Hồi Thứ Một Trăm Mười Hai Hồi Hồ loạn, phu nhân tự sát
Phá tửu trận, Quân sư vào ải
Tế tác vào trình lão tướng Mộc Đường:
- Bẩm trình lão đại soái, binh Hoa Lư hai mặt thủy bộ tiến tới, chắc là sẽ đánh thành Đan Phượng!
Lão tướng nghe trình gương mặt sôi nổi hẳn lên, lập tức xuống lệnh: Tướng quân Đỗ Trường Tồn coi giữ thủy quân bày trận trên sông, sẵn sàng đón đánh thủy quân của Hoa Lư từ Đỗ Động kéo lên. Lão tướng lại dặn Tồn: “Trong quân của Hoa Lư có nhiều tướng thạo thủy chiến, lại có Quân sư Lê Thảo hay dụng hỏa công. Vậy phải đề phòng cẩn thận”. Về mặt bộ, lão tướng sai tướng giỏi bộ chiến là Khúc Bắc Hải, coi binh hai cửa Đông và Bắc đợi chờ quân Hoa Lư. Lão tướng dặn Khúc Bắc Hải phải xem xét lại các kho trữ liệu đánh hỏa công. Kho tên dùng cho cung thủ lúc nào cũng phải đầy, có thể hai nghìn quân bắn liên miên hai ngày trời không cạn. Bên ngoài thành, lão tướng sai Lâm Hồng Mĩ đem một nghìn quân bị ra cửa Đông nương vào Tùng Sơn và Vực Xanh để ẩn quân, lập trận “Bút Nghiên tả tự”. Núi Tòng Sơn không cao, trên đỉnh có mấy trăm cây tùng thật xanh tốt, phong cảnh đẹp như trong tranh. Nhưng dùng vào việc quân lại lợi hại ở chỗ lên xuống hay ẩn nấp đều tốt. Còn Vực Xanh có người ước vực rộng khoảng hai chục mẫu, nước sâu không biết đâu là đáy, dưới có cây xanh nên gọi tên ấy. Tương truyền phía Tây Nam xưa có miếu thờ, nhiều kì hoa dị thảo thành một rừng nhỏ. Phía Tây rừng có chợ, phía Đông chợ có chùa. Lại kể rằng con gái thầy chùa dệt cửi, ngày nọ chỗ đất ở dưới ngay con quạ để đạp chân lên mà dệt ấy, bỗng nhiên sụp hãm xuống. Trong khoảnh khắc thành giếng, người con gái thất kinh la chạy ra rừng rồi ngó trở lại thì chỗ ở và chỗ chợ đã thành vực sâu. Ngày sau trồi lên tượng đá, có chữ: “Linh uyên thủy tộc nhập Hải Long Vương” có nghĩa thủy tộc ở vực Linh vào cung Hải Long Vương. Sau người ta đến chỗ bệ để tượng thì không thấy tượng ấy nữa, nhưng nơi ấy cầu mưa thì được linh ứng [→20] . Mộc Đường sai đem quân ra đây lập trận “bút nghiên viết chữ” là muốn hai mặt một thấp, một cao hỗ trợ cho nhau, “Dìm địch xuống vực, treo cổ lên cao”. Chưa biết lão tướng sẽ cho trận chuyển biến thế nào. Chỉ biết tướng Lâm Hồng Mĩ theo lời chỉ bảo của lão soái dàn quân xong, đích thân Lâm Hồng Mĩ một mình một ngựa đi lại trong trận, mà Mĩ cũng không làm sao nhận ra được binh mã của mình ẩn trấn ở những nơi nào!
Mộc Đường cho lệnh các tướng lập trận xong, lập tức cho tế tác chạy ngựa về phủ đường để trình Sứ quân rõ mọi việc. Lại nhắc lại: “... Sẽ cùng các tướng đốc hết sức chặn cho binh tướng Hoa Lư không thể vượt được, để cho ý giảng hòa của Sứ quân với Hoa Lư được dễ dàng có lợi hơn”.
Sứ quân Ngô Nhật Khánh từ sau ngày mở đại hội. Cử sứ đi Hoa Lư nghị hòa, về còn đang bàn cãi suốt mấy ngày trời, thì đã được tin trình của Mộc Đường. Chưa biết mai này chiến trận sẽ ra sao, Sứ quân lo lắng lắm. Sứ quân lo lắng thì văn sĩ Trường Kì cũng lo lắng không kém. Ông nỗ lực bí mật gặp gỡ Cao Xuân Ngọc Lệ, thúc giục con gái phải gấp sửa soạn. Đợi khi chiến trận xảy ra ở hai ải Đồng Lư và Đan Phượng, thì ra tay đầu độc Sứ quân. Lúc ấy Trường Kì sẽ dàn xếp để đưa Hồi Hồ về hàng Hoa Lư chiếm công mưu lợi.
Cao Xuân Ngọc Lệ nhan sắc đã hơn đời, tâm hồn lại tinh khiết. Ngay từ đầu khi nghe cha ngỏ ước muốn thì nàng kinh hãi. Nhiều lần van nài cha đừng nên tin vào những lời vu vơ của thuật sĩ ngày trước, mà cứ tưởng là những việc hoang đường là sự thật. Rồi ra lỡ việc thì vừa thiệt thân lại vừa mang tiếng để đời. Trường Kì không nghe, khăng khăng với ý định của mình, lại đòi Ngọc Lệ phải hành động đúng như mưu kế của mình hoặc là ông ta sẽ tự sát. Ngọc Lệ trước khổ sở với thôi thúc của Trường Kì. Cho là dần dần cha nàng sẽ tỉnh ngộ mà từ bỏ những ý định điên rồ, đến bây giờ thì nàng thấy không còn hi vọng gì nữa. Ngọc Lệ không thể làm được việc giết chồng, giết chủ, cũng lại không thể nhìn cha mình tự sát. Nàng âm thầm đau khổ, mặt hoa ủ rũ, khiến Sứ quân nhiều lần gạn hỏi. Nàng chỉ một mực nói là “lo lắng về việc an nguy của Sứ quân”. Làm cho Sứ quân càng cảm kích thương yêu.
Cho đến khi tin của Mộc Đường ở Đan Phượng trình về Sứ quân nói là binh Hoa Lư sắp hai mặt đánh thành. Lão tướng lại nhắc lời thề quyết, thì Trường Kì quyết liệt thúc giục Ngọc Lệ phải ra tay đúng khi nào Hoa Lư khai trận.
Cả phủ đường Hồi Hồ sôi nổi với những tin từ thành Đan Phượng liên miên gửi về, binh tướng Hoa Lư theo hai ngả thủy bộ vây hãm Đan Phượng thật khít khao. Không vội vàng nhưng dường như cố ý phô trương thanh thế, đợi chờ một việc gì! Phủ đường không ngừng hội nghị, Sứ quân cùng chúng thuộc tướng gần như lúc nào cũng ngồi ở nghị sảnh. Mẹ Sứ quân thì buổi sáng mới đến nghị sảnh. Buổi chiều bà ở lại tư thất, nhưng vẫn tiếp đón các tướng đến trình việc, hoặc đến để bà hỏi về một đôi điều còn thắc mắc.
Hôm ấy, lúc tinh mơ trời chưa sáng tỏ, thời tiết đã oi nồng của ngày Tiểu Thử (nắng oi), đầu tháng Sáu Đinh Mão (967). Cả phủ đường còn thật tĩnh lặng. Từ Sứ quân xuống đến các tướng văn tướng võ, suốt đêm rồi hội nghị đến cuối giờ Sửu mới đi nghỉ. Giấc ngủ đang nặng nề khó chịu với khí trời oi bức, thì đã nghe thấy trống hiệu đập gấp rút, báo cho phủ đường biết có tin cực hệ trọng!
Sứ quân bật dậy, các tướng dù còn mệt mỏi hay đang say ngủ cũng bật cả dậy. Tin gì mà tế tác phải dập trống khủng khiếp như vậy?
Sứ quân lật đật khoác áo, các tướng cũng vội vàng, chỉ trong một thoáng là nghị sảnh đường đã tề tựu chẳng thiếu một tướng nào.
Sứ quân quên cả sai quân đốt hương đốt trầm, quên cả hành lễ tế cáo trời đất, kể lời tiên hiền trước khi hội nghị như lệ thường, ngài hỏi vội:
- Tin gì gấp trình? Cho vào ngay!
Lệnh truyền ra, cả nghị sảnh ngái ngủ và im lặng lạ lùng.
Tế tác lật đật theo chân tướng nội quản bước vào sảnh đường. Tế tác quỳ ngay xuống kêu lớn:
- Bẩm trình Chúa công, binh tướng Hoa Lư đã lấy xong trấn ải Đồng Lư!
