Hồi Thứ Một Trăm Lẻ Bảy Đổng Thừa nghe nhạc chịu hàng
Cùng đường, Sứ quân tự ải
Các thuộc tướng ngồi cả trên mặt thành xem lão soái điều động trận nhạc dưới thành. Mới đầu chỉ nghe thấy tiếng trống một dàn thi nhau đập theo hiệu cờ lệnh thay đổi liên miên. Các tướng chẳng hiểu trận thế biến chuyển thế nào. Đến một lúc, bỗng nhiên thấy từ trong trận có tiếng nhạc lạ trỗi lên, lúc vi vu như gió thổi, lúc lại thánh thót nhịp nhàng như nước từ thác cao rơi xuống, có lúc như suối reo, dòng chảy rào rạt, có khi náo động dồn dập. Các tướng kinh ngạc, lão soái thu hết thần khí lắng nghe, vẻ mặt đang thật gay cấn thoắt hiện ra hân hoan sung sướng lẫn lo âu, rồi lão soái kêu lên:
- Thần tiên! Thần tiên! Kỳ tài đã chỉnh lại thủy nhạc của ta! Tuyệt vời quá, chưa ở đâu lại có kỳ nhân như ở Giao Châu ta!
Nhưng rồi trống trận nhất tề đập cùng một nhịp, dồn dập kéo dài không ngừng, và lão soái tướng vẻ mặt lại hân hoan bảo:
- Trận nhạc của ta đã giam hãm được tướng địch đang lạc trong trận rồi!
Các tướng vẫn không thấy gì ngoài bụi bỗng vẩn ở trong trận nhạc bày dưới kia. Bụi vẩn không phải là ở khắp mọi nơi, mà cuốn lên một dòng dài ngoằn nghoèo hết sang phải lại lui lại, rồi lại sang trái. Bụi vẩn thành dòng dài rõ ràng là loanh quanh ở mãi một nơi không thoát đi chỗ nào khác!
Trong dòng bụi vẩn ấy, tiếng nhạc lạ trong trận tự dưng bặt tiếng, các tướng muốn đứng cả lên để nhìn cho thật rõ quang cảnh chiến trường, nhưng vẫn không có gì khác hơn. Trống trận trên thành vẫn ầm ầm. Gương mặt lão soái thật căng thẳng.
Chợt bụi lắng xuống thật nhanh, cả khoảng rộng trở lại như tờ. Và tiếng nhạc lạ trong trận lại trỗi lên, thánh thót, trong như ngọc rơi, trầm đục như đá lớn quăng xuống nước. Nhạc trận huyền diệu như thay đổi cung bực.
Lão soái tưởng lại kêu lên thảng thốt:
- Thần nhân! Không thể như thế được! Ta mơ chăng?
Lúc ấy, quân chạy lên vọng lâu trình lớn:
- Bẩm trình soái tướng, trước thành có ba người xuất hiện, xin đợi lệnh!
Nghe trình, lão soái Đổng Thừa Trọng rùng mình, các tướng đã nghe trình và thấy thái độ của lão soái.
Đổng Thừa Trọng bảo các tướng cùng xuống hết sảnh doanh, rồi ông sai một tướng mau xuống mở cửa thành đón người lạ vào. Ông không cần tra hỏi xem những người lạ ấy là thế nào. Ông tin rằng: Trong lúc trận nhạc của ông đang hoạt động, thì không thể một ai vượt qua được. Bao nhiêu biến chuyển trong nhạc trận cho đến lúc này, ông tin chắc là do ba khách lạ ấy làm ra cả. Họ là những người của Hoa Lư đi phá trận của ông!
Quân sư Lê Thảo cùng hai tướng Chu Kỷ Toàn và Mạc Sa Cảnh theo chân thuộc tướng của Đổng Thừa Trọng vào trong sảnh doanh.
Nơi đây, sảnh doanh của trấn thành Lạn Kha thiết trí thật thanh nhã. Không có hình ảnh nào tỏ ra là một quân sảnh với những binh khí trưng bày như nhiều quân sảnh khác. Nơi đây chỉ có những bức tranh phong cảnh cực kỳ tinh vi với những lối vẽ thuần là của phép vẽ Bắc quốc.
Lão soái tướng thần tiên, đúng như danh hiệu người dời tặng cho ông. Lão tướng gầy mà thanh tú, trên người ông từ đầu tóc bạc phơ đến râu ria quần áo cũng đều là một màu trắng của lụa bạch tinh khiết. Lão tướng có phong độ phiêu phiêu thoát tục. Đổng Thừa Trọng ngồi trên ghế mây cũng lại bọc bằng da chồn trắng. Các thuộc tướng của ông không nhiều nhưng người nào cũng lộ vẻ thanh cao, chứ không có dáng của những võ tướng hiên ngang mạnh mẽ.
Bước chân vào sảnh doanh. Lê Thảo khẽ bảo hai tướng đứng lại ở nơi cửa, một mình Quân sư đi thẳng đến trước lão soái. Dáng dấp Quân sư với tà áo văn sĩ cũng lại chẳng thua kém phong độ thần tiên thoát tục của lão soái. Lão soái nghiêm trang đợi xem khách lạ thế nào, vì thế Lê Thảo đến trước lão soái thì đứng thẳng, hai tay vòng lại làm lễ bái kiến. Rồi cất giọng thanh tao nói:
- Trình đại soái thần tiên, Lê Thảo tôi vâng lệnh Vạn Thắng Vương đến bái lĩnh cao kiến của đại soái.
Trên là Đổng Thừa Trọng xuống đến các thuộc tướng, tất cả đã từng nghe Hoa Lư Động chúa Đinh Bộ Lĩnh được chúng tướng sĩ và bá tánh tôn xưng là Vạn Thắng Vương. Nay thì nghe đích lời của Quân sư Hoa Lư là Lê Thảo nói ra, nhiều tướng cho là Lê Thảo có phần nào ngạo mạn. Lão tướng thần tiên nghe nói thì rất tự nhiên đáp:
- Tôi có nghe, ngài là Quân sư của Hoa Lư. Tiếng đồn trong thiên hạ quả nhiên là đúng! Ngài đến doanh tôi có việc gì?
