← Quay lại trang sách

Hồi Thứ Một Trăm Mười Một Trường Kì kể việc chiêm tinh
Phu nhân muốn hàng Động chúa

Mẹ Sứ quân góa chồng từ lâu, trông bà còn rất trẻ, có sắc đẹp lộng lẫy dễ làm xiêu lòng người. Mọi người kính trọng gọi bà là “lão phu nhân”. Bà thông minh sắc sảo rất mộ đạo Phật, tin cẩn đạo sĩ Phùng Chuyết Tỉnh lắm. Phần nhiều bà tin đạo sĩ ở những việc cúng bái tế lễ, nghe lời ông ta nhưng cũng thận trọng, không ép buộc Sứ quân con bà phải làm theo đúng như bà muốn. Từ khi Hoa Lư vào thiên hạ, tung hoành làm rung chuyển cả cõi Giao Châu, bà lo lắng nhiều lắm. Bà thường hỏi Sứ quân mọi việc, lại bàn với mấy tướng coi giữ việc quân bị ở Hồi Hồ, cho nên bà hiểu nhiều.

Hôm nay, nghe Sứ quân mở đại hội bàn việc lớn, bà sai thị nữ sửa soạn để bà cũng đi dự hội.

Sứ quân Ngô Nhật Khánh cùng các tướng ra tận cửa sảnh đón phu nhân mẹ ngài. Bà từ trên kiệu bước xuống khiến cho các tướng dù cúi đầu kính cẩn thi lễ, cũng không thể không kín đáo lén nhìn lên. Phu nhân quả thật diễm lệ!

Vào hội, Sứ quân nói ngay:

- Thưa mẹ, hôm nay phủ đường hội nghị bàn việc thiên hạ tranh đua, mẹ quang lâm tất có điều dạy bảo?

Mẹ Sứ quân thật tươi, và bảo:

- Cô ai mẫu đến dự hội cũng như các lần khác, nhưng chắc là lần này việc quan trọng hơn nhiều lắm! Việc trong thiên hạ thế nào, ta đã được biết đủ cả rồi. Vì thế hôm nay đến dây cốt là để nghe xem Sứ quân cùng các tướng quyết định thế nào?

Thì ra, mẹ Sứ quân đã biết mọi việc, nhưng bà biết những gì và biết thế nào? Nghe mẹ nói, Sứ quân thưa:

- Bẩm, ngày nay Hoa Lư tung hoành đánh chiếm các nơi, đi lại sát cửa ngõ nhà ta, thế nào y cũng nhòm ngó. Cho nên phủ đường hội chúng tướng bàn việc đương cự Hoa Lư. Trước kia, Đỗ Động ở ngoài như bức phên giậu che cho ta. Nay Đỗ Động đã mất vào tay Hoa Lư thì ta trở thành như đứng giữa sân chẳng có rào che tường chắn. Không còn cách nào khác hơn là phải sửa soạn binh tướng để chiến với Hoa Lư! Chiến với Hoa Lư, phía Bắc ta có thành Đan Phượng, phía Nam có trấn ải Đồng Lư. Hai nơi ấy binh ngoài không thể vượt qua được. Còn nếu như vượt qua được Đan Phượng, thì bình ngoài làm cho phủ đường ta khó khăn năm lần, giang sơn ta rung rinh khó gỡ. Vượt được Đồng Lư thì khó khăn ấy lên đến mười lần, giang sơn ta lúc ấy kể như không còn cứu vãn được!

Mẹ Sứ quân bảo:

- Ở hai trấn thành quan trọng ấy. Sứ quân có hai lão tướng trấn giữ, quả quyết là binh ngoài không thể vượt qua được. Vậy Sứ quân đã xem xét lại hai nơi ấy chưa?

Sứ quân kính cẩn đáp:

- Bẩm, cả hai nơi vẫn như xưa, hai lão tướng vẫn trấn ở đấy, ngày đêm thận trọng. Ngay như hội hôm, nay hai lão tướng ấy cũng không bỏ trách nhiệm mà về dự!

Phu nhân lại bảo:

- Thế là tốt lắm, tan hội Sứ quân nên cho người đem lụa quý năm cây đến ban cho hai ông ấy. Cũng nên nhớ đem rượu ngon nhất ra Đồng Lư nhé! Còn binh tướng Hoa Lư, ta có nghe trong quân của Đinh Bộ Lĩnh có người Quân sư tuổi trẻ tài lấp thiên hạ. Ông ta có nhiều phép thần tiên, liệu Sứ quân đã có cách gì đối phó chưa?

Sứ quân ngập ngừng rồi đáp:

- Bẩm, quả thật trong quân của Hoa Lư có người tài, nhưng chẳng lẽ nào trời đất, phật tiên lại chỉ phù hộ cho một người. Hồi Hồ ta lại chẳng có người tài hay sao?

Phu nhân hỏi ngay:

- Người tài của ta thế nào, Sứ quân kể cho ta nghe?

Người tài ở Hồi Hồ thì trước sau vẫn vậy, chẳng có ai thêm ngoài đạo sĩ Phùng Chuyết Tỉnh hiểu việc thánh thần. Lại thêm văn sĩ Trường Kì Cao Xuân Minh Phúc tinh thông thiên văn, hiểu được rành mạch các thiên tượng, là thân phụ người vợ yêu của Sứ quân. Ông ta thường hay giảng thiên tượng cho Sứ quân và mẹ Sứ quân nghe. Ngoài ra dưới trướng Sứ quân còn có nhiều tướng giỏi nữa. Khi nghe mẹ hỏi, Sứ quân đáp:

- Bẩm, Hồi Hồ ta tuy chẳng phải là nơi hội tụ hết các danh tài trong thiên hạ, nhưng cũng có đủ cả thần tiên lẫn thần tướng. Riêng hai lão tướng Mộc Đường với Mạc Cương Hồng của ta, Giao Châu này có tướng nào địch nổi! Một dòng Bạch Hạc, một thành Đan Phượng, hai quân mã bộ đủ sức phía Bắc cản mọi thể lực. Phía Đông trấn giữ ngần ấy năm trời khiến Tế Giang chẳng dám cựa quậy. Phía Nam của ta có trấn ải Đồng Lư được người đời nể sợ coi là chỗ chẳng thể nào đi qua được. Vì thế Tây Phù Liệt năm xưa ngông cuồng đã giúp cho cả Giao Châu được một phen mở mắt với trận phép, với thạch trận của thần tiên. Ngày nay Hoa Lư nếu muốn chèn ép được ta tất phải qua được hai nơi ấy trước đã!

Mẹ Sứ quân bảo:

- Thế của ta là vậy, ta tin. Còn thế của các nơi khác, Sứ quân có hiểu không? Sứ quân có nghe việc Phong Châu với Tam Đái không? Ta nghĩ, lẽ ra đại kế liên minh của mưu sĩ Điền Bạc ở Phong Châu phải được các Sứ quân mừng rỡ đón nhận mới phải. Thế mà Tam Đái chẳng hiểu lại làm đại kế ấy bị hỏng. Ngày nay mỗi Sứ quân đều bị đơn độc chống nhau với Hoa Lư. Cho nên mới có cái cảnh Đỗ Động có thủy trại lớn nhất Giao Châu, thế mà chỉ một trận là tan ra mây khói. Trấn doanh Bình Đẩu chưa đánh đã hàng, khiến Sứ quân Cảnh Thạc chẳng biết sống chết thế nào, tung tích chẳng còn thấy đâu nữa! Bây giờ, Hoa Lư thế nào cũng nhòm ngó Hồi Hồ ta. Nếu ta tin là chỉ với hai cửa ngõ Đồng Lư với Đan Phượng đủ để cản phá được binh tướng Hoa Lư, thì liệu có là điều đúng không? Sứ quân phải xét đến chỗ ấy!

Sứ quân nghe mẹ nói một hơi dài, giọng bà thanh tao mà nghiêm nghị quyền uy. Sứ quân ngồi ngẩn người chẳng biết trả lời ra sao. Ngài mong đợi có tướng nào hay Quân sư Phùng Chuyết Tỉnh đỡ lời cho, nhưng chẳng thấy có ai lên tiếng. Mẹ Sứ quân lại hỏi:

- Hôm nay hội nghị quan trọng thế này. Sao Sứ quân chẳng có triệu hai lão đại tướng giữ Đồng Lư với Đan Phượng về mà hỏi việc?

Câu hỏi này thì Sứ quân trả lời được, ngài bảo:

- Thưa mẹ, lão tướng Mộc Đường nói rằng không thể về được, sợ rằng Hoa Lư bất thần tiến quân chăng. Còn lão tướng Mạc Cương Hồng thì quanh năm chẳng bao giờ về phủ đường, mời cũng chỉ bảo là ải vẫn vững!

