Hồi Thứ Một Trăm Lẻ Tám Sơ Hạ bàn việc chinh Tây
Giết Sứ, liên minh không thành
Sơ Hạ năm Đinh Mão (967). Vạn Thắng Vương mở đại hội triệu tập hết thảy các tướng. Sang đến ngày thứ ba thì ở Cổ Loa trẻ con tự nhiên hát bài đồng dao nghe mơ hồ không ra ý nghĩa gì, thì vương bảo các tướng:
- Này các tướng, từ khi ta đến Bố Hải Khẩu nhận ơn của ngài Trần Lãm, không nhận ghế Sứ quân thay ngài. Trở lại Hoa Lư cho đến nay, ra ngoài thiên hạ biết bao vất vả. Anh hào lần lần theo về, giang sơn dần dần thu phục. Cả phía Đông đã bình định xong, nhìn về Cổ Loa đường đi thênh thang, lên ngôi vương đế là việc không khó, nhưng được lòng người mới là khó, toàn định giang sơn mới là khó. Lòng người đã hướng về ta, trọng mà tôn là Vạn Thắng Vương, nhưng cả vùng phía Tây còn có những kẻ xưng hùng chưa thần phục. Ta về Cổ Loa ắt loạn nước đã không hết mà sẽ có cơ thêm nghiêm trọng. Vì thế ta quyết định dốc lực mở cuộc chinh Tây, trước là dẹp cho xong trọn vẹn những Sứ quân còn lại, an định toàn cõi giang sơn. Sau đấy sẽ ứng mệnh trời, thuận lòng người mà hành xử. Các tướng Hoa Lư ban đầu của ta, hay bất cứ tướng nào sau mới theo về với ta, các ông đều là thủ túc của ta. Ai cũng có trách nhiệm, ai cũng được thong thả bày tỏ ý kiến để mọi người được biết.
Các tướng bàn nhau, vượt sông chinh Tây là điều không tướng nào ngại, nhưng nên đề binh vào nơi nào trước thì các tướng chưa biết tính sao. Vương quay sang hỏi Quân sư:
- Đại kế Bắc phạt, rồi mở cuộc chinh Đông đại thành, bây giờ ta quay binh về Tây. Quân sư nghĩ ta nên tính thế nào?
Sảnh đường mênh mông, hàng trăm tướng lặng lẽ đợi nghe Quân sư nói. Quân sư đáp lời Vạn Thắng Vương:
- Bẩm trình Vương, việc ngài đến bên cửa ngõ Cổ Loa mà không bước vào, thật là cao kiến. Làm cho cả thiên hạ đều thấy rõ dại nghĩa của Hoa Lư ta, khắp nơi đang mong đợi ngày minh quân chính thức xuất hiện. Nếu Vương từ chỗ này vào Cổ Loa, thay cho nhà Ngô cũng là điều phải, nhưng cũng lại dễ gây ra nhiều khó khăn. Lớn thì là tai họa Bắc phương xuất binh lấy cớ phục hồi Ngô triều, Giao Châu đại loạn. Nhỏ thì làm cho các Sứ quân bên phía Tây có thêm cớ để kéo dài cuộc tranh hùng, làm cho trăm dân thêm khổ, sức lực của non sông thêm mòn mỏi. Nay, Vương không vội vào Cổ Loa là điều “Trên đúng ý trời, dưới toàn phục được lòng người”, trăm họ càng thêm mong đợi. Bắc phương không có cơ để xuất chinh tạo họa...
Những lời biện luận của Quân sư về lẽ tiến lui có phần nào làm cho các tướng không vui, ông nào cũng nghĩ và muốn rằng lúc này tiến về Cổ Loa là phải nhất. Sau đấy thì danh hiệu của một vị vua mang quân đi đánh dẹp nốt các Sứ quân bên kia sông là điều dễ dàng hơn. Đối với Bắc phương thì một triều đại ở Giao Châu suy tàn, một triều đại khác thay thế là một điều tự nhiên. Cũng có thể có việc Bắc phương lấy cớ để đem binh thôn tính Giao Châu, lúc ấy Giao Châu đem binh chống cự là điều cũng lại bình thường chẳng khó khăn gì.
Hội nghị có nói như thế, Quân sư bảo:
- Các tướng nói như thế, cũng có điều đúng. Tuy nhiên, việc chính trị cốt ở chỗ giữ được an cho dân. Việc binh dù mang danh nghĩa nào cũng chẳng thể không làm cho dân bị thiệt hại. Vương về Cổ Loa thay thế cho nhà Ngô, là việc làm rõ ràng các tướng đều nhận thấy chẳng có gì là khó khăn. Có khi lại còn là điều trăm họ ở đây đang mong đợi nữa. Tuy thế, ta sớm một ngày cũng vẫn không trọn vẹn được cái nghĩa “Tiếp nhận ý Trời, thuận theo lòng người trong đợi” lên ngôi chí tôn của vương. Nội bộ Giao Châu vẫn còn đầy rẫy giặc giã, lớn nhất thì là các Sứ quân. Như thế nếu Vương lên ngôi sớm thế nào cũng bị vướng tiếng “tranh giành với các Sứ quân”. Chứ không phải là bậc hào kiệt ra tay dẹp yên loạn nước, rồi thể theo lòng người mà lên ngôi trị vì. Lại nữa, việc lập một triều đại chẳng phải là việc một sớm một chiều mà hoàn tất được, nhiều khó khăn bất ngờ lại có thể xảy ra. Lúc ấy tân Vương phải chia sức vừa phải dàn xếp bên trong, vừa phải đối phó với bên ngoài. Sức bị chia thì thế nào cũng phải yếu đi, chưa biết đến bao giờ mới dẹp xong các đảng giặc lớn nhỏ! Như vậy, Giao Châu không yên, Bắc phương giả sử nhân cơ hội tràn xuống. Tân triều phải cùng một lúc đối phó với bao nhiêu khó khăn cả về chính trị lẫn quân bị. Thế thì cái lợi gần hóa ra lại là cái hại lớn quá trong mai sau chẳng xa. Ta tránh được sao không tránh!
Cả hội nghị im phăng phắc. Vạn Thắng Vương bảo:
- Từ lúc Nam Tấn Vương lui binh trở về Cổ Loa, ta đã rõ việc ta phải làm. Cho nên suốt ngần ấy năm trời ta nuôi binh dưỡng tướng, sắp đặt mọi việc để chờ hôm nay. Hôm nay ta đem binh tướng ra ngoài thiên hạ. Tuy rằng cũng có những nơi ngăn cản bước ta đi, nhưng rút cục ta đã bình định xong phần phía Đông, quay sang phía Tây để dẹp cho xong quốc loạn. Ta nghĩ cũng không phải là việc lâu la gì. Chỉ trong năm nay là phải xong! Vậy, ta không về Cổ Loa vội là vì thế, các tướng hãy vững lòng nghe lệnh ta. Tiến sang phía Tây, chiến kế của ta như thế nào, ta để Quân sư nói cho các tướng rõ.
Quân sư vâng lệnh, thong thả nói:
- Bẩm trình Vương, ở phía Tây, ta có đại doanh đã sửa soạn mọi việc từ ngay khi ta ra khỏi Hoa Lư, sang sông Bắc phạt. Cứ doanh ấy là ở Tây Phù Liệt. Nếu ta đem hết binh trở về, rồi từ doanh Phù Liệt tiến quân lần lượt đánh dẹp các nơi cũng được. Tuy nhiên, binh ta đánh lên Tây Bắc, xuất phát từ Tây Phù Liệt, thì phải dẹp xong Đỗ Cảnh Thạc ở Đỗ Động Giang. Sau đấy lần lượt là Ngô Nhật Khánh ở Hồi Hồ, Kiều Thuận ở Hồi Hồ. Phía Bắc sông Bạch Hạc là Sứ quân Nguyễn Khoan ở Tam Đái. Cuối cùng thì Kiều Công Hãn ở Phong Châu. Đường đi từ Nam lên Bắc vòng sang Tây rồi đi quá Cổ Loa thì hết. Cứ xét sức binh tướng của ta hôm nay, tướng cũng hơn trăm, binh hàng chục vạn. Sức ta là sức nhổ được núi, lấp được một góc biển, nhưng ta không nên ỷ sức mạnh ấy để phí phạm xương máu của con dân, làm mệt mỏi dân nước. Lỡ khi Bắc quân tràn xuống có phải là lúc ấy cánh tay ta đã rã rời, gươm đao thương tích của ta sứt mẻ cả rồi không?!