Lão tướng cố ý không nói gì đến việc chiến tranh. Nghe thấy thế Lê Thảo mỉm cười đáp:
- Thưa lão soái, tôi từng nghe ở Giao Châu này chỉ có đại soái trấn thành Lạn Kha là người duy nhất sành về nhạc và âm thanh. Tài ấy vượt xa các kỳ tài của phương Bắc. Thế mà vừa rồi dù tôi ở xa cũng nghe được trong trận trên thành diễn tấu chỉ trong một thời gian ngắn đủ được sáu mươi ba điệu nhạc trận của gần hết các rợ Bắc phương. Thêm sáu điệu cổ nhạc của các triều đại Trung Nguyên, rồi lại còn nhạc trận dẫn dắt thời gian, hiển hiện hai mươi bốn tiết khí của trời đất hàng năm. Tất cả ở xa cả trăm dặm còn nghe rõ. Thế mà có điều lạ làm sao ở nơi này lão soái có thể nghe được tiền nhạc tận trên thiên đình, thấu được quỷ nhạc dưới địa ngục. Mà lại chẳng nghe được nhạc cổ trận trên thành và thủy nhạc trận trước thành của chính ngài, chỉ cách xa chẳng qua vài dặm. Cho nên vì thế mà lão tướng thần tiên mới ban lời hỏi tôi đến đây có việc gì!
Đến đây thì lão soái thần tiên Đổng Thừa Trọng vội đứng lên, ông vui vẻ mà không thiếu lễ độ, đáp:
- Thần tiên, nếu không nhờ ở hành vi thô lỗ, thì chắc tôi chẳng thể có được cơ hội để nghe những lời nói như chính từ tim óc mình đi ra như thế! Thần tiên tha lỗi! Thần tiên tha lỗi!
Quân sư Lê Thảo cũng vui vẻ:
- Đa tạ lão đại soái, ngài không giận việc tôi đến trước thành, lại cho được vào sảnh bái kiến. Như thế đủ tỏ tinh thần bực thần tiên được đời xưng tụng quả là không lầm. Tiếc một điều là thần tiên tại có thể nghe được trong một âm có đủ cả năm cung chín bực. Thế mà lại không nghe thấy ba âm đồng hợp, cho nên tiếp nhận một âm mà lại cho là đã đủ mọi cung bực!
Lão tướng như chợt nhớ ra, vội đáp:
- Đúng thế! Đúng thế! Cùng đi với ngài còn có hai vị nữa, xin mời vào, xin mời vào!
Lão tướng đứng lên đích thân ra tận cửa sảnh doanh đón hai tướng Chu Kỷ Toàn và Mạc Sa Cảnh. Hai tướng suốt từ đầu đã nghe không thiếu lời đối đáp nào của Lê Thảo với lão tướng trấn thành Lạn Kha. Khi thấy lão tướng bước tới, hai ông vội vàng bỏ khí giới xuống đất rồi vòng tay làm lễ bái kiến. Lão tướng thấy cử chỉ của hai ông, thì cười ha hả mà rằng:
- Hảo đại tướng, âm thanh của binh khí thường trầm trọng thiếu thanh cao, đặt nằm xuống mặt đất thế mới là những con người thấu hiểu biết hòa hợp âm dương. Làm cho nóng nảy phải dịu lại, khiến khí lạnh được ấm lên, đấy là lẽ hòa hợp trong trời đất đấy! Hảo đại tướng!
Lão soái lên tiếng thật lòng khen ngợi hai tướng Hoa Lư về cử chỉ đặt khí giới nằm xuống đất. Thật ra hai ông sau khi nghe Lê Thảo với lão soái Đổng Thừa Trọng đối đáp. Thấy lão tướng đích thân bước ra đón mình, thì hai ông không dám giữ binh khí trong tay. Chẳng biết giao cho ai, liền đặt xuống đất, chẳng qua là để tỏ ý kính trọng lão đại soái. Không ngờ đại soái lúc nào việc gì cũng luận, cũng nhìn bằng những lẽ huyền vi của nhạc trong trời đất. Cho nên mới cho là hai tướng Hoa Lư cũng thấu hiểu chỗ tinh lý của nhạc mà nói như vậy!
Lão đại soái đưa hai tướng vào sảnh, bảo quân lấy ghế để hai tướng ngồi ngang hàng cùng với ông và Lê Thảo. Tướng Chu Kỷ Toàn thấy thế thì lễ độ nói:
- Bẩm trình đại soái, trần tục chúng tôi thật chẳng dám vô lễ. Xin được phép ngồi ở cuối sảnh cũng đủ vinh dự rồi!
Lão tướng lại cười thật vui, bảo:
- Trong âm trầm thật ra còn chứa đựng những bồi âm thượng trầm, bắc cầu để cho vận trung có cơ hội phát triển mà hòa hợp với những thanh thường. Hai ông cư xử như thế chính là những tiếp âm có thể nối được cả trời với đất đấy! Đã vậy, ta không thể bắt các âm ấy phải nhất thiết gò bó, làm mất đi cái tự nhiên vĩ đại của nó! Vậy, tùy ở hai ông!
Lại một lần nữa lão soái nhìn việc sai hẳn với sự thật. Quân sư Lê Thảo tủm tỉm cười, hai tướng cũng hiểu là lão soái hiểu sai ý mình, nhưng thật tự nhiên đi xuống cuối sảnh mà ngồi.
Hai tướng ngồi xong rồi, lúc ấy Lê Thảo mới nói:
- Thưa lão đại soái, vừa rồi lão đại soái nói là những tiếp âm có thể nối được cả trời với đất. Như thế là tinh thần tuyệt đại bao dung, cực thuần khiết của ngài đã vượt hẳn ra ngoài mọi gò bó ép buộc sai lầm thường tình, làm cho âm thanh rời rạc nhau ra, trời với đất chẳng tiếp nối được với nhau. Vì thế mới thấy có loạn trong đời, loạn tiếp nối loạn cũng chỉ vì người thay trời chăm sóc muôn dân, chẳng hiểu được lẽ huyền vi của nhạc liền lạc, trên dưới thông hòa. Người quân tử nhìn thấy huyền vi ấy cho nên mới dùng nhạc để sửa chữa lại lỗi lầm của xã hội, giáo hóa trăm dân. Bởi thế Thánh Khổng mới nói là “Quần dụng lễ nhạc, giáo hóa dại hành”. Xã hội thiếu lễ và nhạc tất có loạn. Nay ở núi Lạn Kha này có thần tiên hiểu nhạc, không phải chỉ có nhạc để giáo hóa trăm dân, mà còn thấy được cả nhạc giao hòa trong trời đất. Thế mà xã hội vẫn loạn, thần tiên lại thảnh thơi lập trận nhạc để vui chơi, giúp cho loạn đã loạn lại càng loạn thêm nữa. Như thế thì có phải là nhạc đã không ích được cho đời mà lại làm hại đời thêm nữa không?
Lê Thảo hùng hồn biện giảng về hồn nhạc, lúc khen lúc lại nặng lời chê trách lão đại soái Đổng Thừa Trọng, làm cho cả sảnh đường im phăng phắc. Lão soái nghe mà không thấy có gì giận dữ ở trong lòng, vẻ mặt lại có phần hả hê vui sướng.
Quân sư thuận đà, tiếp:
- Thưa đại soái thần tiên, ngày trước ở Siêu Loại có việc người trong mây gió hòa tiêu địch với người ngồi trong ngục Kinh Phố. Việc ấy lão soái thần tiên chẳng hay có biết hay không?
