← Quay lại trang sách

Hồi Thứ Một Trăm Lẻ Bốn Ôn Thao trúng kế đầu hàng
Vượt Thiên Ma, Lục Hồ bị bắt

Quân vào trình:

- Bẩm trình chủ tướng, trước doanh có một đạo sĩ đến nói là xin vào trình chủ tướng việc lành trời đất!

Lại Ôn Thao đang trong lúc bối rối, chưa biết tính thế nào. Nghe nói có đạo sĩ lạ đến xin vào trình việc lành, thì liền cho mời vào ngay.

Đạo Sĩ theo quân vào doanh, chân bước đi nhẹ như gió lướt trên ngọn cỏ. Tà áo đạo sĩ màu xám nhạt cũ mà sạch phau. Đạo sĩ quá trung niên râu dài trắng như cước, mặt đẹp như thần tiên, hai mắt long lanh sáng. Đạo sĩ tay cầm phất trần lông đuôi bạch mã, chân đi giày Thủy Mặc da trăn rừng. Vừa thấy đạo sĩ dáng dấp phiêu phiêu thì tướng Lại Ôn Thao đã vội vòng tay kính cẩn:

- Kính lão đạo trưởng, ngài từ xa đến có điều dạy bảo cho bản tướng?

Đạo sĩ giọng trong mà thật êm bảo:

- Phải, suốt từ chiều hôm qua, ta đi gấp tới tận lúc này mới tới được đây! Mừng tướng quân gặp đại vận hồng vân. Lửa cháy từ trời xuống ở phía Tây, đưa bậc chân mệnh đến để tướng quân được gặp thời nhẹ bước gió mây!

Lại Ôn Thao nghe đạo sĩ nói chẳng hiểu gì cả. Chỉ thấy đây là những lời chúc mừng báo trước của đạo sĩ cho biết mình sắp gặp đại vận may được gặp bậc chân mệnh đế vương tới thu phục. Trong lòng mừng rỡ, lại cung kính hỏi:

- Bẩm đạo trưởng, xin ngài cho bản tướng biết phương thảo am của thần tiên nơi nào? Đạo hiệu của ngài là thế nào?

Đạo sĩ hơi mỉm cười đáp:

- Am cỏ của ta ở tận Tam Đảo, đạo hiệu ta không có nhưng người đời tặng cho hai chữ Thần Tiên. Gần mười năm rồi ta không ra khỏi am cỏ, thế mà suốt mấy ngày nay phải lặn lội vượt ngàn dặm núi rừng theo dấu thiên tượng tìm đến nơi đây. Lại chính tận mắt được thấy đêm tối hôm rồi lửa từ trời cao hạ xuống, ứng vào điều: “Thiên thượng hóa vân lai” trong bài kệ “Giao châu Thần chú”. Ta lập tức lên đường quyết đi tìm cho được nghĩa câu kệ thiêng thứ hai “Địa hỏa Đế vương tại”. Lần bước đến nơi đây nghe bá tánh xôn xao nói là Vạn Thắng Vương sắp đi qua nơi này. Ta lấy làm lạ suy nghĩ mãi mới hiểu ra là: Chính ở nơi Hỏa Châu Bát Tràng này là nơi đất bốc lửa cháy, thế thì chính nơi đây có đấng chân mệnh đế vương sắp đi qua!

Lại Ôn Thao nghe đạo sĩ nói lúc ấy trời buổi tinh mơ mát lạnh vậy mà toát cả mồ hôi! Có lẽ nào Hoa Lư Động chúa mới đây được chúng binh tướng tới dân các nơi xưng tụng là Vạn Thắng Vương lại là chân mệnh đế vương được sao? Lại Ôn Thao hỏi:

- Đạo trưởng tinh thông huyền diệu của trời đất, ngồi trong nhà cỏ thơm thấy được việc của ngày mai. Ngài đã tới tận nơi xa xôi này thì tất là chẳng phải thấy không đúng! Tuy thế, bản tướng có điều thắc mắc!

Đạo sĩ khẽ vuốt râu bạc, tay nhẹ phe phẩy phất trần. Hỏi với giọng thật bề trên:

- Tướng quân thắc mắc gì?

- Bẩm đạo trưởng, có lẽ nào một người tầm thường như Đinh Bộ Lĩnh lại là chân mệnh đế vương được sao?

Đạo sĩ cả cười, tiếng cười trong lắm, ngài bảo:

- Lại tướng quân, ngài vốn gốc người nơi rừng thiêng núi linh, lại không hiểu cái lẽ huyền bí: Linh thiêng không ở nơi đô hội ồn ào, đế vương dựng nghiệp không phải là người đi từ chốn kẻ chợ ra, hay sao? Đinh Bộ Lĩnh tuy là người trong dân dã, nhưng gốc gác ông cha vốn là mệnh quan của triều đình. Lĩnh ôm chí lớn vào chốn rừng núi linh thiêng quần tụ được biết bao nhiêu vị sao trời là những thiên tướng xuống trợ lực. Lĩnh ra ngoài thiên hạ xảy biết bao nhiêu điềm lạ, nào là chín hỏa long xuống giúp lửa, hai con của Long thần tới giúp nước. Mới chỉ đêm hôm vừa rồi chứ chẳng lâu la gì về trước, từ trăm dặm xa ta đã thấy tận mắt Na Tra Thái Tử cưỡi Hỏa Luân Xa xuống giúp đốt trại Cự Linh. Ta sợ không kịp xem điềm trời sắp tới nên phải cưỡi con Bạch Cáo vượt rừng, lại vẫy mây dùng phép đằng vân tới tận Cự Linh kịp xem mọi việc, mới hiểu rõ được câu kệ thứ nhất. Câu kệ thứ hai hiểu ra thì chính là ở nơi này, nên mới đến gặp tướng quân!

Lại Ôn Thao như mê man, chú hết tinh thần vào những lời nói của đạo sĩ, chẳng có chút gì là nghi hoặc. Lại Ôn Thao người gốc Nùng, bản tính nhiều mê tín, mỗi việc nhất nhất đều tin là thần thánh ma quỷ làm ra. Cho nên bây giờ nghe đạo sĩ nói thì trong lòng kinh mang lắm. Liền lại kính cẩn thưa:

- Thưa trình đạo trưởng, quả có thế! Đêm hôm qua Hoa Lư đốt doanh Cự Linh, bình thường thì lửa phải đốt từ mặt đất. Thế mà đêm hôm rồi lửa từ trời cao ập xuống, tôi ở nơi này cũng thấy mây lửa rực trời, chẳng hiểu là thế nào. Hóa ra là lửa ở xe của Na Tra Thái Tử bay xuống giúp Đinh Bộ Lĩnh: Không gặp đạo trưởng, làm sao tôi biết được những huyền bí của Trời cao!

Đạo trưởng không nói gì, Lại Ôn Thao im lặng đợi nghe đạo sĩ dạy bảo. Lúc sau, đạo sĩ tiếp:

- Lẽ ra ta chẳng ra khỏi am cỏ, nhưng chỉ vì câu kệ cho nên mới lặn lội tới đây. Sách Trời ghi trước mọi việc, chỉ vì tò mò muốn thấy mệnh trời xem sức hiểu biết của mình đã thật cao siêu chưa nên ta mới tới đây! Tướng quân đừng cho ai biết việc ta đến doanh. Tướng quân có thể giúp ta chứng nghiệm lại huyền vị của trời đất được đấy!

Lại Ôn Thao kính cẩn:

- Bản tướng người trần thô lỗ, làm thế nào giúp đạo trưởng được trong những việc thiêng liêng như thế? Để lộ bí mật của Trời có là có tội không?

Đạo sĩ quả quyết:

- Tiết lộ thiên cơ là điều tội lớn! Nhưng, hiểu được thiên cơ, rõ được mệnh trời, từ đấy thấy được đường đi của Trời đã định để hành động cho hợp ý trời, lại là một việc lành trong trời đất! Nay, rõ ràng Bộ Lĩnh là đấng nhân thần, có chân mệnh đế vương, kẻ nào biết mà tìm đến thì được phúc, kẻ nào ngu tối chống lại chính là cưỡng lại mệnh trời chứ chẳng phải là cưỡng lại một người thường phàm, ắt là bị diệt vong. Tướng quân ở đây chốn heo hút lại được ân trời cho thấy điềm lành báo trước. Sao chẳng nhân dây để làm sáng tỏ ý trời, đợi đón đấng nhân thần!

Tới đây thì Lại Ôn Thao không còn nghi ngờ gì nữa, trong lòng mừng vô hạn, lại cung kính:

- Bản tưởng ngu tối, xin được sẵn sàng nghe theo lời chỉ bảo của đạo trưởng!

