trời đất, vạn vật sinh ra từ trong âm thanh. Sau thánh hiền thay nhau lập thành những cung bậc cao thấp, mạnh yếu, êm gắt, ẻo lả, cứng rắn... Tất cả những tính ấy dựng lên thành vạn vật trong trời đất. Dụng được âm thanh, có thể từ nơi đất trống bằng phẳng dựng lên được núi cao. Cũng từ âm thanh chẳng cần phải có trăm vạn binh tướng cũng có thể phá vỡ san bằng được cả tòa núi. Âm thanh trong trời đất là vô tận, hiền thánh phương Bắc trải qua bao nhiêu đời cứu xét khổ công lập thành cung bực, gọi là âm nhạc. Âm nhạc của Bắc phương trong trời đất này chẳng ở đâu lại hơn được!”. Vì thế Đổng Thừa Trọng rất mê âm nhạc, giỏi nhiều nhạc khí, trong bụng chứa đến gần hết những bản nhạc danh tiếng của phương Bắc. Lại mày mò tìm hiểu âm nhạc của các rợ ở chung quanh đất nước Giao Châu. Đổng Thừa Trọng mê nhạc đến độ người đời gọi ông là “lão tướng thần tiên”. Trọng nhận danh hiệu ấy thì cho là phải, rồi nói: “Ta vâng lệnh Sứ quân giữ thành Lạn Kha, núi rừng trùng điệp, âm thanh của trời đất tụ lại cả nơi đây. Binh ngoài vào làm gì có kẻ nào trên thế gian này hiểu được âm nhạc, biết được “nhạc trận” của ta? Bởi thế, binh tướng của ta sẽ chẳng bao giờ phải vất vả vào trận, ta thách cả thiên hạ ai thắng được nhạc của ta. Ta tình nguyện dâng thành cắt đầu tạ tội!”. Giao Châu thời ấy quả nhiên chưa thấy ai hiểu nhạc sâu mà bao la như Đổng Thừa Trọng.

Sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp cát cứ một phương trời Tiên Du chẳng xa đế thành Cổ Loa. Mấy chục năm về trước ngài nhờ những danh tướng để khởi nghiệp, xây thành đắp lũy. Giao các nơi trọng yếu cho những tướng tài giỏi trông nom. Ngày nay các tướng ấy đã già, mỗi ông một mê say, thành ra trong cái yếu của tuổi già lại có cái mạnh của hiểu biết nghệ thuật hiếm có người bằng được. Vì thế Sứ quân rất tin ở hai lão tướng giữ Lạn Kha và Bát Vạn.

Nghe lão tướng thần tiên trấn thành núi Lạn Kha là Đổng Thừa Trọng trả lời như thế. Lời đáp của lão tướng nghe thật mơ hồ khó hiểu, nhưng Sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp cũng nhận ra được ý của hai lão tướng giống nhau: Phải vào cuộc!

Thế là Sứ quân bảo:

- Này các ông, ý ta đã muốn về Cổ Loa, nay các ông cũng đều chung một ý là: Không vào cuộc sao biết được hơn thua. Ta nhất định thắng bởi vì ta thấy được sự việc, tức là nghe được âm thanh nhiệm màu của ông Đổng Thừa Trọng. Ta thắng là bởi vì ta xếp đặt được ván cờ thần diệu của ông Khúc Việt Thư. Ta thắng là vì ta có tướng vào cuộc thận trọng là ông Điền Mẫu Nghị. Vậy ta quyết định vào Cổ Loa trước Đinh Bộ Lĩnh!

Thế là Sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp quyết định ra quân, đi từ Tiên Du tới để thành Cổ Loa. Quyết rời bỏ danh nghĩa Sứ quân cát cứ một phương trời con con, để làm vương toàn cõi Giao Châu!

Hùng chí của Sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp làm cho cả Tiên Du náo động. Sứ quân tuyển thêm quân, nhà nào có thanh niên trai tráng đều phải sung quân. Lại rao truyền ai tự cho là mình có tài lên ngựa cầm gươm hãy mau mau đến lĩnh ấn quân ngũ. Sứ quân tính việc hưng binh, cho nên sai Đỗ Giao Kỳ trông nom mọi việc về quân lương.

