Hồi Thứ Một Trăm Mười Bốn Hồi Hồ hỗn loạn, Vương mở hội
Dàn quân mở trận, lập hôn nhân
Kể lại, sau khi Quân sư ra đi chưa bao lâu thì tin dồn dập trình về Vạn Thắng Vương, rồi Đồng Lư dâng ải. Tướng Đinh Liễn đem quân cùng các tướng ba mặt vào thạch trận, lấy xong An Cận. Tướng Trịnh Tú được lệnh của Quân sư gấp xuống phủ đường làm cho cả phủ đường náo loạn. Suýt chút nữa thì Sứ quân Ngô Nhật Khánh bị văn sĩ Trường Kì Cao Xuân Minh Phúc ám hại. Bên ngoài thì Cao Xuân Ngọc Lệ vợ yêu của Sứ quân tự sát. Bao nhiêu biến động, nhờ có Trịnh Tú với phu nhân mẹ Sứ quân dàn xếp, kịp đón Vạn Thắng Vương vào phủ đường được gọn gàng.
Vương cho ngựa trận nhịp bước thong thả, thật đông các tướng theo sau, đại binh đóng bên ngoài. Trăm họ được biết sự việc, kể từ khi ầm ĩ việc phu nhân vợ Sứ quân tự ải, rồi những biến động trong phủ đường. Sau cùng thì việc Vạn Thắng Vương đem các tướng vào phủ đường. Trăm họ trước đã mấy lần được nghe nói dân chúng đem rước ngài như thế nào. Thế là dân Hồi Hồ cũng lại nô nức bảo nhau mau mau bày bàn thờ, hương án ra ngoài trước nhà để chào đón Vương. Cả một vùng chung quanh phủ đường Hồi Hồ mù mịt khói hương, ngào ngạt mùi hương. Phủ đường hồi hộp đợi chờ Vương.
Khi được tin, tướng Trịnh Tú cùng các tướng Hoa Lư đem hết thảy các tướng phủ đường Hồi Hồ ra tận ngoài xa đón Vương.
Vương thật vui, ngài đi thẳng tới phủ đường. Vừa xuống ngựa, Vương đã thấy một vị nữ lưu có mấy cô hầu theo sau. Phía sau bà lại thấy có một người còn trẻ vai buộc vải trị thương. Người này xem ra phong độ khác hẳn các tướng, cả bọn bước ra đón. Đây chính là phu nhân mẹ Sứ quân và Sứ quân. Bà quỳ gối cúi mặt thưa:
- Cô phụ cùng cô tử xin lạy chào đại Vương!
Vạn Thắng Vương xuống ngựa bảo thị tỳ đỡ phu nhân dậy. Ngài không nói gì, theo Trịnh Tú hướng dẫn đi vào trong phủ.
Vạn Thắng Vương sai thay ghế, ngài ngồi ở ghế gỗ thường. Bảo đem ghế riêng của Sứ quân để mẹ Sứ quân ngồi cạnh ghế của ngài, lại sai đặt ghế bên cạnh phu nhân để dành cho Sứ quân. Không khí trong phủ đường có phần nghiêm trang mà xa hoa sang cả, đèn nến sáng ngời, các tướng đứng hầu hai bên. Sau một lát ngắn ngủi với những tiếng động xê dịch, bây giờ phủ đường im phăng phắc.
Tướng Trịnh Tú bước ra trình rõ mọi việc, rồi thưa:
- Bẩm trình Vương, như thế nhờ phu nhân hiền mẫu của Sứ quân. Cho nên việc trong phủ đường đã được dàn xếp mau chóng!
Sảnh phủ im phăng phắc, hơn trăm cặp mắt không ngừng dồn vào nhìn Vương. Nhân vật hào kiệt đời nay đang cầm trong tay vận mệnh sống chết của bao nhiêu người! Vương nghe Trịnh Tú trình thưa mọi việc, ngài vẫn nghiêm nghị ngồi thẳng uy nghi như pho tượng thần. Lúc ấy, Sứ quân bước ra, ngài lặng lẽ quỳ gối hành lễ, vết thương ở vai làm ngài đau đớn cố nén mà vẫn không được. Sứ quân Ngô Nhật Khánh nói:
- Bẩm trình Vương gia, kể từ ngày hôm nay Hồi Hồ được thấy đấng nhân thần, trăm họ từ đây được hoan lạc. Ngô Nhật Khánh tôi biết tội xin đợi lệnh!