Phu nhân rất hiểu tướng Mạc Cương Hồng, bà bảo:

- Phải, Bình Đẩu vắng tướng nên mất dễ, các lão tướng không về hội cũng là điều phải. Ở đây, còn có đại tướng Tổng quản, vậy đại tướng thấy nên khuyên Sứ quân thế nào?

Phu nhân hỏi ý của tướng Bùi Nhật Hướng. Ông kính cẩn đáp:

- Bẩm trình lão phu nhân, lúc nãy thuộc hạ cũng đã trình để Chúa công rõ về ba việc: Thắng Hoa Lư, thua Hoa Lư, hay hòa giải với Hoa Lư...

Phu nhân hỏi ngay:

- Thắng bại hay hòa giải thế nào?

Tướng Tổng quản trình bày lại ý của ông lúc nãy, rồi nói:

- Bẩm trình phu nhân, bẩm Chúa công, như thế thì cần phải hỏi ý kiến của hai lão đại tướng. Bởi vì từ trước đến giờ ai cũng bảo là mất hai nơi ấy, thì kể như Hồi Hồ mất. Giả sử hai ông ấy giữ không cho quân Hoa Lư chẳng thể nào qua được, thì liệu Hoa Lư có chịu vĩnh viễn thôi không đánh Hồi Hồ ta nữa hay không? Ở phía Bắc, quân Hoa Lư có thể phá được các sứ Phong Châu, Tam Đái, vượt sông xuống Nam lấy Hồi Hồ. Rồi cuối cùng từ Hồi Hồ đánh vào mặt Tây của Hồi Hồ [→19] ta. Lúc ấy hai thành Đan Phượng với Đồng Lư có thể nào chuyển từ Đông sang Tây để vĩnh viễn giữ vững được Hồi Hồ không? Đấy là việc của hai lão đại tướng. Còn phần thuộc hạ, chịu trách nhiệm Tổng quản binh Hồi Hồ. Vẫn phải xếp đặt để trong tình thế nào cũng kịp đương cự với Hoa Lư.

Phu nhân lại hỏi:

- Tướng quân vừa nói là lúc nào cũng đã sẵn sàng để đương cự với Hoa Lư, liệu việc đương cự ấy sẽ thế nào?

Đây là câu hỏi thật khó trả lời, nhưng tướng Bùi Nhật Hướng thẳng thắn đáp:

- Bẩm trình lão phu nhân, người ban lời thật đúng lúc để thuộc hạ được ngỏ nỗi lòng. Bẩm, giả sử như binh trong phải mở trận đương cự với Hoa Lư, thì có nghĩa là hai trọng thành Đan Phượng với Đồng Lư đã thất trận. Lúc ấy Hoa Lư đã vào đến tim gan ta rồi. Việc binh trong cự chiến chẳng qua chỉ còn là việc nhà tướng phải làm để được chết cùng với trận mà thôi!

Lời đáp của tướng Tổng quản thật thẳng thắn mà cũng thật khủng khiếp. Cả nghị sảnh im phăng phắc. Như thế có nghĩa là tướng Tổng quản nhận trước: Nếu phải đem binh phủ đường đương cự với binh tướng Hoa Lư thì sẽ thất bại, thua trận là điều chắc chắn! Không một tướng nào lên tiếng, Sứ quân hỏi:

- Như nhận xét của tướng quân, thì hai thành lớn Đan Phượng với Đồng Lư của ta có đuổi được binh tướng Hoa Lư không?

Câu hỏi này, chẳng phải chỉ một mình Sứ quân muốn biết, mà hết thảy mọi người có mặt trong buổi hội hôm nay đều muốn biết. Tướng Tổng quản đáp:

- Bẩm Chúa công, thành Đan Phượng có hai quân thủy bộ, lão đại tướng Mộc Đường là người có tài cầm quân, rất giỏi bài binh bố trận. Từ khi lão tướng ngồi ở thành ấy thì chưa có binh ngoài nào có thể tới mà thắng được, thuộc hạ nhận xét thì như thế. Còn thành Đồng Lư, với trận đá của lão tướng Mạc Cương Hồng chẳng phái chỉ có một trận đá mà thôi. Lão tướng còn có trận phép dựa vào chữ “Tửu” để lập trận. Vì lão tướng tự cho rằng mình là người sành rượu nhất ở thế gian này. Trận phép của lão tướng ngày trước đã đả bại lão danh tướng Địch Hồng Hà của Tây Phù Liệt. Trận đá thì giết chết đệ nhất quyền gia là Bạch Khai Thành. Tuy thế thạch trận với tửu trận còn có khả năng như thế nào thì ngoài Mạc Cương Hồng, chưa một người thứ hai nào hiểu được. Thành ra thuộc hạ không thể xác quyết được là hai lão tướng có đánh lui được binh tướng Hoa Lư không?

Đến đây, Sứ quân lại hỏi:

- Thể còn Hoa Lư, tướng quân xét xem Hoa Lư có thể thắng được hai lão đại tướng của ta hay không?

Câu hỏi này, cũng là điều ai cũng muốn biết. Tướng Tổng quan Bùi Nhật Hướng thận trọng đáp:

- Bẩm Chúa công, nếu nói ngay là Hoa Lư không thể thắng hai lão tướng của ta được, thì là câu nói tự kiêu, không đúng thực. Vội vàng mà có phần không được đúng. Cần phải cẩn thận xét người xét ta mới được! Về phần ta, ta đã biết ta, nhưng mới chỉ biết theo cách biết của mọi người. Chứ chưa phải là cái biết thật của người trong cuộc là chính hai lão đại tướng nhận xét: Về phía Hoa Lư, hai lão đại tướng nhận xét thế nào thì thuộc hạ không được biết. Riêng thuộc hạ thì thấy: Hoa Lư chưa lần nào chiến bại, chỉ có những khó khăn bất ngờ xảy ra. Nhưng chung cuộc thì Hoa Lư vẫn vượt qua được những khó khăn ấy để đi suốt nghìn dặm viễn chinh, rồi đến cửa ngõ giang sơn ta. Như vậy là Hoa Lư có người tài!

Bùi Nhật Hướng không nói rõ hẳn ra, nhưng ý của ông ta thì đã rõ ràng! Mẹ Sứ quân hỏi:

- Ý tướng quân thì thế nào?

Câu hỏi khó cho Bùi Nhật Hướng trả lời, nhưng tướng họ Bùi đáp:

- Cứ nhìn những trận đánh của Hoa Lư, từ khi lên phía Bắc, vượt dòng Xích Đằng, lần lượt qua Tây Phù Liệt, đến Tế Giang, sang Siêu Loại, ngược lên Tiên Du, rồi bất thần lấy Đỗ Động. Nay sau Đỗ Động thì thế nào cũng phải nghĩ đến hai trọng thành của ta. Thêm những dàn xếp gây biến động ở khắp nơi, thì thuộc tướng phải thẳng thắn nói rằng: Thuộc hạ không phải là đối thủ của Hoa Lư. Tuy nhiên, thuộc hạ còn hi vọng ở hai lão đại tướng ngoài giữ vững được cửa ngõ, trong chỉ bảo cho biết cách hành động!

Cứ như lời tướng Tổng quản, thì Hoa Lư chắc chắn phải cho binh tướng vây hãm Đan Phượng và Đồng Lư.

Như vậy, thì nếu như hai cửa ngõ Đan Phượng và Đồng Lư mà không cản được Hoa Lư. Thì bên trong đại tướng Bùi Nhật Hướng cũng sẽ không thể nào giữ được khỏi mất phủ đường. Lúc ấy sẽ ra sao?!

Sứ quân vốn người nhu nhược, nay nghe những lời nói của tướng Bùi Nhật Hướng thì băn khoăn chẳng biết phải nghĩ thế nào. Nhìn ra thấy mẹ cũng có vẻ suy nghĩ thì Sứ quân quay sang hỏi Quân sư Phùng Chuyết Tỉnh:

- Như đạo trưởng nghĩ, thì ta nên xếp đặt thế nào?