Lão soái hấp tấp nói:
- Có! Hồi ấy lão có nghe thiên hạ nói nhiều lắm đến việc tiêu địch hòa tấu nhưng không được nghe. Mấy mươi đời người mới thấy có việc xảy ra như thế. Thật tiếc vô cùng lão chẳng được nghe!
Lê Thảo hỏi:
- Thưa, lão đại soái nghe thiên hạ nói thế nào về buổi tiêu địch hòa tấu ấy?
- Lão chỉ được nghe nói là hai bản thần nhạc tối cổ của dân tộc Giao Chỉ hôm ấy được hòa tấu, nhưng chẳng biết là những khúc thần nhạc nào. Hỏi thì chẳng ai biết, còn nói gì đến những tiết tấu cung bậc cùng cái hồn của hai bản thần nhạc ấy nữa! Thật là tiếc, lão nghĩ thiên hạ tai sáng mà không khác gì chèn sáp bít kín không cho âm thanh lọt vào. Làm sao hiểu được những âm thanh thần tiên huyền diệu ấy, thật là đáng tiếc! Đáng tiếc vô cùng!
Lê Thảo mỉm cười, nói:
- Giả sử như lúc ấy lão đại soái được nghe những cung bậc ấy, thì ngài có hiểu được linh hồn của nó hay không?
Tức thì lão tướng ngửng cao mặt, bao nhiêu thái độ ôn nhu dung dưỡng biến đâu mất. Lão tướng tỏ ra vô cùng kiêu hãnh, thật cao kỳ đáp:
- Giả sử ta có nói là ở dưới gầm trời này, hai bản thần nhạc ấy nếu được nghe thì chỉ có mình ta hiểu nổi, thì cũng không phải là ngoa ngôn!
Lê Thảo cũng ngửng cao đầu, hùng hồn:
- Lão đại soái đã ngoa ngôn rồi! Cả cõi Giao Châu này tuy không phải là ai cũng có hạnh phúc nghe được buổi tiêu địch hòa tấu ấy, nhưng nhiều người tai bít sáp kín lại nghe được. Lão đại soái không được nghe thế là một điều bất hạnh! Không được nghe, mà cũng chẳng được nghe nói cho biết chút gì về nhạc thần hôm ấy, là hai điều bất hạnh! Lão đại soái thấu hiểu cả nhạc trên thiên đình, quán triệt được cả tiếng rên la dưới âm ti địa ngục gọi là quỷ nhạc. Chẳng có thứ nhạc nào lại còn che giấu được mắt nhìn tai nghe của lão đại soái, suốt cuộc đời tận tụy với nhạc. Vậy mà lão đại soái cũng không biết giống dòng Giao Chỉ có hai bản thần nhạc, là điều bất hạnh thứ ba! Lão đại soái ngồi trên núi cao, thành vững, tự đem thân bỏ ra ngoài cuộc đời bon chen tranh chấp, lập lên nhạc trận lấy nhạc trống trên thành điều khiển nhạc trúc nhạc nước trong trận, quả là thần tiên. Thế mà trận trúc trận nước lại để cho lỗi lầm khiến cho lưu thủy nhiều nơi lại bị uất khí chẹn mất, trúc nhạc đang là niềm thanh cao tuyệt vời của cái phong khí “quân tử trúc” lại bị trọc thủy làm cho xây thế chen lấn xô bồ thật tiện tục. Vì thế mới thấy có cảnh đời loạn cứ loạn, người quân tử cũng chỉ là những kẻ hùa theo loạn làm cho loạn thêm nữa, thế là điều bất hạnh thứ bốn! Đã tự cho là thân mình đã ở ngoài vạn vật, thế mà thần tiên sao lại còn tiếc một tòa thành tự cho là to lớn vĩ đại? Khư khư đêm nhạc vũ trụ vĩ đại giam hãm vào mấy bức tường thành con con ở một mảnh đất con con. Muốn lấy dòng nước đục để chẹn ống trúc thanh, chẳng khác nào như dòng nước đục ấy không tự biết mình đang làm ô uế cả gióng trúc thanh cao, đấy là điều bất hạnh thứ năm! Chỉ năm điều bất hạnh ấy trong một bậc thần tiên, thưa lão đại soái, có gì còn đáng nói nữa hay không?
Lão đại soái Đổng Thừa Trọng không còn những nét kiêu ngạo cao kỳ nữa, giọng ông run run nói:
- Quả thật tôi có nhiều điều bất hạnh! Nhưng, chẳng lẽ nào ngài lại nỡ gán ép cho tôi những tội lớn đến như vậy sao?
Lê Thảo tiếp:
- Lão đại soái đáng được thiên hạ cảm thông vì người đã nhận thấy những điều bất hạnh của mình, nhưng liệu bảo rằng lão đại soái một mực tiếp tay với loạn, để đem loạn hơn nữa đến cho xã hội có phải là gán ép không, thì tôi xin được trình bày để lão đại soái nghe!
Lê Thảo ngừng lại, Đổng Thừa Trọng hết sức chăm chú đợi nghe. Các thuộc tướng của ông có người không bằng lòng những lời nói của Quân sư Hoa Lư. Mấy phen người ấy muốn nói đều bị lão tướng ra hiệu bảo không được nói. Đến lúc này, thì người ấy chịu không được nữa, liền bật kêu lên:
- Lão soái chủ ta ngồi trên thành cao này bao nhiêu năm, lấy nhạc đức để giữ yên thiên hạ. Sao lại bảo chủ soái của ta là người có tội được!
Người vừa nói, chính là tướng Phó Thái Khiêm, người ở châu Bạch Thông. Nghe danh thần tiên của Đổng Thừa Trọng đến xin làm thuộc hạ. Khiêm vốn người ở rừng núi, nên tính tình khảng khái, trung thành. Ông kính phục Đổng Thừa Trọng là một bậc tiên thánh ở đời chẳng bao giờ lại có lỗi lầm được. Nay trong hội nghe Quân sư Hoa Lư cứ lên giọng trách mãi lão soái thì chịu không nổi mới kêu lên như thế!
Lê Thảo nghe Phó Thái Khiêm nói, thì bảo:
- Người thò tay vào hang sâu bắt con rắn độc, có thấy gì là nguy hiểm đâu. Vì y tự cho là biết cách khống chế rắn, nhưng không biết là độc rắn ấy có thể không giết được y nhưng giết người khác. Thế thì bảo người ta cứ thò tay vào bắt rắn có phải là tội giết người không?