Ôi chao, có lẽ tiếng sét nổ ngay trên đầu nghe cũng không dữ dội bằng mấy tiếng trình này của tế tác! Suốt từ đầu đến giờ, chỉ thuần những tin nói là Hoa Lư dốc đại quân hai mặt thủy bộ đánh Đan Phượng. Hoàn toàn chẳng có một tin nào về ải Đồng Lư. Vậy tại sao chỉ trong có vài ngày tự nhiên ải này lại mất dễ dàng như thế! Sao trước đấy tướng gia trấn ải là Mạc Cương Hồng chẳng có tin gì? Ông không hay biết chút nào về mọi cử động của binh tướng Hoa Lư chăng? Và binh tướng Hoa Lư đã lấy ải Đồng Lư như thế nào? Lúc này lão soái còn hay mất?... Bao nhiêu là câu hỏi, cả nghị sảnh lặng đi dường như ai cũng chẳng còn thần trí.
Đúng lúc ấy, phu nhân mẹ Sứ quân tới, bà đã nghe thấy tiếng trống báo tin. Suốt mấy ngày nay bà lo lắng, có khi còn hơn cả Sứ quân lo lắng. Bao nhiêu tin tức ở Đan Phượng trình về bà đều biết cả, và cũng như mọi người bà hồi hộp đợi chờ binh Hoa Lư mở trận đánh thành. Việc ấy đã tới, và bất lợi đã tới với tướng quân Mộc Đường rồi chăng? Cho nên mới có trống hiệu trình tin khẩn cấp như thế! Phu nhân vội sai thị nữ sửa soạn, bà lên kiệu tới nghị sảnh ngay.
Đến khi biết việc, phu nhân mẹ Sứ quân sửng sốt. Bà hỏi lại lần nữa trong khi cả nghị sảnh vẫn lặng đi, bà liền bảo:
- Sứ quân, các tướng, như vậy là đã rõ. Trấn ải Đồng Lư xưa nay vẫn tin là binh ngoài chẳng bao giờ qua được, nay chỉ mấy ngày, chẳng có động tĩnh gì thì đã có tin là trấn ải ấy đã mất! Mất Đồng Lư, thì binh ngoài coi như đã vào tới phủ đường ta rồi. Thành Đan Phượng có làm được gì nữa hay không? Sứ quân mau mau ban lệnh ra cho tướng quân Mộc Đường không được cự chiến. Phải lập tức bãi binh, tuân lệnh trở về phủ đường ngay! Sứ quân đừng để chậm trễ, khó lòng cầu hòa được nữa!
Trời vừa sáng rõ mặt người, tế tác mang lệnh của Sứ quân lên Đan Phượng ầm ầm ra đi. Tế tác ở Đồng Lư ầm ầm kéo về, tin trình như nước lũ tràn khiến Sứ quân hoang mang chẳng còn biết đường lối nào mà lần nữa. Ngài như người mất hồn cứ ngồi im trên ghế, mặt đã trắng lúc này càng trắng bệch. Cả Hồi Hồ đã hay biết tin Đồng Lư, các tướng như đàn gà con lạc mẹ rối rít lăng xăng bàn nhau, đợi lệnh Sứ quân.
Trường Kì Cao Xuân Minh Phúc ngay khi được biết tin Đồng Lư thì lên đến gặp con gái. Ông quyết liệt buộc nàng phải ra tay ngay, đây là lúc cơ hội một đời người không có lần thứ hai. Ông dặn: “Khi dặn Sứ quân về là phải ra tay ngay...” rồi Trường Kì lại tới nghị sảnh. Khi nghe phu nhân mẹ Sứ quân bảo cho người ra Đan Phượng gấp, thì Trường Ki lên tiếng:
- Bẩm Chúa công, tình hình gấp rút, lệnh đã đi rồi. Xin Chúa công bảo trọng. Hãy trở về nghỉ cho tĩnh trí rồi sẽ xem xét việc sau!
Giọng nói lạnh như băng của Trường Kì lúc này nghe có phần bớt lạnh. Sứ quân nghe văn sĩ nói chưa kịp đứng lên, thì bên ngoài trống hiệu lại giục dữ dội. Sứ quân run rẩy, ngài hỏi:
- Tin gì!?
Tướng Bùi Nhật Hướng từ lúc nghe tin Đồng Lư thì vội vã trở lại quân doanh, điều động bình tướng trông giữ các mặt phòng hỗn loạn. Tướng quân đang cùng quân hầu đi xem xét các nơi, thì quân canh sứ phủ hấp tấp tìm đến trình:
- Bẩm trình tướng quân, có biển lớn rồi!...
Bùi Nhật Hướng thét lên:
- Tin gì?
Quân lập cập:
- Bẩm, phu nhân Chúa công đã tự sát!
Tướng quân Bùi Nhật Hướng kinh hoàng, ông có can dự vào cái chết này! Ông thấy rùng mình, như thế là âm mưu của Cao Xuân Minh Phúc đã bị lộ rồi phải không? Tướng quân Bùi Nhật Hướng chết lặng hồi lâu, ông cứ sững người trên lưng ngựa. Đám quân hầu lao xao. Rồi tướng quân như chợt tỉnh, giục ngựa như mê hoảng chạy về phủ đường. Tướng quân tung cương, xuống ngựa chạy như mê hoảng vào sảnh đường, vừa chạy tướng quân vừa kêu lớn lên:
- Chúa công, Chúa công! Tai họa rồi! Tai họa rồi!
Tiếng kêu của tướng Tổng quản làm cho quân chưa kịp trình lên Sứ quân, chẳng khác nào như có trận bão không biết từ đâu ập xuống. Mọi người bây giờ rất dễ dàng kinh hoàng với bất cứ tin trình hay tiếng động gì khác thường. Sứ quân đứng bật dậy, phu nhân mẹ Sứ quân cũng bỏ cả ghế bước tới. Tướng Bùi Nhật Hướng mặt tái mét, lắp bắp:
- Chúa công, phu nhân tự sát rồi!
Bây giờ thì cả nghị sảnh im phăng phắc. Chẳng ai còn đủ sức mạnh tinh thần để cảm biết được nỗi kinh hoàng đang dồn dập tràn đến. Đủ mọi biến động, đầy những tin dữ.
Trường Kì Cao Xuân Minh Phúc chợt thấy ruột gan như vừa bị đốt cháy. Gương mặt lạnh như băng của ông bừng lên đỏ gắt rồi lại chuyển ngay sang nhợt nhạt. Trường Ki đứng lên vẫn giọng như băng giá bảo:
- Chúa công, Chúa công giết con gái tôi rồi!
Cùng với tiếng kêu băng giá của Trường Kì, lại nghe rầm rập nhiều chân người hấp tấp chạy vào. Nghị sảnh náo động chẳng còn trật tự nghi lễ gì. Rồi mấy tế tác chẳng báo trước xông vào kêu to lên:
- Bẩm Chúa công, quân Hoa Lư trấn giữ Bắc phủ đường. Tế tác không thể lên Bắc đưa lệnh cho tướng trấn Đan Phượng được nữa rồi!
Thế là phủ đường Hồi Hồ bơ vơ ngoài không còn phên giậu che chắn, trong thì đang bối rối hỗn loạn. Sứ quân như gà con gặp diều hâu lớn đang lượn trên cao sắp nhào xuống bắt đi. Ngài luống cuống toan bước ra thì Trường Kì Cao Xuân Minh Phúc kêu lớn lên:
- Ngô Nhật Khánh bất tài, chẳng tự lượng sức muốn phí xương máu của binh tướng. Bất lực không sai khiến được thuộc hạ đến nỗi làm cho Hoa Lư giận dữ, chẳng chịu nhận hòa giải, lại còn tàn ác giết cả con gái ta. Các tướng mau mau tru diệt họ Ngô để kịp dàn xếp với Hoa Lư!
Trường Ki bước tới, theo sau Trường Kì là các tướng đồng mưu phản là Phan Phòng Lục chức biên tế sứ, Đào Trung Khải bộ tướng, Cao Bằng Cơ bộ tướng, Phương Nhật Trình tướng giữ việc tuyển binh của phủ đường. Tướng Trình thầm yêu trộm nhớ Ngọc Lệ con gái Trường kì. Mấy lần Trình ngỏ lời đều bị Ngọc Lệ cự tuyệt thì nổi điên cuồng càng âm ỉ. Cho là chỉ vì Sứ quân nên y mới không kề cận được với Ngọc Lệ. Nay trong hội đang lúc hỗn loạn, nghe Trường Kì kêu gọi các tướng ra tay mau mau thí Sứ quân để kịp đầu hàng Hoa Lư, thì mấy tướng hưởng ứng ngay.