Bây giờ thì các tướng không còn nghĩ là phải về Cổ Loa rồi sau mới tiến đánh các Sứ quân khác. Quân sư tiếp:
- Phá các Sứ quân phía Đông, ta không lo thế liên minh của các Sứ quân ấy chống lại ta. Quay sang phía Tây, ngoài Đỗ Cảnh Thạc vốn là quan cũ của triều đình biết chiến trận, nhưng ta phá cũng lại không khó. Còn lại các Sứ quân kia ta không mấy phải lo lắng. Tuy nhiên, ở Phong Châu có tay Quân sư của Sứ quân Kiều Công Hãn là Điền Bạc ta cần phải coi chừng...
Tướng quân Đinh Liễn, trưởng tử của Vạn Thắng Vương lên tiếng:
- Ngày trước, tôi có nghe thiên hạ nói đến tên ông này. Ngày nay binh ta đi khắp nơi chẳng thấy Quân sư nói nơi nào có người đáng nể, bây giờ nói đến Điền Bạc, tất ông ta là tay giỏi! Quân sư nhân đây xin cho chúng tôi được nghe về ông ta!
Các tướng cũng cho là phải, Quân sư đáp:
- Ngay sau khi tôi bỏ Bồ Điền, rời Phong Châu về Cổ Loa. Có nghe Sứ quân Kiều Công Hãn gây hấn với Sứ quân Nguyễn Khoan, mọi việc dàn xếp là do một tay văn sĩ Quân sư của Hãn dàn xếp cả. Ông ta một mình vào giang sơn của Nguyễn Khoan gây chia rẽ lớn giữa chủ tớ của Sứ quân, thu phục hai đại tướng, một mình ra về. Tà áo văn sĩ đi giữa rừng gươm mà vẫn trở về được an toàn. Đến khi Nguyễn Khoan xuất quân rửa thù, ông ta cho binh tướng đi lại đánh trống rong thuyền lên xuống trên sông, sai trẻ con hát vài câu hát. Thế mà cũng đủ để đuổi Nguyễn Khoan phải mang quân gấp chạy về. Xem thế đủ thấy Điền Bạc là tay đáng nể!
Các tướng lao xao xin Quân sư kể rõ mọi việc Quân sư kể xong thì nói:
- Lúc này, ta tin chắc là Điền Bạc ngay từ đầu theo dõi đường đi của Hoa Lư ta, không thể Điền Bạc chẳng lo mà không nói cho Sứ quân Kiều Công Hãn biết. Điền Bạc là người trông xa nhìn rộng, thế nào cũng phải nghĩ đến thế liên minh các Sứ quân để chống lại ta.
Vượng bảo:
- Như thế, liên minh Tây bệnh có thể gây khó cho ta, nhưng ta lại nghĩ rằng: Các Sứ quân không phải là những kẻ có chí lớn, chẳng ai chịu ai, ai cũng cho mình là hơn cả. Vả lại Điền Bạc trước đã gây thù chuốc oán giữa Phong Châu với Tam Đái, sau lại làm cho Tam Đái với Hồi Hồ kết hận với nhau. Ba sứ ấy lúc này không thể liên minh được, ta được yên lòng!
Quân sư đáp:
- Bẩm, Vương tính chẳng sai. Ba sứ ấy oán hận nhau, khó liên minh được. Tuy thế, với Điền Bạc, ta cũng nên cẩn thận. Trong thế nguy có thể ông ta nói được cho các Sứ quân thấy rõ, tạm gác thù xưa, để cùng nhau liên kết chống lại ta, thì việc ta lại gặp khó khăn. Vậy, bẩm trình Vương, ngày trước Điền Bạc sai quân đánh trống, sai trẻ con hát mà phá được thiên hạ. Tại sao ngày nay ta lại không làm như thế, phá trước cho kỳ được thế liên minh của các Sứ quân. Làm cho Điền Bạc không làm sao theo gót Tô Tần ngày xưa đi lập thế hợp tung được. Làm cho các ông Sứ quân ông nào cũng chịu thúc thủ đợi ta tới, có phải hay hơn không?
Hội nghị vui vẻ, các tướng xôn xao bàn tán, rồi tướng Lê Hoàn nói:
- Bẩm trình Vương, ta chưa biết được Điền Bạc có thể đi du thuyết lập thế liên minh như thế nào. Nhưng Quân sư nghĩ là ông ta có thể hành động ra sao?
Quân sư đáp ngay:
- Điền Bạc không thể không nghĩ đến ta, Điền Bạc không thể không hiểu ta. Như thế tất nếu muốn chống lại ta thì không thể được, nhưng chủ ông ta cũng như các Sứ quân còn lại đều là những người luôn luôn tự thị, tin ở sức mình. Ỷ vào địa thế giang sơn chiếm giữ của mình, lại hay kèn cựa hiềm khích nhau, thì việc Điền Bạc có đi du thuyết là điều nhất định cực khó khăn cho ông ta. Nhưng ta cứ giả sử ông ta vào được giang sơn của các Sứ quân khác, thì cũng khó lòng thuyết phục được những con người tăm tối tự thị, lại rất hay xem thường người khác. Tuy vậy ta cũng nên góp tay vào để cho việc của Điền Bạc đã khó càng thêm khó không thể làm được!
Hội nghị xôn xao, các tướng hiểu là lại sắp có thịnh sự phá thế liên minh của các Sứ quân khác!
Vương bảo:
- Ta đến Tiên Du, ở Cổ Loa trẻ con có bài đồng dao, ta sắp sang phía Tây. Liệu Điền Bạc có lại sai đánh trống, trẻ con hát để lập thế liên minh cự lại ta không?
Hội nghị cười vang, đợi cho im lặng lại. Quân sư tiếp:
- Bẩm trình Vương, chưa biết Điền Bạc định liệu thế nào, về phần ta trước hết ta phải tách Phong Châu ra khỏi Tam Đái. Tách được thì ta không lo Điền Bạc lập được thế liên minh nữa, vì lúc ấy Tam Đái như cái xương ngang ngang cổ. Phong Châu không thể đi qua để xuống phía Nam dòng Bạch Hạc liên kết với các Sứ quân kia được. Muốn thế, lẽ ra ta xuất phát đại binh từ Tây Phù Liệt đánh lên Đỗ Động, rồi rẽ sang trái. Như thế thì các Sứ quân còn lại càng nhìn rõ thế nguy, nguy thì thấy mà không thấy đường cứu nguy được. Điền Bạc nhân đấy có thể hành động được. Vậy ta lại hành động như lúc ta tiến đánh Tế Giang với Siêu Loại. Tức là cùng tiến binh một lúc. Lần này ta vượt đường ở phía Bắc hướng sang phía Tây, qua Cung Thương chẹn giữa Phong Châu với Tam Đái, không cho Điền Bạc xuống Nam. Một mặt, ta tiến binh từ Tây Phù Liệt lên đánh Đỗ Động. Cũng ở phía nam, một phần ta chia binh lập thế “hư trận” đe dọa Đồng Lư khiến cho Hồi Hồ dù có thấy nguy cũng không dám tiếp cứu cho Đỗ Động được. Ta lấy xong Đỗ Động thì yên phía sau. Lúc ấy ta đánh Đồng Lư, sau đó thừa thế cả thắng tiến nhanh qua Hồi Hồ. Ép Hồi Hồ vượt cho được núi Mộng Thất, đoạt Tản Viên là xong phía Nam dòng Bạch Hạc!
Hội nghị lại xôn xao bàn tán thật sôi nổi, rồi Vương hỏi:
- Việc phía nam Bạch Hạc thì thế. Còn phía bắc Bạch Hạc, lấy Phong Châu với Tam Đái, dụng binh thì thế nào? Dụng kế thì thế nào?
Đây là điều hết thảy các tướng đều muốn biết. Quân sư đáp:
- Bẩm Vương, trước hết, tôi xin nói về dụng binh. Binh ta sang sông, vượt Cung Thương. Vào nơi ranh giới giữa Phong Châu với Tam Đái, làm cho cả hai nơi không biết ta đánh nơi nào. Như thế cả hai bên đều sẽ động binh đề phòng. Đánh phía Nam tức là vào Tam Đái, sau lưng ta có Phong Châu, dù rằng sức Phong Châu chẳng thể nào đương cự lại với ta được, nhưng ta cũng không nên quá khinh thường địch. Vả lại Phong Châu còn có Điền Bạc, ông ta tuy không thể nào chuyển bại thành thắng được, nhưng ta cũng không nên để cho xảy ra những việc thiệt tướng hại quân. Nếu ta không khéo thì cả hai bên đều thấy là đều bị ta đánh, lúc ấy Điền Bạc dễ đi du thuyết Tam Đái. Còn nếu dụng kế, thì Phong Châu đất không rộng, có ruộng đồng, ngày xưa là đế đô của Hai Bà họ Trưng, vì thế cũng có được những điều lễ nghĩa. Ngày nay Sứ quân Kiều Công Hãn xưng hùng cậy sức mạnh, hung ác, ít chú trọng đến trí xảo cơ mưu. Dưới trướng có một số văn võ thuộc hạ, võ đáng kể hơn cả là Thẩm Chu Bình. Sau thêm hai tướng của Tam Đái trúng kế Điền Bạc bỏ chủ về hàng Phong Châu. Còn văn thì có Điền Bạc, trong số thuộc hạ của Hãn có viên quân lương tướng tên là Trần Bảo Điền là kẻ tham tàn hay ăn cắp của công, người tầm thước, cằm hơi vẹo, mắt hay nhìn xuống ấy là tướng gian khó che giấu được. Người của Kiều Công Hãn đại để là như thế, ta có thể làm cho nội bộ của ông ta chia rẽ ganh ghét nhau. Đẩy cho Điền Bạc bó tay không thể thi hành mưu kế gì được. Sau đấy ta dụng bình là dứt được Phong Châu không khó.