Vương vui vẻ bảo:
- Ông hãy đứng lên, người có lỗi mà nhìn ra được lỗi của mình, ăn năn vì tội lỗi ấy, thì có trường hợp cũng có thể được xem là không có tội! Ta mong rằng ông thấy rõ việc ta làm, hết lòng phù trợ cho ta cũng như trăm tướng khác đã làm. Có thế mới xứng là nam nhi đứng trong trời đất.
Ngô Nhật Khánh lạy tạ vương trở lại chỗ ngồi. Đến lượt phu nhân mẹ Ngô Nhật Khánh bước tới. Bà quỳ ngay xuống, cất giọng thanh tao mà rằng:
- Vạn tuế Vạn Thắng Vương! Cô thiếp từng nghe danh người anh hùng, lại hằng theo dõi bước chân người đi lại trong đại nghiệp thu thiên hạ. Lòng xiết bao kính phục, đến nay mới được thấy mặt trời quả thật quang uy! Cô thiếp xin được lạy mừng đợi ngài ban tội đã không biết dạy bảo con, khiến cho ngài phải vất vả!
Từ lúc vào sảnh đường Hồi Hồ, Vạn Thắng Vương giữ nghiêm thái độ chẳng nhìn ai, chỉ mấy lần nhìn Trịnh Tú trình việc. Ngài đã nhận lạy của phu nhân mẹ Ngô Nhật Khánh lúc ở ngoài cửa phủ đường, ngài cũng không nhìn. Bây giờ, trong sảnh im lặng, trước mặt ngài là người đàn bà đang phủ phục, người đàn bà có giọng nói thanh tao cao quý. Ngài chợt nhớ ra rằng thiên hạ bảo: “Mẹ của Sứ quân Ngô Nhật Khánh góa chồng từ lúc còn trẻ, tuy chẳng còn là con gái nhưng nhan sắc của bà thì lại vô cùng rực rỡ, ít người sánh được”. Nghe bà trình thi Vương vui vẻ bảo:
- Phu nhân hãy đứng lên!
Phu nhân lạy tạ rồi thong thả đứng dậy. Đến lúc này Vương mới thấy rõ dung nhan của bà. Quả thật đây là trang quốc sắc, nhan sắc ấy đã qua thời ngây thơ, đang ở trong thời già dặn mà rực rỡ. Mọi vẻ đẹp lồ lộ hoàn chỉnh ở mỗi phần trên dung nhan ấy khiến cho Vương sững sờ. Các tướng Hoa Lư bây giờ cũng mới được thấy dung nhan của người đàn bà lẫy lừng một cõi phía Nam. Hồi Chúc ở Đằng Châu có vẻ đẹp đáo để mà thông minh, thoạt thấy dễ rung động, nhìn lâu lại thấy có phần thiếu đậm đà. Thi Lạc Phượng vợ của Thần Y Hồ Xích Tú đẹp mê hồn, phảng phất có sức mê hoặc của yêu ma mà lạnh lùng. Sắc đẹp ấy dễ làm cho người ta mơ ước mà sợ hãi. Đến phu nhân mẹ của Sứ quân Ngô Nhật Khánh thì có lẽ sắc đẹp này mới là sắc đẹp toàn bích. Trong cái duyên quyến rũ mãnh liệt lại như chứa đựng sẵn một lò lửa đỏ nồng nàn. Hoàn cảnh lúc này cũng không làm mất đi phong cách kiêu sa nhưng lại có vẻ rất gần gũi của bà. Sắc đẹp này là thứ sắc đẹp một tay hào kiệt dũng mãnh nhưng lại đa tình như Vạn Thắng Vương Đinh Bộ Lĩnh không thể nào thấy một lần mà lại quên được. Sắc đẹp này làm cho con người ta mê mẩn, mơ ước mà kính trọng muốn được nâng niu!