Phương Nhật Tình mình cao như cây lớn, sức vóc mạnh như trâu rừng, mặt đẹp nhưng cặp mắt hay đảo lộn thành ra lộ vẻ gian giảo, phản phúc. Trình giỏi xử gươm dài. Lúc này Phương Nhật Trình xăm xăm bước tới, gươm chực kích ra. Sứ quân mặt tái mét run lập cập chẳng nói lên lời cứ đứng im một chỗ. Tình cảnh ấy chợt làm cho tướng Tổng quản như tỉnh giấc mê, ông thét lớn:
- Không được vô lễ!
Cùng với tiếng thét của tướng Tổng quản, thanh gươm trong tay tướng Phương Nhật Trình phóng đi. Tướng Trình chưa kịp bước đến sát Sứ quân, gấp quá liền phóng gươm đi toan đoạt mạng Sứ quân.
Tướng Bùi Nhật Hướng tuy có xiêu lòng trước những lôi kéo xúi giục của Trường Kì. Nay trong tình cảnh này tự nhiên thiên tính trung thành, cẩn trọng, tâm hồn ngay thẳng của người làm tướng chân chính bừng dậy. Tướng quân hành động như tự nhiên. Gươm của Phương Nhật Trình vừa phóng đi thì tướng quân thấy ngay, tay gươm của tướng tổng quản thật lợi hại nhưng cũng chỉ kịp đẩy đường kiếm bay chệch đi. Nhờ thế Sứ quân thoát bị mũi gươm phóng trúng giữa ngực. Hai gươm chạm nhau nghe “choang” một tiếng quá gần thì mũi gươm đã đâm ngập vào vai trái Sứ quân. Ngài kêu lên một tiếng ngã vật xuống. Nghị sảnh thật hỗn loạn, tướng Bùi Nhật Hướng vận hết sức vào tay gươm, đường gươm đi như tia chớp thì đã thấy máu vọt tung toé. Đầu tướng Phương Nhật Trình bay đi rồi lăn lông lốc trên sàn nhà!
Phu nhân mẹ Sứ quân mặt nhợt nhạt, chưa bao giờ bà lại thấy quang cảnh ghê gớm như thế này. Phu nhân run bần bật. Các tướng xúm lại đỡ Sứ quân, không ai còn nghĩ đến việc gì khác hơn là cuống cuồng chung quanh Sứ quân. Tất cả không nghe thấy bên ngoài đang có những tiếng động rầm rầm của vó ngựa, chân người, rồi có tiếng quát lớn:
- Sứ quân Ngô Nhật Khánh. Có tướng Hoa Lư là Trịnh Tú, vâng lệnh Vạn Thắng Vương đến nhận đầu hàng của ông đây!
Chưa bao giờ trong đời Sứ quân, mẹ Sứ quân, các tướng thuộc hạ của Sứ quân, lại nghe thấy tiếng nói có ý nghĩa kinh hoàng đến như vậy!
Cũng vừa lúc ấy, lại nghe có tiếng người ngã xuống. Trường Kì Cao Xuân Minh Phúc trong tình thế tuyệt vọng đủ đường, không chần chừ rút ngay con dao ngắn giấu trong áo toan để tiếp tay với các tướng phản loạn trong lúc thí bỏ Sứ quân. Ông dùng con dao ấy thẳng tay đâm vào giữa cổ! Nỗi kinh hoàng bây giờ không còn có thể nói là thế nào được nữa!
Tướng quân Trịnh Tú trong một thoáng nhìn quang cảnh, ông thét lớn:
- Tất cả im lặng, xáo trộn làm mất trật tự là tội chết!
Thanh gươm báu trong tay Trịnh Tú giơ ra, ông bước tới khi thấy Sứ quân còn ngồi bệt trên mặt đất, thanh gươm còn cắm trên vai. Một nửa áo Sứ quân đẫm máu, thì Trịnh Tú cài gươm bước tới, một tay rút mạnh thanh gươm, một tay chặn ngay vết thương không cho máu chảy ra. Ông thét các tướng mau mau buộc vết thương, cầm máu cho Sứ quân Ngô Nhật Khánh như cái xác không hồn, để mặc cho mọi người muốn làm gì thì làm.
Trịnh Tú thấy phu nhân đang run bần bật đứng gần, ông không hiểu người đàn bà này là ai. Bỗng nhớ ra lời mọi người vẫn nói về mẹ của Sứ quân, thì tướng quân cho rằng đây chính là người đàn bà diễm lệ ấy. Ông nghiêm trang:
- Thưa phu nhân, xin phu nhân yên lòng. Vạn Thắng Vương có dặn tôi gửi lời kính thăm phu nhân?
Phu nhân bây giờ đã trấn tĩnh, thái độ cùng hành động của tướng Hoa Lư này làm cho bà, cũng như hết thảy các tướng Hồi Hồ cảm thấy yên lòng. Thế là mọi việc đã kết thúc, từ đây tất cả đã đổi khác. Không biết ngày mai sẽ ra sao?
Phu nhân giữ cho giọng vững vàng, bà đường bệ nói:
- Tướng quân, tôi xin thay cho Sứ quân con tôi vâng lệnh Hoa Lư động chủ. Truyền các nơi các tướng ngưng việc quân binh. Từ đây, phủ đường Hồi Hồ này do quyền tướng quân chỉ xử!
Tướng Trịnh Tú giọng kính cẩn, nhưng vẫn đầy đủ phong khí của tướng đầu tiên nhận sự đầu hàng của đối phương, ông đáp:
- Thưa phu nhân, tôi vâng lệnh Vạn Thắng Vương nhận lòng thành của Hồi Hồ định việc quân binh, bãi chiến. Vương có dặn tôi để Sứ quân được tự do chỉ xử mọi việc Hồi Hồ. Vậy xin phu nhân nhận lệnh ấy của Vạn Thắng Vương!
Tướng quân Trịnh Tú nói trong lúc cả sảnh đường cực kì im lặng, hết thảy các tướng văn võ của Hồi Hồ không một ai dám cử động mạnh. Bao nhiêu sức lực lắng lại hết, để chú ý đến mọi hành động cùng những lời nói của tướng Hoa Lư. Những hành động hay lời nói có thể là chết mà cũng có thể là sống cho mỗi người, cho tất cả mọi người ở Hối Hồ. Cho nên khi nghe Trịnh Tú nói như thế thì hết thảy các tướng bật hô to:
- Vạn tuế Vạn Thắng Vương! Vạn tuế Vạn Thắng Vương!
Tiếng hô của các tướng trong sảnh đường dội ra bên ngoài. Chúng binh tướng Hoa Lư vây quanh phủ đường đã nghe rõ. Tức thì chúng binh tướng Hoa Lư cũng nhất tề hô vang “Vạn tuế Vạn Thắng Vương! Vạn tuế Vạn Thắng Vương!”.
Trong nghị sảnh, Sứ quân Ngô Nhật Khánh áo đẫm máu, nhưng vết thương đã được buộc lại. Ngài ngồi trong ghế đăng tâm thảo, lòng đã bình tĩnh lại. Phu nhân mẹ Sứ quân bây giờ thần sắc tuy chẳng được rực rỡ, nhưng đã lấy lại được vẻ kiêu sa cao quý.
Tướng quân Trịnh Tú hướng về phía các tướng Hồi Hồ, ông nói:
- Thưa các ông, các ông đã tự thân chứng kiến mọi việc ở nơi này. Hoa Lư vào thiên hạ không cầu chém giết, chỉ mong cùng trăm họ hành động. Trước là cứu muôn dân khỏi vòng nước lửa lầm than. Sau là để kịp gom góp sức lực, trí tài, để đối phó với họa Bắc phương. Cho nên Hoa Lư đi là tới, chiến là thắng, nhưng nếu xét thấy không cần chiến mà vẫn thắng thì Hoa Lư chọn lối hành động ấy. Nhiều lần Hoa Lư đã làm như thế, với Đồng Lư trấn ải một lần nữa Hoa Lư lại chứng tỏ việc làm của mình. Tôi tới nơi này đủ để các ông thấy là việc cầm gươm lên ngựa của các ông xét ra không cần đến nữa, mà cũng không thể làm như thế được! Ở đâu, người nào không thể hiểu ra, cứ nhất định tăm tối, khư khư với lầm lẫn của mình, quyết cầm gươm, thì lúc ấy Hoa Lư mới bất đắc dĩ phải xuống tay trừng trị. Tuy thế, người làm tướng không thể mơ hồ với việc của mình, lại càng không thể mơ hồ với việc của đối phương. Thành ra vì thế tôi xin nói vắn tắt để các ông được biết: Trấn ải Đồng Lư với lão tướng Mạc Cương Hồng phía trước bày trận chữ Tửu, phía sau đàn xếp trận đá. Cả hai trận đều ác liệt, đã làm mất nhiều xương máu của người Giao Châu ta. Vì thế Quân sư Hoa Lư vâng lệnh Vạn Thắng Vương đã phá bỏ hai nghiệt trận ấy của Mạc Cương Hồng, ngồi trên đỉnh cao cùng uống rượu nghe đá đổ sau núi. Từ đây Đồng Lư không còn là nơi oan nghiệt nữa. Chắc chẳng mấy chốc nữa thế nào Vạn Thắng Vương cũng sẽ tới đây. Lúc ấy lão tướng Mạc Cương Hồng cũng cùng theo về để trình mệnh Sứ quân, nói rõ mọi việc! Còn lúc này, phía Bắc là trấn thành Đan Phượng, tôi chắc cũng đã xong. Nhưng đây là trách nhiệm của tướng khác đi nhận việc lão tướng Mộc Đường giao thành, tôi không dám nói đến! Các ông hãy hết lòng giúp Sứ quân chấn chỉnh lại việc trị an vỗ về trăm họ, đợi chờ Vạn Thắng Vương tới!