Lê Thảo nói thế, Phó Thái Khiêm mặt tái đi ngồi im không nói gì! Hóa ra, ngày trước ở quê nhà, Khiêm làm nghề đi rừng có bắt rắn độc. Có người muốn xin Khiêm dạy cho cách bắt rắn, Khiêm bảo: “Rắn độc chỉ độc khi nào người ta sợ nó, còn nếu cứ mạnh dạn thò tay vào bắt nó thì dù nó cắn cũng không độc nữa”. Người nọ tưởng thật đi khoe khắp nơi là mình biết cách bắt rắn độc, lại tìm hang rắn thi thố tài nghệ cho mọi người xem, nào ngờ bị rắn cắn chết tươi. Phó Thái Khiêm sợ tội bỏ trốn đi, giấu việc cũ, bây giờ không hiểu sao Quân sư Hoa Lư lại nói như thế làm cho Phó Thái Khiêm nín thinh không dám mở miệng nói gì thêm nữa!
Đổng Thừa Trọng lúc ấy bảo:
- Quả thật tôi vẫn tưởng rằng mình đã ra khỏi được dòng tục nhạc, nhạc trận của tôi là công trình một đời người. Đứng trên thành cao tôi có nghe thấy nhạc trong trận bị sửa đổi, những sửa đổi ấy quả thật đã làm cho nhạc trong trận của tôi đạt được chỗ cao diệu nhất, ngài đã mở mắt cho tôi. Còn bảo là tôi có tội, thì tôi nghĩ là quá đáng!
Lê Thảo đáp:
- Thưa lão đại soái, nếu như biết mình là có tội, thì trước đã chẳng gây ra tội. Vì thế mà xã hội triền miên trong tội ác vẫn cứ tưởng là trong sạch an bình! Còn bảo là tôi gán ép tội cho lão thần tiên, thì là điều không đúng. Tôi xin nói rõ: Ngày tiêu địch hòa tấu ở Siêu Loại, thần tiên có biết ảnh hưởng của nó là thế nào không? Tôi xin nói ngay: Thần tiên chưa được nghe cho nên không hiểu được. Nhưng thần tiên phải thấy: Sau buổi hòa tấu ấy, thì cả cõi Giao Châu yên ổn, Bắc phương tạm ngưng những mưu đồ thôn tính nước ta. Như vậy, thì có phải là hai bản nhạc Non Nước Cội Nguồn với Âu Lạc Cầu Duyên ngày ấy đã chẳng là những lời lẽ thiêng liêng của tổ tiên dòng giống ta nói lên cho hậu duệ của các ngài biết là đừng làm loạn nước không? Các Sứ quân từ lúc khởi sự hành động, có là loạn nước không? Triền miên ngần ấy năm trời thi nhau hành hạ trăm dân. Làm cho đất nước hao kiệt mọi nguồn sinh lực, thế mà vẫn có những bậc thần tiên chăm chỉ theo phò những kẻ làm loạn nước ấy. Kẻ tăm tối làm loạn tội một, thì người tự nhận là thần tiên đạo cao đức trọng vẫn trung thành với kẻ loạn nước đến độ bỏ đi tất cả những danh thơm tiếng tốt của mình, thì tội ấy phải kể là mười! Lão đại soái cho những lời nói của tôi là gán ép cho người vô tội chăng?
Đến đây, lão soái Đổng Thừa Trọng đứng lên, ông đi lại trước ghế Lê Thảo ngồi. Cung kính vòng tay nói:
- Thưa ngài, phải gần trọn cuộc đời tôi mới hiểu được mình, hiểu được những công việc mình làm! Thiên hạ biết bao nhiêu là việc lớn, quan hệ đến cả tính mạng của trăm vạn người. Thế mà vẫn điềm nhiên cho là mình trên cả thế gian. Ngồi trên tội lỗi mà vẫn nghĩ mình là thanh cao tốt đẹp! Tuy vậy, nếu không mơ hồ với những huyền hoặc lại tưởng là chân lý ở đời, chỉ mình mình biết, chỉ mình mình cao, thiên hạ đều là tăm tối cả. Thì làm sao có cơ hội để thần tiên phải đi trăm dặm, vất vả giữa trăm ngàn nguy hiểm đến dạy cho! Bây giờ tôi đã thấy được mình, đã hiểu được người, nhạc của tôi ấp ủ chỉ là nhạc của tội lỗi. Xin được nạo óc vất đi hết, chích máu cho chảy hết, có thế mới đoạn tuyệt được hết với quá khứ lỗi lầm, chuộc lại được tội lỗi! Thưa ngài, tiếc là tôi chẳng được hạnh phúc để được thấy Vạn Thắng Vương, nhưng thấy được sứ giả của ngài cũng là một điều an ủi lớn! Tôi có lời nguyện: “Ai hiểu được nhạc của tôi, phá được nhạc trận của tôi, thì tôi tình nguyện tự cắt đầu dâng thành!”. Lời nguyện ấy hôm nay đã tới, thành Lạn Kha này tôi xin được dâng ngài để đền ơn đã chỉ dạy cho tôi, đầu tôi xin được nạp dưới chân Vạn Thắng Vương để xin được tạ tội trước trăm họ!
Tất cả các thuộc tướng của Đổng Thừa Trọng nghe ông nói, không một ai lại chẳng kinh hoàng, cuống cuồng chẳng biết phải làm thế nào. Hai tướng Hoa Lư ngồi ở cuối sảnh trong lòng cũng như có lửa đốt, không biết Quân sư đối phó với sự việc này như thế nào đây. Chẳng ai lại muốn một người như Đổng Thừa Trọng phải chết. Đã một Khúc Việt Thư rồi, không thể lại đến một tài hoa nữa phải tiêu vong thê thảm như thế!
Lão soái Đổng Thừa Trọng nhìn quang cảnh sảnh đường chộn rộn với các thuộc tướng lộ vẻ kinh hoàng, ông bình thản nói:
- Các tướng của ta, các ông đã nghe đủ, đã thấy đủ, việc ta làm không có gì là sai lạc cả! Thế thì không có gì phải chộn rộn. Người ta chỉ chết khi mình không biết chọn đúng cái chết, ta không chết vì ta đã biết chết! Các ông nên hiểu ra, hãy sửa soạn để đón bậc nhân thần. Hãy sống và biết làm người có ích cho trăm họ, mừng cho ta suốt cuộc đời đến tận lúc này mới thấy chân lý của cuộc sống. Các ông nên vui chứ đừng buồn để khiến cho ngày đắc đạo của ta mất đi ý nghĩa!