Phùng Chuyết Tỉnh tu đạo tiên. Tự nhận là đạo sĩ hiểu việc trên trời, biết việc dưới đất phải thờ cúng làm sao để cho tiên thánh hài lòng. Chứ không biết việc binh bị hay trị nước an dân. Trước vẫn chỉ hay hùa theo để nói cho vui lòng Sứ quân. Mách bảo cho mẹ Sứ quân biết cách lập đàn cúng tế sao cho rực rỡ to lớn. Còn việc bày trận cự chiến thì đã không biết lại còn hay lý sự mơ hồ để tỏ ra là biết bí mật của trời. Khi nghe Sứ quân nói, thấy mẹ Sứ quân gương mặt lo âu có ý đợi chờ nghe đạo sĩ nói. Cả sảnh đường im phăng phắc lắng nghe, thì đạo sĩ cao hứng đáp:

- Bẩm Chúa công, ngay như trên thiên đình cũng có những lúc bất ổn, dưới thế binh đao giặc đã là điều tự nhiên. Bất ổn trên trời thì Ngọc Hoàng sai thiên binh thiên tướng, các thần tiên dàn xếp. Dưới đất thì ngôi chủ tể sai bảo chúng thuộc hạ xem xét việc. Trời cao bất ổn thì sinh gió mạnh, mây vần, sấm chớp mưa bão, làm ảnh hưởng lây cho cả dưới đất. Đây là những điềm trời báo cho biết trước mọi việc. Như Hồi Hồ ta, xa xưa thì có hào kiệt Phùng Hưng được người đời xưng tụng là Bố Cái Đại Vương. Gần đây thì có tiên đế Ngô Quyền khởi nghiệp. Lúc này Chúa công ở ngôi Sứ quân nhún mình không tranh giành với thiên hạ, vì thế bốn phương phẳng lặng, hai thành ngoài vững như núi cao biển rộng, bốn mùa gió thuận mưa hòa. Đây là những điềm báo cho biết trên trời cao yên ổn, dưới thế bình an, giặc nào xâm phạm được Hồi Hồ! Trước kia, đã có lần binh biến đến cửa ngõ Hồi Hồ. Hồi ấy thuộc hạ đã chẳng nói là không có binh đao, quả nhiên là không có binh đao. Thế thì lần này, thiên tượng bình tĩnh, nắng đầu hạ rực rỡ mà không quá mạnh, gió sớm mà không giật, sông nước không cạn, núi rừng cây tươi tốt, thế là điềm thiên tượng bình an. Hồi Hồ ta nên tạ ơn trời đất, thiên hạ loạn mà được yên, thiên hạ đổ mà ta vẫn vững. Chúa công nên mở lễ tạ ơn trời đất!

Đạo sĩ vừa dứt lời, trong hàng các tướng vẫn có tiếng cười nhạt, tiếng cười nghe lạnh như băng giá khiến cho cả nghị sảnh ai cũng thấy rùng mình. Phu nhân mẹ Sứ quân khẽ hỏi:

- Ông Trường Kì cười như thế là thế nào?

Chính Trường Kì tên thật là Cao Xuân Minh Phúc mới cười. Tiếng cười của người năm xưa tắm nơi suối lạnh rửa óc, nghe thật rùng rợn! Nghe phu nhân hỏi, Trường Kì lặng lẽ đứng lên, tay sửa lại vành khăn văn sĩ, trình:

- Bẩm trình lão phu nhân cao quý, bẩm Chúa công. Thiên tượng quả thật có báo trước cho biết nhiều điều, thiên tượng tự nhiên mà có. Lập đàn mở lễ để cầu hay để tránh thiên tượng cũng đều không được cả! Như Phùng đạo trưởng vừa dạy, là Hồi Hồ ta từ lâu nay bình yên, thiên tượng báo điềm chẳng có, thuộc hạ nghĩ là không đúng!

Nghị sảnh lao xao, mọi người biết là Trường Ki vốn không ưa đạo sĩ. Nghe Trường Kì nói thì nhất định là sắp được nghe ông ta nói nhiều điều lạ.

Trường Kì tiếp:

- Bẩm Chúa công, giữa tháng Tư vừa rồi, cuối giờ Tí ngày mười hai, trăng đã lên cao mà lại chuyển ngược về Đông, mãi đến cuối Dần mới lại vào vị trí cũ. Ngày hai mươi bảy cũng tháng Tư, trăng huyền lại bỗng nhiên lóe sáng tròn rực rỡ gần một khúc mới hết. Ngày hai mươi chín vẫn tháng Tư, giữa trưa trời quang đãng nắng lớn. Vậy mà hai chợ Phú Nhi với Phụng Trì không có gió tự nhiên nóc chợ bị cuốn đi xa nửa dặm đường: Tháng Sáu ngày ba, giữa sáng mưa nhỏ không ướt đất, nước sông không cao chảy êm mà tự nhiên bến đò Phù Sa lở đất dìm mất cả bến. Cũng ngày ba tháng Sáu, gần hết năm mươi ba xã trong thuộc đất của ta. Cua đồng bò ra ngập ruộng đồng, bao nhiêu là việc xảy ra. Sao lại bảo là chẳng có điềm trời nào?

Quả thật những việc chợ, bến đò với cua đồng mà văn sĩ Trường Kì mới nói có xảy ra ở Hồi Hồ ai cũng biết. Riêng có việc điềm trời trăng xoay chuyển khuyết lại tròn thay đổi thì ít người biết. Bây giờ cả hội sảnh nghe Trường Kì nói thì mọi người đều nhớ lại cả, lấy làm kì. Sứ quân hỏi vội:

- Trường Kì, lão trượng ngài thấy những điềm ấy nói gì?

Trường Kì giọng vẫn lạnh như băng đáp:

- Bẩm Chúa công, sách Thiên Văn có kể một lần trăng đã lên cao lại chuyển ngược về Đông. Ấy là lần Thái tử Đan nước Yên tiễn dũng sĩ Kinh Kha vượt sông Dịch sang Tần hành thích Tần Thủy Hoàng Đế. Đêm trước khi Kinh Kha sang sông, trăng đã lên cao bỗng trôi ngược trở lại. Có thuật sĩ đi cùng Cao Tiệm Li mới bảo Li hãy thổi khúc sáo khóc Kinh Kha. Vì điềm trời báo trước Kinh Kha sang sông muốn trở về không có chỗ, một đi là gửi xác nơi đất Tần. Quả nhiên Kinh Kha thất bại bị giết. Thuật sĩ bảo: Trăng cao trôi ngược, ấy là điềm: “Đừng đi thì còn, bước đi là hết”. Thế thì ngày nay trăng lại trôi ngược thì ai là Kinh Kha đời này sang sông để hành thích Động chúa Hoa Lư? Đã chẳng có thích khách, thì việc Tần đế tất chẳng gặp nguy, chẳng có người bị giết. Mà chỉ có điềm trời bảo là “an hay nguy là ở nơi ta”.

Những lời giảng thiên tượng báo trước việc đời của Trường Ki làm cho cả nghị sảnh hoang mang như đang nghe kể chuyện cổ tích, nghe mà chẳng hiểu sự thật là thế nào?

Trường kì tiếp:

- Trăng đã khuyết sắp mất hẳn, lại tròn rực rỡ gần một khúc mới hết. Ấy là điềm cổ sử kể đến lúc Lưu Bang người làng Trọng Dương, ấp Phong, quận Bái, khởi nghiệp tranh hùng với Hạng Vũ. Hẹn ai vào Quan Trung trước thì làm vua. Bang vào trước nhưng lại lui để Vũ đến sau lại được. Đây là việc “lui để tìm sống, tiến tới để tìm chết” là thế. Lưu Bang khuyết lui lại mà tròn sáng, ngày nay lại có điềm trời hiện ra ở Hồi Hồ. Thế thì là thế nào?

Thêm một thiên tượng huyền bí nữa. Mọi người càng thêm gay cấn. Phu nhân mẹ Sứ quân không nên nổi tò mò bà lên tiếng:

- Ngài nói mau về điềm trời ấy đi!

Trường Kì vẫn khoan thai, giọng dường như càng lạnh hơn nữa, tiếp:

- Bẩm lão phu nhân cao quý, điềm trời hiện ra dù một hay trăm cũng đều có liên quan đến nhau, phải xét hết thì mới hiểu hết được ý trời. Như vậy hai chợ Phú Nhi với Phụng Trì không gió mà bay mất mái ấy là điềm “song quả lạc chi”. Một cây trăm cành ngàn quả chỉ hai quả rụng là hỏng cả một cây, thêm sông êm nước thấp mà bến đò lở chìm ấy là thiên tượng “trầm thôn lạc phủ”. Ngày xưa Hoài Âm Hầu - Hàn Tín lúc mang binh sang sông Tây Hà gặp điềm này. Có người khuyên Tín đừng đi. Tín không nghe, sau chết về tay Lữ Hậu. Ngày nay ai là Hoài Âm Hầu? Rồi đến điềm cua bò ra khắp nơi, ấy là điềm trời báo họa “vạn chúng hoành giáo”. Vạn chúng nào hôm nay quay giáo không đánh giặc?