Quân sư nói qua về Phong Châu, Sứ quân Kiều Công Hãn và một vài thuộc tướng của Sứ quân. Các tướng nghe nói thấy việc lấy Phong Châu chẳng có gì là khó khăn, cho nên tướng Phạm Cự Lượng lên tiếng:
- Bẩm Vương, thưa Quân sư, như thế việc đánh Phong Châu chẳng đáng ngại. Vậy tôi là tướng kém cỏi nên xin được đi trước để bắt Kiều Công Hãn?
Các tướng nhớ ngay đến việc ngày trước Phạm Cự Lượng xin mang quân ra ngoài Hoa Lư, chống nhau với binh triều của Nam Tấn Vương. Quân sư đáp:
- Đánh Phong Châu có thể cũng không khó lắm, nhưng Kiều Công Hãn cát cứ một phương trời cách Cổ Loa chỉ một rặng núi, thế mà không bị Cổ Loa tiêu diệt, nhưng Phong Châu không dám nhòm ngó Cổ Loa. Phía Nam có Nguyễn Khoan binh hùng tướng mạnh, vậy mà Phong Châu vẫn yên lòng suốt ngần ấy năm trời. Lại còn có phen chẳng cần phải đổ công binh tướng cũng làm cho Tam Đái nghiêng ngửa. Như vậy ắt Phong Châu cũng có những điều đáng để ý! Tướng quân muốn đi lấy Phong Châu, thì tất phải rõ cửa ngõ của Phong Châu trước, sau mới xét đến nhân vật Phong Châu, rồi lúc ấy mới lập được chiến kế. Tướng quân biết cửa ngõ của Phong Châu thế nào?
Phạm Cự Lượng cũng như các tướng khác, hiếm có ai biết điều Quân sư vừa mới hỏi. Tướng Đinh Liễn nói:
- Trước kia, Quân sư bỏ Bồ Điền mà đi. Đất Tam Đái với Phong Châu chính là nơi xuất tích của Quân sư. Còn có nơi nào ở đây ta chưa rõ, vậy Quân sư nói cho mọi người biết thì hay nhất!
Hội nghị cho là phải. Quân sư lần lượt kể cho nghe về địa hình suốt từ Phong Châu xuống đến tận Tam Đái, vượt sông Bạch Hạc để tới núi Tản Viên, qua núi Mộng Thất vào giang sơn Hồi Hồ của Sứ quân Kiều Thuận. Cuối cùng là Hồi Hồ của Ngô Nhật Khánh. Quân sư nói:
- Ở phía Bắc binh ta nên sang phía Tây, đi sạt phía Nam Cổ Loa, vượt phía đuôi rặng Tam Đảo vào Cung Thương phía dưới Bình Xuyên. Ở đây ta được cái lợi là trấn đường lên Đông Bắc của Tam Đái. Tuy hơi xa Phong Châu nhưng lại uy hiếp được Nguyễn Khoan, khiến cho Khoan dù có muốn nghe theo Phong Châu xuất binh cũng bị ta gây nhiều khó dễ. Qua khỏi Cung Thương, ta cho quân đi chéo lên hướng Tây Bắc, trấn binh ở đấy đợi đánh lấy Phong Châu trước, rồi sau sẽ quay binh xuống Nam. Sở dĩ đường ta đi bị hơi xa một chút, ấy là vì ta không thể cho binh đi quá gần Cổ Loa được, mà cũng không thể cho binh đi ngược lên phía Bắc Cổ Loa rồi vào vùng giữa Tam Đảo. Đường đi ấy xa quá, dễ làm cho Phong Châu thấy ngay được đường đi của ta.
Quân sư nói về đường đi hết vượt núi chỗ này, lại qua núi chỗ kia. Các tướng tuy ngồi nghe nhưng thật ra cũng chẳng mấy thấy đường đi như thế nào. Quân sư tiếp:
- Binh ta đi, sẽ có ông Mạc Sa Cảnh chỉ đường. Binh ta trấn ở đâu, các tướng sẽ được biết. Lúc này phía Đông ta không cần giữ binh nhiều làm gì, như vậy có thể dốc hết lực sang phía Tây. Ở trên, tướng quân Phạm Cự Lượng giữ cờ tiên phong đánh Phong Châu, ở phía Nam tướng Đinh Liễn lại trở về doanh Tây Phù Liệt đưa trọng binh lên uy hiếp phía Nam Đỗ Động của Cảnh Thạc. Đợi xong Đỗ Động Giang thì ta hợp binh lấy Hồi Hồ. Xong việc phía Nam dòng Bạch Hạc thì ta vượt sông đánh Tam Đái. Lúc ấy chỉ còn một mình Phong Châu bơ vơ. Đầu hàng thì sống, chống lại ta có khác gì con bọ ngựa giơ càng muốn chặn bánh xe lớn không? Nhưng đây là việc cuối cùng, còn hành động trước tất cả là: Ở Tế Giang, tướng quân Lê Hoàn mang chính binh sang sông đánh phía Đông Đỗ Động Giang, mở trận Tây chinh đầu tiên!
Nghe Quân sư định chiến kế tưởng như chỉ có binh tướng Hoa Lư hành động một mình. Chẳng thấy Quân sư nói gì đến việc các Sứ quân khác ứng chiến cự địch như thế nào! Vì thế, đến lượt tướng quân Phạm Hạp hỏi:
- Thưa Quân sư, ta tiến binh, nhất định các Sứ quân phải chống cự. Quân sư tính các Sứ quân chống lại ta như thế nào?
Quân sư nói ngay:
- Chỉ vì các Sứ quân ganh nhau, chẳng ông nào chịu ông nào, vì thế mới bị đơn độc. Dụng binh thì chắc chắn họ không hơn được ta, một vài nơi cũng có tướng tài, được lợi về địa thế, cũng làm cho ta khó khăn được. Tuy nhiên, sức ta đã mạnh, ta lại làm cho họ chẳng liên kết được với nhau, thì ta tiến binh sẽ tuần tự như cảnh “con tằm ăn lá dâu, cứ chậm chậm mà hết sạch được cả một ruộng dâu” là thế! Ta nói qua về việc phía Bắc trước, cùng ứng với những câu hát đồng dao của trẻ nhỏ ở Cổ Loa. Ta gây nghi ngờ trong nội bộ Phong Châu, làm cho Tam Đái trước đã hận Phong Châu làm hại một lần, nay lại hận Phong Châu ngầm theo ta để hại Tam Đái! Mặt Bắc ta giữ nguyên như thế, mặt Nam ta khởi binh lấy Đỗ Động trước!
Hội nghị nghe Quân sư nói qua chiến sách Tây chinh, có chỗ dùng mưu ở Phong Châu và Tam Đái, thì ai cũng muốn biết. Nhưng Quân sư bảo:
- Việc ở Phong Châu với Tam Đái, ông Mạc Sa Cảnh với ông Lưu Cơ sẽ thi hành. Bây giờ là việc ở phía Nam, tướng Lê Hoàn từ Tế Giang sang sông đánh Đỗ Động Giang của Đỗ Cảnh Thạc. Vậy, trước hết ta tính mặt này.
Lê Hoàn nói:
- Thưa Quân sư, Đỗ Cảnh Thạc trước là quan cũ của triều đình. Sau thấy triều chính suy vi bỏ đi xưng hùng một phương, ông ta nên được xem như thế nào?