Đến đây, Lê Thảo mới lại lên tiếng, cất giọng thanh tao mà cực rõ ràng bảo:
- Phải, hôm nay là ngày lão thần tiên thấy được đâu là chân lý của cuộc sống, thấy được giá trị thâm viễn về nhạc của mình chan hòa trong vũ trụ bao la, chứa đầy cả trong lòng mình! Trước, lão đại soái khư khư với sai lầm mà vẫn tưởng là cao siêu, là phải. Chỉ biết nhạc của mình chứ không nghe được nhạc của trời đất, chỉ biết được vạn điệu nhạc của trăm giống người xa lạ, không nghe được nhạc huyền diệu trong lời dạy của tổ tiên mình. Bây giờ óc cũ dã nạo vất đi hết, máu cũ đã chích cho chảy hết, đón nhận được lẽ sống mới của dân tộc, thì rõ ràng là lão soái đã chết rồi. Cuộc sống mới là của dân tộc ban cho, làm sao lão soái lại bỏ đi được! Ở cuối sảnh dưới kia, hai thuộc tướng của Vạn Thắng Vương, một thương một gươm đủ để phá hủy hết những sai lầm trận mạc đường trường chiến đấu với nhau của lão soái. Như thế thì trận nhạc huyền hoặc của ngài có ở đấy vẫn không bị phá, lời nguyện xưa lập trên sai lầm vẫn còn nguyên đó, làm gì có việc ngài phải vì lời nguyền chưa ai phá ấy mà cắt đầu! Ngài đã nạo hết óc, vắt hết máu bỏ đi, thì lời nguyền xưa cũng theo dấy mà tan ra mây khói, không còn nữa! Vả chăng, lúc này ngài đã nhìn ra đại nghĩa dân tộc, đem các tướng với thành Lạn Kha dốc lòng theo về với Vạn Thắng Vương, tránh được bao nhiêu máu khỏi phải đổ, đấy là công lớn. Tôi thay vương tới đây nhận công việc làm của ngài, được quyền thay vương để nhắc ngài hãy sống vì dại nghĩa dân tộc.
Các tướng nghe Lê Thảo nói, lòng nhẹ nhõm, mừng là lão soái thế nào cũng nghe lời dâng thành mà không cắt đầu nữa. Quả nhiên, lão tướng vẫn cung kính đứng trước Quân sư, đầu hơi cúi xuống lắng nghe. Bỗng bật khóc rồi nghẹn ngào nói:
- Tôi chẳng phải là tham sống sợ chết cho nên chẳng dám tự cắt đầu. Nay nghe được những lời ngài nói mới hiểu ra rằng cắt đầu mới là lầm lẫn! Thế mới biết: “Con đại bàng già lông cánh sắp rụng, vẫn không bắt chước được tiếng kêu của con phượng hoàng dù còn đang tập chuyển cành”. Tôi xin vâng lời ngài, buộc dây dắt trâu vào cổ theo chân ngài đến lạy chào tạ tội trước Vạn Thắng Vương!
Cả sảnh đường trấn thành Lạn Kha bỗng ầm ầm với lời hô “Vạn tuế Vạn Thắng Vương!”. Các thuộc tướng của lão soái Đổng Thừa Trọng nhất loạt xin được cùng đi với lão soái đi gặp Vạn Thắng Vương.
Lão soái phát lệnh: Trống lệnh trên thành lập tức giải trận. Rồi ông nói với Lê Thảo:
- Thưa ngài, tôi chờ để đợi lệnh ngài!
Quân sư bảo Mạc Sa Cảnh xuất thành trước, báo ngay cho vương biết việc, lại dặn: “Xin Vương vào thành ngay”.
Tướng Mạc Sa Cảnh vâng lệnh nhặt gươm ra đi ngay. Lúc ấy, trong thành Lạn Kha chộn rộn với việc các tướng sửa soạn để đón chào Vạn Thắng Vương.
Đại quân Hoa Lư vào thành Bát Vạn lúc gần tối trời. Đại quân Hoa Lư vào thành Lạn Kha cùng lúc gần tối trời. Vào thành Bát Vạn, vương không vui với việc tướng trấn thành Khúc Việt thư liễu mệnh. Tới thành Lạn Kha vương cùng hết thảy các tướng kinh ngạc sửng sốt với quang cảnh: Bao nhiêu tướng trong thành ông nào cổ cũng quấn một sợi dây, theo sau một lão tướng râu tóc bạc như mây trắng trên trời. Lão tướng bỏ chiến phục, chỉ mặc áo dài, đi chân đất, cổ treo sợi dây dắt trâu bẩn thỉu. Lão tướng đến trước ngựa vương cất tiếng rõ ràng đượm phần cảm động thưa:
- Bẩm trình đại vương, Đổng Thừa Trọng là tôi, giữ thành Lạn Kha cho đến hôm nay thì hiểu ra tất cả những sai lầm của mình. Lẽ ra phải chết nhưng có lời dạy bảo của Quân sư Hoa Lư nên không dám tự tiện, nên phải tự buộc dây dắt trâu vào cổ đến trước ngựa vương chờ ngài ban lệnh trừng phạt!
Thì ra thế, hết thảy các tướng Hoa Lư thầm cảm phục con người Đổng Thừa Trọng. Vạn Thắng Vương bảo:
- Các ông đã hiểu tất cả, đấy là việc hay. Tự buộc dây dắt trâu vào cổ đợi lệnh ta, đủ thấy tâm thành. Tinh thần cao cả của bậc trí giả không chối trách nhiệm, đợi để xin lệnh. Vậy lệnh ấy là: Các ông hãy tự tháo bỏ dây, trở lại sảnh doanh, tiếp tục giữ thành, sửa sang lại việc trị an, bá tánh có người bị hàm oan thì giải oan. Người bị hại thì phải đền lại cho người ta, làm sao cho đại nghĩa cứu dân vệ quốc của ta được sáng tỏ. Đây mới là đại đạo mà các ông trước kia không nhìn ra được đấy!
Các tướng vâng lệnh, tự tay tháo bỏ dây, chất đống một chỗ, rồi lần lượt vào lạy chào vương. Việc lạy chào vừa xong, thì chúng quân trong thành bảo nhau hô vang “Vạn tuế Vạn Thắng Vương!” Tiếng hô ầm ầm lúc trời sắp tới, bay xa lọt vào tai tế tác của Sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp, đang trên đường trở lại toan cướp lại trấn thành núi Bát Vạn.
Sứ quân nghe trình cả kinh. Thế là hai trọng thành đều đã làm phản theo về với Hoa Lư. Sứ quân giận chẳng có cánh bay mau đến để chém giết cho hết những thuộc tướng phản phúc của mình! Đám đệ tử dán bùa của Sứ quân lại còn giận dữ hơn cả chủ. Người nào cũng chỉ lăm lăm đòi được đi trước, xin Sứ quân giục quân mau mau tiến tới. Sứ quân vừa buồn vừa giận, ngài nghĩ đến còn hai thành Bồ Sơn với lão tướng An Hình Buy, Bạch Bắc Sơn với Lộc Kiệt. Hai thành tuy không hệ trọng như Bát Vạn với Lạn Kha, nhưng nếu khéo dàn xếp thì với tài của hai lão tướng ở đây cũng có thể cầm cự được ít ngày. Sau đấy sẽ tính đến kế lâu dài.