Trường Kì - Cao Xuân Minh Phúc nói một hồi như mây tuôn nước chảy. Cả nghị sảnh đang lúc trời mùa Hạ mà thấy lạnh căm căm, ai cũng ghê trong lòng.

Tướng quân Bùi Nhật Hướng nói:

- Bẩm lão phu nhân, bẩm Chúa công. Ngần ấy điềm trời thật ra chẳng phải người thường nhìn mà biết được. Những lúc điềm trời ấy hiện ra, tôi được ở bên ngài Trường Kì, nên được nghe những điều giảng giải thật đáng quan tâm vô cùng. Xin Chúa công ban ơn gác bỏ những gì gọi là có tội để Cao quân được giảng rõ tất cả!

Sứ quân vốn người nhu nhược, lại thêm mẹ cũng có mặt trong buổi hội. Nghe tướng quân họ Bùi nói thì muốn để cho mẹ thấy rằng Sứ quân là bậc khoan nhân trí sáng liền đáp:

- Ngài cứ giảng hết thiên tượng, người nói sự thật là người không có tội!

Ngay lúc ấy, có người kêu lên:

- Khoan khoan Chúa công! Trước khi Cao đại gia giảng điềm thiên tượng, xin cho học trò được nói trước!

Té ra là học sĩ Hồ Kính Trung. Tay đọc sách lọc lõi ở đời, chuyện gì cũng biết. Mắt hơi xếch, mặt trắng có nhiều nét gian hoạt. Được Sứ quân yêu, cho ở bên để kể những chuyện lạ cho Sứ quân nghe.

Sứ quân vui vẻ:

- Ông Hồ muốn nói gì thế?

- Bẩm Chúa công, từ nghìn vạn năm về trước cho đến nay, trời đất gió mưa tối sáng, hết lạnh lại nóng. Thường cũng có những bất thường tự nhiên mà có, làm sao lại có việc trăng trên trời đã đi còn quay lại được, đã khuyết lại còn đầy đặn. Phải có gió mới tốc được mái chợ, nước ngầm lâu thì làm đất sụt… Vào Hạ nước đồng chẳng nhiều, cua bị nóng bò ra là lẽ thường, sao lại bảo là thiên tượng báo điềm lành dữ được! Thuộc hạ sách đọc chẳng thấy đâu lại có những hoang đường ấy. Nói là để kể chuyện mua vui thì được, còn như lấy đấy làm điều quyết định cho đại cuộc thì không nên!

Sứ quân bảo:

- Như Hồ quân nghĩ, thì ta nên làm thế nào?

- Bẩm, việc quân phải hỏi tướng. Nếu đã biết rằng hai thành Đan Phượng với Đồng Lư hệ trọng như thế, sao chẳng hỏi ý hai đại lão tướng xem sao?

Lời bàn của học sĩ Hồ Kính Trung quả thật là phải. Thường thì Hồ Kính Trung hay đem những chuyện lạ trong trời đất ra kể cho mọi người nghe, thiên hạ gọi ông là “Ông vạn tri”. Những chuyện ấy thường chỉ là những chuyện vu vơ nghe cho vui mà thôi. Nay trong hội ông biết vạn chuyện lại trình ra ý nghiêm chỉnh như thế, khiến mọi người phải thắc mắc?

Sứ quân bảo:

- Hôm nay ta mở hội, có mời hai lão đại tướng về nhưng cả hai đều bảo là không thể bỏ thành mà về được. Vậy làm sao bây giờ?

Hồ Kính Trung đáp:

- Bẩm Chúa công, việc dù chậm một chút mà chắc chắn hơn là sớm một chút mà mơ hồ! Xin Chúa công cho người ra tận hai thành ấy để hỏi xem hai lão tướng nói thế nào?

Sứ quân lưỡng lự, nếu nghe lời Hồ Kính Trung thì phải đợi vài ngày. Thành ra như thế có là chậm trễ hay không? Sứ quân không biết quyết định thế nào, thì bộ tướng Bích Thừa Vu lên tiếng. Xin gấp đi Đan Phượng để hỏi ý tướng Mộc Đường. Sứ quân thấy thế thì bảo Hồ Kính Trung:

- Tướng Bích Thừa Vu xin đi Đan Phượng, còn việc đi Đồng Lư thì ta phải nhờ đến ông mới được!

Hai người liền mang lại Sứ quân ngay lúc ấy lên đường ra hai trấn thành.

Sứ quân tiếp tục hội nghị, các thuộc tướng của ngài mỗi người một lời ra sức tranh cãi. Người tin thiên tượng điềm trời, người nghi ngờ. Các tướng văn võ chia làm hai phe tranh luận với nhau đến tận chiều tối. Sứ quân phải sai đốt bạch lạp để hội nghị tiếp tục. Ngài bảo Trường Kì Cao Xuân Minh Phúc:

- Cao lão trượng, lúc nãy lão trượng chưa nói hết giảng rõ về những điềm thiện tượng. Vậy trong lúc đợi ý kiến của hai lão tướng. Lão trượng hãy nói rõ về ý nghĩa của các thiên tượng ấy.

Chính phu nhân mẹ của Sứ quân cũng rất muốn được nghe Trường kì giảng các thiên thượng. Bà từng nghe người đời nói là Trường Kì rất thông hiểu các thiên tượng có tài giải điềm trời. Vì vậy khi nghe Sứ quân nói, bà liền bảo:

- Phải đấy, việc quân nên hỏi các tướng. Việc bí mật trong các thiên tượng chính là những điềm báo trước thì nên hỏi những người tinh thông sử sách, có trí thông tuệ hiểu được ý trời. Vậy Cao lão trượng nên giảng rõ để mọi người cùng nghe.

Trường Kì - Cao Xuân Minh Phúc thong thả nói:

- Những thiên trượng tôi được thấy, những điềm tượng ai cũng thấy. Thật ra người không biết thì cũng chẳng sao. Việc xảy ra sẽ chỉ thấy là tự nhiên như thế mà thôi. Cũng như người năng cúng tế, tức là biết đến quỷ thần thì phải hành động cho đúng với sự biết ấy. Còn người không biết thì chẳng có trách nhiệm gì là vậy. Về các thiên tượng, mặt trăng thì xem việc đời xưa sẽ thấy việc đời nay. Lưu Bang hay Hạng Vũ, ai lui ai tiến, ai sống ai chết đều đã rõ. Điềm trời hiển hiện làm sao lại bảo là hú họa không ý nghĩa gì! Đến như việc Hàn Tín Hộ Tây Hà, đất lở bến chìm báo trước cho biết là điềm chết. Vậy mà không nghe theo lời bảo. Chẳng biết thiên cơ đến nỗi mất mạng, thì nay sao thấy điềm ấy lại làm ngơ được! Vả chăng, bảo việc mái chợ bay là tự nhiên tất phải có gió, nay không gió mà bay, giả sử có gió chăng nữa sao gió không đem đi mười nóc nhà, mười nóc chợ có được không, mà lại chỉ lấy đi hai cái thôi. Có phải là điềm trời đã báo rõ không? Lại giả sử, tất cả những thiên tượng, những điềm trời ấy đã biết, đã thấy. Mà cứ nhắm mắt không tin, không nghe theo. Thì liệu đến khi “vạn chúng hoành giáo” vạn quân quay khí giới hàng địch, lúc ấy Hạng Vũ còn được không? Hàn Tín toàn được mệnh không? Nếu bảo như thế là nói ngoa ngôn, lộng ngôn để luận việc, thì hỏi rằng: Hai trọng thành của Hồi Hồ là Đan Phượng, Đồng Lư nếu không giữ được, có phải là ứng vào hai mái chợ bay mất không? Mọi việc đi lại giằng co nhau làm cho hiển hiện chân lí. Sao lại bảo là vu vơ được!

Trường Kì - Cao Xuân Minh Phúc nói một hơi dài, càng nói nghị sảnh càng thấy như có luồng gió lạnh liên miên thổi vào làm cho nhiều người thấy run cầm cập. Sứ quân cố gượng định thần, bảo:

- Ghê quá! Thiên tượng điềm trời quả thật đáng sợ! Vậy Cao lão trượng nói thật rõ hẳn ra bằng việc thế gian có được không?