Quân sư đáp:
- Hồi tôi từ Cổ Loa xuống Nam, lúc ấy có nghe tướng cũ của Ngô vương kéo theo quân bản bộ, chiêu tập thêm người ngựa rồi chiếm giữ Đỗ Động Giang. Hỏi ra thì biết tướng ấy là Đỗ Cảnh Thạc. Thạc là tướng thủy chiến, nhìn các nơi thấy không còn đất dung thân, chẳng giành được chỗ sông nước thuận lợi, chiếm Đỗ Động không lợi thế về quân sự. Cho nên ông ta lập một thủy trại thật lớn để bù lại. Đỗ Cảnh Thạc là con người thế nào thì các ông đã biết. Ngày trước ỷ tài lại thêm trúng kế của ta đem binh đánh Hồi Hồ bị đại bại, thiệt mất mấy tướng mạnh, hao nhiều quân, đây là thế công của Thạc. Còn thế thủ, Thạc lập thủy trại trên sông, tranh chấp với Hồ Hồ dòng sông lớn ở phía trên, phía dưới lại vướng Tế Giang. Cho nên Thạc có thể được lợi ở đất đai màu mỡ nhưng thiệt thòi nhiều về phía quân bị. Một thủy trại là chính doanh để gìn giữ cả một giang sơn, việc dụng binh xưa nay không ai lại làm thế, nhưng có thể dùng thủy trại ấy làm nơi trợ chiến thật tốt cho các nơi khác. Cảnh Thạc không lợi thế ở quân mã bộ, dựa vào sông nước để làm thế tạo lực. Tiến thì không vững quân mã bộ cho nên khó giành được thế, lui thì khi thủy trại bị nguy có thể dễ bị lâm cảnh như Tế Giang lúc bị quân ta phá tan thủy trại Bát Quái. Cảnh Thạc biết thế cho nên ông ta lập thủy trại nghe nói là lớn nhất Giao Châu. Rồi sau việc thủy trại Tế Giang thì Cảnh Thạc lại càng lo bồi dưỡng cho thủy trại của mình. Phá xong thủy trại của Cảnh Thạc, cũng như thể như con cua đã bị bẻ gẫy cả hai càng, con trâu bị cưa cả hai sừng. Cảnh Thạc tất cũng phải biết như thế. Vì vậy đánh thủy trại của Cảnh Thạc tất không mấy dễ!
Tướng thủy chiến Nghi Bá Tường lên tiếng:
- Bẩm Vương, thưa Quân sư, các tướng vất vả suốt bao nhiêu ngày, bao nhiêu trận. Tôi giữ quân thủy được ở yên một chỗ, bây giờ đánh thủy trại của Đỗ Động, tôi nghĩ là tôi được cầm quân đi trước mới đúng. Xin tướng quân Lê Hoàn nhường cho tôi có được không?
Quân sư bảo:
- Phải, cho dù chẳng đánh thủy trại nào, thì trong phép dụng binh giỏi người, ta vẫn thường lấy quân thủy làm binh quan trọng, vì nó thường gồm cả hai quân thủy bộ. Nay, đánh thủy trại Đỗ Động, thì không những quân thủy của ta phải vào trận, mà còn phải dùng đến quân bộ. Vì thế tướng Lê Hoàn mới là người cầm quân, sau thủy trại Đỗ Động, quân bộ còn phải tiếp tục nhiều trách nhiệm kế tiếp. Trong khi ấy quân thủy cũng lại phải sửa soạn để mở tiếp trận khác chẳng kém khó khăn nguy hiểm. Như vậy, thì tướng nào cầm quân cũng còn có các tướng khác cùng vào trận. Ông hãy mang hết quân thủy lên đánh thủy trại Đỗ Động. Tướng Lê Hoàn mang binh đi đường bộ phá hại doanh trại Xuân Cầu, Đồng Tỉnh của Thạc.
Hai soái tướng vâng lệnh, đi điểm quân. Việc Hoa Lư động binh là việc các Sứ quân còn lại luôn luôn theo dõi. Lập tức tin gửi về khẩn cấp, trình cho Sứ quân Kiều Công Hãn ở Phong Châu và Đỗ Cảnh Thạc ở Đỗ Động Giang biết.
Trước hết, nói về việc Phong Châu với Sứ quân Kiều Công Hãn. Sứ quân được tin thì hội chúng tướng văn võ lại bàn việc.
Vào hội, Sứ quân bảo:
- Này các tướng, việc ta lo nhiều ngày, nay đã đến, ấy là binh tướng Hoa Lư đang chuyển động. Từ Tiên Du quay sang phía Tây, trước hết nhắm vào ta. Ta chưa biết Hoa Lư hành động như thế nào, nhưng ta có thể dàn xếp được để đương cự với Hoa Lư. Các tướng bàn xem ta nên xuất quân ra sao?
Các tướng nghe Sứ quân nói, thì ồn ào bàn tán với nhau, tất cả đều cho là phải xem xét lại những nơi đồn quân, trấn giữ nghiêm nhặt các nơi trọng yếu. Không cho Hoa Lư có đường vào những nơi cửa ngõ của Phong Châu. Hội nghị bàn tán thật sôi nổi, nhưng rút cục chẳng quyết được gì. Suốt cả một buổi sáng nghe các tướng tranh cãi với nhau, Sứ quân Kiều Công Hãn chỉ rút ra được một điều: Đem quân cự chiến, còn cự chiến thế nào thì chẳng ai biết!
Cho đến gần lúc trời tối, Sứ quân mới quay sang hỏi các văn sĩ. Nhìn ra, thấy văn sĩ Quân sư Điền Bạc suốt từ sáng đến giờ vẫn ngồi im chẳng nói gì. Sứ quân hỏi:
- Này Điền quân, ông nghe đã đủ mọi lẽ, ý ông thế nào?
Điền Bạc bây giờ đã nhiều tuổi, tóc đã trắng nhiều, khuôn mặt tròn bây giờ đã thấy có những chỗ nhô chỗ trũng. Cặp mắt vẫn lim dim lúc này dường như càng muốn ngủ hơn nữa. Nghe Sứ quân hỏi, Điền Bạc thân vẫn chẳng động đậy. Hai tay chậm chậm sửa lại vành khăn, rồi thong thả nói:
- Trình Chúa công, các tướng của ta đều bảo là phải xuất quân, thế là đúng! Tất cả các Sứ quân ở phía Đông, đều đã dốc binh tướng chống lại Hoa Lư. Chung cuộc thì Hoa Lư đã hàng phục được Phạm Bạch Hổ, đốt chết Lữ Đường, bức tử Nguyễn Siêu, bắn chết Lý Khuê, làm cho Nguyễn Thủ Tiệp phải đâm cổ tự vẫn. Thế thì việc chống lại Hoa Lư hóa ra là tự tìm đến cái chết. Nay ta xuất quân, các đại tướng của ta đã định liệu được cách chết cho Phong Châu chưa?
Những lời nói của mưu sĩ Điền Bạc làm cho quân nghị hội Phong Châu như vừa có trận mưa nước sôi dội từ trời cao xuống. Từ Sứ quân xuống đến các tướng kinh hãi với những lời nói nghe ra chẳng êm tai chút nào của Điền Bạc. Tướng quân Đặng Nhất Hùng gay gắt hỏi:
- Ngài Điền Bạc mưu một bụng, kế một đầu, tài giỏi chẳng ai bằng. Sao ngài lại ăn nói quái gở như thế!? Ngài muốn Phong Châu ta phải chết đấy chăng?
Điền Bạc ngồi ngay như tượng Phật trong chùa. Thủng thỉnh đáp lời tướng Đặng Nhất Hùng:
- Thưa đại tướng, từ ngày Phong Châu ta cho người gõ trống, sai trẻ con hát, làm náo động cả một phương trời. Rồi đến việc Cổ Loa nhà vua mang quân chinh phạt Hoa Lư đại bại chạy về. Bao nhiêu là sự việc xảy ra, đến ngày hôm nay thì Phong Châu ta sắp bị Hoa Lư nhòm ngó. Sau Phong Châu còn những nơi nào, nơi nào thắng được Hoa Lư? Xem ra đường đi của Hoa Lư chẳng có người cản nổi. Thế thì một Phong Châu ta đơn độc chống nhau với Hoa Lư liệu có hơn được các nơi khác ở phía Đông không? Lo liệu trước, sao lại bảo là nói ra điều quái gở? Sao lại bảo là tôi rủa Phong Châu ta phải chết? Lão đại tướng nghĩ lại xem!
Lúc này, quả thật tướng Đặng Nhất Hùng đã nhiều tuổi. Sức mạnh ngày xưa chẳng còn, khí lực suy giảm khiến cho tinh thần của lão tướng cũng suy giảm. Nên nghe Điền Bạc vặn lại thì chẳng biết nói sao. Nhưng, Sứ quân Kiều Công Hãn thì hiểu ngay, ngài nói:
- Phải, Điền quân tuy có nặng lời, nhưng là để nói cho ta biết con đường phải đi. Vậy thì, Điền quân mưu sĩ đại tài của ta. Bảo ta phải làm thế nào để không đơn độc chống cự Hoa Lư? Ta liên kết với thiên hạ ra sao?