Những lời nói của tướng Trịnh Tú đã đủ để các tướng hiểu tình thế và biết lúc này phải làm gì, nhưng những li kì của việc Hoa Lư thu phục trấn ải Đồng Lư như thế nào thì chưa ai biết. Ai cũng nôn nao muốn được nghe biết nhưng không dám nói ra. Mẹ Sứ quân lúc này đã hoàn toàn bình tĩnh, sắc mặt đã tươi tỉnh vì thế lại rạng rỡ. Giọng bà êm mà có uy lực như lệnh cho tướng Trịnh Tú mà rằng:
- Hay lắm, may mà Sứ quân tôi sớm hiểu ra đã cho sứ đi cầu hòa với Hoa Lư, lại được Vương khoan hồng chấp thuận. Chỉ vì hai tướng giữ Đồng Lư với Đan Phượng còn muốn thị tài, cho nên việc giao hòa mới bị trắc trở đôi chút, nay cũng đã xong! Tuy vậy, như tướng quân vừa nói: “Người làm tướng không thể mơ hồ với việc làm của mình, lại càng không thể mơ hồ với việc làm của đối phương được”. Vậy tướng quân có thể nào gỡ ra cho Sứ quân tôi nỗi mơ hồ của Sứ quân, trước những hành động không thể lường biết được của Hoa Lư, trong dàn xếp lấy Đồng Lư, Đan Phượng, vào phủ đường này được không?
Quả là những lời lẽ của bậc nữ nhi cân quốc. Trịnh Tú thầm kính phục trong lòng, ông vui vẻ đáp:
- Thưa phu nhân, tôi vâng lệnh mang binh vượt dòng Sinh Khuyết lên trấn phía Bắc phủ đường. Cắt đường đi lại giữa phủ đường với trấn thành Đan Phượng. Không để một tế tác nào của Hồi Hồ đi qua được. Đến khi được lệnh đem quân về phủ đường thì tôi thi hành lệnh ấy, chứ không theo quân lấy Đồng Lư hay Đan Phượng. Cho nên không được biết về việc các nơi ấy. Tôi chỉ được tế tác đưa tin và lệnh của Vạn Thắng Vương, cho biết tình hình và phải hành động như thế nào mà thôi!
Quả thật có thế! Tướng Trịnh Tú tuy được tế tác đưa tin đều đều, chẳng thiếu một tin gì. Ngồi một chỗ cũng có thể nhắm mắt mà vẫn như nhìn thấy tình thế rõ ràng. Còn như biết rõ việc xảy ra như thế nào thì ông hoàn toàn không biết! Chính ông cũng nóng lòng muốn được biết những sự việc ấy!
Trịnh Tú vừa nói xong, quân đã vào trình:
- Bẩm tướng quân, tế tác tiến binh báo rằng: Vạn Thắng Vương sắp tới, xin tướng quân sửa soạn đón rước!
Cả nghị sảnh chộn rộn, xôn xao. Những lời nói của tướng Trịnh Tú không phải là nói dối. Sự thể làm sao lại có thể nhiều bất ngờ đến như vậy được! Phu nhân có lẽ là người tỉnh táo nhất ở nơi này. Bà ra lệnh chứ không phải là Trịnh Tú:
- Các tướng mau mau dọn dẹp nghị sảnh, trang hoàng lại cho chu đáo! Sứ quân mau về thay áo, sửa sang phủ đường đợi đón Vương! Ta sắp được biết tất cả!
Phu nhân như không phải là phía người đầu hàng. Phu nhân là người sung sướng được thấy một việc là một đời người khó thấy hai lần!
Cả sảnh đường xôn xao. Các tướng vừa mới nhúc nhích chưa ai ra khỏi được sảnh, đã lại thấy tế tác Hoa Lư gấp bước đến trước tướng Trịnh Tú. Nhìn tế tác gương mặt như mở hội, các tướng Hồi Hồ vội im lặng nghe. Tế tác trình lớn tiếng:
- Bẩm tình tướng quân, tế tác phía Bắc vừa báo về: Lão tướng Mộc Đường đã giao thành. Tướng quân Lê Hoàn đã cho đưa tin trình về để Vương rõ!
Thế là hết, mọi việc đã xong! Phu nhân mẹ Sứ quân như ngây ngất giữa những ly kì của sự việc, nhưng nếu bà được biết những ly kì ấy ở trấn ải Đồng Lư và Đan Phượng!
Lúc ấy, đợi khi sứ giả của lão tướng Mộc Đường ra về rồi. Quân sư Lê Thảo thưa với vương:
- Bẩm vương, tôi xin vâng lệnh đi lấy trấn ải Đồng Lư. Trước hết, để cho phủ đường Hồi Hồ không thể liên lạc được với Đan Phượng, lại làm cho Đan Phượng tưởng ra đại quân của ta đánh Đan Phượng trước. Vậy ta cho hai quân thủy bộ cùng kéo lên, thủy quân thì tướng Nghi Bá Tường cai quản. Quân mã bộ thì tướng Trịnh Tú lĩnh trách nhiệm gấp đem đi trấn ở phía Bắc phủ đường, gần với phía Nam thành Đan Phượng, phải tỏ ra là sắp đánh thành. Lại cho quân tuần canh không để một tế tác nào của Đan Phượng hay phủ đường có thể đi qua được. Tướng quân Trịnh Tú cứ trấn quân ở đấy, ngày nào cũng phải tỏ ra là khởi binh lấy thành nhưng không làm hơn. Đợi khi có lệnh thì gấp quay binh xuống Nam vào phủ đường ngay!
Xếp đặt của Quân sư làm cho tướng Trịnh Tú vừa thú vị lại vừa ngạc nhiên thắc mắc lắm với câu: Khi nào có lệnh thì gấp quay binh xuống Nam vào phủ đường ngay. Trịnh Tú muốn hỏi thì Quân sư đã bảo:
- Tướng quân Mạc Sa Cảnh lại điều động tế tác cho thật khít khao, cùng một lúc liên lạc được với các nơi, tin về đại doanh cho thật nhanh. Chuyển tin lệnh đi làm sao như chính tướng ở trận trực tiếp nghe lệnh của đại doanh!
Tướng Mạc Sa Cảnh vâng lệnh xin đi thi hành ngay. Lê Thảo lại bảo: “Gấp xếp đặt, ban phát mệnh lệnh rồi về ngay có sứ mạng”. Mạc Sa Cảnh hào hứng vô cùng, ông biết là lại sắp được theo Quân sư đi những việc chẳng ai được may mắn như ông!
Quay sang tướng Đinh Liễn, Quân sư bảo:
- Tướng quân đem đại binh đi phá trận đá của Đồng Lư!
Phá trận đá của Đồng Lư! Trận đá này từng lẫy lừng danh tiếng. Phải ra quân như thế nào để phá được trận dữ dội ấy?
Quân sư không để cho mọi người thắc mắc lâu, tướng Đinh Liễn chẳng phải lo âu lâu. Quân sư nói:
- Trận đá của Mạc Cương Hồng, là phép xếp đá theo thế “ngũ toàn lục dư”. Đây phải nói là một kì công kim cổ chưa từng có, các danh tướng binh gia phương Bắc nhiều lần nói đến mà cũng chưa ai lập nổi. Vậy mà ở nước ta Mạc Cương Hồng làm được, ông ta xứng đáng để khinh thường cả thiên hạ!