Đạo sĩ nghiêm trang:

- Nếu như Bộ Lĩnh chẳng phải là bậc nhân thần, đang có chân mệnh đế vương, thì ắt điểm trời sẽ chẳng ứng! Tướng quân muốn được biết, ta còn muốn được biết hơn nữa. Biết xong việc là ta trở lại am cỏ ngay. Vậy, tướng quân hãy thử xem: Giữa ban ngày, điềm trời có xuất hiện hay không? Theo như chuyển vần của Trời Đất Âm Dương, thì trên dương thế là ban ngày thì ở cõi vô hình là bóng tối. Nhưng trên Thiên Đình thì không có ngày hay đêm, không có âm hay dương. Vì thế điềm trời có thể hiện ra nếu như ta biết được thiên cơ, tâm thành cầu được thấy ý Trời để tuân theo. Muốn thế, ngay bây giờ là gần giữa trưa, tức là lúc các thánh thần ma quỷ đi lại khắp vũ trụ. Tướng quân cho quân chỉnh tề hàng ngũ, nghiêm trang quay về phía Tây là hướng Bộ Lĩnh đang ở đấy, thử hô lớn ý Trời “Vạn tuế Vạn Thắng Vương!” xem có thấy lửa cháy ở đâu không?

Lại Ôn Thao hỏi:

- Bẩm đạo trưởng, sao lại là lửa cháy? Sao lại không là điềm gì khác? Chẳng hạn như cầu vồng bảy sắc hiện ra, hay là thiên tiên xuất hiện đứng trên mây đàn sáo vui mừng?

Đạo Sĩ cười vui mà rằng:

- Tướng quân nói phải, nhưng cầu vồng là vật thiêng của Trời mỗi lần Thần tướng được lệnh bắc ngang trời ấy là để thiên tiên qua lại, chẳng phải là thứ đem ra dùng cho người dưới trần gian được. Còn thiên tiên xuất hiện đứng trên mây đàn sáo, trong sử sách cũng nhiều lần nói đến. Những lúc như thế, một là để mừng bậc thần tiên trên trời cao vừa làm tròn mệnh trời trao phó. Hai là trên thiên đình có lệnh đón lại về trời một ngôi sao xuống thế, đã làm xong sứ mạng Ngọc Hoàng sai bảo. Bộ Lĩnh dù là đấng nhân thần, gốc là sao Tây Cực trên Trời. Nay còn phải lận đận chứ chưa xong đại nghiệp, làm sao lại có thiên tiên xuất hiện được! Vả lại, Bộ Lĩnh là sao Tây Cực, nằm ở phía sau Lò Bát Quái của Thái Bạch Kim Tinh, cho nên nóng lắm. Ở dưới thế hướng Tây là Hỏa, vậy nếu ứng mệnh trời thì phía Tây của doanh trại ta sẽ phải có lửa! Nếu lửa chẳng cháy, hay chẳng có điềm lạ nào xuất hiện, ấy là câu kệ huyền bí ta vẫn chưa tìm ra được nghĩa. Tướng quân lúc ấy có thể đem binh đã sẵn sàng mà xuất doanh cự chiến với Bộ Lĩnh được!

Đạo sĩ nói như nước chảy mây trôi, làm cho Lại Ôn Thao như càng mê đi với những việc trên Trời dưới đất! Lại Ôn Thao vâng dạ cung kính thỉnh đạo sĩ ngồi ghế cao. Thét thuộc hạ mau mau đem trà ngon ra để đạo sĩ uống, lại nói:

- Bẩm đạo trưởng thần tiên, quả nhiên bản tướng chân thành được trời cao chứng giám, xui khiến đạo trưởng tới chỉ bảo mọi điều? Bản tướng xin tập quân ngay, đợi lệnh đạo trưởng để hỏi Thiên Cơ!

Rồi Lại Ôn Thao sai nổi trống tập quân, quân thấy chủ tướng tiếp đạo sĩ thì lảng vảng tìm cách nghe trộm. Rồi chẳng mấy chốc khắp doanh đều biết chuyện, vui mừng bàn với nhau là sắp được thấy điềm lạ của trời, sắp được thấy vua ra rồi thiên hạ thái bình!

Tập quân xong, Lại Ôn Thao vào trình đạo sĩ. Lúc ấy vào khoảng cuối giờ Tỵ sắp sang Ngọ. Đạo sĩ bảo Lại Ôn Thao chỉnh tề chiến bào, lên ngựa đứng ở trước chúng quân, mấy lần nhắc chúng quân biết hiệu lệnh sẽ phải làm.

Đạo sĩ tay phải cầm phất trần, tay trái án quyết Vạn Linh Linh ngay trước ngực. Tất cả đều hướng về phía trũng hỏa châu. Nhìn ra xa nắng xuân rực rỡ đổ xuống khoảng rộng cây xanh bát ngát.

Đạo sĩ hai mắt nhắm lại, tụ thần ngưng khí, lầm rầm khấn trời cao. Tay phất trần rung rung như thể tránh thần trên trời cao đang nhập linh. Cả doanh Bát Tràng im phăng phắc, ngần ấy con người thấy hồi hộp lạ lùng. Tướng soái Lại Ôn Thao trên trán lấm tấm mồ hôi, dường như tướng quân cũng đem hết cả tâm hồn vào việc khấn trời cao xin hiển linh cho thấy thiên cơ.

Đạo sĩ mở choàng cặp mắt lấp lánh tinh quang, tay phất trần phất mạnh một cái rồi chỉ thẳng ra xa, hướng về phía cồn hỏa châu. Tức thì tướng quân Lại Ôn Thao hô lớn:

-Vạn tuế Vạn Thắng Vương!

Tiếng hô thật trầm mà hùng lực thật mạnh. Tức thì chúng quân ứng tiếng nhất tề hô to:

- Vạn tuế Vạn Thắng Vương!

Tiếng hô của chúng binh tướng biên doanh Bát Tràng như sấm sét mạnh như sóng biển tràn đi cực mạnh. Dường như ai cũng cố hô cho to hơn người khác để mong được phúc nhiều hơn!

Âm vang tiếng hô còn âm âm từ phía núi xa vọng về. Tức thì trong trũng hỏa châu lửa phụt cháy át cả ánh nắng, cuốn theo cả khói hút thẳng lên cao! Thật là huyền diệu, thật là xúc động, cả doanh như lặng đi, thiên cơ đã chỉ rõ theo điềm lạ!

Tướng Lại Ôn Thao lặng đi trên lưng ngựa, ông ngồi đã nghiêm trang không nhúc nhích bây giờ lại càng không nhúc nhích. Toàn thân tướng quân như bất thần cứng nhắc, tướng quân từng chỉ nghe nói nhiều đến những điều huyền bí linh thiêng, nhưng đến nay thì mới được tận mắt chứng kiến. Lại chẳng phải là một mình ông thấy, cả ngần ấy con người trong doanh đều thấy! Không còn gì nghi ngờ được nữa! Thật là tuyệt điệu! Thật là huyền ảo! Chúng quân vừa như mê man, vừa thấy kinh sợ trong lòng, có người quên cả hoàn cảnh vội quỳ xuống vái lạy!

Đạo sĩ như càng chú thêm tâm vào tay chú Vạn Linh Linh, lại nhắm mắt niệm kệ thiêng cầu xin Thượng đế cho hiển linh lần nữa. Và chúng quân lại hô:

- Vạn tuế Vạn Thắng Vương!

Lửa trong cồn hỏa châu lại bốc cháy, khói lại cuốn lên trời cao. Lần này thì chúng quân không còn kinh sợ nữa, trong lòng tràn ngập niềm tin! Thật chưa bao giờ ở đâu lại có việc một quân doanh lại tung hô thủ lĩnh đối phương như thế này bao giờ!

Ba lần tung hô, ba lần lửa cháy, ba lần huyền diệu làm cho khắp cả mọi người thấy rõ ràng mình có phúc lớn, được thấy hiển linh của thánh thần. Việc lạ nhiều đời chưa chắc đã được thấy một lần!

Không chỉ một mình tướng Lại Ôn Thao như vui sướng, cả quân doanh ai cũng muốn được thấy và tỏ ra vui sướng hơn người khác, thế là đạo sĩ bảo:

- Thật là phúc lớn! Mừng thay! Mừng thay! Tướng quân nên để cho chúng quân được cùng chung hưởng phúc trời này! Hãy bảo quân gióng trống khua chiêng cho to, tung hô cho lớn để cho trên thiên đình nghe thấy biết là nơi trần thế này đã tiếp lệnh ý trời!

Tướng quân Lại Ôn Thao tức thì truyền lệnh, chiêng trống nổi lên rung chuyển cả núi rừng chen lẫn những tiếng hô “Vạn tuế Vạn Thắng Vương!” ầm ầm không ngớt.