Phu nhân đứng đấy, bà hiểu nhan sắc của bà để chinh phục lòng người. Niềm tự tin ấy giúp bà mở to cặp mắt huyền cực êm chăm chú nhìn Vương. Vương thấy rõ ràng phu nhân tuy nghiêm nghị nhưng lại mỉm cười với ngài. Không biết các tướng có ai thấy nụ cười cực kín đáo ấy không hay chỉ mình Vương thấy.
Vương vẫn lặng đi làm cho phu nhân cũng thấy lúng túng, chẳng lẽ bà cứ đứng mãi ở đấy!? Lúc ấy, văn sĩ Hồ Kính Trung, con người lọc lõi, nổi danh là biết lắm chuyện lạ ở thế gian, mặt trắng nhưng lại có những nét gian giảo. Ông ta vốn là thuộc hạ của Sứ quân Ngô Nhật Khánh được Sứ quân yêu cho ở gần để kể chuyện cho Sứ quân nghe. Trung hay lợi dụng lòng tin yêu ấy của Sứ quân để kiếm lợi, nay tay lọc lõi ở đời nhìn quang cảnh thì hiểu lòng người ngay, liền bước tới thưa:
- Bẩm trình đại Vương, quả thật phu nhân hiền mẫu của chủ tôi vẫn thường ngày đêm ca ngợi tài đức của Vương. Do thế vẫn có lời khuyên bảo chủ tôi, hôm nay quả nhiên lòng thành mong ước của mọi người đã toại nguyện. Hồi Hồ từ nay theo về Hoa Lư, đấy là việc mừng. Xin đại Vương mở đức lớn để Hồi Hồ được vui mừng đổi đời!
Vạn Thắng Vương thấy lời nói của người này thật khôn ngoan, khéo léo, ngài hài lòng lắm, liền vui vẻ bảo:
- Có phải ông là người được thiên hạ gọi là “ông vạn tri” đấy không? Ta khen ông khéo nói! Trên đường ta đi thu thiên hạ, ngay ở những nơi binh tướng của ta phải đổ xương máu, ta cũng vẫn ban cho trăm họ được mở hội vui. Thế thì nay Hồi Hồ biết mà tránh được chết chóc, sao lại chẳng mở hội vui!
Sảnh đường xôn xao, bây giờ thì ai nấy thấy nhẹ nhõm trong lòng, Vương tiếp:
- Sứ quân trước trông nom Hồi Hồ, lại có hiền mẫu chỉ bảo, mọi việc đã có nề nếp. Nay ông cứ tiếp tục việc cũ, nhưng bao nhiêu những xa hoa trong nội phủ, bao nhiêu những bất công ngoài trăm họ, đều phải xóa cho sạch. Có thế, lễ hội mừng ngày hôm nay mới có nghĩa lành được!
Sứ quân Ngô Nhật Khánh gượng đau giữ nét mặt cho vui bước ra tạ ơn Vương. Vương lại bảo:
- Chẳng phải chỉ các tướng là muốn có hội lễ mừng, trăm họ tất cũng muốn được hưởng chung hoan lạc. Vậy hãy cho mở hội ba ngày liền để Hồi Hồ nghỉ ngơi, thu xếp mọi hỗn loạn!
Vương lại sai các tướng làm lễ trọng táng cho phu nhân vợ của Ngô Nhật Khánh. Ngài bảo: “Đấy là người đàn bà tiết liệt đáng trọng, tiếc là hồng nhan chẳng được trời nâng niu”. Rồi đại tiệc mở ra ở phủ đường. Vương cho lệnh hết thảy các tướng đều vào dự tiệc. Lại sai đem ghế bọc gấm trắng đặt ngay cạnh ghế của Vương, để phu nhân mẹ Ngô Nhật Khánh ngồi. Từ đấy Vương có phần săn sóc chú ý nhiều đến phu nhân.