Thì ra thế, chẳng phải là Điền Bạc rủa ai. Điền Bạc muốn lập kế liên minh với nơi khác để chống lại Hoa Lư! Các tướng đã nghe ra, các ông lại thấy kính phục con người kì tài này của Phong Châu! Đại tướng Đặng Nhất Hùng nói:
- Phải, quả thật ông Điền tài giỏi hiểu biết, bọn võ biền chúng tôi mắt mở to mà chẳng nhìn ra! Ngày xưa, ông đã một phen quấy động một cõi trời, nay ông tính kế như vậy là hay lắm. Thế ta liên kết với ai, làm như thế nào?
Nghị sảnh im lặng, đợi nghe Điền Bạc nói, ông vẫn chậm rãi:
- Ngày trước, ta tự biết thế yếu, cho nên mới tính tranh hơn với Tam Đái, thành ra kết oán với Nguyễn Khoan. Ngày nay ta nhìn thấy thế của ta ắt Nguyễn Khoan cũng phải thấy thế của ông ta. Vả lại, còn có Kiều Thuận ở Hồi Hồ, Ngô Nhật Khánh ở Hồi Hồ, Đỗ Cảnh Thạc ở Đỗ Động Giang. Nếu như tất cả năm Sứ quân liên kết lại được với nhau thì chắc chắn đánh bại được Hoa Lư. Cái thế thiên hạ chia đôi có thể là giữ được. Trong lúc này, Hoa Lư sắp sang sông vượt núi hướng về Tây, nếu ta lần lượt đi du thuyết lập thể liên kết thì chậm quá. Vậy cùng một lúc ta cử bốn sứ giả lên đường mau mau cùng xuất binh thì mới kịp?
Điển Bạc chẳng nói kế ra, mọi người còn hào hứng tin tưởng, nghe rồi thì chẳng ai còn thấy hứng khởi! Phong Châu vốn ít tướng, quân không đông, ở nơi xa xôi chung quanh nhiều núi. Sứ quân Kiều Công Hãn cậy sức mạnh hung hăng cát cứ một phương cách biệt, lại được Điền Bạc giúp đỡ mấy lần dùng mưu thắng được Nguyễn Khoan, thì lại cho là mình thắng được cả thiên hạ. Cho nên vì thế tuy sau việc gây thù chuốc oán với Tam Đái, Sứ quân nghe lời Điền Bạc chiêu mộ văn võ tướng sĩ, cũng chẳng được mấy người. Lại thêm bọn võ tướng cậy tài, chủ đã khinh thường thiên hạ thì tớ lại càng khinh thường thiên hạ hơn nữa. Do đó mà người tài chẳng được mấy. Điền Bạc thường than thở với đám thủ túc rằng: “Đã trót thờ chủ, thì lo cho chủ, chứ xem ra Sứ quân Kiều Công Hãn chẳng phải là bậc hùng tài làm nên nghiệp lớn được!”. Nay, việc lớn trong thiên hạ xảy ra liên tiếp, các Sứ quân phía Đông lần lượt thay nhau tan rã chết chóc. Điền Bạc ngày đêm vắt óc nghĩ kế mà vẫn chẳng thấy được lối nào giữ cho Phong Châu đứng vững được. Điền Bạc trước cũng có mấy lần xin Sứ quân nên làm thân với các Sứ quân khác, đi lại để phòng lúc nguy. Nhưng Sứ quân lần lữa chẳng nghe lời, nay trong hội đành phải nói ra kế liên kết.
Sứ quân Kiều Công Hãn bảo:
- Như Điền quân nghĩ, thì ta cử được những ai di sứ các nơi đây?
Điền Bạc thưa:
- Bẩm trình Chúa công, trước tôi đã mạn phép Chúa công nuôi dưỡng trong nhà riêng mấy người. Nay có thể sai đi được!
Sứ quân mừng lắm, hỏi:
- Những người đó là ai, ông mau nói ra!
Điền Bạc lại lim dim cặp mắt, có vẻ suy nghĩ đôi chút rồi thẳng thỉnh đáp:
- Bẩm Chúa công, chỉ có Nguyễn Khoan thù ta, y lại hay nghi ngờ. Vậy tôi xin cử Quan Mạch Hải đi sứ thuyết Nguyễn Khoan!
- Quan Mạch Hải là người thế nào?
- Bẩm, Quan Mạch Hải dòng dõi thế gia ở Cổ Loa, lọt lòng mẹ không khóc đã biết cười. Lớn lên bốn tuổi biết đọc chữ, mười hai tuổi tứ thư ngũ kinh đều làu thông. Có thể luận về sách vở thánh hiền trong một năm liền không dứt. Y năm nay hai mươi hai tuổi chưa có vợ, là bạn thân của thuộc hạ. Có thể đảm nhiệm được việc đi sứ Tam Đái giảng cho Nguyễn Khoan biết việc!
Sứ quân mừng lắm, truyền cho người đi gọi Quan Mạch Hải ngay, rồi lại hỏi Điền Bạc về mấy người kia. Điền Bạc thưa:
- Bẩm Chúa công, trước hết xin được nói về Kiều Thuận ở Hồi Hồ. Thuận là kẻ bất tài, cực gian ác, thích đua đòi nghe bọn thuộc hạ muốn sánh mình ngang với Tần Thủy Hoàng đế ngày xưa. Cho nên xây hai thành làm cho dân cực khổ. Y lại có tính tham dâm, vợ xấu xí cho nên người phụ nữ nào có nhan sắc thì mang họa lớn. Thuộc hạ đã nghĩ trước, có thể sai Lâm Hoàng Tuyền đi Hồi Hồ được. Họ Lâm cũng là học trò ở Vũ Giang, khoác lác thì trong đời ít người sánh được. Thuộc hạ chỉ dặn y vài cách là thế nào cũng được lòng Sứ quân Kiều Thuận. Đến Sứ quân Ngô Nhật Khánh ở Hồi Hồ tuổi còn trẻ, tự nhận là dòng dõi Ngô Vương, người chẳng có chủ kiến, ưa thích gái đẹp. Cha mất sớm, có người mẹ rất giỏi hay giúp mọi việc. Bà này rất mê việc cúng tế, kính trọng quỷ thần, được tay Quân sư pháp sư của Sứ quân biết lựa chiều nịnh bợ cho nên được quý trọng. Thuộc hạ có thể sai đạo sư Thiên Tuệ Nhân đi Hồi Hồ được. Cuối cùng, là Đỗ Cảnh Thạc ở Đỗ Động Giang. Thạc là tướng cũ của triều đình, biết phép quân bộ, rất đa nghi. Kẻ đã hay nghị đến khi tin thì lại tin lắm. Vậy thuộc hạ xin được sai Củng Chuyến là người ở Vạn Ninh có tài miệng lưỡi, đi du thuyết thì có thể xong việc được!
Điền Bạc chỉ nói qua về bốn người du khách cũng đủ làm cho Sứ quân Kiều Công Hãn hài lòng. Liền cho đi mời ngay.
Bốn người của Điền Bạc tới, cả hội sảnh chăm chú nhìn xem họ là những người thế nào. Thấy cả bốn người đều còn trẻ tuổi, ông nào cũng vận áo văn sĩ. Có người tay cầm quạt tre, có người tay cầm ống quyển đựng văn thơ. Phong cách ông nào cũng ra vẻ thơ thời phiêu diêu. Sứ quân sai quân lấy ghế cho ngồi, bảo:
- Nay giang sơn của ta sắp có việc lớn, Hoa Lư cưỡng bức thiên hạ lấy cả phía Đông, lòng tham của phường không hiểu biết làm cho nó muốn quay sang phía Tây nhòm ngó giang sơn của các Sứ quân. Ta là nơi nó sợ hơn cả, cho nên muốn giở thói trộm cướp trước. Mưu sĩ của ta là Điền Bạc hiến kế lập thế “liên minh thiên hạ, liên thủ phá cường”. Trước hãy liên minh các Sứ quân lại với nhau, sau là liền tay đánh phá không cho bọn Hoa Lư bước đi được một bước nào nữa. Vì vậy mới có việc mời các người tới để nghe việc lớn?
Rồi Điền Bạc thay Sứ quân nói rõ tình thế, ý muốn của Sứ quân sai bốn ông đi du thuyết. Bốn ông đều vui vẻ nhận lời. Sứ quân sai sửa soạn lễ vật để sứ đem đi. Điền Bạc bảo là không cần, lấy lý: Chẳng lễ vật nào quý bằng lời chỉ giáo cho các Sứ quân biết rõ lẽ sống còn trong lúc này. Vì thế sứ lên đường chỉ có đại tiệc của Sứ quân mở để đưa tiễn. Tiệc kéo dài suốt một ngày trời, bao nhiêu tướng văn tướng võ của Sứ quân đều được dự cả. Phủ đường tấp nập, bá tánh ồn ào bàn tán. Chẳng mấy chốc nơi nào cũng hay biết việc lớn sắp tới. Thế là mọi sự lọt vào tai mắt của tế tác Hoa Lư, ngựa tin gấp gấp trình về đại doanh Tiên Du.