Trong những tiếng động khủng khiếp mà kỳ dị ấy, đạo sĩ vẻ buồn buồn nói với tướng Lại Ôn Thao:

- Thế là câu kệ thứ hai mất mấy chục năm đi tìm, nay tôi mới giải được ở nơi này: “Thiên thượng hóa vân lai, Địa hỏa Đế vương tại” là thế! Lạy tạ Tổ Sư cao viễn, đệ tử chỉ vì tò mò thắc mắc quá cho nên mới phạm tội tiết lộ thiên cơ! Xin được về chịu tội! Tôi xin từ biệt tướng quân, ngài nên chuẩn bị đến đón lạy ra mắt đấng nhân thần!

Rồi đạo sĩ ra khỏi doanh, đi chưa được mấy bước đã nghe có tiếng quân reo ầm ầm ở mé Tây. Trong tiếng reo hò ấy lại có cả tiếng hô “Vạn tuế Vạn Thắng Vương!” Đạo sĩ rảo bước lẩn vào rừng thưa bên lộ. Tướng Lại Ôn Thạo bâng khuâng chen lẫn vui mừng đứng nhìn đạo sĩ đi.

Tướng quân Lại Ôn Thao chưa bao giờ lại thấy vui sướng như ngày hôm nay, ông ra lệnh quân chỉnh tề hàng ngũ, chiêng trống đập cho nhịp nhàng chen lẫn những tiếng hô. Cả doanh đợi chờ đấng nhân thần tới! Cả doanh từ tướng soái xuống đến chúng quân đều một lòng chờ đón để lạy chào thủ lĩnh binh địch!

Tướng Chu Kỷ Toàn đi trước mang quân đến trước biên doanh Bát Tràng, cũng sai quân nhất tề tung hô “Vạn tuế Vạn Thắng Vương!” Rồi chậm chậm cẩn thận cho quân tiến đến trước doanh.

Phía sau, tướng quân Tế sứ Mạc Sa Cảnh đi cùng Hồ Tường Thụy liên miên tiếp tin đại binh của Vạn Thắng Vương đang kéo tới. Ông liền cho tế tác báo ngay cho Chu Kỷ Toàn hay, lại dặn: “Vào trong doanh rồi, hãy bảo doanh đem hết quân ra ngoài cùng chờ đón vương”.

Mạc Sa Cảnh không biết Quân sư bây giờ ở đâu, tế tác khắp nơi đều trình về: Không thấy Quân sư đâu cả, nhưng có thấy một đạo sĩ từ trong doanh Bát Tràng đi ra khuất dạng ở rừng núi phía Tây rồi!

Chẳng mấy chốc, quả nhiên tướng Lại Ôn Thao nghe lời tướng Chu Kỷ Toàn kéo hết binh ra ngoài doanh, dàn ra nghiêm chỉnh đó chờ vương tới. Tế tác đi về tấp nập mà vẫn kín đáo, báo tin: Khoảng đầu giờ Mùi thì đại quân của Vương tới. Hai tướng Chu Kỷ Toàn và Lại Ôn Thao đón tin cũng hồi hộp, mỗi người một tâm trạng.

Mạc Sa Cảnh điều động tế tác đi các mặt vừa xong tế tác đến trình: Quân sư không biết từ đâu đã trở về! Mạc Sa Cảnh kinh hãi, như thế là tế tác của ông vẫn còn nhiều khiếm khuyết, không xem xét được hết mọi nơi, mọi việc!

Quân sư gặp lại Mạc Sa Cảnh thì bảo:

- Thế là xong việc, ông cho người bảo với ông Chu Kỷ Toàn là: Ông, ông Hồ với tôi ta ra ngoài Đông gặp ông Nguyễn Bặc. Trình với vương trở lại đại doanh tướng Nguyễn Minh Khánh, xin vương đem hết binh tướng đi. Ông Toàn cũng nên theo quân, cứ để Lại Ôn Thao ở lại Bát Tràng cũng được!

Quân sư cùng hai tướng lên đường ra Đông ngay, đường đi từ đây chẳng phải e ngại phía sau lưng. Ba người theo tế tác dẫn lối cứ đường rộng mà đi nhanh lắm. Tế tác liên miên đi về trình tin các mặt. Trên đường ra Đông trận, Quân sư tưởng như còn đang ở trong doanh. Chẳng có việc gì ở đâu lại chẳng hay biết!

Đi đến gần tối trời, quân hấp tấp đến trình: Tướng quân Nguyễn Bặc đem quân vượt đèo vượt núi, len lỏi rừng già mà đi vô cùng vất vả, đã đến được ải Thiên Ma. Nhưng không làm sao vượt được, cho nên quân đến được gần một ngày trời đành trụ lại. Đang tìm cách vượt Thiên Ma!

Quân sư nghe trình cả kinh, nếu như Nguyễn Bặc không vượt được Thiên Ma, thì phía trước đại quân của vương có thể gặp phải nhiều khó khăn! Quân sư bảo tế tác có đường tắt nào đến được chỗ tướng Nguyễn Bặc không thì dẫn đi. Tế tác len lỏi khắp mặt tìm lối mở đường. May cả toán chỉ có mấy người, nên cũng dễ vượt đường rừng dày đặc.

Tới một ven núi, rừng càng dày đặc, đã thấy tướng Nguyễn Bặc được tế tác dẫn ra đón Quân sư. Vừa thấy Nguyễn Bặc, Quân sư, Hồ Tường Thụy và Mạc Sa Cảnh đều kinh ngạc quá. Nguyễn Bặc vốn là hổ tướng vóc người vạm vỡ, sức như hùm beo. Thế mà chỉ mới mấy ngày thôi gương mặt ông tiều tụy, chiến bào rách mất mấy nơi xem ra có vẻ rộng. Tướng quân vốn tính lầm lì ít nói, nay vừa thấy Quân sư thì kêu lên:

- Quân sư! Quân sư! Tôi không hoàn thành được quân lệnh mất rồi!

Quân sư cảm động, ôn tồn bảo:

- Trước khi tướng quân đi, tôi đã chẳng bảo là đường đi cực kỳ gian khổ là gì. Tới được đây chỉ trong mấy ngày đã là kỳ công rồi! Ải Thiên Ma từ bao nhiêu năm nay chẳng ai dám qua lại, thêm thú rừng nhiều, hung dữ. Nay tướng quân đi đông nên không gặp phải thú rừng làm hại, đường qua ải lâu ngày cây cối dây rừng càng chằng chịt khó đi là lẽ tự nhiên! Từ từ ta sẽ tìm cách!

Quân sư nghe Nguyễn Bặc kể về chặng đường đi. Hai tướng Hồ Tường Thụy với Mạc Sa Cảnh nghe kể nhiều lúc thấy rùng mình. Mạc Sa Cảnh quay sang Hồ Tường Thụy khẽ bảo:

- Quân sư chọn ông Nguyễn Bặc sai đi đường này là phải! Bọn chúng ta không đủ kiên nhẫn, khó chịu đựng được như ông Bặc!

Hồ Tường Thụy nghĩ cũng thấy phải. Lại nghĩ đến mình Quân sư gọi đi cùng, ắt là lại có việc! Nghĩ tới đây, Hồ Tường Thụy lại nhớ đến việc bắn con đom đóm. Thụy không làm sao hiểu được, mà chẳng bao giờ thấy Quân sư nhắc đến nữa thì cũng không dám hỏi cho biết.

Quân sư bảo Nguyễn Bặc:

- Ải Thiên Ma, thật ra chẳng phải là quan ải có binh đóng tướng trấn gì cả, cũng chẳng có tên gọi. Trước đây cũng có vài người qua lại, đường đi đã quá khó khăn lại nhiều thú rừng, lắm chỗ vách núi cao cả trăm trượng đựng đứng, có nơi núi còn vươn cả ra ngoài. Quả thật không có đường vượt qua vách đá ấy, cho nên người ta mới gọi là ải Thiên Ma. Ý nói cửa ải trăm nghìn ma quỷ ám không thể qua được. Ải nằm bên quan lộ, ngay phía sau phủ đường Siêu Loại. Nhìn xuống xa xa là dòng Kinh Phố hiền lành, dòng sông chẳng rộng, vào lúc trời nóng bức người ta thường tắm ở sông này. Trên bờ sông bên kia là ngục Kinh Phố, ngày trước Du Hải Tang ngồi trong ngục mà hòa tiêu với Chu Giao Chỉ ở bên ngoài. Qua sông là vào tới ruột gan Siêu Loại rồi. Năm nghìn binh của tướng quân bất thần ập tới, đủ sức phá tan Siêu Loại. Siêu Loại dù nhiều tướng giỏi cũng không trở tay kịp. Nhưng trước hết, ta phải vượt được ải Thiên Ma. Không qua được cầm bằng như bao nhiêu công lao gian khổ của ông cùng với năm nghìn quân chẳng đáng bằng một bát nước sông!