Ba ngày hội mừng vừa dứt, thì tin trình lên Vương: “Quân sư đã dàn xếp xong việc phía Bắc, trình về để Vương biết và mừng Vương đã vào phủ đường”.
Lê Thảo dàn xếp việc ở thành Đan Phượng, sau khi để cho hai lão tướng Mộc Đường với Mạc Cương Hồng ra đi. Quân sư bảo các tướng Hoa Lư:
- Thế là xong việc Hồi Hồ, tế tác của ông Mạc Sa Cảnh kể rõ mọi việc từng ngày, các ông đều đã biết cả. Bây giờ Vương cho mở lễ mừng ba ngày nghỉ ngơi, cũng là điều phải. Các ông ở ngoài xa thiệt thòi, chẳng được cùng dự tiệc của Vương. Thôi thì ta lấy cái vui lên ngựa cầm gươm của người làm tướng, đi tiếp vào thiên hạ vậy! Lúc này, các ông tính ta nên tiếp tục hành động thế nào?
Các tướng Hoa Lư, kể cả các tướng ở các nơi đã bị Hoa Lư chinh phục hay theo về với Hoa Lư. Ông nào nghe Quân sư nói cũng tỏ ý: “Hãy dành cuộc mừng lớn khi đại quân ta vào Cổ Loa”. Vì thế tướng Lê Hoàn nói:
- Thưa Quân sư, ngài nói đúng, tiệc nhiều thì mệt người, việc lớn còn nhiều điều phải làm, vậy ta đợi khi vào Cổ Loa như các ông ở đây đều muốn thế đã! Còn như bây giờ, tôi nghĩ: Binh ta đang lợi thế trận, nên thừa đà cả thắng tiến quân là hay hơn cả. Vừa được lúc quân thanh đang lên, quân khí đang mạnh, không nên bỏ mất tình thế tốt đẹp!
Các tướng nghe Lê Hoàn nói, thì ông nào cũng cho là phải. Quân sư lại hỏi:
- Như vậy, theo ý tướng quân thì ta nên tiếp tục tiến quân như thế nào?
Lê Hoàn như đã có chủ ý, đáp ngay:
- Thưa Quân sư, lúc này ở phía Nam Bạch Hạc chỉ còn một Sứ quân Kiều Thuận ở Hồi Hồ. Ta lại thúc quân hai mặt thủy bộ, tất lấy xong Hồi Hồ chẳng khó!
Quân sư gật đầu, bảo:
- Đúng, vừa không nên bỏ lỡ quân thanh quân khí. Cũng lại không nên làm lệch mất thế trận đang lúc lợi thế quân hành. Đánh Hồi Hồ là phải, bây giờ đã vào đến giữa năm rồi, chẳng mấy nữa sang Thu rồi vào Đông. Nếu ta không kịp thì binh tướng của ta lại phải vất vả với tiết trời giá lạnh. Vì thế ta không chỉ đánh có một mình Hồi Hồ, mà cùng một lúc ta đánh cả hai bờ Bắc Nam dòng Bạch Hạc!
Thật là bất ngờ, binh Hoa Lư sẽ bỏ Đan Phượng lên đánh Hồi Hồ và Tam Đái cùng một lúc! Thịnh sự lại sắp xảy ra. Các tướng nghe Quân sư nói thì bỗng thấy máu chảy mạnh trong huyết quản. Hăm hở lại muốn lên đường ngay!