Đổ Giao Kỳ là kẻ giảo hoạt, tính nết tham lam tàn ác chỉ một mực vơ vét cho nhiều vàng bạc, cướp đoạt đất đai ruộng vườn của con dân. Nhưng khéo nịnh nọt đút lót, cho nên bao nhiêu tội ác đều biến thành công lao. Sứ quân chỉ muốn quân mạnh lương nhiều, thấy Kỳ làm được việc thì tin lắm.

Sứ quân quyết hưng binh đoạt thiên hạ, giao việc trọng vào tay Đỗ Giao Kỳ thì Kỳ mừng rỡ, ra sức thu thập lương thảo vơ vét lúa gạo trong dân. Dựng một nghìn lò rèn đúc binh khí, mỗi lò rèn thường là mười người, có nơi lên đến cả hai ba chục người. Kẻ nào muốn làm việc lò rèn tránh việc đi lính thì phải nộp bạc mười lạng, kẻ nào nộp một ngựa thì khỏi phải vào quân, được chuyển sang phục dịch việc bếp nước trong quân. Mỗi ngựa Kỳ tính với Sứ quân hai mươi lạng... Nhân việc Sứ quân khởi binh riêng một tay Giao Kỳ cũng kiếm được mấy chục vạn lạng, còn kể gì đến những kẻ tham nhũng khác nữa! Tiên Du vốn giàu có ở phía Bắc về ruộng đồng sông nước, phía Nam bao nhiêu là sản vật nhờ vào núi rừng. Thế mà chẳng mấy chốc biến thành xơ xác, trăm họ lầm than mà vẫn không dám kêu ca. Khắp nơi binh lính của Sứ quân tha hồ hoành họe áp bức dân lành. Cảnh khổ có lẽ không ở đâu lại đến như ở Tiên Du!

Việc binh của Sứ quân Tiên Du ầm ầm náo động dữ dội như thế. Tế tác hai mặt Bắc Nam của Hoa Lư đều nhận thấy ngay. Lập tức tướng quân Lưu Cơ ở Cổ Loa sai tế tác chạy ngựa thay nhau chẳng nghỉ đêm ngày, gấp đường đem tin về trình Vạn Thắng Vương ở Siêu Loại.

Tế tác phía đường Bắc dò la tin tức để đại binh tiến lấy Tiên Du cũng đã trình về đủ các việc. Được tin các nơi, Vạn Thắng Vương mở đại hội tại sảnh doanh cũ của phủ đường Siêu Loại, triệu tập hết thảy các tướng thật đông. Chỉ còn vắng mặt có Lưu Cơ ở Cổ Loa, Đinh Liễn, Vương Bảo Quyền, Phạm Hạp ở lại trấn mặt Tây Phù Liệt, đợi chờ ngày đại binh sẽ quay sang phía Tây.

Vào hội, Vạn Thắng Vương bảo:

- Này các ông, binh ta đến nơi này dừng chân nghỉ cũng được mươi ngày, mọi dàn xếp thật ra chưa đủ, đường phía Đông ta dứt xong Thủ Tiệp ở Tiên Du nữa là xong một nửa công việc. Ta chưa định ngày xuất quân, thì Nguyễn Thủ Tiệp đã động binh lăm le làm điều bạo thiên nghịch địa. Chẳng kể gì đến hậu quả mai sau, toan tính để binh gấp cướp Cổ Loa. Thủ Tiệp không hiểu thời thế, chẳng lượng sức mình, toan làm việc “cây đã đốn xuống không dừng lại được” là cướp Cổ Loa. Để chẳng cần phải cự chiến với ta mà lại được lợi lớn. Thủ Tiệp động binh đánh cướp Cổ Loa là điều để ta thấy: Thứ nhất, Thủ Tiệp vẫn không biết gì về những dàn xếp của ta ở Cổ Loa. Thứ hai, nếu Cổ Loa có náo động lớn, thì đấy là cớ để Bắc phương bước xuống nước ta. Lúc ấy ta phải cự chiến với nhiều mặt một lúc, khó khăn sẽ nhiều vô cùng. Tuy thế, mưu toan xằng bậy của Thủ Tiệp sẽ không thể thành công được, chỉ khi nào y xuất binh về Cổ Loa thì mới biết là lỡ đà. Về phần ta, con đường tiến lên Tiên Du phải qua hai trấn thành hệ trọng là Lạn Kha và Bát Vạn. Sau đấy là mấy thành nữa, sức binh tướng của ta thừa để san bằng hai rặng núi này. Nhưng thế thì máu thịt phải vương vãi nhiều, sức lực bị mất đi không phải là ít. Bởi thế ta không muốn mất quá nhiều công sức vào một nơi Tiên Du này. Các ông nghĩ thế nào?