Ba tướng nghe Quân sư nói, thấy hoang mang như nghe truyện cổ tích. Nguyễn Bắc nói:

- Thưa Quân sư, quả thật đường An Bình mà chẳng bình an chút nào! Cứ bình thường thì khoảng đường núi rừng khó khăn ấy cũng phải năm bảy ngày mới qua được. May quân ta vững kỷ luật, tinh thần lại đang hăng, cho nên đã tới đây được sớm. Tôi nghe người ta kể ngày xưa ở bên Tàu có ông Lưu Bị đi con đường sạn đạo khó khăn, nhưng khó khăn còn có lối đi. Chứ đường An Bình đến đây thì hết lối, không phải là khó khăn nữa mà là không thể đi được!

Quân sư cười mà rằng:

- Trước khi ông mang quân đi, tôi đã nói trước cả rồi! Ngày trước lúc tôi đi chu du thiên hạ, tới Siêu Loại thấy khắp ba mặt đều có lối thông. Chỉ còn một mặt hỏi thì ai cũng bảo là không có đường đi. Nhiều người đã thử đi đều không được, đường ấy có ma quỷ thú rừng, đi là không có ngày về. Hôm nay ông tới được đây, ma quỷ chưa làm hại được ông. Đấy là điềm ông sẽ thắng được ma quỷ, xuống được Siêu Loại đấy!

Rồi Quân sư theo tướng Nguyễn Bặc, có tế tác đi dẫn đường. Mạc Sa Cảnh, Hồ Tường Thụy cũng cùng đi. Tế tác dẫn bốn người len lỏi trong rừng, tuyệt nhiên chẳng nghe có tiếng chim kêu, không thấy có tiếng thú rừng kêu thét. Một là chim chóc thú rừng thấy có nhiều người thì bỏ tránh. Hai là rừng hoang dày đặc khó kiếm sống nên không mấy lai vãng. Đi ở rừng núi này mà không có người thông thạo dẫn đường thì thế nào cũng lạc, không tìm được lối ra. Binh của ông Nguyễn Bặc đông đến năm nghìn người, thế mà đi ngần ấy bước chẳng thấy một ai. Đủ thấy nơi này quả thật bí hiểm đến thế nào!

Đường đi càng lúc càng khó khăn, cây rừng chằng chịt. Nhiều nơi mây rừng mọc khít vào nhau thú rừng lớn không thể qua được, với những cánh rừng mây ấy. Nguyễn Bặc nói:

- Thưa Quân sư, tôi đã nghĩ cho quân lấy dây mây rừng làm thang vượt vách núi mà cũng không được!

Lối lên đã dần dần lên cao mà cây cối cũng càng như dày đặc thêm nữa. Nhiều nơi chỉ toàn loại cỏ rừng ống to như lau sậy già. Tế tác dẫn cả bọn vòng lên phía Bắc chứ không đi xuyên như trước nữa. Hỏi thì tế tác bảo: “Vượt chỗ đường vòng này là lên đến gần đỉnh vách núi. Chỗ này là rừng cọ lá lớn, cuống lá đã lớn mà gai lại càng dữ dội. Không thể nào vượt rừng cọ này được”.

Khi tế tác bảo là đã đến nơi, cả bốn người đều thấy chân rã rời. Quả thật leo núi vượt rừng vất vả vô cùng.

Đứng trên chỗ này gió lộng cuốn từ phía tay trái, tức là hướng Đông Bắc xuống Tây Nam. Gió lùa qua những cây cành có lúc rít lên dữ dội. Nhìn xuống khoảng xa trước mặt rừng như là một thung lũng không thấy vách bên kia, cây rừng kín khoảng bao la xanh đen. Quả thật không có cách nào xuống được cả.

Nguyễn Bặc thưa:

- Bẩm Quân sư, giả sử ta từ đây theo vách núi đi nữa ngược hẳn lên phía trên, rồi theo triền núi dần dần đi xuống thì được ngay. Ở đằng sau lưng ta cũng thế. Nhưng nếu quân hành như vậy thì đi vào những nơi dân cư có chỗ đông chỗ thưa, những nơi ấy cách phủ đường Siêu Loại chẳng xa, không thể nào giữ kín việc được. Vì thế binh ta không thể chọn một trong hai đường ấy!

Bốn người đứng ngắm cảnh thiên nhiên hùng vĩ nơi phạm vi núi Bát Vạn. Phía Bắc đường qua Bát Vạn Sơn lại không khó khăn. Chính vì thế mà Sứ quân Thủ Tiệp ở Tiên Du đã nhanh tay lập trọng doanh trấn ở đấy phòng Siêu Loại.

Quân sư hỏi:

- Ông dùng mây rừng làm thang cho quân xuống vách, tại sao lại không được?

- Bẩm, mây rừng thì không ít, nhưng vách cao quá. Tôi đã làm thử thang mây dài cả trăm sải tay, mà đành phải chịu mất công. Cây cùng những chỗ vách đá nhô ra làm cho thang dây bị cuốn rối lại. Đá vách sắc lắm chẳng mấy chốc đã cắt đứt mất thang. Thang bện bằng song lớn mỗi sợi to bằng cổ tay mà không chịu được lấy vài chục người!

Quân sư lặng lẽ nhìn xuống phía dưới thăm thẳm. Tà áo văn sĩ rách mất hai chỗ vì leo núi. Vóc dáng Quân sư chỉ chục năm nữa là lộ vẻ đẹp thần tiên. Lúc này Quân sư đứng nhìn thung lũng sâu, cặp mắt êm mà hiền từ. Ba tướng khẽ bàn với nhau, lúc này mọi người đã hết mệt.

Chợt Quân sư quay lại, mặt tươi rạng rỡ. Ba tướng chưa biết việc thế nào cũng đã vội mừng trong dạ. Tướng Nguyễn Bặc tính tình trầm tĩnh đến lầm lì ít nói, thế mà cũng kịp buột miệng hỏi trước tất cả:

- Bẩm, Quân sư tìm được cách rồi?

Quân sư nhẹ nhẹ gật đầu, bảo:

- Ấy là ta nghĩ thế, còn thật ra có được hay không thì còn phải chờ xem mới biết được!

Ba tướng nghe nói mừng quá. Tế tác cũng vội vàng đến cho thật gần Quân sư hơn nữa để nghe Quân sư giảng.

Quân sư bảo:

- Trên cao gió thổi, thả một chiếc lá xuống là không rơi mà bị gió cuốn đi. Nay ta nhờ sức gió đưa ta xuống núi!

Quân sư bảo ba tướng Nguyễn Bặc hãy mau mau cho quân đi lấy lá cọ rừng. Lại dặn: Chọn lấy lá to, không rách. Một mặt sai đi lấy mây rừng. Dặn là không lấy dây lớn, lấy dây nhỏ mà già là được.

Tướng Nguyễn Bặc vâng lệnh, theo tế tác đến nơi quận tạm nghỉ. Bây giờ mới thấy quân la liệt người ngồi, người nằm nghỉ dưới các tàn cây. Không có tế tác dẫn đường thì không thể tìm được đạo quân!

Quân nghe lệnh tướng, chia nhau hai đường đi lấy lá cọ, mây rừng. Chẳng mấy chốc đã kéo nhau về, lá cọ dây mây chất một đống lớn. Quân sư sai lấy dây mây kết lá cọ lại thành một chiếc lá lớn rộng khoảng mươi bước chân dài, mây sợi nào lớn thì chẻ nhỏ ra. Chớp mắt, quân làm xong một chiếc lá lớn. Quân sư bảo đem lên đỉnh vách cao để thử xem sao. Chưa biết Quân sư thử như thế nào, ba tướng háo hức. Quân tranh nhau lĩnh việc mang lá đi để được xem sự lạ.

Lên đến vách núi lúc nãy, Quân sư sai quân lấy một tảng đá lớn nặng ước sức nặng một người lớn. Đem đá ấy cột vào dây mây thay cuống lá. Xong rồi khuân ra sát ngoài bờ vực, đợi khi gió vừa cuốn lên thì tung tảng đá xuống.

Ngần ấy người đứng đợi gió, gió vẫn thổi. Đợi gió mạnh vừa ào lên Nguyễn Bặc thét:

- Đi!

Quân vận sức tung tảng đá ra ngoài khoảng không. Gió lộng bọc tàu lá cọ khổng lồ phía dưới treo tảng đá, tảng đá lắc lư rồi đứng im. Gió đưa tàu lá dần dần đi xa, xuống sâu phía dưới. Ngần ấy con người ngần ấy cặp mắt gắng vận lực nhìn theo cho đến khi tàu lá lẫn vào với cây rừng dưới kia sâu thăm thẳm. Chợt quân reo lên:

- Được rồi!