Sứ quân tính không sai, nhưng mỗi việc mỗi vận số của từng người dường như đều có trời cao xếp đặt trước cả. Cho nên đại quân của Sứ quân còn đang dốc sức quay trở lại Bát Vạn, thì sau khi được tin thành Lạn Kha đã mở rộng cửa đón Vạn Thắng Vương. Các tướng của Sứ quân còn tự cho là có tội cho nên mỗi ông đều tự lấy dây buộc trâu buộc vào cổ mình đến nhận tội trước ngựa của Hoa Lư Động chúa. Sứ quân nghe trình thì tức giận bốc cao, uất khí dâng lên khiến ngài thấy hai mắt hoa hoa chẳng thấy đường, cổ họng như có bàn tay chẹn chặt không thở được. Sứ quân mặt đỏ bừng bừng lảo đảo ngã xuống, may nhờ thuộc tướng kịp đỡ. Các tướng kinh hãi, cố gọi tỉnh Sứ quân, hồi lâu ngài mở mắt ra vẻ mệt nhọc. Hai con mắt máu bốc đỏ như sắp tràn máu ra ngoài, Sứ quân thều thào:
- Tức quá! Tức quá! Ta không ngờ hai tên phản phúc ấy lại đốn mạt đến như vậy!
Các tướng còn đang bối rối, tế tác lại hấp tấp đến trình lão tướng Điền Mẫu Nghị trấn giữ phủ đường không đương cự được với đại binh Hoa Lư từ Cổ Loa kéo tới. Lão tướng đã chiến tử, phủ đường mất vào tay binh tướng Hoa Lư rồi!
Sứ quân nghe trình thì nấc lên một tiếng, lại hôn mê. Chúng tướng lại vội vàng lay gọi cứu tỉnh.
Trong chiều tối hôm ấy Sứ quân cố gắng sức lên ngựa, rồi lảo đảo không vững. Đám đệ tử dán bùa phải đi chung quanh giữ cho ngài khỏi ngã xuống, tình cảnh thật bi đát.
Đến khoảng nửa đêm, tin lại dồn dập trình tới: Binh Hoa Lư từ phủ đường đánh tới, từ Lạn Kha đánh lên, ép lão tướng An Binh Huy trấn thành Bồ Sơn vào giữa không đương cự được. Trong lúc hỗn loạn lão tướng bị thuộc hạ làm phản giết chết dâng thành cho Hoa Lư rồi.
Sứ quân nhờ đêm trời mát lạnh mới tỉnh táo được đôi chút thì lại có tin như thế, làm cho ngài thấy trong người rã rời. Bao nhiêu sức lực mạnh như thiên thần bỗng tan đi đâu mất cả. Ngựa của Sứ quân thất thểu bước đi. Các thuộc tướng trong đêm tối nhiều người thì thầm bàn khẽ với nhau việc gì bí mật, binh sĩ của Sứ quân bao nhiêu tin bất lợi đều đã nghe thấy hết. Tinh thần hoang mang sợ hãi, lấm lét nhìn nhau chẳng ai nói lời nào.
Tình cảnh Sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp như thế nào, tất cả các mặt binh của Hoa Lư đều hay biết cả. Vương phát lệnh cho tướng Lưu Cơ ở phủ đường Tiên Du phải dốc quân đuổi theo ngay Sứ quân. Lệnh cho tướng giữ thành Bát Vạn, đợi khi nào binh của Nguyễn Thủ Tiệp vào đúng phần đất canh giữ của thành thì dốc hết lực đánh vào tiền quân của Thủ Tiệp. Vương lại sai hai tướng Trịnh Tú, Lê Hoàn mang năm nghìn quân rời thành Lạn Kha gấp hướng đến thành núi Bát Vạn. Đợi khi nào tiền quân của Thủ Tiệp bị tiến đánh thì đánh vào phía bên phải binh của Sứ quân. Các mặt được lệnh, nơi nào cũng nô nức.
Đại quân của Nguyễn Thủ Tiệp lúc đi đến địa phận canh giữ của thành Bát Vạn thì trời phía Đông đã bắt đầu hơi sáng. Sứ quân mệt mỏi thiếp ngủ đi một hồi khá lâu thì tế tác lại đến trình tin. Các tướng nghe tin kinh hãi giấu không cho Sứ quân biết, nhưng Sứ quân thấy các tướng có vẻ chộn rộn thì tra hỏi. Các tướng không che đậy được hành trình: Tướng già Lộc Kiệt nghe lời dụ hàng của tướng Đổng Thừa Trọng, tự biết tình thế, nên đã tự nguyện đầu hàng Hoa Lư nốt rồi. Lần này nghe tin, Sứ quân chẳng còn thấy uất ức gì nữa, ngài bỗng thấy buồn lạ lùng. Thế là cơ nghiệp mấy mươi năm của ngài đến đây chỉ còn lại một đám binh tướng bơ vơ lạc lõng không có đường về, chẳng có nơi đến để trú thân! Bản thân Sứ quân nức tiếng kiêu hùng, vậy mà đem binh vào trận chưa thấy địch, chưa một lần giao tranh, sức đã tàn, lực đã kiệt. Tình thế xem ra chẳng còn cơ hội cứu vãn!
Đại binh được lệnh Sứ quân thôi không rẽ hướng nhắm tới trấn thành Bát Vạn nữa, mà đi quá xuống phía Nam một chút, rồi tìm đường sang hắn phía Đông sau đây sẽ vượt sông lớn an binh lập trại, tính kế lâu dài gây dựng lại cơ đồ.
Binh vâng lệnh lại lên đường, đi chưa được nửa cung đường, thì có tiếng quân reo như thác đổ ở phía trước. Tin trình với Sứ quân là: “Quân trong thành Bát Vạn đánh chặn phía trước!”. Nghe trình Sứ quân bừng bừng nổi giận, truyền các tướng nghênh chiến. Đích thân Sứ quân ra trận giết những kẻ phản phúc.
Thái độ của Sứ quân làm nức lòng tướng sĩ, các đệ tử dán bùa thiêng nhất tề hò reo, cởi bỏ áo ở trần, tay cầm dao ngắn hộ tống cho Sứ quân ra tiền quân. Sứ quân nhìn đám đệ tử trung thành dũng mãnh, ngài cũng cảm thấy sức mạnh lại bừng lên, ngài mỉm cười.
Sứ quân giơ tay ra hiệu cho các tướng cùng đám đệ tử cởi trần dán bùa im lặng, ngài muốn nói lời hiểu dụ. Đại quân vừa im lặng, Sứ quân chưa kịp lên tiếng, đã lại nghe có tiếng quân reo như thác đổ ngay sườn bên phải. Quân hấp tập trình tin: Đại binh Hoa Lư do đích thân Hoa Lư Động chúa thống lĩnh, từ trấn thành Lạn Kha đã dốc tới, tình hình nguy ngập lắm! Sứ quân nghe tin thì sững sờ. Tưởng như cả vùng trời lớn trên đầu vừa mới ụp xuống.