Tướng quân Lê Hoàn nói ngay:

- Bẩm trình Vương, chinh chiến không thể không mất mát, nhưng giữ được cho thiệt hại càng ít càng tốt. Trong chiến trận lúc này ta không đánh với binh ngoài, mà là người xứ Giao Châu đánh người Giao Châu. Cho nên ta mới nghĩ đến việc tiết kiệm xương máu. Còn, nếu binh phải tiến để lấy thành đoạt ải địch, thì tôi tin chắc là không một tướng nào ở đây lại chẳng muốn được đi trước. Vậy trình vương, chúng tôi xin đợi lệnh!

Lời nói của tướng Lê Hoàn ai cũng cho là phải, vương lại hỏi:

- Như vậy, các ông nghĩ việc ta tiến binh nên như thế nào?

Việc đại quân Hoa Lư tiến đánh Tiên Du như thế nào, thì quả thật chưa tướng nào có ý kiến ra sao. Vì thế đến lượt tướng Trịnh Tú nói:

- Bẩm, muốn mở trận, trước hết phải hiểu rõ địch về mọi mặt, rồi sau mới định được chiến sách. Như thế, lại phải nhờ đến Quân sư chỉ bảo cho chúng tôi biết rõ về Tiên Du!

Cả hội vui vẻ, Vạn Thắng Vương tủm tỉm cười mà rằng:

- Phải, trước hết ta hãy hỏi Quân sư của ta về Tiên Du đã, sau sẽ nghe về chiến kế lấy Tiên Du. Vậy, Quân sư hãy nói về Tiên Du xem sao?

Quân sư vâng lệnh Vạn Thắng Vương, lên tiếng:

- Bẩm vương, thưa các ông, Tiên Du là đất nhà Hán cho thuộc vào hai huyện Luy Lâu và Long Biên. Nhà Ngô gọi là quận trị Giao Châu. Tiên Du nằm xiên về phía Đông Bắc, từ Đông sang Tây rộng mười tám dặm, từ Bắc xuống Nam cách nhau mười bảy dặm. Chung quanh Tiên Du là những huyện hạt khác tất cả nằm trong tay Nguyễn Thủ Tiệp. Vì thế giang sơn của Tiệp tuy nhỏ nhưng lại được rộng ở chung quanh do Tiệp làm chủ. Chỉ có phía Nam thì Siêu Loại lại lọt vào tay Lý Khuê khiến cho giang sơn của Tiệp không xuống sâu được nữa. Tiên Du khí hậu tương tự như ở thành Long Biên, ruộng nhiều, nằm trong vùng cũng kể là núi non cho nên nhiều khí lạnh. Ban đêm khí ẩm bốc lên nhiều, sinh ra các chướng lệ là khí độc trong rừng núi. Tiên Du nằm trong đất nhiều kẻ sĩ, cho nên phong tục gìn giữ, trọng nghĩa trọng tình. Bởi vậy có nơi có những câu như:

Lang xuất Quy phụ, hà nhẫn tương vương (vong) Lang bỉ hài đề, tự hữu bi thương Luyến tử lang phụ, thượng khả hạ đường Huống như thiếp thân, hựu yên cảm vương

(Anh để bỏ vợ sao nỡ quên tình Con anh bồng bế phú mặc trời xanh Vợ anh ân ái, còn bỏ đoạn đành Huống chi thân thiếp, đâu dám trông anh)

Ấy là câu nói của người con gái có ý chê anh chàng nọ có ác tâm chê bỏ vợ cũ, con dại để đi tìm người gái mới. Nguyễn Thủ Tiệp chiếm giữ được đất như thế chẳng biết tài bồi, nuôi dân giữ nước. Chỉ một mực hung hăng chiêu tập binh cho nhiều, tướng cho đông. Thuần lấy sức mạnh để toan ức chế thiên hạ, chẳng có đầu óc lớn lao...

Lê Thảo ngừng lại, nghị sảnh im lặng. Các tướng đợi nghe về con người Sứ quân Nguyễn Thủ tiệp và các thuộc hạ của ông ta.

Quân sư tiếp:

- Nguyễn Thủ Tiệp người vạm vỡ, mặt tròn vành vạnh, hai mắt tròn xoe nằm gần nha