Ba tướng mừng chẳng kém mấy người quân, Mạc Sa Cảnh nói:

- Đây chính là phép “Phi đằng đại diệp” của Quân sư ta! Phen này quân ta được một phen cưỡi lá, nhờ gió đưa xuống núi! Cổ kim chưa có đạo quân nào lại vượt rừng vượt núi lạ như thế này.

Cả đám lao xao bàn tán vui mừng, rồi ba tướng cho quân đi lấy thật nhiều lá nhiều mây. Lá cọ với mây đem về chất như những quả đồi nhỏ trên vách núi. Quân theo chỉ dẫn hăm hở bắt tay vào việc chẻ mây kết lưới hai lớp bọc lá ở giữa. Lần này Quân sư bảo kết lá to gấp bốn lần chiếc lá lúc nãy, dây buộc tảng đá thì dài khoảng hơn chục sải tay. Lá cọ quân chặt lấy đi làm quang cả một vách núi, dây mây ở thấp hơn phải nhiều quân hơn mới lấy được nhiều. Quân sư bảo làm hai nghìn lá lớn như thế, lại làm thêm hai nghìn lá nữa lớn gấp đôi. Năm nghìn quân ra sức làm việc chỉ hơn nửa ngày là đã xong mọi việc. Nhìn ra trời đã quá về trưa.

Quân sư bảo các tướng:

- Lúc này, sớm thì đại quân của ta đã có thể xuất doanh Bát Tràng rồi. Quân đi nhanh thì cũng phải trưa mai mới tới được. Vậy, ngay trong chiều hôm nay ta xuống núi, nghỉ đêm rồi tinh mơ ngày mai ta vượt dòng Kinh Phố!

Binh tướng nghe Quân sư nói thì ai cũng hăm hở, nhưng chẳng ai lại không lo lắng không biết có xảy nguy hiểm gì không?

Quân sư hiểu ý nghĩ thầm kín của mọi người, lại bảo tướng Nguyễn Bặc:

- Xuống dưới kia rừng rậm bao la, biết đâu mà thu hết quân lại được? Vậy tướng quân hãy bảo quân đi lấy cỏ rừng ống lớn bằng ngón tay, làm mỗi người một cái còi. Dùng còi ấy thổi lên mà biết đường tìm nhau!

Quân lại đi lấy cỏ lau sậy làm còi, chớp mắt cả một triền vách núi mấy nghìn tiếng còi the thé rít lên. Quân lấy làm vui lắm.

Nhìn ra, nắng còn gắt, trời chưa bắt đầu ngả về chiều. Quân sư bảo:

- Ta xuống núi ngay cho kịp, tướng quân cho lệnh binh ba người một lá ôm chặt lấy nhau. Đợi khi gió mạnh thì cùng nhau băng ra, đừng sợ gì cả! Thổi còi tìm lại nhau, nếu ai bị lạc không tìm được quân, thì cứ bình tĩnh lần đường đi xuống phía Nam. Hỏi đường đến phủ đường là được!

Lệnh của Quân sư truyền ra, tướng soái Nguyễn Bặc tuy rằng tin ở Quân, sư nhưng trong lòng không khỏi không có phần lo lắng. Đến quân nghe lệnh thì bây giờ im lặng cả, không còn thấy vui vẻ nói cười như lúc thử còi nữa!

Quân sư bảo tất cả lên chỗ cao ấy, sửa soạn bay vào khoảng không theo điều ông Mạc Sa Cảnh gọi là phép “Phi đằng đại điệp”. Lên đến trên cao, Quân sư dặn:

- Ba người một lá, lá lớn thì một ngựa một lá, quân kỵ xuống trước, rồi đưa ngựa xuống ngay. Cuối cùng là quân bộ!

Quân sư bảo tướng Mạc Sa Cảnh:

- Ông cùng với ta xuống trước, ông chọn lấy mấy người tế tác lanh lẹ nhất ta xuống một lần để tìm đường!

Mạc Sa Cảnh vâng lời chọn lấy mười người tế tác chia làm ba nhóm. Một người nữa thì đi cùng với Quân sư và Mạc Sa Cảnh. Quân sư bảo tướng Nguyễn Bặc:

- Khi nào ông thấy chúng tôi đã lẫn vào cây cao dưới kia, thì thả cho chúng tôi ngựa xuống ngay!

Nguyễn Bặc vâng lệnh, sai quân đem mười con ngựa cột vào mười lá cọ lớn. Mỗi ngựa bốn quân chực sẵn đợi gió mạnh thì xô xuống núi!

Sửa soạn xong xuôi, Quân sư cùng mười tế tác và Mạc Sa Cảnh ra đứng sát bên bờ vực. Nhìn gương mặt mọi người thấy có vẻ sợ, ngó đến Quân sư thấy ngài bình thản. Gió lớn chợt ào lên, Quân sư thét:

- Đi!

Cùng với tiếng thét, Quân sư và Mạc Sa Cảnh vận lực nhảy vọt ra ngoài xa lôi theo cả một quân tế tác. Ba nhóm tế tác kia cũng vội nhảy ra theo. Bốn tán lá cọ lớn lắc lư, tà áo văn sĩ của Quân sư gió lôi dài ra, đám người lắc lư rồi bay đi, xuống thấp, dần dần nhỏ mãi. Quân trên vách núi chợt reo lên, bây giờ thì ai cũng hăng hái muốn xuống núi trước. Tướng quân Nguyễn Bặc cùng Hồ Tường Thụy trông nom cho quân hành động, cắt cử người trước người sau. Lúc đưa ngựa xuống là khó khăn hơn cả, nhưng ngựa bị dây ràng cột chân chỉ xô đi là băng ngay ra ngoài xa!

Hai tướng cho quân và ngựa ào ào xuống núi, nắng chiều đã nhạt gió thổi mạnh. Quân gấp gấp xuống núi cho kịp trước khi trời tối!

Gió thổi đưa binh Hoa Lư đánh úp Siêu Loại đi tản mát trong một khoảng rừng rộng. May mà sức gió trên cao cứ đều đều cho nên đám người xuống núi cũng ít gặp tai nạn, có toán xuống được mặt đất, có toán vướng vào ngọn cây. Tiếng còi tìm nhau khắp nơi the thé, khu rừng rậm rạp âm u hốt nhiên náo nhiệt!

Tướng Tế sứ Mạc Sa Cảnh cùng với mười người quân tế tác nhìn nhau cảm động. Chuyến quân hành kỳ lạ khó có thể tưởng và được trong đời một người. Xem xét lại chỉ vài người trật khớp xương tay chân, đôi người lúc rơi xuống chẳng may bị đập mạnh đau như bị đánh đòn! Bây giờ chỉ một lát sau cho lại hồn, thì cả mười hai người đều hân hoan, quên cả đau, ai cũng tranh nhau kể ra “thấy thế này thế nọ”. Quân sư nghe thế thì cười. Mạc Sa Cảnh bảo tế tác hãy cố lên cây cao, nhìn đón xem ngựa xuống lạc đi những chỗ nào để biết hướng tìm đến.

Mọi người lên cả ngọn cây cao, nhìn lên trời thấy đông nghẹt người ngựa đang xuống, quang cảnh làm cho chính Quân sư cũng phải xúc động. Sau này kể lại cho mọi người nghe, Quân sư Lê Thảo có nói: “Lúc ấy chẳng còn cách nào, tôi đành liều dùng cách ấy. Thật là vừa lạ, vừa sợ, lại vừa vô cùng thú vị khi bay giữa trời cao...”.

Vách ải Thiên Ma trong nắng chiều sắp tắt còn rực sáng, cây xanh lẫn với đá núi như bức tường vĩ đại dựng đứng. Phong cảnh vừa hùng vĩ vừa có gì lặng lẽ bí mật.

Cho tới khi trời sẩm tối, ba người cuối cùng rời vách núi ải Thiên Ma chính là Nguyễn Bặc, Hồ Tường Thụy và một người tế tác. Còi hiệu tìm nhau suốt cả đêm, tinh mơ thì quân đã tìm lại được chỉ thiếu gần hai trăm người. Hơn một trăm người bị thương nặng nhẹ, ngựa trận mất bốn mươi bảy con. Quân sư bảo:

- Những người chưa tìm thấy, sẽ tìm về phủ đường sau, ngựa mất không nhiều, quân còn đủ để lấy phủ đường. Ta nghỉ cho đến cuối giờ Dần thì lên đường ngay cho kịp qua sông Kinh Phố vào giữa buổi sáng!