Tướng quân Đinh Liễn lo sợ thầm trong lòng. Như thế thì ông phải làm thế nào đối phó với thần trận này đây! Nghị hội im phăng phắc, Lê Thảo tiếp:
- Mạc Cương Hồng lấy chữ “toàn” làm nền tảng. Chữ này của người Bắc phương viết theo nhiều lối, có nhiều nghĩa. Trước hết theo ý nghĩa của trận, thì nó là vẹn toàn, đầy đủ, giữ cho trọn vẹn. Nó là cái thế xếp đặt cho đá hòn nọ giữ được vẹn toàn thế nương tựa vào hòn kia, để rồi tan đi thì sẽ tự quay trở lại theo nghĩa một chữ toàn khác. Đi theo vòng tròn gọi là toàn chuyển, để cuối cùng thì lại gom lại theo nghĩa của một toàn khác. Ngũ toàn, là cách xếp đá theo năm hòn một, đợi lực kích động lên nó bằng hòn đá thứ sáu, cho nên gọi là hòn lục dư. Chữ dư trong chữ của Bắc phương cũng lại mang nhiều cách viết, nhiều nghĩa. Trong trận đá này thì dư đầu tiên là con số thừa đứng ngoài năm hòn toàn. Hòn dư này sẽ hoạt động theo nghĩa của dư là cấp cho, đem đến cho, nó làm cho năm hòn toàn hoạt động. Theo nghĩa của dư là nhiều người cùng khiêng đi cùng một lúc theo thế dư là giương lên, đưa lên. Lúc ấy thì năm hòn toàn ra khỏi vị trí xếp đặt để tung lên. Thế là trận đá hoạt động! Nhưng, nếu chỉ có thế thì ta chỉ cần đợi cho nó phát động hết thì có thể đi lại tự nhiên không phải lo sợ gì nữa. Đằng này Mạc Cương Hồng lại xếp đặt để cho trận chuyển động được theo từng cấp độ một, đây lại là một kì công nữa của Mạc Cương Hồng. Chính nhờ thế mà khi xét chuyển động của trận ngày trước, lúc Bạch Khai Thành lạc trong đó. Ta mới thấy có lúc trận đã ngừng, sau lại phát động dữ dội hơn nữa. Vậy, ta phải chú ý con số năm trong Ngũ Toàn, sao không lục toàn, thập toàn có được không? Có thể Mạc Cương Hồng cũng muốn thật nhiều toàn, nhưng không thể xếp hơn được. Vả lại chỉ năm lần trận phát động thì binh nào có thể qua được? Tướng nào dám nghĩ là trận hết rồi để đem quân vượt qua!
Hội nghị im lặng lạ lùng, hơn trăm tướng nghe Quân sư nói tưởng như đang nghe chuyện thần kỳ hoang đường. Nghe thì nghe nhưng hiểu thì khó hiểu! Vạn Thắng Vương mỉm cười, ngài bảo:
- Như thế, thì sau năm lần trận chuyển động, đá không thể nào tự xếp đặt lại để lập thành trận nữa. Giả sử có tướng “sát quân” cứ thúc binh tiến lên chịu trận, như Địch Hồng Hà ngày trước cho quân dùng cây ghép theo hình cánh chim bay để đỡ gạt đá mà tiến lên, thì trận phải bị phá chứ!
Hội nghị lao xao. Các tướng thì thầm với nhau là lý lẽ của Vương là đúng. Quân sư đáp:
- Bẩm đúng thế! Nhưng tôi nghĩ, năm lần trận chuyển động, nhất định càng về sau càng dữ dội. Tức là đá trút xuống càng về sau càng là đá lớn. Như vậy thì chẳng có binh tướng nào dám cứ tiến lên trong tình hình như thế! Không ai dám chắc là trận kết thúc, nếu biết đích mà tiếp tục tiến lên thì rõ ràng là đã vượt được trận! Vậy, ông Đinh Liễn mang mười nghìn quân đi phá trận đá, ông dùng quân bộ chứ đừng dùng quân kị, cốt để dể tránh đá. Binh của ông tránh đá như thế nào?
Đây là việc quan trọng nhất, hơn trăm vị tướng ai cũng muốn biết. Đinh Liễn càng muốn biết hơn tất cả mọi người. Quân sư bảo:
- Ngũ toàn của Mạc Cương Hồng được phát động bằng cờ ngũ sắc, mỗi sắc cờ là một cấp trận, nó cũng lại là yếu lý để ta phá trận! Trong ý nghĩa của màu sắc các tiên hiền xưa bảo rằng, có năm màu chính là xanh, vàng, đỏ, trắng và đen. Ứng với năm hành kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, lại hợp với các phương của trời đất là đông, tây, nam, bắc và trung tâm. Ngũ hành ngũ phương thì trước mặt là bắc, sau lưng là nam, tay phải là đông, tay trái là tây, ở giữa là trung khu thổ. Mạc Cương Hồng quả thật là người đọc sách bao la. Chắc hẳn ông ta dựa vào sách Tố Vấn, tức Nội Kinh Y lý, tương truyền là của Hoàng Đế, để đem vũ trụ và con người cùng hòa vào nhau, lập thành trận đá của mình. Nếu đúng thế, thì kể từ khi chuôi sao Bắc Đẩu chỉ về hướng Mão, tức tháng Hai, khí tiết lúc ấy là Xuân phân, cho đến tiết Lập Hạ giữa tháng Tị, tức tháng Tư, là lúc Thiếu Dương quân hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy sáng sủa là đức của đế vương. Tiếp đến, từ khi chuôi sao Bắc Đẩu chỉ vào hướng Tị, tức tháng Tư chính là tiết Tiểu mãn, cho đến tiết Tiểu thử vào giữa tháng Mùi tức tháng sáu, là lúc Thiếu Âm tướng hỏa là chủ khí, tiết trời lúc ấy nóng dữ, là lúc làm việc của tướng hỏa. Tiếp nữa, từ khi chuôi sao Bắc Đẩu chỉ vào hướng Mùi, là tháng Sáu, chính là tiết Đại thử, cho đến tiết Bạch lộ vào giữa tháng tám là Thái âm thấp thổ làm chủ khí, tiết trời lúc ấy mưa mây nhiều, khí ẩm thấp bốc lên. Đến khi chuôi sao Bắc Đẩu chỉ vào hướng Dậu, tháng tám, chính là tiết Thu phân cho đến tiết Lập đông vào giữa tháng mười, tức là lúc Dương minh táo kim là chủ khí, tiết trời đến lúc ấy thì vạn vật đều khô ráo. Tiếp theo khi chuôi sao Bắc Đẩu chỉ vào hướng Hợi, tháng Mười, chính là tiết Tiểu tuyết cho đến tiết Đại tuyết, vào giữa tháng Mười hai, là Thái dương hàn thủy làm chủ khí, lúc ấy tiết trời mới thật là rét buốt. Cuối cùng, khi chuôi sao Bắc Đẩu chỉ vào hướng Sửu, tháng Mười hai, chính là tiết Đại hàn cho tiết Kinh trập, vào giữa tháng Hai, là lúc quyết âm phong mộc làm chủ khí, tiết trời lúc ấy gió nhiều. Ấy là, mỗi một khí tiết ở trong khoảng hơn sáu mươi ngày, quanh khắp vòng trời, hết rồi quay trở lại. Mạc Cương Hồng đem y lý, lấy khí của trời đất để dựng trận. Y học dựa vào những thay đổi ấy trong thời tiết của trời đất ứng với tạng người để trị bệnh. Vậy, nay ta cũng lại ứng với những khí với tiết ấy để phá trận đá của Mạc Cương Hồng!
Quân sư càng dẫn giải, các tướng nghe càng mơ hồ thêm. Chẳng hiểu như vậy thì ảnh hưởng gì đến trận đá, ảnh hưởng ấy phải phá thế nào?
Quân sư tiếp:
- Sau trận đá, hãy cứ cho là trận đã bị phá, thì tất nhiên là ở phía sau nó phải có binh trận thế nào tiếp theo. Chứ không thể hoàn toàn bỏ trống được! Nhưng, đã phá được trận đá, thì cho dù trận phía sau nó có bày thế nào cũng không thể nào giữ được nữa. Vậy, tướng quân Đinh Liễn mang mười ngàn binh làm chính binh đi vào trung trận, mở đường cho các mặt khác cùng phá trận. Bây giờ cuối tháng Bảy, tướng quân hãy tiến vào hướng Mùi. Nghĩa là vào trận thì đem ngay quân rẽ sang hướng bên phải hơi đi lùi lại phía sau, rồi đi thẳng vào trung tâm trận, đấy là chìa khóa mở trận! Nếu đúng đường đi, sẽ thấy khí trời có vẻ ẩm thấp, nhiều mây, có khi có mưa.