Quân sư bảo:
- Bây giờ, nếu ta chỉ tiến binh lấy một mình Hồi Hồ, thì rõ ràng là hai sứ cuối cùng ở phía Bắc dòng Bạch Hạc cũng sẽ bị đánh dẹp nốt. Lỡ ra vì lý do nào đấy mà hai sứ hợp binh liên minh được với nhau, thì dù liên minh hợp binh ấy chẳng phá hẳn được đại cuộc của ta, cũng có thể làm cho ta bị khó ít nhiều. Chi bằng cùng một lúc đánh cả hai nơi, sức ta thừa để hành động như thế. Vả lại, lúc này ở phía Bắc Tam Đái ta có đạo quân của tướng Phạm Cự Lượng trấn ở đấy. Làm cho hai Sứ quân Nguyễn Khoan với Kiều Công Hãn đều lo lắng không biết binh ta sẽ đánh nơi nào trước. Đến khi biết thì hai nơi chẳng cứu được nhau. Phong Châu tự biết thế của mình. Tam Đái tự hiểu ngày giờ của mình đã tới! Thêm nữa, từ khi thất bại không thành được kế liên minh các sứ chống Hoa Lư, thì tế tác của ta cho hay: Mưu sĩ Điền Bạc của Phong Châu đã đưa kế lên Sứ quân Kiều Công Hãn, Trường Kì cự chiến lại ta. Tụ tập nhiều binh tướng, thu thập nhiều lương thảo, bên trong xếp đặt lại nội bộ, bên ngoài lập nhiều trấn doanh dựa vào địa thế, đợi chờ mai sau sẽ đưa vào trận. Vì thế ta không thể cùng một lúc đánh cả ba Sứ quân, ta đành để sức chiến với Phong Châu trận cuối cùng vậy!
Nghe Quân sư nói, tướng quân Trương Đức Xuân trước là thuộc tướng của Lê Hiền ở Bình Kiều nói:
- Thưa Quân sư, lúc này binh ta đông, tướng ta nhiều. Tôi nghĩ ta thừa sức cùng một lúc thôn tính nốt ba nơi Phong Châu, Tam Đái với Hồi Hồ. Hà tất phải để cuối cùng mới dốc lực chiến với Phong Châu! Vả lại, mưu kế của Điền Bạc có thể vượt được mưu trí của Quân sư chăng? Lúc này ta đã có ông Lưu Cơ ở Cổ Loa, ta cũng có thể đưa binh tướng tiến từ Cổ Loa đi đánh Phong Châu cũng được! Xin Quân sư xét lại.
Nhiều tướng cũng cho ý của tướng Trương Đức Xuân là phải. Nhưng Quân sư bảo:
- Có thể sức ta cùng một lúc đánh cả ba nơi cũng được. Nhưng “Hai con chuột tranh nhau, phải coi chừng con rắn lớn phía sau”. Ta đánh một nơi thì an toàn mười, đánh hai nơi cùng một lúc an toàn còn năm, đánh cả ba nơi an toàn chỉ còn một! Chiến trận càng lớn, càng gần với đế kinh, càng làm cho thiên hạ thêm náo loạn. Loạn trong đã vậy, giặc ngoài thừa cơ hội tiến binh, thì lúc ấy ta có còn được an toàn phần nào nữa hay không? Vì vậy ta đành chỉ tiến binh đánh một chỗ, nay đánh hai chỗ là vì thế. Ngày nọ, ta gần như cùng một lúc đánh Tế Giang với Siêu Loại. Lúc ấy tình thế khác hẳn bây giờ, hoàn cảnh mở trận cũng khác hẳn lúc này của ta. Lúc ấy ta ở vào thế “Trên đường ra biển, dòng sông cuốn đi tất cả”. Lúc này ta ở vào thế “Hai chân mở rộng, cùng bước đi dễ bị xiêu vẹo”. Nhưng, nếu đánh một mình Hồi Hồ thì lại có phần bỏ phí mất nhiều cái lợi. Nói thế chẳng phải là ta coi khinh Hồi Hồ, mà thận trọng như vậy để nắm chắc tiến là thắng!
Quân sư luận về thế tiến quân làm cho các tướng tuy cho là phải, nhưng có chỗ còn có phần quá dè dặt. Quân sư lại hỏi:
- Vậy nếu đã nhận như thế, thì trước hết các ông đã biết Hồi Hồ với Sứ quân Kiều Thuận như thế nào?