Binh tướng vẫn còn đang say sưa bàn tán kể cho nhau nghe về việc bay trên sườn núi xuống. Người quân nào cũng làm như thể chỉ có mình y là được bay như thế! Lệnh của Quân sư ban ra, quân lại nô nức như thể lại sắp được đi chơi chuyến nữa!

Quân vừa xong chỗ nghỉ ngơi, tế tác tiên phong xuống đầu tiên vâng lệnh gấp đi đò đường, nghe ngóng tin tức, đã hấp tấp về trình: “Đường tới sông Kinh Phố không còn xa, rất dễ đi. Bên kia sông đang náo động về việc đại binh Hoa Lư đích thân Vạn Thắng Vương chỉ xử, đã sắp mở trận!”.

Quân sư được tin, bảo ba tướng:

- Lẽ ra ta ra quân trước, chỉ vì vướng ải Thiên Ma nên đến chậm? Thôi thế cũng được, ở mặt trước đại binh ta đã sắp mở trận, tất Siêu Loại phải dốc hết sức ra mặt ấy. Ta bất thần từ phía sau đánh tới, thế nào cũng vào được phủ đường trước, giúp cho chính binh của ta ở mặt trước nhiều lắm!

Binh tướng nghe Lê Thảo nói đều nức lòng muốn vào trận ngay. Nhưng Quân sư bảo cứ bình tĩnh, đúng giờ đã định quân sẽ lên đường. Quân sư lệnh: Không một người quân nào được thức, phải đi ngủ hết cho lại sức. Ai không tuân lệnh là nhận lấy tội chết!

Đạo quân Hoa Lư đi đường An Bình đang được nghỉ ngơi với cả nỗi hân hoan nô nức ở trong lòng, thì ở phủ đường Siêu Loại trong chiều hôm ấy thật là chộn rộn.

Tin trình vào phủ đường: Binh Hoa Lư đã lấy xong Tế Giang, Sứ quân Lữ Đường đã mạng vong trong biển lửa ở Cự Linh!

Sứ quân Lý Khuê được tin, liền sai giục trống triệu tập hết thảy chúng tướng văn võ gấp tới đại sảnh phủ đường nghị sự.

Nghị sảnh phủ đường Siêu Loại hôm nay thật náo nhiệt, không còn thiếu một tướng văn võ nào, không khí có phần nghiêm trọng!

Vào hội, Sứ quân Lý Khuê bảo:

- Này các tướng văn võ của ta, cái họa lớn nhất ở Giao Châu ta thường lo lắng đến, ấy là Hoa Lư ra ngoài thiên hạ. Họa ấy nay đã ở cửa ngõ của Siêu Loại ta rồi!

Sứ quân mới chỉ nói đến đây, thì cả nghị sảnh bừng lên ồn ào, các tướng văn võ giật mình quay sang hỏi nhau về sự thể, nhưng chẳng ai biết chút nào!

Sứ quân tiếp:

- Việc Hoa Lư lăm le ra ngoài thiên hạ, ta nghe thấy nói đến từ lâu. Vậy mà mới chỉ trong ít ngày đây thôi, Hoa Lư đã hưng binh ào ạt tiến lên phía Bắc, lừa dối cướp Đắng Châu ép Sứ quân Phạm Phòng Át phải chịu nhường Đằng Châu cho Hoa Lư. Hoa Lư thừa đà, gây hỗn loạn Bình Kiều, chẳng mất một giọt mồ hội cũng đoạt được Bình Kiều. Lại nhân cái thắng ấy cho quân vượt sông đánh chiếm Tây Phù Liệt, đến nỗi Sứ quân Nguyễn Siêu phải bỏ chạy mất tích. Sau ta nghe Sứ quân chết ở mãi vùng sông Bái của giang sơn ta! Hoa Lư lộng hành, dốc sức kịch chiến với Tế Giang. Phá tan binh tướng Tế Giang, bức bách Sứ quân Lữ Đường phải chạy dài. Sau liều mạng trong một trận hỏa công của Hoa Lư tại đầm Cự Linh.

Cả nghị sảnh không một tiếng động nhỏ, trăm tướng văn võ của Siêu Loại thấy kinh hoàng với sức tiên của Hoa Lư. Sứ quân Lý Khuê ngừng nói dường như ngài cũng xúc động sợ hãi. Rồi Sứ quân tiếp:

- Sau trận hỏa công đốt đầm Cự Linh. Hoa Lư đánh nốt doanh biên của Tế Giang là tại Hỏa Châu Bát Tràng, lạ một điều là trong trận đánh nào, ở đâu, cũng đều có mặt Bộ Lĩnh. Nhiều lần có những điều lạ lùng có vẻ huyền bí xảy ra...

Các tướng nghe đến đây thì “ồ” cả lên. Quả thật nhiều người có loáng thoáng nghe được những việc lạ, nhưng chẳng ai được biết rõ những việc lạ ấy thế nào. Mưu sĩ Lý Thưởng hấp tấp hỏi ngay:

- Bẩm chúa công, ngài có được biết những việc huyền bí ấy như thế nào không?

Sứ quân Lý Khuê có nghe tế tác trình các việc, nhưng không được biết rõ lắm cho nên khi nghe Lý Thưởng hỏi, thì ngài đáp:

- Biết đích xác thế nào thì ta không rõ, nhưng nghe nói là trong trận Tế Giang có dị nhân đến lập thần trận lấy trâu làm binh, dán hai đạo bùa linh ở bụng. Vậy mà Hoa Lư vẫn phá được thần trận. Đến trận Cự Linh thì Hoa Lư lại mượn được cả bánh xe lửa của Na Tra Thái Tử trên thiên đình xuống đốt doanh trại Tế Giang thành than. Trong trận này Cự Linh Lục Kiệt cùng với vợ chồng Sứ quân đều chết cháy cả. Tại doanh cuối cùng của Tế Giang là doanh Bát Tràng, thì lại có việc lạ hơn nữa là trong doanh cứ mỗi lần tung hô Đinh Bộ Lĩnh thì cồn bồi phía sau doanh lửa lại tự nhiên bốc cháy. Vì thế tướng giữ doanh là Lại Ôn Thao đã đầu hàng nộp trại. Ta thấy như thế, chẳng lẽ trong quân Hoa Lư lại có thần tiên đến giúp đỡ hay sao? Thần tiên thì ta không thấy, nhưng Hoa Lư có tên Quân sư kỳ tài. Bởi thế cho nên ta cho là những việc huyền bí liên quan đến cả thánh thần đều do tên Quân sư ấy bày đặt ra cả!

Sứ quân Lý Khuê hội chúng tướng văn võ để bàn việc Hoa Lư sắp tiến đánh Siêu Loại. Lại khiến cho cả nghị đường hóa thành buổi hội bàn về những phép thuật, huyền vị trong trời đất. Do vậy Luy Lâu Thần Nữ lên tiếng.

- Pháp thuật huyền diệu trong trời đất, có thật! Bản thân tôi thế nào, tôi biết, các vị cũng đều biết cả! Có điều, pháp thuật huyền diệu có người cao kẻ thấp. Trong doanh Hoa Lư có thần tiên đến giúp có khi là đúng. Chẳng thế từ ngày trước cả thiên hạ đều đã được thấy Quân sư Hoa Lư, sai chín rồng đốt Ngọc Lũ, cưỡi mây gọi gió bay qua sông lớn nửa đêm đến Đằng Châu, rồi lập lại dàn cầu mưa dập tắt lửa. Đến nay vân hỏa đốt Cự Linh, linh thuật phá thần trận, cũng đều là có thật cả. Ta nên biết như thế, thì mới đối phó được với Hoa Lư!

Sứ quân Lý Khuê hỏi ngay:

- Tài riêng của thần nữ chế phục được Quân sư Hoa Lư không?

Các tướng văn võ khẽ thốt tiếng cười, ai cũng hiểu lời nói của Sứ quân. Luy Lâu Thần Nữ kín đáo lườm Sứ quân một cái rồi mới đáp:

- Pháp thuật, mỗi người một khác, pháp thuật nào ở thế gian này qua được huyền thuật muôn đời của mỹ nhân! Nói thế, chứ Hoa Lư có người giỏi dàn binh sai tướng, thì Siêu Loại ta nào có thiếu gì tướng tài! Bây giờ, chúa công trước là nên bày tỏ cao kiến để mọi người biết, sau là hỏi kế các đại tướng thì thế nào cũng có cách đối phó với Hoa Lư!