Quay sang tướng Phạm Hạp, Quân sư bảo:
- Ông mang năm nghìn binh, đi vào hướng Dậu, tức là thẳng hướng Nam, đi ngược trở lại theo đường đi từ phải sang trái. Tức là tiếp nối theo hướng đi của tướng điều khiển trận. Ông cứ đem binh tiến như thế đi hết một vòng trận thì trở lại cửa vào. Lúc ấy mang quân thẳng hướng đi vào trung trận, tiếp sức cho tướng phá trận. Ông nhớ kỹ đường đi, đường đi của ông sẽ thấy quang đãng, khô ráo, mát mẻ.
Tướng Phạm Hạp nhận lệnh đi lấy quân. Lê Thảo gọi tướng Nguyễn Bặc bảo:
- Ông đem năm nghìn quân vào cửa trận hướng Hợi, tức là sang bên tay trái mà vào trận. Vừa vào trận là ông gặp thời tiết lạnh, đi một hồi thì rét buốt, nhớ cho quân mặc áo ấm. Rồi vòng xuống phía dưới theo đường đi bên tay phải, tức là tiếp nối vào đường đi của ông Đinh Liễn. Đi hết một vòng trận, trở về cửa trận nơi ông đem quân vào thì hướng thẳng đến trung trận hợp binh với hai ông Đinh Liễn, Phạm Hạp.
Tướng quân Nguyễn Bặc lĩnh mệnh đi điểm quân ngay. Khi ba tướng vào trình là đã sửa soạn xong quân, xin đợi lệnh vào trận. Quân sư quay sang Vạn Thắng Vương thưa:
- Bẩm trình Vương, bây giờ ba tướng mang quân phá thạch trận của Mạc Cương Hồng. Còn hai cửa nữa thuộc về cửa trận của tướng Đồng Lư coi giữ, ta xong ba cửa kia thì là xong trận. Còn tôi xin đi phá Tửu trận của ông ta. Tế tác sẽ trình tin đủ các mặt để Vương rõ. Còn bây giờ thì xin Vương đem hết binh tướng lên trấn ở trước Tửu trận ở chân núi Đồng Lư. Nhân thể Vương quan sát xem trận pháp ấy phát huy thế nào, rồi đến cuối giờ Thìn thì Vương cho quân tới đợi ở sau quân của tướng Trịnh Tú. Khi nào ông ấy vào phủ đường dàn xếp xong mọi việc rồi thì xin mời vương vào để ban phát mệnh lệnh!
Quay sang tướng Hà Bảo Ninh là tướng cũ của ông Lê Hiền. Quân sư bảo:
- Ông đã nức danh với câu chuyện Ngự Hàm Thủy Công Đê ngày xưa, lại thêm danh tiếng về tài uống rượu. Vậy hãy cùng với tôi vào Tửu trận của ông Mạc Cương Hồng xem có rượu ngon không?
Tướng Hà Bảo Ninh sung sướng. Từ ngày Sứ quân Ngô Xương Xí tan, ngài Lê Hiền bỏ đi, các binh tướng theo về với Hoa Lư mắt nhìn tai nghe biết bao nhiêu là việc lạ, nhiều phen lĩnh mệnh vào trận. Bây giờ một mình Ninh được theo Quân sư đi phá trận, đã hẳn là có việc để Quân sư sai bảo! Quân sư lại bảo tướng Mạc Sa Cảnh lệnh cho tế tác các mặt, xong rồi thì cũng đi cùng với Quân sư.
Trước khi đi, Quân sư nhắc lại ba tướng phá thạch trại lần nữa các việc phải làm, rồi hẹn:
- Bây giờ là giữa giờ Thìn, khi nào tế tác báo tin là thần trận của Mạc Cương Hồng đã phát động, ấy là lúc hai tướng với ta vào trận rồi. Các ông đợi đến cuối giờ Thìn sang đầu giờ Tý thì xuất quân!
Các tướng vâng lệnh đem quân đi trấn ở các cửa trận mình lãnh trách nhiệm. Vạn Thắng Vương cho lệnh tướng Triệu Mai Nhân đi đầu đại quân, tiến lên phía sau binh của tướng quân Trịnh Tú, lúc ấy trấn giữa đường cắt không cho phủ đường Hồi Hồ liên lạc được với trấn thành Đan Phượng. Tướng họ Triệu từ ngày được thần núi Yên Tử dạy cho môn đánh trượng, lại dặn là “theo người em thì lập được nghiệp lớn.” Cho đến khi Bình Kiều tan rã, Sứ quân Ngô Xương Xí chết, ông cùng các tướng theo về với Hoa Lư. Được Vạn Thắng Vương yêu tài yêu nết, thì ông hiểu ra lời nói năm xưa của thần núi Yên Tử. Bây giờ lĩnh mệnh đi đầu các tướng, đem quân lên trấn phía sau tướng Trịnh Tú, Triệu Mai Nhân thấy sung sướng làm sao?
Quân sư cùng hai tướng ra đi, Vương đem các tướng tiễn ra đến tận cửa doanh. Ba ngựa chậm chậm chạy đi, ngựa của Quân sư đi ở giữa. Tà áo văn sĩ của Lê Thảo nhẹ lay động, bên trái Quân sư là tướng tế sứ Mạc Sa Cảnh, bên phải Quân sư là tướng dũng mãnh Hà Bảo Ninh.
Ba người cho ngựa đến trước núi, phía sau đại quân của Vạn Thắng Vương cũng kéo theo rầm rộ, rồi binh dàn ra như thể sắp vào trận.
Dừng ngựa trước tòa núi đất đá lẫn lộn. Quân sư bảo hai tướng:
- Thế núi cong queo vì thế còn có tên là Long Sơn, núi Rồng. Núi này là núi cao nhất trong vùng, thế đất đẹp lắm. Các thầy phong thủy bảo rằng chân mệnh đế vương đến lập nghiệp ở đây thì nên nghiệp lớn, nhưng tiếc một điều là phía Đông nhìn ra Hát Giang là cửa sông cạn hạ lưu của Bạch Hạc. Phía Nam là Đầm Bông, bên trong hẹp nước rất sâu làm hỏng thế đất linh thiêng, binh trấn ở đây là tử địa [→21] . Thế đất “rồng nấp đầm hẹp” thành ra nghiệp lớn không bền, quả nhiên là đúng vì thời xưa có ông Phùng Hưng dựng nghiệp thì nghiệp đã sớm tàn. Đến nay thời Ngô Vương Quyền dựng nghiệp cũng chẳng được bao lâu, và lúc này Đồng Lư trấn giữ cho Sứ quân Ngô Nhật Khánh thì làm sao Nhật Khánh nên đại nghiệp được!
Ba người đứng quan sát hồi lâu, nhìn cả một vùng cây cối sầm uất, phong cảnh u nhã chẳng có gì là hiểm địa, chẳng có gì là dấu hiệu của một trấn thành dữ dội. Ngửng đầu thấy vách núi cây cao, nhìn xuống chỉ thấy đá núi tràn xuống vượt ra xa, chắc hẳn đây là dấu tích của trận năm xưa lão tướng Địch Hồng Hà đại bại ở đây!
Quân sư bảo tướng Hà Bảo Ninh:
- Ông một mình một ngựa lên núi xem sao, nếu thấy có dấu hiệu gì khác thường thì phải trở xuống ngay!
Hà Bảo Ninh vâng lệnh, giật cương cho ngựa tiến lên. Ngựa trận thét lên một tiếng dữ dội rồi băng băng cất vó vượt đá lô nhô tiến lên. Chẳng mấy chốc tướng họ Hà đã lên được thật cao, vẫn chẳng thấy có gì lạ xuất hiện. Quân sư bảo Mạc Sa Cảnh gọi Ninh quay trở xuống. Quân sư bảo:
- Như thế, một người vượt trận trên cao không thấy được, hoặc giả Mạc Cương Hồng thấy chỉ có một người thì khinh thường không thèm cho trận phép hoạt động! Vậy ta đợi đại quân của Vương tới, mượn một ít cho lên núi xem sao!
Binh của Vương tới, Quân sư mượn mươi ngàn quân mã. Sai tướng cũ của Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc là Phùng Ngoại Địch dẫn đầu rầm rộ ùa lên vách núi.
Quả nhiên, binh của Phùng Ngoại Địch tràn lên núi chưa được bao nhiêu, cả đạo quân đã thấy có hiện tượng lạ, thời tiết dường như thay đổi. Khí núi đang giữa buổi sáng mà bỗng thấy mờ mờ, nắng vàng như chợt tắt.