Trường Kì Cao Xuân Minh Phúc thản nhiên tiếp:

- Hai lần thiên tượng trăng lui, trăng tỏ, có thật điềm trời báo trước không? Trăng lên ở phía Đông, ngả về Tây, nửa đường lui trở lại. Rõ ràng là luyến tiếc phía Đông, phía Đông của phủ đường ta có gì, ấy là ứng vào phía Đông ta có trọng trấn thành thủy bộ Đan Phượng! Trăng khuyết bỗng tỏ rực, có phải là Tửu Trận của lão tướng Mạc Cương Hồng trông thì tinh nhưng trong lại là động khủng khiếp. Như men rượu nhìn thì trong vắt uống thì nghiêng ngả lạc thần. Vậy trăng đã khuyết lại sáng rực, rõ ràng là biểu lộ sức bốc mạnh, rồi cũng phải tàn trở về nguyên trạng không? Vậy là hai thành ấy nếu ứng mệnh trời thì còn, ngược mệnh trời thì rồi ta có cố cưỡng cũng chỉ đi ngược đường được đôi chút. Bừng lên rồi tàn vong là nhất định! Bẩm Chúa công, tôi ăn lộc của Chúa công ân nhiều mà nghĩa cũng nặng. Nay xét thấy thiên tượng báo trước thì phải trình để Chúa công rõ, từ dây hiểu được lẽ trời, biết được đường tiến lui của mình. Như thế cũng là đền đáp được đôi chút ân sủng của chủ!

Trường Kì Cao Xuân Minh Phúc có người con gái là Cao Xuân Ngọc Lệ được Sứ quân rất thương yêu. Hẹn là khi được cả Giao Châu, lên ngôi vua thì sẽ phong nàng làm hoàng hậu. Trường Kì có con gái như thế, nhưng chẳng lấy thế làm ỷ mình lộng hành khiến người ngoài nhận thấy. Khôn khéo âm thầm kéo bè kết đảng, đi lại với các tướng, nghĩ đến việc ngày xưa thuật sĩ nói về mình trong bia Lã Vọng thì lại ôm ấp giấc mộng đế vương. Vì thế thường tỏ nỗi lòng lại bày mưu tính kế để Ngọc Lệ nhân những lúc kề cận Sứ quân ra sức mê hoặc Sứ quân. Dàn xếp cho mưu đồ thoán nghịch của mình, chỉ riêng hai cha con biết.

Trường kì nhìn việc thấy Hoa Lư đánh Đông dẹp Bắc thì nghĩ rằng: Hoa Lư dẹp cả thiên hạ, nếu khôn khéo trong đoạt được ngôi của Sứ quân, ngoài dàn xếp thế nào để mượn sức thiên hạ đả bại được Hoa Lư thì có phải là thiên hạ đắp đàn cho mình lên ngồi trên cao không? Lúc này, chính là lúc hãy đoạt được ngôi của Sứ quân, sau sẽ nhờ hai lão tướng phá Hoa Lư để mình bước ra thu thiên hạ!

Trường Kì luận thiên tượng, cố ý dồn Sứ quân đến chỗ phải đầu hàng Hoa Lư. Làm cho các tướng có người phẫn nộ, ra tay trừ Sứ quân trước đã. Trường kì hiểu rất rõ hai lão tướng, quyết chắc là thế nào hai ông cũng không chịu hàng Hoa Lư. Lúc ấy chiến trận tất khốc liệt. Trường Kì tin là không binh tướng nào vượt qua được Đồng Lư với Đan Phượng.

Luận giảng về thiên tượng điềm trời, làm cho mọi người hoang mang rồi, Trường Kì lại bảo:

- Bẩm Chúa công, thiên tượng điềm trời là thế, nhưng với người có chân mệnh trời, thì cũng có khi thiên tượng ấy lại là điềm lành báo trước. Bậc chân mệnh lúc ấy phải tự quyết để ứng mệnh trời hoặc là chống mệnh trời. Lẽ tồn vong từ đấy mới hiện ra!

Trường Kì dồn Sứ quân đến chỗ chiến thì không quyết, hàng lại ngập ngừng. Khiến cho các tướng hoang mang chia phe cánh đối chọi nhau. Bên đòi chiến, bên đòi phải theo ý trời không thể chống được với Hoa Lư.

Đang trong lúc bối rối kéo dài đến hai ngày như thế, thì sứ giả đi hai trận thành đã trở lại. Đường ra Đan Phượng gần hơn cho nên tướng Bích Thừa Vu đã về trước. Sứ quân lại mở hội, mẹ Sứ quân cũng đến dự.

Bích Thừa Vu trình Sứ quân:

- Bẩm tình Chúa công, lão tướng Mộc Đường dặn là trình lên Chúa công: Binh Hoa Lư thắng hay bại là còn tùy ở ta. Do ở quyết định chiến hay hòa của Chúa công, lão tướng còn có trình văn gửi lên Chúa công.

Rồi Bích Thừa Vu trình lên Sứ quân một phong thư lớn. Sứ quân sai Cao Xuân Minh Phúc đọc lớn lên cho cả nghị sảnh cùng nghe. Minh Phúc vâng lệnh, lấy giọng vẫn lạnh như băng đọc lớn, có đoạn Mộc Đường viết:

“... Mộc Đường tôi, ngồi trèn vọng lâu thành Đan Phượng, chẳng dám bước xuống bỏ thành về phủ đường trình việc lên Chúa công được. Xin được gửi trình văn lên Chúa công, dâng ý riêng về việc Chúa công hỏi.

Trình, Hoa Lư ra ngoài thiên hạ, đánh Đông dẹp Bắc. Nay đã thu được nửa thiên hạ, quay sang phía Tây muốn lấy nốt nửa thiên hạ còn lại. Cuối cùng mới bước tới Cổ Loa. Thế của Hoa Lư là thế “gồm lực thiên hạ để chiến với thiên hạ”. Sức của Hoa Lư là “sức gồm mười dòng sông góp nước cùng dồn ra biển”. Thế và lực ấy chống lại chẳng phải là dễ, theo cùng thì còn, cản đường thì mất. Tuy vậy, sức mạnh nào bằng sức Hạng Vũ, thế mà tay đình trưởng sức chẳng vác nổi gươm cho Hạng Vũ lại đả bại được Hạng Vũ. Như thế thì việc quyết chiến hay hòa là điều quan trọng, nhiều khi thắng ở nơi chiến trường lại không phải là thắng ở nơi kinh đô. Có lúc bại ở chốn kinh đô lại có giá trị gấp trăm lần thắng bằng binh tướng ngoài chiến địa. Như vậy thì thế nào là thắng thế nào là bại? Người giữ mệnh trời tất hiểu được mọi tình thế!

Trình, Mộc Đường tôi vâng lệnh trấn giữ Đan Phượng, thì mạng tôi là mạng thành Đan Phượng. Thành không giữ được để đến nỗi chủ phải hàng địch, thì tướng giữ thành tất không thể còn được sống! Vả lại, ngồi trên vọng lâu, nghiền ngẫm binh pháp đồ trận. Tôi lập ra trận chiến thủy bộ hợp nhất, có lời nguyền cùng thiên hạ là: “Trận ấy bị phá, thì Mộc Đường xin ngửa cổ chịu chết dâng thành”. Vậy nay xin được giữ trọn lời nguyền hoặc là được tiếp đón tướng ngoài đến phá trận, hoặc là xin tự cắt thủ cấp dâng về phủ đường mà trao thành cho binh ngoài...”.

Giọng của Trường Kì đã lạnh lẽo ghê người, những lời lẽ của Mộc Đường làm cho mọi người càng cảm thấy như có băng tuyết vừa nhét đầy trong gan ruột. Cả hội sảnh im phăng phắc. Sứ quân chưa biết nói sao, phu nhân mẹ ngài cũng chưa biết phải khuyên Sứ quân thế nào? Các tướng còn đang hoang mang sợ hãi, thì đã nghe có tiếng vó ngựa khua bên ngoài rồi dừng lại trước sảnh. Đấy là học sĩ Hồ Kính Trung đã về.

Hồ Kính Trung đi thẳng vào sảnh, bước chân của ông nghe rõ mồn một, trăm cặp mắt dồn cả vào ông ta. Họ Hồ bước nhanh đến trước Sứ quân. Vòng tay thi lễ, rồi trình:

- Bẩm trình Chúa công, Kính Trung tôi vâng lệnh ra Đồng Lư đã trở về. Lão tướng Mạc Cương Hồng đã tiếp lệnh Chúa công và có trình thư gửi trình Chúa công.

Hồ Kính Trung trình lên Sứ quân một phong thu nhỏ. Sứ quân nhận rồi trao lại cho Trường Kì còn đứng bên cạnh. Sứ quân bảo:

- Ông đọc lớn lên xem lão tướng Mạc Cương Hồng nói gì?

Trường Kì mở phong thư, thư chỉ vỏn vẹn mấy dòng viết:

“Bẩm trình Chúa công. Đây là lúc Mạc tôi đáp đền ơn của Chúa công. Thạch trận hay Tửu trận là chỗ tôi trọn được nghĩa với chủ”.