Luy Lâu Thần Nữ nói rất đúng, vì thế Sứ quân bảo:

- Phải, chẳng phải là ở đâu cũng có pháp thuật, cho nên dụng binh phải trông vào binh vào tướng. Trước khi ta hỏi các tướng, ta cũng nói để các ông biết rõ tình thế. Hoa Lư đi từ phía Nam lên, trước hết nhòm ngó phía Đông, triệt hạ Tế Giang, cướp Tây Phù Liệt. Rõ ràng là mưu toan ổn định phía sau lưng trước khi quay sang hẳn phía Tây. Vì vậy sau Tế Giang, Hoa Lư không thể không nhìn vào Siêu Loại của ta. Ta nói thế, vì ở phía Đông này chỉ còn có ta với Thủ Tiệp. Hoa Lư muốn nhòm ngó phía Đông thì chắc chắn sẽ nhòm ngó ta trước chứ không phải là Thủ Tiệp. Nếu dứt được ta thì cô lập được Thủ Tiệp, ta với Thủ Tiệp thì lại không thể liên minh với nhau để cùng chống Hoa Lư được. Hiểm kế của Hoa Lư ngày trước làm cho ta với Thủ Tiệp thù hận nhau. Tình thế như vậy, các ông tính thế nào?

Các tướng nghe Sứ quân nói thì lao xao bàn tán với nhau, rồi đại tướng Ân Mạnh Thiệu lên tiếng:

- Bẩm chúa công, ngài xét tình hình như vậy là đúng lắm. Sau Tế Giang, thế nào Hoa Lư cũng nhòm ngó đến Siêu Loại ta. Siêu Loại ta ở xa tất cả. Phía Đông có dòng sông lớn bao bọc nhìn ra khoảng mênh mông chẳng còn ai nhòm ngó đe dọa ta. Phía Tây Bắc ta là Tiên Du thì có rặng Bát Vạn chắn đỡ. Phía Tây thì rặng Lạn Kha lan rộng muốn tiếp nối với Bát Vạn, lập thành rào giậu che chở cho ta. Từ phía Tây đến không có đường đi, vách Thiên Ma là tường thành không có lối vượt. Mặt này ta hoàn toàn được yên ổn cho đến bây giờ ta cũng không cần lập một doanh trại nào ở mặt ấy. Vả lại hai sông Kinh Phố ở gần, sông Bái ở xa, là nơi cư dân đông đúc hiền lành sát sau phủ đường ta. Làm cho phủ đường ta chung quanh như có cánh tay ôm lấy che chở. Chỉ còn có mặt phía chính Tây hơi chếch xuống Nam là con đường thông suốt với huyện lỵ Gia Lâm, tới tận Tế Giang rồi chạm dòng Xích Đằng. Nay, Hoa Lư muốn đánh ta, tất thế nào chúng cũng theo con đường duy nhất theo ngả đường Gia Lâm, mở đầu từ cứ doanh Hỏa Châu Bát Tràng của Tế Giang. Vậy, ta sẽ chống nhau với Hoa Lư chỉ ở một mặt này mà thôi!

Tướng Phạm Thừa Ân tiếp lời:

- Bẩm chúa công, ông Ân Mạnh Thiệu nói rất đúng, Siêu Loại ta thủ thì vững, binh ngoài không thể vào được. Ta dốc hết lực vào mặt phía trước thì thế nào cũng thắng. Binh ngoài viễn chinh, tất phải cần đến lương thực. Hoa Lư tuy đoạt được Tế Giang, cũng không dễ dàng vận chuyển lương thực ở một cung đường xa như thế. Vả lại tôi có nghe Hoa Lư đem đại binh đi, tất càng khó khăn hơn nữa về lương thực. Dù vậy, ta cũng đừng quên là đích thân Đinh Bộ Lĩnh cầm quân. Vậy tất y đem theo nhiều tướng mạnh. Hoa Lư dốc lực không lâu đã chiếm giữ được mấy nơi, như thế phép dụng binh của Bộ Lĩnh đáng để ta phải chú ý!

Phạm Thừa Ân vừa nói đến đây thì tướng Lý Khắc Tịnh nói ngay:

- Bẩm chúa công, thưa các ông, cự chiến lại Hoa Lư là điều Siêu Loại ta nhất định phải làm. Việc quân, thắng bại là lẽ thường. Hoa Lư có Đinh Bộ Lĩnh dũng mãnh, thế thì trong thiên hạ này chẳng có người nào khác dũng mãnh nữa hay sao? Vả lại, địa thế của Siêu Loại ta như các ông vừa nói. Với địa thế ấy binh Hoa Lư dù đông, tướng Hoa Lư dù mạnh, cũng chưa chắc đã hơn được ta ngay! Tôi là tướng tuy chẳng bằng các ông được, cũng xin chúa công cho được đi trước chiến với Bộ Lĩnh một phen xem sao!

Lý Khắc Tịnh vốn là người ít nói, tính tình hung bạo, có phép đánh côn sắt rất lợi hại gọi là “Thiết Vận Côn”. Dựa vào cuồng phong bão tố khi thổi vào cây rừng xem cây rừng chống lại ra sao mà lập thành. Khắc Tịnh cho là dưới gầm trời này chẳng có ai giỏi nghề côn hơn ông ta, nên vẫn ước có ngày được thử tài với Kim Côn Tướng Đinh Điền của Hoa Lư. Khắc Tịnh cưỡi con ngựa tên Ngu Ngu, giống ở tận châu Bạch Thông, bờm dài gần sát đất, có linh tính biết được sự thay đổi của thời tiết, lại có tài bơi trong nước nhanh chẳng kém gì chạy trên mặt đất bằng phẳng. Lý Khắc Tịnh theo Sứ quân Lý Khuê chiếm giữ Siêu Loại ở nơi xa xôi, chẳng có kiến thức sâu xa, nhìn thiên hạ chẳng ra gì cho nên mới nói như vậy.

Sứ quân bảo:

- Ta xét việc, ấy là để biết việc rồi lập trận, chứ không phải là để ca ngợi người mà hạ giá trị của ta xuống. Vậy, tướng Phạm Thừa Ân coi giữ mã binh, tướng Ân Mạnh Thiệu coi giữ quân bộ. Quân mã mở đường để cho quân bộ theo sau trợ chiến. Tướng quân Lý Khắc Tịnh làm phó tướng cho tướng Phạm Thừa Ân, tướng Điểm Quân Hồng làm phó tướng cho tướng quân Ân Mạnh Thiệu.

Sứ quân lại sai tướng Đỗ Bá Đoàn giữ việc quân lương, lệnh là không được để hai quân mã bộ bị thiếu lương, hay thiếu binh khí chiến cụ.

Sứ quân cắt đặt các tướng xong, bảo:

- Các ông ai giữ trách nhiệm quân nào, hãy sửa soạn quân của mình cho nhanh. Chiều hôm nay thì ta mở đại hội điểm quân.

Rồi Sứ quân truyền cho tướng Trương Bá Cương lĩnh nhiệm vụ lập giáo trường ở phía Nam thành phủ. Lấy khoảng đất trống ngay trước phủ làm nơi Sứ quân điểm quân.

Trương Bá Cương mang quân ra lập giáo trường, trống rong cờ mở, cả Siêu Loại hốt nhiên náo động. Chớp mắt các nơi đều hay biết: Binh Hoa Lư sắp vào bờ cõi Siêu Loại, Sứ quân ra quân chống cự. Người người lo nạn binh đao, vội bồng bế nhau lánh cả ra phía sau phủ đường. Làm cho khoảng bao la phía Bắc phủ đường Siêu Loại nhìn lên sông Bái, chẳng mấy ngày đã đông nghẹt người đến dựng tạm lều tranh nhà cỏ để lánh nạn. Trước đây, có một ít người làm nghề thương hồ quen đi lại khắp nơi nghe biết tin chiến trận ở Tế Giang. Biết là thế nào Hoa Lư trước sau cũng đánh đến Siêu Loại. Cho nên đã mau chân đến chiếm vùng đất ấy để kiếm lời, những người ấy bảo rằng: “Chiều ngày nọ, có nhiều việc lạ, từ trên trời cao phía ải Thiên Ma có nhiều đàn chim lớn sà xuống. Không biết là chim gì”. Thiên hạ đồn nhau, đến tai Sứ quân.

Sứ quân đem việc hỏi văn sĩ Quân sư Lý Thưởng. Thưởng đáp:

- Đại cát! Đại cát! Ngày xưa, lúc Hoàng đế trị thủy cứu muôn dân, có bầy hạc trắng đến trước cửa hót mừng. Ông Thần Nông dạy dân cày cấy, ngày đầu bước chân xuống ruộng có đám gà rừng ùa đến gáy vang kêu lớn. Đều là những điềm lành lớn trong thiên hạ trời đất ca ngợi việc làm của bậc chủ tể. Nay, chúa công xuất binh cự địch, từ trời cao có nhiều chim lớn từ đỉnh Thiên Ma sà xuống. Ấy là điềm chúa công thắng được giặc cũng như Hoàng đế ngày xưa trị được sông nước cứu muôn dân. Như Thần Nông làm ra được hạt gạo để no muôn dân! Đại cát, đạt cát!