Tức thì, Quân sư truyền lệnh thu quân, lại trình Vương:
- Bẩm trình Vương, trận của Mạc Cương Hồng đã chuyển động, ngài lệnh cho quân cứ theo tướng Triệu Mai Nhân tiếp tục đường đi. Ngài cùng một số các tướng dừng chân xem trận chuyển động, nhưng nhìn lên chỉ trong một thoáng là đã thấy mất dạng Quân sư cùng với hai tướng. Chỉ thấy cảnh vật thốt nhiên như mờ ảo, cây rừng như dày đặc, dưới thấp lúp xúp những bụi cây, tuyệt nhiên chẳng thấy gì thêm. Cảnh vật có phần tĩnh lặng, vương liền thôi không xem trận nữa, vì chẳng có gì để xem cả. Vương lại tiếp tục theo quân kéo lên Bắc.
Lúc ấy trong trận, sau khi binh mã chiến do tướng Phùng Ngoại Địch từ trên núi hấp tấp chạy xuống. Quân sư bảo:
- Trận đã chuyển, ông thu quân đi theo Vương ngay!
Phùng Ngoại Địch nói vội:
- Bẩm Quân sư, quang cảnh bỗng đổi khác, thời tiết khí hậu hình như cũng thay đổi. Tuy chỉ mới vào đến cửa trận mà hình như tôi đã cảm thấy lạc mất phương hướng rồi, vậy Quân sư nên cẩn thận!
Quân sư vui vẻ bảo:
- Tửu trận bước vào tất phải say, say rượu lạc mất phương hướng là đúng rồi! Tướng quân yên lòng!
Rồi Quân sư đem hai tướng đi bộ bắt đầu lên núi, vào trận.
Hai tướng hồi hộp, chân bước đi ngược vách núi dốc lên dần. Chỉ thấy đá núi lẫn đất lô nhô chở vướng chỗ thoáng, cây chỗ cao chỗ thấp, ngửng đầu nhìn lên chỉ thấy khí núi mờ mờ, chẳng thấy binh tướng Đồng Lư hay thành ải ở chỗ nào. Tướng tế sử Mạc Sa Cảnh nói:
- Thưa Quân sư, trận đã chuyển động, tất tế tác đã cho các tướng ở bên thạch trận biết. Ở đây, đường ta đi vẫn là lên cao, nếu cứ thế này thì có lúc ta sẽ đứng trên đỉnh núi. Chẳng lẽ nào trận pháp chỉ có thế!?
Quân sư không nói gì, quay đầu nhìn lại thấy sau lưng thăm thẳm thung lũng mênh mông, cây bên dưới xanh rì, nắng vàng trải đều, quang cảnh tĩnh lặng lạ kì. Quân sư dừng bước, bảo:
- Ai bảo là ta đi đúng hướng! Lúc này trên ải chắc chắn Mạc Cương Hồng đang quan sát ta, ta thì như ba con kiến đi loanh quanh vòng vèo, lại cứ tưởng mình vẫn đi thẳng!
Quân sư dừng bước, hết quay sang phải, lại quay sang trái, lại quay lưng vào vách núi nhìn xuống phía dưới. Loay hoay một hồi khiến hai tướng không hiểu Quân sư đang làm gì. Gió nhẹ thổi trên vách núi miên man chẳng hết, dường như gió không từ một hướng nào đến cả, mà như tràn từ trên không gian xuống. Trời đất vạn vật hòa lẫn vào nhau không còn phương hướng gì cả!
Rồi Quân sư bảo:
- Mạc Cương Hồng che mắt được người thế gian, chứ làm sao che khuất được cả trời!
Rồi Quân sư đắt hai tướng đi chếch sang hướng tay trái, đường đi hình như chẳng lên cao mà lại như đi hơi ngang. Quân sư bảo:
- Mạc Cương Hồng lấy huyền thuật mê hoặc lòng người, che mắt không cho thấy phương hướng. Ngày trước lão tướng Địch Hồng Hà chế ra đài xem hướng nên tiến quân lên được đến sát ải mới chịu chết. Ngày nay ta chỉ có ba người đi trong trận, thành ra trên ải chắc không trông thấy ta rõ như thấy cả một đạo quân. Vì thế ta có đi đúng đường trên ải có khi cũng không nhận ra được! Hai tướng thắc mắc về hướng đi, hỏi thì Quân sư đáp:
- Phải, hai ông thắc mắc là phải! Con người ta có thể bị lầm vì đủ mọi cách lừa gạt, che đậy, nhưng trời đất xoay vần thì vạn năm vẫn như thế làm gì có sai lạc. Bởi vậy, gió núi miên man làm ta không thể biết gió từ hướng nào thổi tới để định được hướng trong tiết trời này, nhưng mặt trời mọc hay lặn thì vẫn không đi sai đường. Lúc ta đi, khoảng quá giữa Thìn, trước hay sau ngày Tiểu Thử nắng oi, thì lúc này cũng gần cuối Thìn nắng từ phía Đông tới gần như thẳng giữa lưng ta, đấy là phương hướng để ta biết được đường đi. Biết được phương hướng của núi Đồng Lư, luận ra được phương hướng của trấn ái!
Thì ra thế, thảo nào Quân sư lúc nãy loay hoay là để tìm đúng hướng mặt trời oi nóng từ buổi sáng!
Ba người tiếp tục đường đi được hồi lâu nữa, quanh co lúc sang phải, lúc sang trái. Hai tướng cứ theo chân Lê Thảo đi chẳng biết là đi đâu, tại sao lại đi như thế? Lúc này cây trên vách núi chợt thưa hẳn, nhiều chỗ quang đãng. Nhìn xuống dưới không thấy thung lũng thăm thẳm nữa, nhưng ngửng đầu nhìn lên thấy núi cao ngất trời. Quân sư cười nhạt, bảo hai tướng:
- Rặng Đồng Lư tuy là cao nhất ở nơi này, nhưng cũng không đến nỗi ngất trời như thế! Chân ta leo núi cũng đã thấy hơi mỏi, tức là lên cũng đã cao. Cùng lắm là cũng tới giữa núi, thế thì trấn ải tất cũng chẳng xa nữa. Một là Mạc Cương Hồng không trông thấy ta đi trong cây cối, hai là ông ta muốn đón tiếp ta ở trước trận chăng?
Quân sư vừa nói dứt lời cả ba nghe thấy có tiếng cồng thật lớn, rõ ràng là cồng đập ở ngay trước mặt chỉ cách chừng vài bước chân. Ba người giật mình dừng bước, đợi xem có biến chuyển gì khác lạ, nhìn ra thấy quang cảnh quang đãng, trống trải, cả một khoảng trời bao la. Ba người thấy mình ở tít trên cao, nhìn xuống dưới thấy xa xa thung lũng, rừng cây với thôn xóm lác đác xen lẫn ở tít xa mắt nhìn chẳng rõ. Ngửng đầu lên thấy một tòa thành đã chẳng lớn ở cách chẳng xa. Đường dốc leo lên được đến đấy cũng phải mất khoảng thời gian chừng tàn một cây nhang, không gian thật tĩnh lặng với năng sáng rực rỡ.
Quân sư quay lại hai tướng bảo:
- Trên ải đã thấy ta, như vậy là ta đã vượt qua được trận của họ ở phía dưới. Không biết Mạc Cương Hồng sẽ đón tiếp ta như thế nào đây?!
Đáp lời Quân sư, dường như phía bên kia núi, hay trong lòng núi, chợt có tiếng ầm ĩ. Tiếng động nghe như sấm rền sau trận mưa ở tít ngoài xa kéo dài mãi không hết. Ba người ngẩn người hồi hộp không biết trận pháp của họ Mạc sắp xảy ra những gì!
Tòa thành vẫn im lìm, không thấy có động tĩnh gì thêm sau tiếng cồng lớn, và tiếng ầm ì vẫn tiếp tục.
Chợt Quân sư khẽ kêu lên:
- Thạch trận! Trận đá phát động rồi!
Chắc là thế, chỉ có thạch trận phát động thì mới có tiếng ầm ì kéo dài như vậy của đá lăn từ trên cao xuống! Ba tướng đang xông pha trong nguy hiểm. Nếu như suy nghĩ của Quân sư mà sai thì ba tướng cùng hết thảy đám quân sẽ phải bỏ xác lại trên sườn núi Đồng Lư! Hai tướng Mạc Sa Cảnh và Hà Bảo Ninh đưa mắt nhìn nhau rồi lại kín đáo nhìn Quân sư. Hai tướng như thầm hỏi nhau: “Không biết Quân sư có tính sai không?”. Trên gương mặt nho nhã của Quân sư lộ nét lo lắng. Lần đầu tiên Mạc Sa Cảnh thấy Quân sư lo lắng như vậy!