Đại binh của Sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp náo động, các tướng ra sức hò hét cố giữ cho quân khỏi kinh hoàng bỏ chạy. Tiếng hò hét của tướng giữ quân, của quân kinh hoàng khiếp sợ dù có ầm ĩ, cũng không bằng được tiếng reo hò dữ dội chợt bùng lên ở hậu quân! Lại có việc gì?
Quân hớt hải đến trình: Binh Hoa Lư xuất phát từ phủ đường, đang dốc lực đánh vào hậu quân của ta!
Nghe trình tin lần này, các tướng không còn đợi lệnh Sứ quân nữa. Tức thì hô quân mau mau bỏ chạy ra phía Đông. Quân đang náo loạn chỉ chực tan hàng bỏ chạy, nghe lệnh chạy ra phía Đông thì liền hò reo ào ào chạy đi, chẳng còn nghe lệnh của tướng chỉ huy nữa. Không phải là chỉ có quân nhân lúc trời còn chưa sáng, nương vào bóng tối mà bỏ chạy thoát thân. Các tướng cũng hành động như thế, cả một khoảng rộng ngổn ngang không biết cơ man nào mà kể. Áo quần khí giới binh tướng của Sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp cởi áo quăng khí giới tìm đường thoát thân để lại.
Đám đệ tử dán bùa ở trần, trong lúc hỗn loạn ra sức cản không cho binh tháo chạy. Nhiều kẻ đã bị quân đâm chết nằm ngửa bụng phơi cả bùa linh đẫm máu. Quang cảnh ấy làm cho những kẻ khác bỗng kinh hãi nghi ngờ bùa thiêng. Rồi nhìn ra thấy chung quang bỏ chạy cả thì cũng lẳng lặng bóc bùa quăng đi, lén lén trốn nốt. Sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp ngồi trên lưng chiến mã, bơ vơ giữa trận nhìn ra đám thủ hạ còn lại chẳng đến mươi người, thì bỗng Sứ quân thét lên:
- Sao chúng bay không chạy nốt đi! Quân phản phúc!
Tiếng quát của Sứ quân vừa xong thì đã nghe thấy khắp phía tiếng quân kêu réo ầm ầm:
- Nguyễn Thủ Tiệp mau đầu hàng! Bắt sống Nguyễn Thủ Tiệp!
Những tiếng hò reo ấy làm cho mấy người còn ở lại với Sứ quân bỗng nhiên kinh hoàng. Rồi có người rút gươm đâm cổ tự vẫn làm cho các người khác cũng hành động theo. Sứ quân Nguyễn Thủ Tiện nghiến răng, ngài muốn đốc nốt chút sức lực còn sót lại để chiến với binh tướng Hoa Lư một trận, nhưng tay gươm của ngài rũ xuống. Sức lực của ngài không đủ để nhấc cao thanh gươm!
Nhìn ra, binh Hoa Lư đang từ các mặt tràn đến đã trông rõ. Sứ quân lặng lẽ thu hết tàn lực ấn mạnh lưỡi gươm vào cổ. Ngài ngã vật xuống giữa đám xác các thuộc hạ trung thành vừa mới tự sát.
Tướng Hoa Lư tới trước tiên, lại vẫn là Trịnh Tú với con ngựa thần. Ông kịp thấy Sứ quân Thủ Tiệp ấn lưỡi gươm vào cổ, nhưng không kịp ra tay ngăn chặn.
Thế là, sự nghiệp của Sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp đến đây là hết.
Vạn Thắng Vương sai các tướng trông cho quân thu dọn chiến trường, lại bảo: “Nguyễn Thủ Tiệp xưng hùng một cõi, công chẳng có nhưng tốt tất không ít. Nay cố tình chống lại đại nghĩa để đến nỗi phải như thế, cũng nên xem là đáng thương. Vả chăng người chết đã là xong, hãy khoan dung tha thứ cho cả kẻ thù đã chết”. Rồi Vương sai làm tang lễ chôn cất tử tế cho Sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp, đem xác Nguyên Thủ Tiệp chôn ở chân núi Bát Vạn phía Nam, ban lệnh miễn tội cho thân nhân của Thủ Tiệp. Người đời sau bảo rằng: Uất khí của Sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp chết vẫn không tan, thường hay hiện lên có khi giúp người có khi hại người. Dân quanh vùng bảo nhau lập ngôi miếu khói hương cúng lạy, đến nay vẫn còn dấu tích.
Vạn Thắng Vương vào phủ đường Tiên Du, ở đây gần Cổ Loa là đến kinh hoa lệ văn minh, thế mà ngài đã chứng kiến biết bao cảnh khốn cùng oan ức của bá tánh. Người Tiên Du kể rằng binh tướng của Sứ quân đã tàn nhẫn, bọn đệ tử dán bùa mới thật là những tên quỷ sống. Thôi thì cách chết của người dân ở đây chẳng bút mực nào ghi hết được. Bao nhiêu là tội lỗi của Sứ quân. Các hàng tướng Tiên Du ở các nơi theo quân của vương đến đây nhân dịp này đều được thấy tận mắt, ai trước còn có đôi chút băn khoăn áy náy về hành động của mình lìa bỏ Thủ Tiệp để theo về với Hoa Lư, thì nay lại cảm thấy mình có phần tội lỗi trong những cảnh như thế này!
Vạn Thắng Vương hội chúng tướng lại. Bây giờ các tướng đông quá, ngài bảo:
- Này các ông, binh ta ra khỏi Hoa Lư, mở thế tung Bắc phạt, đến nay thì đã xong cuộc chinh Đông, dứt xong việc sáu Sứ quân. An định một phương trời giang sơn, cõi Giao Châu. Để thành Cổ Loa ta bước đi là tới, nhưng chẳng phải là ta chỉ nghĩ đến ghế vàng ở kinh đô, mà chính nạn nước mới là điều ta lao tâm khổ tứ. Binh tướng của ta phải vất vả đổ cả máu xương, Hoa Lư ta còn phải tiếp tục cuộc bình định giặc nước. Ta nghỉ binh lại đây, chấn chỉnh lại mọi việc, vững được mọi bề rồi sau sẽ lại vào thiên hạ mở cuộc chinh Tây...