Thư chỉ có vậy! Tính kiệt ngạo của Mạc Cương Hồng quả thật là ghê gớm! Nghị sảnh đã nghe hai trình thư. Cả hai lão tướng đều chỉ nói rõ một điều là hai ông xin được giữ lời nguyện, lại tin là trận của các ông chẳng binh tướng nào bên ngoài lại có thể vượt qua được! Sứ quân càng hoang mang, ngài ngồi thừ. Phu nhân mẹ Sứ quân vốn rất kính trọng hai tướng, liền hỏi:

- Hai ông thấy hai lão tướng thế nào?

Bích Thừa Vu đáp trước:

- Bẩm trình phu nhân cao quý, lão tướng Mộc Đường năm nay già đi nhiều, tinh thần vẫn quắc thước. Các tướng cũng chung một lòng với lão tướng!

Đến lượt Hồ Kính Trung trình:

- Bảm trình phu nhân cao quý, lão tướng Mạc Cương Hồng khi nghe lệnh hỏi của Chúa công, mặt không lộ chút suy nghĩ gì. Ông vẫn lạnh lùng rồi lấy giấy bút viết trình thư như vậy. Lão tướng có bảo với thuộc hạ: “Một chén rượu của ta đủ để cho cả một trời binh hùng tướng mạnh phải ngã. Ta nghe Hoa Lư có Quân sư tài trùm thiên hạ, xem y có uống nổi ly rượu của ta không?” Rồi lão tướng ép thuộc hạ phải uống một chén rượu màu xanh nhạt. Rượu vừa vào khỏi cổ thì thuộc hạ đã chẳng còn biết trời đất là gì, say cực êm mà sâu lắm. Vậy mà chỉ chốc lát là tỉnh được ngay. Lúc ấy lão tướng lại bảo: “Thanh Dật Tửu” của ta là thứ rượu nhẹ nhất, với thế gian thì nó mạnh như vậy, nhưng chỉ một thoáng là người tỉnh ngay. Liệu thế gian này có rượu nào sánh bằng rượu hạng thấp nhất của ta không? Từ đấy, lão tướng chẳng nói gì thêm. Lão tướng sai người đưa thuộc hạ ra về cũng chẳng cho gặp để chào giã biệt!

Vậy là hai tướng đều xin được chiến với Hoa Lư. Việc đã rõ ràng, Sứ quân hỏi tướng Tổng quản:

- Hai lão tướng đã quyết như vậy, ông nghĩ thế nào?

Tướng Bùi Nhật Hướng đáp:

- Bẩm trình Chúa công, hai lão tướng đã quyết như thế, thì tôi ở trong cũng phải sửa soạn phòng khi phải ra quân…

Tướng Tổng quản nói đến đây thì phu nhân mẹ Sứ quân lên tiếng. Bà nghiêm giọng bảo:

- Hai lão tướng quyết chiến, một người nói là cơ hội để đền ơn Sứ quân, rõ ràng là đã lượng sức không hơn được ngoại địch. Một người chỉ tin ở trận của mình muốn thỏa điều ước riêng nhưng không quên là địch có người tài. Thế thì cuộc tranh hùng phần lớn đã thấy là thua thiệt. Thêm bên trong tướng tổng quản phải sửa soạn binh tường phòng khi hữu sự. Như thế là tình hình nửa lợi nửa hại! Lợi, chỉ là hai lời quyết, hại lại là cả sự nghiệp của Sứ quân! Vả chăng, Hồi Hồ ta là đất hai lần phát tích hùng tài. Đến đời Sứ quân một là phải nên đại nghiệp, hai là nếu không lập được đại nghiệp thì cũng không được để cho người tài của đất nước bị tiêu vong. Vì thế ta nghĩ là Sứ quân nên có lệnh cho hai ông ấy thôi không chiến mà cũng không được tự quyết. Phải về ngay phủ đường phục mệnh!

Cả nghị sảnh im phăng phắc, tình hình xem ra thật nghiêm trọng. Binh lửa sắp xảy ra mà thua thiệt thì nhiều phần là về phía Hồi Hồ. Ý quyết chiến mới chỉ rõ ở hai tướng, còn tại phủ đường thì chưa dứt khoát. Nay phu nhân tuy chưa nói rõ ra, nhưng ai cũng hiểu là phu nhân khuyên nên hòa với Hoa Lư!

Nếu muốn hòa, thì phải làm thế nào? Hai lão tướng giữ cửa ngõ quan trọng nếu không ngưng tay thì chẳng bao giờ có thể hòa được. Mà đã ra quân thì sẽ không thắng mà cũng lại chẳng còn đường để nói đến hòa được nữa! Hồi Hồ bối rối, hòa là ý muốn của phu nhân mẹ Sứ quân. Sứ quân vốn nhu nhược trong lúc như thế này càng hoang mang chẳng có ý kiến nào để ứng phó được với tình thế. Nghe phu nhân nói, các tướng im lặng. Tất cả dồn vào nhìn tướng Tổng quản, tướng này lại nhìn sang Cao Xuân Minh Phúc như để hỏi ý kiến.

Cao Xuân Minh Phúc liền nói:

- Bẩm phu nhân cao quý, bẩm Chúa công. Quả thật lời dạy của lão phu nhân thật sáng suốt. Hòa với Hoa Lư thì máu chẳng đổ, lại có cơ hội để cùng thiên hạ cùng đứng trong trời đất. Ta nên xem gương Sứ quân Phạm Phòng Át ngày trước ở Đằng Châu. Còn nếu như các tướng đều tin rằng chiến là thắng thì ta nên ra quân. Nhược bằng không, thuộc hạ dù bất tài cũng xin được đợi lệnh lên đường mang ý lành của lão phu nhân và Chúa công tới doanh Hoa Lư. Dàn xếp việc hai bên thuận hòa với nhau!

Nhìn vào những bước quân hành của Hoa Lư, thật ra các tướng chẳng thể chẳng thấy sức mạnh như thế nào của các binh tướng ấy. Tuy vậy bảo rằng các tướng Hồi Hồ khiếp nhược khi thuận với ý kiến hòa là điều chẳng đúng. Hồi Hồ chiến với Hoa Lư cũng chưa chắc là chỉ một sớm một chiều mà Hoa Lư đã đánh bại ngay Hồi Hồ được, nhưng thắng Hoa Lư thì thật ra chưa có tướng nào lại dám quyết. Trừ hai tướng già ở Đan Phượng và Đồng Lư.

Vì thế, Sứ quân Ngô Nhật Khánh ở Hồi Hồ chấp thuận để cho văn sĩ Trường Kì Cao Xuân Minh Phúc lên đường đi sứ Hoa Lư. Sứ quân sai chọn một trăm cây bạch quyến, tức lụa trắng sản xuất ở Đan Phượng, Phước Thọ; một trăm cân bạch phong lạp tức sáp ong trắng thu ở Sơn Vi; một trăm quả hương thị, tức quả hồng quý đặc biệt hình quả vuông không có hột, vị ngọt mà mềm cũng sản xuất ở Sơn Vi; một trăm quả ngũ liêm tử giải độc trùng thật mạnh, tức là quả khế ở Đông Quan; một trăm cân nam sâm, còn gọi là thổ sâm lấy ở năm địa phương trong hạt; một trăm cân hoàng thảo, thứ cây leo tầm gửi sắc vàng lá nhỏ mà dày, sách Bản Thảo còn gọi là tẫn thảo, hay lục trúc hoặc vương sô, cây này quý dùng làm cống vật, có dược tính rất mạnh chuyên trị chứng ho lâu ngày, hen suyễn, lại dùng làm thuốc để rửa các vết thương độc rất hiệu nghiệm. Sứ quân cho đem loại cây này làm tặng vật đưa sang Hoa Lư cốt tỏ cái ý thuận hòa tốt lành với Hoa Lư, vì trong quân Hoa Lư xuất phát từ vùng núi rừng Hoa Lư có nhiều người bị hen suyễn. Cuối cùng lễ vật là một trăm cây nam trà, tức trà hột ở Lệ Mĩ, hương đã thơm mà vị lại tuyệt vời.

Sứ quân tự tay viết hòa thư gửi Hoa Lư Động chúa Đinh Bộ Lĩnh nói rõ ý lành của mình. Rồi sai Cao Xuân Minh Phúc lên đường ngay.