Được tin, vương lệnh cho các tướng ai lĩnh mệnh đem quân đi nơi nào phải lên đường ngay, lại dặn: “Tướng quân Lê Hoàn là người phải xuất quân đánh Đỗ Cảnh Thạc ở Đỗ Động Giang. Tướng Đinh Liễn mang binh chỉ trợ chiến lập thế hư binh không được mở trận. Tướng Phạm Cự Lượng mang binh đi Cung Thương phải tuân theo chỉ dẫn của Quân sư mà tiến thoái”.
Các tướng nhận lệnh, Lê Hoàn nói với tướng Nghi Bá Tường:
- Đỗ Cảnh Thạc lập thủy trại nức tiếng. Tôi mang quân bộ đi thì sẽ không phá được thủy trại ấy, mà lại còn làm cho nó trở thành hậu quân yểm chiến nguy hiểm gấp bội. Vậy trước hết phải nhờ ông mang thủy quân phá thủy trại của Thạc trước mới được.
Nghi Bá Tường đáp:
- Tôi xin nghe lời ông. Tuy thế thủy trại của Thạc lập ra chẳng giống với một thủy doanh nào từ trước đến nay, nên phá được cũng khó lắm. Thêm nữa, Đỗ Cảnh Thạc lập doanh cho quân tuần cả bộ lẫn thủy đi rộng ra xa, khiến ta khó lòng dò biết được bên trong thế nào. Vì thế phá thủy trại của ông ta là điều khó làm.
Hai tướng bàn mãi chưa biết phải tiến binh thế nào, liền tới hỏi kế Quân sư. Quân sư bảo:
- Phải, từ khi ta lấy Tây Phù Liệt, phá thủy doanh Bát Quái đoạt Tế Giang, thì Đỗ Cảnh Thạc càng cẩn thận hơn nữa. Ngày trước lúc xuống Nam, ta có để ý xem xét phép lập thủy trại của Thạc, hồi ấy thấy Thạc lập trại giữa dòng sông lớn, lại lập căn cứ trên bộ, hai doanh thủy bộ liên lạc với nhau thật khít khao, hai doanh yểm trợ cho nhau thật vững vàng. Sau, Thạc lại cho lập hai lớp thủy doanh nữa ở bên ngoài chính doanh. Vì thế muốn vào được giữa thủy trận của Thạc thì phải làm sao vượt được hai vòng rào bên ngoài đã. Thủy trại lập như vậy, gần trọn bề rộng mặt sông. Thuyền bè thương hồ đi lại phải từng chiếc một sát vào gần bờ, nhờ thế mà Thạc soát xét được các thuyền ấy kỹ càng lắm, không lo có ngoại địch thẩm lậu. Nhưng ta thấy, những lúc nước lớn thì việc đi lại trên sông nước còn đôi chút dễ dàng, nước xuống thì không qua lại được, ngay đến ba thủy trại của Thạc cũng thu lại chen chúc với nhau không thể động đậy được. Tình cảnh ấy, giả sử ta có cách nào dùng đến hỏa kế tất đốt cháy được hết!
Lại hỏa kế! Lê Thảo lại nói đến hỏa kế! Tức thì tướng Nghi Bá Tường reo lên:
- Phải rồi! Lại hỏa kế! Ta đợi cho khi nước rút, các thuyền trong ba thủy trại ép chặt lại với nhau thì ra tay đốt trại của Thạc!
Thế là hai tướng cho người giả làm thường dân đi lên mạn trên kiếm nhiều thuyền buôn lớn nhỏ. Trên thuyền chất nhiều hỏa liệu ở trong, ngoài che đậy bằng các vật dụng hàng ngày của dân, làm ra vẻ thuyền buôn đi lại. Đợi khi nước xuống có lệnh thì kéo xuống cố ý làm cho đường đi lại bị vướng mắc rồi ra tay. Hai tướng lại nhờ tướng Mạc Sa Cảnh cho tế tác hết sức giúp đỡ thăm dò tin tức. Quân sư lặng lẽ nghe hai tướng bàn nhau sửa soạn trận.
Quân sư khẽ giọng bảo riêng Mạc Sa Cảnh điều gì lâu lắm. Chỉ thấy Mạc Sa Cảnh lâu lâu lại gật đầu, vẻ mặt thay đổi luôn luôn.
Kể đến Sứ quân Nguyễn Khoan ở Tam Đái. Khi được tin dồn dập ở bên kia sông mang về, Sứ quân lo lắng nhiều lắm, liền triệu tập hội nghị chúng tướng văn võ để bàn việc. Vào hội, Sứ quân bảo:
- Lúc này là vào đầu mùa Hạ, binh Hoa Lư đã chiếm hết vùng phía Đông, các Sứ quân đều đã đại bại. Thế nào Hoa Lư cũng quay sang phía Tây, ta nên xếp đặt thế nào đây?
Từ ngày Tam Đái bị Phong Châu lừa gạt, mất hai đại tướng thủy bộ là Cao Duy Hưng và Lâm Huy Chung. Thì Không Trí Thiền Sư thật sự đóng cửa chùa. Thế là Tịnh Nhật Đại Tăng tha hồ lộng hành, cùng đám thuộc hạ kết hợp với đám tướng văn võ tồi tệ của Sứ quân để làm những điều bạo thiên nghịch địa. Gây ra không biết bao nhiêu oan khổ cho dân chúng. Sứ quân thì vốn tính đa nghi hiếu sát, bọn thuộc hạ ngày đêm nịnh bợ nói rót vào tai. Lại thêm nàng Hoa Lê tuy chẳng còn thanh xuân trẻ trung nữa nhưng nhan sắc vẫn còn đầy vẻ quyến rũ, chẳng để cho Sứ quân được lúc nào yên ổn trong tâm hồn. Càng khiến Sứ quân đổi tính thêm hung dữ, việc gì không phải đám thuộc hạ ton hót nói ra hay nàng Hoa Lê khuyên nhủ, thì đều nghi ngờ là gian dối toan ám hại mình. Bởi thế Tam Đái càng ngày càng xơ xác, binh ăn chẳng được no, áo mặc không đủ ấm. Nhưng các tướng thì của cải chất như núi, gấm vóc nhà nào cũng chật trong kho. Nay nghe Sứ quân hội nghị thì chúng quân nhìn nhau ngao ngán. Chẳng phải là họ chẳng biết gì về những việc ở bên Đông. Trăm họ thì ngầm mong ước binh tướng Hoa Lư mau mau kéo đến.
Khi nghe Sứ quân hỏi, thì Tịnh Nhật Đại Tăng lên tiếng trước:
- Bẩm Chúa công, giang sơn Tam Đái ta phía Đông có Tam Sơn, Cung Thương, Bình Xuyên như bức thành lớn che chở. Phía Tây Nam có dòng Bạch Hạc mênh mông chắn giữ. Ba mặt vững vàng chỉ có một phía Bắc là có Sứ quân Kiều Công Hãn có lần gây sự với ta rồi cũng phải rút về. Nay Hoa Lư có quay sang phía Tây ắt là muốn thôn tính nốt phía Tây trước khi cướp Cổ Loa. Ta tiến thì có thể thu thiên hạ, thủ thì vững vàng như thế của nước Ngô ngày xưa ở bên Tàu thời Tam Quốc. Tuy vậy, cứ xem việc Hoa Lư lần lượt phá các Sứ quân phía Đông. Sứ quân nào cũng đơn độc chống trả binh ngoài, thế là dễ cho Hoa Lư đánh dẹp. Nay, ta nên quên thù cũ, đánh tiếng liên kết với Phong Châu ở phía Bắc, phía Nam cho người xuống cầu thân với hai Sứ quân Kiều Thuận ở Hồi Hồ, Ngô Nhật Khánh ở Hồi Hồ. Cùng nhau chung sức cản Hoa Lư thì có thể thành công vững vàng giang sơn được.