Bỗng Quân sư bảo:
- Ta gấp lên ải ngay, nếu sai lầm thì may ra cứu kịp!
Hình như Quân sư đã cùng chung ý nghĩa với hai tướng, đã nghe được câu hỏi của hai tướng. Ba người rảo bước đi lên, đá lổn nhổn hòn lớn hòn bé khó bước đi lắm, nhiều chỗ đá tảng lớn. Tưởng chừng đá ấy mà lăn xuống thì chẳng có gì còn tồn tại được!
Đi được nửa đường, nghe phía bên kia tiếng động ầm ì dường như đã chẳng hết mà còn nặng hơn nữa thì phải. Quân sư nhíu cặp mày như hai lưỡi kiếm treo, rõ ra ông đang suy nghĩ lung lắm. Rồi hai tướng bỗng thấy gương mặt Quân sư như nhẹ hẳn đi, nỗi lo âu dường như giảm hẳn hay hết hẳn. Ngửng đầu nhìn lên, hai cánh của trấn ải khép kín chẳng còn xa nữa. Giả sử lúc này trên ải quân cung thủ bắn xuống thì dễ trúng đích lắm. Vậy mà trên ải vẫn im lìm!
Quân sư vẫn bước vội, khẽ bảo hai tướng:
- Thạch trận vẫn tiếp tục, nặng thêm, là các tướng của ta đang thắng! Đi mau lên!
Quân sư vừa dứt tiếng, trên trấn ải đã nghe có tiếng trống giục vang. Ba người giật mình, trận biến chuyển như thế nào đây? Trận không biến chuyển gì, nhưng ngửng đầu nhìn lên thấy trước trấn ải một ông già râu dài trắng như mây, đầu đội khăn văn sinh, gương mặt không nhìn rõ nhưng nắng sáng giữa ban ngày chiếu vào cặp mắt lấp lánh tinh quang. Ông già vận áo dài lụa bạch, phong độ chính là Mạc Cương Hồng! Đứng hai bên lão tướng, còn thấy mấy tướng chiến bào gọn ghẽ, cả bọn nhìn ba thầy trò Quân sư đang rảo bước lên dốc.
Quân sư khẽ bảo:
- Mạc Cương Hồng đang đợi ta! Sao không thấy ông ta cho trận phát động để cản ta?
Tướng Hà Bảo Ninh xưa kia vốn là người chuyên đi săn thú rừng, tính tình bộc trực, trung thành. Nghe Quân sư nói thì tay cầm ngay vào chuôi dao rừng giặt thắt lưng. Quân sư thấy thế bảo:
- Đừng, cứ tự nhiên!
Tướng tế sứ Mạc Sa Cảnh tuy lặng lẽ theo Quân sư leo núi, nhưng hai mắt hai tai ông thì lại làm việc cực kì gấp rút. Bao nhiêu tiếng động, bao nhiêu những động đậy gì ở chung quanh ông đều thấy hết, vẫn đề phòng.
Ba người bây giờ đến khoảng trống trước cửa ải. Khoảng trống trên vách núi dốc không rộng lắm. Đám người trên ải vẫn đứng im nhìn ba người mới tới.
Quân sư dừng bước, bảo tướng Mạc Sa Cảnh gọi to lên:
- Trình lão tướng, có Lê Thảo ở Hoa Lư đến bái kiến?
Tiếng gọi của Mạc Sa Cảnh vừa dứt, ba người lại nghe thấy tiếng cồng lúc nãy nổi lên. Ở đây và lúc này tiếng công nghe thật hùng hồn, bay đi truyền vào lòng thung lũng rồi không biết đập vào vách núi ở đâu phản dội lại nghe âm u kéo dài.
Tiếng cồng còn đang âm u dội lại, đã thấy hai cánh cửa ải mở rộng, chẳng thấy có bóng người quân nào. Nhìn vào bên trong ải vắng hoe, mấy người trên ải cũng không còn nữa! Cả bọn lạ lùng, đứng đợi một lát vẫn không thấy có ai ra đón, cũng chẳng thấy có dấu hiệu gì khác lạ. Như thể đây là nơi bỏ hoang chẳng có người lui tới!
Quân sư bảo tướng Hà Bảo Ninh gọi to lên:
- Chúng tôi xin phép vào ải!
Hà Bảo Ninh hô lớn lên cũng chẳng có ai đáp lại. Quân sư lúc ấy ung dung cất bước đi tới, hai tướng đi lùi lại phía sau Quân sư một bước. Thận trọng mà kín đáo nhìn quanh đề phòng mọi bất trắc.
Bước chân qua cửa ải, cả ba càng thấy im lặng. Bên trong xa xa có những tòa nhà gỗ ẩn hiện, cây cối nhiều lắm, cảnh vật tĩnh lặng lạ kỳ. Ngay đến cả tiếng ầm ì đứng bên ngoài ải nghe rõ mồn một thì ở trong này cũng lại chẳng nghe thấy gì cả. Cảnh vật ở đây có vẻ tiêu sơ hoang vắng, tĩnh mịch như chốn ẩn cư của một ẩn sĩ.
Lê Thảo không nhìn ngang dọc, ông giữ cho thái độ thật ung dung, thẳng bước đi đến khu nhà xa xa. Đường đi tịnh không một bóng người, nhiều đường ngang dọc chia đi nhiều ngả. Bỗng Quân sư rẽ sang bên tay trái, đi vào con đường nhỏ hai bên trồng loại hoa gì cánh hoa vàng như lụa. Hai tướng ngạc nhiên đi theo, không hiểu tại sao Quân sư lại đi vào con đường này. Con đường phía trước không thấy có nhà cửa gì cả, nhưng ở khoảng chặng giữa mỗi con đường lại có một tòa nhà tám góc mái cong. Như thể đây là nơi để khách nhàn du ngồi nghỉ chân trên dọc đường đi.
Quân sư đi qua phía trước tòa đình nhỏ ấy, phía trước mặt còn hai tòa đình nữa như vậy trông thật rõ. Ông tiếp tục bước đi phong độ ung dung như khách dạo vườn hoa có hai người hầu lặng lẽ theo sau.
Hết con đường nhỏ mờ lối đi với ba tòa đình đứng chơ vơ. Quân sư như thuộc đường đi ở đây lắm, ngược đường đi vào con đường hẹp vẫn không rõ ràng, đi quay trở ra lần lượt lại qua ba tòa đình nhưng lần này ở phía trong, rồi rẽ vào phía bên phải. Con đường chợt mở ra, rộng, thẳng tắp, hai bên trồng hoa đỏ rực. Ba người kín đáo nhìn mà vẫn không hiểu là hoa gì? Mùa này tháng sáu nóng bức sao có loại hoa đỏ rực như thế ở đây?
Đến cuối con đường, có nhiều đường nhỏ chằng chịt tuôn đi các ngả, hai tướng chưa biết phải đi theo đường nào? Mấy ngôi nhà lúc mới vào qua cửa ải trông thấy ở ngay trước mặt, bây giờ chẳng thấy ở đâu nữa. Cảnh vật vẫn chỉ là tĩnh lặng.
Quân sư theo con đường cỏ mướt nhỏ chỉ vừa bước chân, đi ngược trở lại. Con đường nhỏ lắm không để ý thì không thấy được, tại sao Quân sư lại chọn đi vào lối này? Ba người phải đi theo hàng dọc, đi đầu là Lê Thảo, ở giữa là Mạc Sa Cảnh, cuối cùng là Hà Bảo Ninh. Quân sư như người rảnh việc đi ngoạn cảnh, nhưng nếu để ý thì thấy bước chân ông đi nhanh lắm. Xem chừng Quân sư nóng ruột và biết là con đường còn xa! Đúng vậy, con đường còn thật xa, hết lớn lại nhỏ. Khi thì là lối đi rộng rãi hai bên có trồng hoa lạ, có khi con đường ngắn ngủi quay ngược trở ra, khi hướng vào trong, lúc ngang khi dọc. Tất cả nằm giữa những lối đi, bảo là con đường thì không đúng vì nhỏ quá, bảo là bờ cỏ cũng lại không phải vì rõ ràng là lối để đi. Quanh co ngoằn ngoèo khiến cho hai tướng không làm sao định được hướng đi nữa.
Ba người đi như vậy ở khoảng sườn núi hơi dốc thoải, loanh quanh hồi lâu, thì Quân sư từ con đường lớn đi ngược lên một chút rồi quay bước sang bên phải. Chọn giữa nhiều con đường chạy đi các ngả như nan quạt, đi và