Trước đây, khi đợi sửa soạn thu thập các lễ vật, tuyển người vận tải lễ vật. Trường Kì Cao Xuân Minh Phúc đã kín đáo gặp tướng tổng quản Bùi Nhật Hướng bàn mọi việc. Tướng tổng quản vốn là người cẩn thận chín chắn, ưa việc thực tế, ghét những việc mê tín cúng bái. Nên thường đối chọi với đạo sĩ Phùng Chuyết Tỉnh, lại bảo là mai kia Hồi Hồ có hỏng thì là vì tay đạo sĩ mê hoặc phu nhân mẹ Sứ quân và Sứ quân. Nhưng dần dà tin nghe Trường Kì Cao Xuân Minh Phúc thì Minh Phúc nói gì cũng nghe. Cho Minh Phúc mới chính là người hiểu mệnh trời, biết hết mọi việc, đã chẳng xa lánh cản ngăn ý đồ bất chính của Minh Phúc lại còn ngầm giúp đỡ. Bày những cách để con gái Minh Phúc là nàng Ngọc Lệ ra sức mê hoặc Sứ quân, đợi chờ cơ hội để ra tay hành động. Đạo sĩ họ Phùng có mơ hồ thấy mưu đồ của bọn Trường Kì, mấy lần khéo léo ngỏ lời cho Sứ quân biết nhưng ngài chẳng hiểu. Vẫn chỉ một mực tin yêu Ngọc Lệ, tin ở lòng trung của Trường Kì. Làm cho đạo sĩ họ Phùng lo sợ tai họa mai sau có thể đến với mình, cho nên khi Trường Kì Cao Xuân Minh Phúc lên đường đi sứ, thì đạo sĩ ở nhà nói hết những nghi ngờ của mình cho Sứ quân nghe. Sứ quân đã chẳng tin lại còn cho là đạo sĩ ghen tức với cha con Trường Kì, sợ mất địa vị. Sứ quân gác ngoài tai những lời nói của đạo sĩ, khiến đạo sĩ thấy nguy không thể ở lại được nữa mới một mình trốn đi. Trời cao đất rộng, đạo sĩ chẳng biết đi đường nào, suy tính mãi sau quyết định mau chân tìm đến doanh Hoa Lư trình hết mọi việc. Lại nói rõ nội bộ Hồi Hồ cho Hoa Lư nghe.

Vạn Thắng Vương thấy thế, hội các tướng lại bàn việc, truyền Quân sư Lê Thảo ứng phó ngay với việc này. Vương bảo:

- Cứ như tình hình đạo sĩ cho ta hay về nội bộ Hồi Hồ. Sứ giả của Sứ quân Ngô Nhật Khánh sắp tới xin hòa, ấy là điều tốt, tránh được việc đổ máu tan xương. Nhưng còn hai thành Đan Phượng, Đồng Lư thì thế nào?

Nhiều tướng muốn xin được cầm quân đi đánh hai nơi ấy, nhưng Vạn Thắng Vương bảo:

- Đồng Lư là hiểm sơn hiểm địa, lại thêm lão tướng họ Mạc trấn ở đấy. Có lời thách hết thảy người trong thiên hạ vượt qua được trấn ải của ông ta, tất ải ấy phải là nơi thế nào? Vả chăng ngày trước đại danh tướng Địch Hồng Hà đã tới đấy, họ Địch tài giỏi là thế mà cũng chỉ tới được cửa ải thì tan quân, mất xác trong trận của Mạc Cương Hồng. Ở mặt phía Tây thì danh tướng đệ nhất quyền gia Bạch Khai Thành xác cũng vùi trong đá núi Đồng Lư, thế thì các ông muốn cầm quân đi lấy Đồng Lư phải tính thế nào? Còn Đan Phượng, lão tướng Mộc Đường là tay cứng cỏi, tài còn hơn cả Địch Hồng Hà. Ngày trước chỉ một trận là phá tan thủy quân viễn chiến của Đỗ Động. Quân ngoài mới chỉ tới được trên sông nước Bạch Hạc đã tan, còn nói gì đến trấn thành Đan Phượng trên bộ nữa. Các ông phải thận trọng mới được.

Những lời nói của Vạn Thắng Vương làm cho nhiều tướng vẫn còn ấm ức muốn được thử tài với hai tướng Hồi Hồ nhưng chẳng dám nói ra, đành hậm hực ngồi đợi nghe lệnh. Vương lại tiếp:

- Hai trấn thành ấy không có chiến thư thách ta, nhưng đường đi của ta. Dù là đã cho Hồi Hồ được hòa rồi, thì cũng vẫn phải đi qua hai nơi ấy để hai mặt vào phủ đường. Vậy Quân sư nghĩ thế nào?

Lê Thảo đáp:

- Bẩm trình Vương. Giả sử phải đánh Hồi Hồ, binh tướng của ta không thiếu sức, nhưng chiến tranh là điều không tránh được thì phải nhận. Nay Hồi Hồ đã cầu hòa, nhưng hai nơi quan trọng nhất thì lại muốn thử sức ta. Ta không thể từ chối được!

Các tướng “ồ” lên như vậy chiến trận là điều phải tới, và ai là người được nhận lệnh đi lấy hai nơi ấy? Tướng nào cũng thầm mong được trao cho cờ tướng.

Quân sư nói:

- Bẩm Vương, hai thành Đan Phượng với Đồng Lư đáng để cho hai tướng trấn giữ hãnh diện thách thức các tướng khác trên thế gian này! Như thế, nếu mở chiến trận thì cả đôi bên tất phải đổ nhiều xương máu...

Vương ngắt lời Quân sư, bảo:

- Hai thành ấy thì Đồng Lư dựng trận ở cả hai phía Đông Tây. Ngày trước Địch Hồng Hà đánh phía Đông gặp kì trận, phía Tây thì Bạch Khai Thành gặp trận đá. Cả hai đều mạng vong, Đồng Lư chẳng thiệt một người quân. Như thế thì Đồng Lư thật lợi hại! Thành Đan Phượng, thì thủy tướng của Đỗ Động kéo thuyền chiến lên mới chỉ gần tới được trước thành Đan Phượng đã tan, soái tướng chết thảm. Tuy rằng hồi ấy Quân sư giúp trói thuyền Đỗ Động để Mộc Đường đốt cháy đạo quân thuyền ấy, nhưng cũng phải nhận là Mộc Đường tinh đời, thấy ngay hành động phải làm. Như vậy, ngày nay ta đem quân đánh hai nơi ấy, Quân sư liệu định sức binh tướng ta đến chừng nào thì thắng được?

Các tướng nghe Vương hỏi Quân sư, hết thảy chăm chú đợi nghe. Đây là câu hỏi các tướng đều thắc mắc. Lê Thảo đáp:

- Bẩm Vương, bình thường thành cao hào sâu, binh nhiều lại được cụ bị mọi mặt, thì hạ một thành phải thiệt vài trăm đến vài nghìn quân. Đan Phượng có cả hai sức thủy bộ, hạ Đan Phượng cũng phải có hai quân thủy bộ, chiến trận sẽ khốc liệt. Còn Đồng Lư, phía trước có kì trận, phía sau có thạch trận, chỉ cần một quân là lấy được Đồng Lư. Tuy thế, ta không thể quên được việc Địch Hồng Hà ngày trước. Vả lại Hồi Hồ đã muốn cầu hòa mà ta vẫn chẳng giữ được thế của binh chiến thắng, ban ơn cho đối phương được buông khí giới chịu hàng, thì việc xin hòa ấy của đối phương làm sao còn được ý nghĩa của nó nữa! Vậy, ta phải thắng ở cả hai thành. Thắng làm sao cho hai tướng ấy phải chịu quỳ gối tâm phục mới được! Các tướng của ta, còn phải chiến trận nhiều, sức còn phải gìn giữ dành vào những nơi đối phương nhất định chẳng chịu hàng, nhất định dùng binh tướng cự lại ta. Vì thế việc nhận lời cầu xin được hòa của Ngô Nhật Khánh, xin để mình tôi vâng lệnh vương đi nhận!

Thật là kỳ tuyệt, hai lần Quân sư đã phá nhạc trận và kì trận của tướng Tiên Du. Bây giờ Quân sư lại đi phá trận phép của Mạc Cương Hồng ở Đồng Lư!

Quân sư tiếp:

- Bẩm, nếu xong được Đồng Lư, thì ta dễ dàng đi thẳng tới phủ đường Hồi Hồ được, dù chẳng cần phải lấy cho xong thành Đan Phượng. Tuy thế, tôi xin cùng với mấy tướng đi lấy Đồng Lư trước, rồi sau sẽ đi Đan Phượng!

Quân sư lại vào chiến trận! Lần trước đã có Lê Hoàn đi cùng Quân sư. Lần này tướng nào sẽ đi cùng Quân sư lên ải Đồng Lư? Tướng nào cũng cầu ước được Quân sư cho đi theo!

Cả hội sảnh lao xao. Quân sư ra hiệu cho các tướng im lặng, thì vừa lúc ấy tin báo vào: “Có sứ giả của Hồi Hồ đến cầu hòa”.