Tịnh Nhật Đại Tăng vốn là tay giang hồ đại đạo, chuyên việc cướp của giết người, ở lâu với Sứ quân thì cũng biết suy nghĩ đôi chút cho nên mới khuyên Sứ quân như vậy. Nhưng, nghe Tịnh Nhật Đại Tăng bàn kế, Sứ quân tuy nghe phải tai, nhưng vẫn cứ nghi ngờ. Chẳng là vì sau ngày Phong Châu cho Điền Bạc xuống phá nát nội bộ Tam Đái, thì Tịnh Nhật Đại Tăng được thể chùa Yên Lạc đóng cửa, không còn tiếp xúc với bên ngoài. Liền cùng với đám thuộc hạ ra sức vơ vét, làm khổ dân chẳng thể nào nói cho hết được. Tệ hơn nữa Tịnh Nhật tuy khoác áo nhà tu, đầu cạo nhẵn tự xưng là Đại Tăng nhưng lại còn mê man nữ sắc hơn cả bọn thuộc hạ, đến nỗi quên cả thân phận dòm ngó đến cả nàng Hoa Lê. Hoa Lê đã chẳng mắng lại, còn tỏ vẻ đồng lòng. Thế là đôi bên mới đầu còn lén lút tư thông, sau dần dần thì ra mặt công khai khiến Sứ quân Nguyễn Khoan phiền lòng chẳng ít. Nhiều lần muốn triệt hạ bọn Tịnh Nhật, nhưng nhìn quanh thấy tay chân của y vừa nhiều vừa dữ thì còn e dè chưa biết phải làm sao. Thời ấy, tình cảnh ấy làm cho trong dân gian bỗng nhiên thấy trẻ con khắp nơi thi nhau chơi trò chơi, mới xúm nhau năm bảy đứa vừa bịt mắt vừa co chân nhảy lò cò, lần lượt mỗi đứa hát một câu:
Lửa trời bay xuống Chim thần hạ sơn Một ông chết cháy Ba ông chết vùi Một ông khấp khểnh Chân cao chân thấp
Hấp tấp chạy về Tăng cả nuôi chim Sứ chìm trong nước Chùa không gõ mõ Trăm họ xác xơ Cờ lau rũ bụi
Hát câu cuối đến đúng đứa nào thì đứa ấy phải lăn dùng giả vờ chết, cả bọn cười ầm rồi lại tiếp tục. Nghe trẻ con chơi rồi hát như thế thì Sứ quân thắc mắc nhiều lắm. Có người luận giải nói là ứng việc của Sứ quân, làm cho ngài buồn phiền nhiều lắm.
Bây giờ trong hội, nghe Tịnh Nhật trình bày ý kiến. Ngài chợt nhớ đến trò chơi với bài hát của trẻ con, thì đề quyết là thế nào Tịnh Nhật Đại Tăng cũng có gian ý âm mưu gì trong việc biến loạn này.
Sứ quân bảo:
- Đại Tăng nói như thế, liệu ta có thể liên minh với các Sứ quân khác như thế nào? Làm sao quên được thù cũ?
Tịnh Nhật chưa kịp nói, có tin trình vào: “Có sứ của Phong Châu tới”. Sứ quân nghe trình, trong lòng càng tin là việc này Tinh Nhật Đại Tăng đã biết trước. Tức là có âm mưu bí mật gì! Liền cứ cho sứ vào.
Sứ giả Phong Châu, chính là Quan Mạch Hải. Hải đã nghe chủ mình nói rõ về việc trước, hiểu rõ Nguyễn Khoan cùng nội bộ của Khoan. Nay bước chân vào nghị sảnh thì ung dung, tay trái cầm cuốn sách, tay phải cầm quạt tre, dáng dấp có vẻ thanh nhàn. Hải ngẩng cao đầu bước đi chẳng nhìn chung quanh, xem ra có vẻ khinh người. Hải đi thẳng đến chỗ Sứ quân ngồi, cúi đầu thi lễ, nói:
- Bẩm trình Sứ quân, Quan Mạch Hải tay cầm sách, tay cầm quạt. Vâng lệnh chủ là Sứ quân Kiều Tam Chế xuống Tam Đái trình về việc thiên hạ nguy tai. Luận trình về cái thế “hai cây chụm lại thành rừng” liên minh các Sứ quân phía Tây cùng chống lại Hoa Lư!
Quan Mạch Hải cố ý dùng đến chữ để thị uy anh hùng hào kiệt Tam Đái: Hai cây là hai chữ Mộc đứng cạnh nhau thành chữ Lâm là rừng!
Cung cách cùng lời nói của Quan Mạch Hải làm cho Sứ quân Nguyễn Khoan thấy khó chịu. Đám các anh hào Tam Đái chẳng ai lại không thấy ghét Hải. Sứ quân sẵng giọng:
- Sách của ông có đem mấy tờ giấy nát ấy bồi nên thành để cản giặc dược không? Quạt tre của ông liệu có phe phẩy giặc hết nóng máu hung hăng được không?
Quan Mạch Hải ung dung đáp:
- Bẩm Sứ quân, sách tôi cầm trong tay là sách vô tự, trống trơn không có chữ là để có chỗ mà chứa hết việc thế gian. Quạt tre tôi cầm trong tay tuy phe phẩy chẳng đủ mát, nhưng thừa phép để quạt đi hết ưu phiền trong lòng người! Nay, Sứ quân ngài đang phiền muộn về giặc ngoài, sao lại chẳng muốn nghe kế của thiên hạ để vững được ngoài, an được trong!
- Thế nào là vững được ngoài?
- Bẩm, Hoa Lư đem binh tướng ào ạt tràn đi như gió cuốn, đánh đâu được đấy, chỉ chưa đến nửa năm trời đã cướp xong cả phía Đông. Bây giờ sắp quay binh sang phía Tây, làm sao phía Tây vững được đây? Các Sứ quân ở phía Đông chẳng phải là những nhân vật kém tài, các tướng danh tiếng người giữ Kinh Phố, người trấn Bát Vạn, Lạn Kha. Thế mà lần lượt chịu chết cả, cái gương ấy phía Tây không trông thấy sao? Vậy, Sứ quân ở ngôi cao, cai quản trăm tướng vạn binh, ngài định lập thành, kín phên giậu như thế nào để vững được bên ngoài? Các sứ phía Đông tan nát, ấy cũng là vì người nào cũng chỉ biết nhà mình. Người nào cũng bỏ quên mất cái lẽ “hai cây đứng lại thì thành rừng rậm”. Ngày nay chủ tôi nghĩ là Sứ quân ngài cũng hiểu như thế, cho nên sai tôi xuống đây để trình ngài: Phong Châu - Tam Đái liên minh, ngoài cùng chung sức cản giặc dữ, bên trong giúp nhau ổn định mọi việc!
Những điều Quan Mạch Hải nói chẳng phải là sai, chỉ phải là ông ta tự thị, khinh thiên hạ kém cỏi, cho nên đã quên mất phép mềm mỏng của người đi sứ. Cứ thản nhiên cao giọng như bề trên tài giỏi dạy bảo kẻ dưới ngu dốt, làm cho Sứ quân Nguyễn Khoan thấy bực mình lắm. Ngài liền bảo:
- Giả sử rừng hai cây ta chặt đi một, liệu Phong Châu một mình chống được Hoa Lư, vững được thế ở ngoài chăng?
Quan Mạch Hải đáp ngay:
- Bẩm trình Sứ quân, rừng đổ thì ruộng đồng cũng tan nát. Phong Châu mất thì Tam Đái cũng chẳng còn được. Sao bằng cùng còn cùng sống, tựa vào nhau để cùng chống họa chung có hơn không?
- Dựa vào nhau, có nhớ đến ngày xưa hay không?
Quan Mạch Hải biết Sứ quân muốn đem việc xưa ra để hạch, liền đáp:
- Bẩm Sứ quân, mỗi thời một khác, lỗi xưa có thể bỏ qua được bằng thành tâm thiện ý ngày nay, vì thế chủ tôi mới tin là ngài sáng suốt nhìn thấy việc hôm nay, nhận cùng nhau liên minh chống ngoại thù!
Tịnh Nhật Đại Tăng lên tiếng:
- Phải, việc cũ nên bỏ qua, lúc này liên minh chống Hoa Lư là phải! Phong Châu định tính việc hai Sứ liên minh như thế nào?
Quan Mạch Hải đã biết rõ con người Tịnh Nhật, nghe ông ta nói thì liền thừa cơ hội tâng bốc:
- Bẩm Đại Tăng, quả nhiên nhà Phật tâm định thần an, cho nên nhìn vào bể khổ thấy ngay đâu là nguồn gốc: Sở dĩ Hoa Lư tiến là thắng, ấy là vì các nơi ở vào cái thế “cát khô rời rạc”. Nay Phong Châu - Tam Đái liên minh thì nên bàn định việc quân chung, giúp nhau ổn định việc riêng trong. Thưa Sứ quân, thưa Đại Tăng, chẳng phải Phong Châu chỉ cầu thế liên minh với một mình Tam Đái, mà sứ của Phong Châu cũng sẽ đi Hồi Hồ, Đỗ Động. Tất cả năm Sứ quân phía Tây đều cần đứng lại chung sức chống Hoa Lư. Đây là cái thế “năm cọp chống một rồng” tất thành công!