Vương ra lệnh binh tướng được nghỉ ngơi, lại sai giúp đỡ dân chúng dựng lại nhà, lập lại nghiệp, đền bồi lại cho bá tánh những thiệt hại mất mát vì loạn Sứ quân. Vương không quên cái lẽ: Chiến trận vừa mới xong, thế tất không thể một sớm một chiều mà dựng lập ngay được nếp sống an bình thịnh vượng. Thế nào cũng còn những phường thừa gió lay cây, nhân buổi tranh tối tranh sáng, nắng chưa lên mà ra tay làm những điều gây họa hại cho bá tánh. Cho nên ngài một mặt cởi bỏ oan khiên cho con dân, vỗ về trăm họ, một mặt cho bố cáo nghiêm lệnh, quy định những tội lớn nhỏ nặng nhẹ theo từng việc một. Nặng thì đem chém đầu tại chợ, lóc thịt chặt tay chân ở nơi công cộng. Vương tuy sùng đạo Phật, khuyến khích bá tánh lạy Phật để định được tâm, tránh những điều ác, nhưng cũng nghiêm nhặt cấm những trò đem mê tín để lừa bịp dân lành... Nghiêm phép trị dân, vương cũng nghiêm phép trị những kẻ được trao cho quyền chăn dắt con dân. Tội nơi con dân được xem là nhẹ thì tội ấy ở nơi người chăn dắt con dân lại bị xem là thật nặng. Vì thế nghiêm lệnh tử hình của Vương tuy có nặng thật nhưng cũng nhờ thế mà mau lập được an bình. Vương sai các tướng đi các ngả, bố cáo cho các nơi cùng biết, răn đe những phường thảo khấu, những kẻ nào đã biết cải tà quy chính đều được tha cho được tự do sinh sống. Ở đâu còn tiếp tục thi hành những thủ đoạn trộm cướp thì binh tướng của vương đánh dẹp ngay. Vương bảo: “Khắp nơi phải được yên ổn đã là lẽ thường, chung quanh đế đô lại càng phải được yên ổn. Vì thế tội ở các nơi nặng một, thì tội ở càng gần đế đô càng nặng gấp mười”. Nhờ thế mà nạn giặc cướp cũng hết, cảnh an bình thịnh trị chẳng mấy chốc hiện ra ở khắp các nơi binh tướng của Vương đã đi qua. Nạn Sứ quân những nơi ấy đã hết...
Rồi một sớm bắt đầu vào hạ, vương truyền gióng trống triệu tập hết thảy các tướng. Lại cho lệnh gọi các tướng nào còn trấn ở xa cũng đều gấp về phủ đường Tiên Lữ nơi đặt đại doanh của vương, để nghe lệnh.
Vạn Thắng Vương triệu tập tướng sĩ bàn việc lớn ở phủ đường Tiên Du, làm cho cả cõi Giao Châu ồn ào. Các Sứ quân bên kia sông lớn thảy đều lo lắng, trăm họ còn ở dưới quyền sinh sát của Sứ quân thì ở đâu cũng ngày đêm ngong ngóng mong chờ tin binh tướng của vương kéo đến. Trăm họ quả quyết: Hồi đầu năm lúc mừng xuân mới, đúng vào giữa giờ Tý bước vào năm mới thấy sương mù năm sắc chợt phủ kín thành Cổ Loa. Điềm lạ ai cũng bảo là năm sau tất có minh quân xuất hiện đem dân nước ra khỏi vòng lao lung. Ở cửa Bắc thành Cổ Loa, có thuật sĩ nửa mặt trắng như trát vôi nửa mặt lại xanh lè như da con châu chuộc, ở bên mặt trắng thì mắt xanh, ở bên mặt xanh thì mắt đen biếc. Thuật sĩ không biết từ đâu đến dựng một chiếc lều cỏ ở ngay bên của thành, treo cây cờ dài màu đỏ tía viết mấy chữ “Vạn Tri Thần” rồi xem tướng cho thiên hạ. Thuật sĩ bảo: Xem tướng để tìm những ai có tướng hiền thần thì chỉ cho biết mà tìm minh chúa. Hỏi minh chúa là ai ở đâu, thuật sĩ bảo: Là người ở phương Nam lên, đi từ phía Đông tới, ngang qua như vệt sao băng, sau cùng thì từ phía Tây mà lại. Bá tính bàn nhau: Binh tướng của Hoa Lư Động chúa từ phía Đông lại, thế là ứng một phần lời nói của thuật sĩ. Cứ chờ thì thế nào cũng thấy cảnh đổi đời, lúc ấy mới được thái bình. Đại hội trăm tướng của vương họp đến ngày thứ ba, thì trong dân gian, khắp nơi lại thấy con trẻ tự nhiên hát bài đồng dao:
Mù mù mịt mịt, sáng nắng chiều mưa Hoa trắng như nước Đem đựng trong lư Vạn vạn tinh binh Lần lần cả thắng
Vương vấn mây trắng Rành rành soi tỏ Ngoài ngõ nhìn vào Có thằng nho nhỏ Chục bắt trộm gà
Lúc hát trẻ con nắm tay nhau quay vòng vòng, hát đến câu chót thì ngồi thụp cả xuống như thể cùng nhau che chở cho con gà ở giữa khỏi bị bắt mắt, rồi cười ầm lên. Bài hát với trò chơi như thế chẳng biết ý nghĩa thế nào, đứa nào bịa ra, người lớn thấy thì nghe rồi thôi, nhưng lại có nhiều người thì thầm với nhau. Bảo nhau cứ đọc kỹ bài đồng dao ấy thì thấy có việc lạ, người ở Cổ Loa vì thế ra sức đọc. Chẳng mấy chốc người lớn còn thuộc bài đồng dao ấy nhiều hơn cả trẻ con! Rồi bài hát lan ra khắp những nơi còn có Sứ quân trấn giữ.
Vương mở đại hội đến ngày thứ ba thì được báo cho hay là thành Cổ Loa có những việc như vậy trong dân gian. Vương nghe biết hỏi thì Quân sư Lê Thảo nói: “Chắc là trăm họ bịa đặt ra những việc ấy để chờ cuộc đổi đời, báo cho nhau biết tình hình nơi xa mà thôi”. Các tướng nghe Quân sư nói như vậy thì cũng chẳng để tâm, nhưng tướng Mạc Sa Cảnh với tướng Lưu Cơ thì nhìn nhau mà cười!
Hội nghị sang đến sáng ngày thứ ba thì Vương bảo:
- Này các ông, việc ta dừng quân ở đây cũng đã lâu, tạm ổn định được trị an cho cả vùng phía Đông sông lớn. Việc của ta náo động đến cả Cổ Loa là tự nhiên, tất là cũng lan đến những nơi khác ở phía Tây. Phía ấy thế nào cũng đang đợi ta, mà chính ta cũng đang đợi ngày để lại lên đường sang phía ấy. Vì vậy hôm nay các ông được nghe lệnh mới!
Chưa biết vương lại sắp ban lệnh thế nào. Chắc là lệnh mở đầu cho cuộc chinh phạt sang phía Tây. Mọi việc thế nào xin xem hồi sau sẽ rõ.
—ooOoo—