Vạn Thắng Vượng lệnh cho đưa sứ giả vào ngay.

Trường Kì Cao Xuân Minh Phúc bước vào nghị sảnh đèn nến sáng rực, người đông kể đến hơn trăm. Ông theo chân tướng tế sứ Mạc Sa Cảnh đi thẳng lên phía trên, tới trước ghế ngồi của Vương. Trường Kì đã nhìn rõ con người hùng liệt chúa tể Hoa Lư. Mặt Trường Kì vẫn lạnh như băng ông cất tiếng:

- Cao Xuân Minh Phúc, sứ giả của Sứ quân Ngô Nhật Khánh đất Hồi Hồ. Diện kiến động chủ bàn về việc đôi bên nghị hòa!

Giọng nói của Trường Kì lạnh băng. Chúng hào kiệt Hoa Lư chẳng ai lại không lấy làm lạ lùng. Vạn Thắng Vương thoáng kinh ngạc rồi ngài cười thật tươi, đáp:

- Hóa ra là ông người tuyết ngày xưa tắm hồ băng giá, hôm nay tới đây để sưởi cho ấm lại đây phải không? Chủ ông muốn nghị hòa với ta như thế nào? Mà sao lại nghị hòa, hai thành Đồng Lư với Đan Phượng dàn trận đợi ta từ lâu rồi. Các người muốn dụng gian kế chăng?

Trường Kì nghe vương nói thì kinh hãi thầm. Tại sao vương lại biết là hai thành ấy muốn chiến? Trường Kì vẫn bình tĩnh đáp:

- Bẩm động chủ, chiến tranh hay nghị hòa xin được nói sau. Trước hết tôi xin được vâng lệnh chủ sai bảo, dâng thư và lễ vật lên động chủ trước!

Rồi Trường Kì trình thư lên vương, rồi gọi quân hầu mang lễ vật tới. Lần lượt các lễ vật được trình ra, mỗi thứ Trường Kì lại kể rõ lai lịch, giảng kỹ về sự quý giá của nó. Vạn Thắng Vương rất hài lòng, ngài bảo:

- Sứ giả chẳng sợ đến việc sinh tử trong tình hình lúc này, vượt đường xa đến doanh ta, lại đem theo tặng phẩm nhiều như thế. Xét về tín với dũng hơn hẳn Sứ quân. Đi sứ tất tự tin ở tài trí của mình, như vậy trí cũng hơn hẳn Sứ quân. Vào doanh dịch uốn lưỡi tranh luận với người thắng thế là mưu lược phải giỏi, cũng lại hơn Sứ quân. Bao nhiêu cái hơn ấy thêm với việc ngày xưa gặp được thần tiên sao lại chỉ là một thuộc hạ của một người chẳng xứng! Này sứ giả, ông có muốn thay Ngô Nhật Khánh mà chỉ xử việc thiên hạ cho hợp lẽ phải đạo không? Ta thấy ông nên nhân thời cơ mà hành động cho đúng lẽ trời là hơn cả đấy!

Thật là bất ngờ. Chưa biết việc Hồi Hồ xin nghị hòa như thế nào, đã thấy Vạn Thắng Vương bảo sứ giả một việc lớn lao đến như vậy. Cả nghị sảnh hồi hộp đợi xem sứ giả nói thế nào. Về phần Trường Kì, ông cũng không thể ngờ được Hoa Lư Động chúa lại bỗng nhiên nói như vậy. Thái độ bằng giá của ông trong một thoáng cực nhanh tưởng như băng giá hốt nhiên tan mất cả. Rồi ông lại bình thản, giọng vẫn lạnh băng mà rằng:

- Bẩm Động chúa, ngài dạy như vậy là thử lòng tôi chăng? Vả lại, mệnh trời không thể người ở thế gian tự đặt cho mình được. Hôm nay tôi tới đây là vâng lệnh chủ nói về việc cầu hòa. Xin Động chúa chỉ dạy!

Trường Kì miệng nói điều phải, nhưng trong bụng thì lại nghĩ khác. Ông thấy như trong lòng đang mở hội! Vạn Thắng Vương nói ngay:

- Ta không muốn thử gì cả, ta chỉ muốn bảo người ta làm điều phải! Hồi Hồ cầu hòa, ta chấp nhận, ông cứ về dàn xếp bên trong đợi ta đến. Còn hai thành Đan Phượng với Đồng Lư muốn chiến, ta không hẹp lượng từ chối nhận chiến. Như thế ta vào Hồi Hồ vẫn đủ cái nghĩa của người thắng trận, ông vẫn trọn được việc làm phải! Sau Đan Phượng với Đồng Lư ta sẽ báo cho ông biết ngày đón ta ở nơi nào.

Trường Kì nghe Vương nói hoang mang lắm. Tại sao lại có việc Đan Phượng và Đồng Lư thách chiến? Ý muốn của hai lão tướng chỉ có bên trong phủ đường Hồi Hồ biết, tại sao Động chúa lại nói như thế? Bao nhiêu là việc là làm cho Trường Kì mặt lạnh nhưng trong tim gan lại đang nóng như trong lòng núi lửa, chẳng hiểu được sự việc ra sao nữa!

Trường Kì chưa kịp đáp lời Vạn Thắng Vương, đã thấy bên ngoài trình vào: “Có sứ giả của Đồng Lư đến đưa chiến thư”.

Vạn Thắng Vương cho đưa sứ vào. Sứ chính là Thôi Bích Trác thuộc tướng của Mạc Cương Hồng. Trác là tướng giỏi, tính tình chín chắn, kín đáo, ưu học hỏi. Muốn học các trận pháp của chủ tướng nhưng không dám nói ra. Thôi Bích Trác vào trong sảnh thì Trường Kì nhận ngay ra, họ Thôi được đưa thẳng đến trước ghế Vạn Thắng Vương ngồi. Trác kính cẩn trình thư của chủ tướng lên vương rồi nói:

- Bẩm trình động chủ, tôi vâng lệnh chủ tướng đến trình thư, mong chờ động chủ phán định!

Vạn Thắng Vương đã biết ý của Mạc Cương Hồng. Ngài nhận chiến thư nhưng không mở ra, giọng êm đềm bảo Thổi Bích Trác:

- Ta hiểu chủ tướng của ông muốn nói gì rồi, ông cứ về bảo chủ tướng là: Ta sẽ cho người đến tận nơi nhận ải của chính lão tướng Mạc Cương Hồng giao nộp. Để khỏi sai ý muốn hòa hàng của Sứ quân các ông!

Thôi Bích Trác nghe Hoa Lư Động chúa nói thì ngẩn người. Động chúa không mở thư mà đã biết ý của Mạc Cương Hồng! Thôi Bích Trác còn đang ngẩn người thì Vương lại bảo:

- Thôi ông về đi để kịp báo cho chủ tướng ông biết! Bảo với ông ấy là ta muốn tránh đổ máu cho con dân, nhưng sẽ làm để ông ấy được hiểu rõ việc thế gian!

Tướng Thôi Bích Trác ra về. Quân sư bảo tướng Lê Hoàn tiễn ra. Đợi khi Thôi Bích Trác lên ngựa thì kín đáo nói với họ Thôi: “Sứ quân Ngô Nhật Khánh tự biết tình thế, hiểu tình hình nên đã cho sứ đến cầu hòa. Vương đã chấp thuận, nhưng ông về nên bảo để Sứ quân biết ngay là bên trong Hồi Hồ có mưu phản cướp ngôi lập công. Phải đề phòng!” Tướng Trác xin Hoàn nói rõ ai là người mưu phản, thì Lê Hoàn theo lời dặn của Quân sư chỉ đáp mập mờ “Những người làm phản đã ra khỏi phủ đường, ngày về thì chưa biết”. Thôi Bích Trác nhớ lời gấp trở lại Đồng Lư.

Trác đi chưa lâu, đã lại có tin trình: “Lão tướng Mộc Đường ở Đan Phượng có sứ giả đến xin gặp Hoa Lư Động chúa”. Vương lại cho gọi vào nghị sảnh ngay. Sứ giả của Mộc Đường chính là tướng Khúc Bắc Hải. Hải là người giỏi về bộ chiến. Vừa thấy thuộc tướng của Mộc Đường, Trường Kì cũng nhận ngay ra là ai. Khúc Bắc Hải vào trình thư của lão tướng lên Vạn Thắng Vương. Vương cũng không mở thư, bảo:

- Lão tướng của ông là người không biết rõ tình thế, chẳng thông hiểu việc lớn trong thiên hạ. Trấn giữ một ngôi thành con con lại tưởng là đang trấn giữ cả cõi. Cai quản vài tướng ít quân, lại t?