Quan Mạch Hải đối đáp chẳng nể nang Sứ quân, có ý tâng bốc Tịnh Nhật làm cho Sứ quân càng bực bội. Còn Tịnh Nhật suốt từ đầu đến lúc này đều tranh lời Sứ quân, tự ý đối đáp với Quan Mạch Hải. Làm như chính Tịnh Nhật mới là người chỉ xử mọi việc ở đây. Làm cho Sứ quân dù có nhìn thấy cái lợi của việc liên minh với các Sứ quân khác, cũng tự nhiên thấy muốn bác bỏ hẳn ý kiến của Tịnh Nhật Đại Tăng. Vì vậy Sứ quân bảo:
- Nếu bảo năm người đánh một chẳng chột thì cũng què thật đấy. Nhưng Tam Đái ta núi ngoài sông trong, giang sơn một cõi vững vàng. Có liên minh với ba sứ phía Nam cũng là điều phải, còn với Phong Châu thì lại khác. Vả chăng ngày trước Phong Châu không dưng hại ta, lại dụ dỗ mất của ta hai đại tướng, ra vào giang sơn ta tự thị như đi lại trong nhà mình. Đến nay sắp bị Hoa Lư đánh giết tự biết thế nguy, lại muốn giở trò đen tối lôi ta vào đỡ chết hộ. Hỏi như thế có phải Phong Châu xem thường ta quá hay không? Này sứ, người kiêu ngạo, tay cầm sách đi sứ bảo là sách không chữ vừa có ý khoe khoang để dành chỗ thu cả thiên hạ, vừa nhìn các anh hào của Tam Đái chẳng bằng một chữ nhất. Lại còn đem rồng với cọp ra dọa ta, làm sao ta bằng lòng cho được! Đã thế, ta cứ để cho Phong Châu một mình chống nhau với Hoa Lư, xem những mưu gian kế độc của Phong Châu hơn được Hoa Lư như thế nào? Ngươi hãy về bảo cho chủ ngươi biết như thế. Còn muốn được ta ra tay cứu giúp, thì trước hết hãy chặt đầu ba tên Điền Bạc, Cao Duy Hưng, Lâm Huy Chung đem tới đây. Như thế là chủ ngươi thật lòng ăn năn lỗi xưa, muốn chung hòa với thiên hạ. Lúc ấy ta tức thì ra quân giúp ngay!
Quan Mạch Hải kiêu ngạo, cho việc đi sứ xuống Tam Đái là việc chỉ nói ba điều là khuất phục được Sứ quân Nguyễn Khoan. Bây giờ tình hình đã chẳng có lối thoát lại còn mất cả danh tiếng, họ Quan liền đáp:
- Thưa Sứ quân, nếu quả thật ngài khăng khăng tự chủ bác bỏ kế liên minh, thì có khi đám trẻ con ngoài kia nói là đúng!
Sứ quân sằng giọng:
- Bọn trẻ con nói gì?
- Thưa Sứ quân, từ Phong Châu xuống. Khắp giang sơn Tam Đái ở đâu trẻ con cũng hát bài đồng dao, ngài có biết không?
- Có, ta có nghe nói, ngươi cho là trẻ con muốn nói điều gì?
- Thưa ngài, trẻ con không nói, người thức thời bảo trẻ con nói!
- Ngươi hay chủ ngươi bảo trẻ con nói như thế chăng?
- Nếu bảo được, thì tôi chắc chủ tôi không bảo thế...
- Vậy chủ người sẽ bảo thế nào?
Đến đây thì Quan Mạch Hải đã trót quá lời chẳng thể nói khác được nữa, đành nói cứng:
- Chủ tôi sẽ bảo trẻ con hát về việc năm cọp chống một rồng...
Sứ quân Nguyễn Khoan chặn ngang:
- Ngươi hiểu lũ trẻ con ngoài kia đang hát gì?
Tịnh Nhật Đại Tăng lên tiếng:
- Bẩm Chúa công, con trẻ chơi đùa hát nghịch không ra gì. Chúa công chẳng nên bận lòng với những điều mơ hồ ấy! Thuộc hạ xin Chúa công nên thuận theo nghị kế liên minh của Phong Châu. Cho sứ được thay Sứ quân Phong Châu bàn về liên minh Phong Châu - Tam Đái ngay!
Lời nói của Tịnh Nhật Đại Tăng như thể đã quyết định rồi, việc Sứ quân nói thuận lòng chẳng qua chỉ là cách tỏ lộ quyết định cho có lệ mà thôi. Làm cho Sứ quân chợt thấy sôi nổi trong lòng, ngài vốn đa nghi nay thì chẳng còn chút sáng suốt nào để có thể bỏ qua việc nhỏ, việc xưa, bao dung cho những lời nói không khôn khéo của Tinh Nhật. Bao nhiêu nghi ngờ lúc này đều đề quyết là đúng thật cả. Lúc này ngài phải thừa cơ hội thị uy tỏ lộ lại quyền uy cho thuộc hạ biết. Cho nên Sứ quân nghiêm giọng:
- Ta xưa nay hành xử chẳng phải là không biết suy xét, người ở đời chẳng ai trăm việc làm lại đúng cả, chẳng ai trăm việc làm đều sai cả. Lúc này cho dù ta có làm sai một việc cũng không phải là quan trọng gì. Cứ để cho việc làm cho là phải của Sứ quân Kiều Tam Chế nghĩ là đúng mà không xong, xem Phong Châu sống chết thế nào? Đám trẻ con hát nhảm nhí, mơ hồ chẳng có gì để nói là đúng thật được. Ta cứ để cho chúng hát, xem Phong Châu hay Tam Đái bị nguy với Hoa Lư nào!
Quan Mạch Hải kêu lên:
- Sứ quân, Sứ quân! Ngài chẳng nên thử để xem một điều sai hay đúng lúc này, mà phải nên nhìn ra sự thật sống còn của chính mình trước mối họa đang lại gần. Trẻ con hát ngoài đồng ruộng, chốn rừng núi giặc ngoài đang kéo đến. Sao lại có thì giờ để ngồi nhìn xem đại sự diễn ra như thế nào được! Tôi đi sứ mong được Sứ quân hiểu ra việc lớn, chứ không mong xem ngài thử việc mơ hồ! Giả sử ngài chẳng nhìn thấy việc ngoài hệ trọng, thì trong làm sao ổn định được an nguy của mình!
Sứ quân chặn ngang:
- Ngươi dọa ta chăng? Ngày xưa, Kiều Công Hãn vô lễ gian ác, sai thuộc hạ xuống lừa ta. Thù ấy ta còn nhớ như mới xảy ra ngày hôm qua. Nay nhà người lại dám tự thị tới đây ngoa ngôn, toan đem họa ngoài để dọa về an nguy bên trong của ta. Rõ ra là đã lộ chân tướng muốn một phen nữa khuấy động nội bộ Tam Đái ta, tiếp tay với giặc toan hãm hại ta. Làm sao ta bị lầm được!
Sứ quân vừa giận dữ nói tới đây, thì quân hấp tấp trình vào: “Phong Châu cho binh tướng bất thần dàn ra trấn giữ Cung Thương, chặn cửa ngõ của Tam Đái. Lại nói là đã theo về với Cổ Loa trước là đánh Tam Đái, sau cùng với Cổ Loa chống lại Hoa Lư. Tình hình nguy ngập lắm rồi!”.
Tin trình chẳng khác nào như giữa trưa trời đang nắng lớn lại có tiếng sét nổ ngang trời. Cả hội sảnh ngẩn ngơ, Quan Mạch Hải sửng sốt. Làm sao lại có việc như thế được! Hải kinh hãi rồi trấn tĩnh được ngay, vừa toan lên tiếng thì Sứ quân đã hầm hầm mắng:
- Rõ ra quân lừa đảo, toan lừa ta, án binh để bất thần liên minh với bên ngoài hại ta. Thế mà dám cả gan tới đây khoa môi múa mép. Không trị cho bây một lần thì sao tỏ được quyền uy của đại danh Thái Bình ta!
Dứt lời, chẳng để cho Quan Mạch Hải kịp phân trần. Sứ quân thét binh tướng bắt trói ngay Hải lại. Hải thấy không còn hi vọng gì nữa, cũng chẳng hiểu sao lại có việc lạ thế này. Bất quá liền kêu lên:
- Nguyễn Khoan, Nguyễn Khoan! Rõ ra là phường quê mùa ngu tối, chẳng biết nghe lời người hiền, nghi ngờ ý lành của thiên hạ. Thế nào cũng có lúc chết không nhắm được mắt!
Lúc ấy thời tiết đầu Hạ chưa oi bức lắm, thế mà Sứ quân vã mồ hôi. Ngài giận đến tím cả mặt, lập cập thét gọi quân lôi Quan Mạch Hải đi giết ngay. Quân ào vào lôi Hải đi, tất cả các tướng văn võ của Sứ quân kinh hãi ngẩn người, không biết phải làm sao? Sứ quân thấy nóng bức trong người chợt quát lên:
- Tên giặc Phong Châu răng sữa chưa rụng hết, dám đem lời hỗn xược lớn tiếng láo lếu. Ta cho mày được tắm sông cho mát!
Rồi Sứ quân truyền đóng cũi giam Quan M?