Sứ quân Lý Khuê nghe văn sĩ Lý Thưởng nói rất hài lòng, liền đem việc ấy khoe với Lục Hồ Phu nhân. Phu nhân nghe xong thì bảo:

- Như thế, điềm lành trời báo trước ta nhận được tất phải tạ ơn. Thiếp lại đi sông Bái để tạ linh thần!

Phu nhân đem lễ vật, thuộc hạ trương cờ gióng trống mở đường để bà đi, làm náo động cả phủ đường. Khiến cho tướng Ân Mạnh Thiệu phải hỏi xem là việc gì. Khi biết chuyện, Thừa Ân lặng lẽ suy nghĩ. Ông chẳng biết gì về việc Hoàng đế với Thần nông, nhưng bàn với tướng Ân Mạnh Thiệu:

- Việc chim lớn từ trời cao ải Thiên Ma sà xuống, ta không biết là điềm trời có thật hay không. Chỉ biết từ xưa đến nay Thiên Ma chưa hề bao giờ có người lai vãng, chim chóc cũng không. Nay có việc như thế thì ông nghĩ thế nào?

Ân Mạnh Thiệu bảo:

- Điềm trời thì có nhiều, cũng có khi ứng vào một việc gì đấy, cũng nhiều khi chẳng ứng việc gì cả. Việc chim lớn xuất hiện ta không trông thấy, chỉ nghe nói là nhiều, nhiều là bao nhiêu? Thành ra như thế, chẳng thể dựa vào điều con dân ngu tối nói ra mà tin ngay được. Mặt ấy, ải Thiên Ma như “thiên bích” vách trời che chắn phía Tây Bắc cho ta, nhờ nó mà ta được yên ổn không cần phải lập doanh tụ quân. Bây giờ chống nhau với Hoa Lư ông nghĩ ta có cần phải xem lại mặt ấy không?

Phạm Thừa Ân nghiêm trang đáp:

- Đấy, việc tôi muốn hỏi ông là đấy! Thiên Ma trăm năm nay chẳng có ai lai vãng, thú rừng chim chóc cũng chẳng đến. Hiểm trở đến ngay như muông thú cũng phải tránh xa. Nay việc binh, ta chiến với Hoa Lư lắm mưa nhiều kế. Có thể nào Hoa Lư vượt được ải Thiên ma đánh úp phía sau phủ tường ta được không?

Ân Mạnh Thiệu cười lớn mà rằng:

- Quả nhiên ông nghĩ hợp ý tôi! Tuy vậy, với ải Thiên Ma thì tôi cho rằng: thế nào Hoa Lư cũng nghĩ đến, nhưng sẽ không có cách gì vượt được. Tôi chỉ muốn ông nghĩ đến việc Hoa Lư có tay Quân sư biết nhiều phép thần thông, sai bảo được cả quỷ thần, đi lại được với cả thiên đình. Thì liệu y có dùng phép màu để vượt ải Thiên Ma được không?

Đến lượt Phạm Thừa Ân vui vẻ bảo:

- Ông cũng lại nghĩ như tôi! Ta phải để ý đến tên Quân sư quỷ quái ấy! Ta chưa tận mắt thấy y dụng phép màu, nhưng ta từng được nghe y hành động. Theo bá tánh nói, thì nhiều chim lớn bay xuống, không thể nào chim ấy lại cõng binh tướng Hoa Lư từ đỉnh Thiên Ma bay xuống được! Vải chăng, vài ba trăm con chim, cũng chỉ cõng được vài ba trăm quân, ít ỏi như thế thì làm được gì! Tôi không tin là Quân sư Hoa Lư sai chim chở quân đi. Lại nữa, trận Tế Giang mới dứt ngày hôm qua, thì dù binh tướng Hoa Lư có lên đường ngay, phá núi chặt rừng lấy lối đi. Nhanh ra cũng phải vài nghìn quân cặm cụi cả tháng trời may ra mới tới Thiên Ma được. Thế thì chẳng bao giờ có việc binh tướng Hoa Lư đã tới được Thiên Ma trong có một hai ngày như thế!

Ân Mạnh Thiệu suy nghĩ, rồi bảo:

- Hay là ta cứ cho quân đi vào những khu rừng ấy khám xét xem sao?

Phạm Thừa Ân đáp:

- Đi khám xét như thế cũng chẳng thiệt hại gì, đường chẳng xa, cũng chẳng mất mấy thì giờ!

Thế là hai tướng toan cho quân đi khám xét trong rừng nơi phía Thiên Ma có nhiều chim lớn bay xuống.

Hai tướng vừa mới điểm quân thì lại có lệnh của Sứ quân: “Phu nhân đi lễ ở sông Bái, hai tướng cho quân đi hộ tống mở đường!”. Hai tướng nhìn nhau, việc quân cấp bách, lại phải bỏ việc đi thám sát rừng để đi hộ tống phu nhân!

Thế là chẳng bao giờ Siêu Loại biết được: “Chim lớn trên đỉnh Thiên Ma bay xuống rừng là thế nào”. Nhưng, bao nhiêu động tĩnh của Siêu Loại thì binh tướng Hoa Lư hai mặt quân hành đều được biết cả. Quân sư Lê Thảo nghe tế tác trình thì cả mừng bảo:

- May mà có việc Lục Hồ Phu Nhân đi lễ đền thiêng tạ trời báo điềm lành. Ta không nên để lỡ cơ may này!

Rồi Quân sư bảo tướng Mạc Sa Cảnh:

- Ông cho tế tác hết sức gấp đường đi đón vương ngay. Trình vương cho quân kỵ thật nhanh đến mở trận ngay vào tinh mơ hôm nay!

Tế tác đi rồi, Quân sư bảo tướng Nguyễn Bặc:

- Ông chuẩn bị quân kỵ, có lệnh là xuất chiến ngay, từ đây đến phủ đường tế tác nói chỉ khoảng tàn nén hương là tới được. Tế tác đã tìm đường, quân bộ của ta đã dọn đường, quân đi không khó nữa. Chỉ có điều, dân chúng lánh nạn lại chạy cả về khu này, vậy ông cho quân cố tránh làm dân thiệt hại. Tới phủ đường rồi thì bao nhiêu binh tướng còn lại bắt giữ hết, đừng chém giết.

Rồi lại bảo tướng Hồ Tường Thụy:

- Ông trông nom quân bộ, khi nào quân kỵ vào trận thì ông mang quân bộ vòng sang phía Đông phủ đường, chặn không cho Siêu Loại có đường vượt sông!

Hai tướng vâng lệnh truyền quân sửa soạn, thật im lặng nghỉ ngơi đợi giờ vào trận, ai cũng hăm hở sung sướng. Chưa thôi bàn tán với nhau về chuyến vượt ải Thiên Ma.

Quân điều động đã xong, chỉ còn đợi đúng hẹn là lên đường. Quân sư gọi tướng Mạc Sa Cảnh lại bảo:

- Ông gấp đường đem một số tế tác cùng một trăm quân kỵ, đi Sông Bái ngay. Tìm cho được Lục Hồ phu nhân xem bà ta đến lễ tạ ở đền miếu nào? Thật kín đáo, khéo léo, bắt cho được Lục Hồ đem về đây! Ông phải cẩn thận, nếu có binh tướng đi hộ tống cho Lục Hồ phu nhân thì phải liệu sức mình. Nếu ra tay mà gây náo động thì không được hành động nữa, cứ ra về!

Mạc Sa Cảnh lĩnh mệnh, đem theo mười tế tác và một trăm quân kỵ, len lỏi đường rừng nhắm hướng sông Bái tiến phát.

Ở đại doanh, soái tướng Nguyễn Minh Khánh thay vương điều động ba quân. Trong lòng chẳng có lúc nào được yên ổn, Khánh chưa bao giờ lại lãnh một trách nhiệm lớn như thế này! Từ ngày vương tạm rời doanh đi Tế Giang, thì xảy ra không biết bao nhiêu là việc. Nay thì tế tác cho hay: Các trận đánh ở Tế Giang đã xong, đại quân sắp sửa kéo đến.

Nguyễn Minh Khánh theo lệnh cho quân chậm chậm nhắm hướng Đông trẩy đi. Dọc đường liên miên được tế tác mang tin và lệnh tới. Bao nhiêu chiến trận ở phía sau làm cho Khánh nghĩ ngợi nhiều lắm. Trong lòng lại lo lắng một mình trong quân mở trận thì không biết phải làm sao, cho nên cố ý đi chậm lại để đợi chờ.

Cho đến quá nửa đêm, thì được tin: Vạn Thắng Vương gấp mang quân kỵ đến trước. Lệnh là đem quân thẳng tới t