Các tướng, cũng như thiên hạ ở vùng chung quanh dòng Bạch Hạc từ Hát Môn lên đến núi Hạng Đàm, sang đến Hồi Hồ, xuống đến vùng núi Tây Phương, Đồng Lư. Tất cả chỉ biết là Sứ quân Kiều Thuận rất ác độc, nhưng Sứ quân ra sao thì chẳng ai biết rõ. Bây giờ nghe Quân sư hỏi thì các tướng im lặng.
Quân sư nói:
- Kiều Thuận người gốc miền núi, ông cha cũng có mấy đời làm bộ tộc trưởng. Thành ra như thế Kiều Thuận là một hào phú miền núi. Người dân sơn cước quen tục cha truyền con nối làm bộ trưởng, tộc trưởng. Lại thường hay kéo bè kết đảng với nhau, xem con dân trong vùng là tôi tớ thuộc hạ của bộ tộc mình. Kiều Thuận là tay dữ dội, giỏi nghề cung nỏ, giỏi cưỡi ngựa đánh dao. Thừa lúc triều đình suy vị thì nổi lên trước là làm giặc, đón đường cướp của. Sau thế lực mạnh dần thì cũng đua đòi với thiên hạ xưng là một Sứ quân, nổi lên ở Trần Xá, huyện Hoa Khê (sau là Cẩm Khê), cũng có tên gọi nữa là Hồi Hồ. Nhưng chẳng có chí gì hơn là kẻ cầm đầu nơi sơn cước, cho nên chỉ loanh quanh một giang sơn Hồi Hồ, tung hoành giữa vùng núi rừng. Chẳng bao giờ xâm phạm đến các vùng giang sơn của các Sứ quân chung quanh. Vì thế phía Đông được yên ổn không bị Sứ quân Ngô Nhật Khánh nhòm ngó. Phía Bắc có dòng Bạch Hạc ngăn cách với Tam Đái, cho nên Nguyễn Khoan cũng chẳng muốn cất công tranh giành gì với một kẻ như Kiều Thuận. Tuy thế, đánh Kiều Thuận chẳng phải là một việc dễ dàng. Y là người như thế, nhưng dưới trướng lại nhiều thuộc hạ dũng mãnh hung dữ, chẳng xem việc sống chết là gì. Chỉ biết trên đầu mình có chủ, chủ bảo gì cũng nghe. Bên cạnh chủ lại còn có đám thầy mo thầy bùa chuyên nói nhữrg việc ma quỷ, cúng tế. Đám người ấy mê tín ngu dốt, nói không hiểu, giết không sợ chết. Chẳng lẽ ta lại thẳng tay chém giết hết hay sao? Đấy là điều khó!
Các tướng nghe Quân sư nói thì xầm xì bàn tán, nhiều người cho là hạng như thế cứ thẳng tay, chẳng có gì phải thương tiếc. Bàn tán đã nhiều mà cũng chưa biết nên phải đối phó thế nào. Quân sư kể tiếp:
- Ngày tôi vượt Bạch Hạc xuống Nam xem xét mọi nơi, lúc đi vào giang sơn Hồi Hồ của Kiều Thuận thì vừa lúc được thấy một việc. Nay kể cho các ông nghe để biết mà suy nghĩ: “Dòng họ Kiều Thuận mắc phải chứng bệnh không ngặt nhưng khó chịu, ấy là bệnh chốc lở ở đầu. Thuốc gì chữa cũng không khỏi, đời nào cũng bị bệnh này hành hạ. Đến khi Kiều Thuận xưng hùng, nghe nói ở núi Tản Viên có loại cỏ gọi là “vô phong độc dao thảo”, tức là loại cỏ không có gió mà tự nhiên cứ lay động. Sách “Bản Thảo Lập Di” chép cỏ này mọc ở nước Đại Tấn và ở Lãnh Nam. Ngày mồng 5 tháng 5 hái để dùng. Cỏ này đầu như con ve, đuôi như đuôi con chim quạ, có hai phiến mở ra hiệp lại, thấy người thì tự nhiên lay động cho nên mới gọi là cỏ Độc Dao. Cỏ này chuyên trị những bệnh phong ngứa trên đầu và ngứa cả mình. Ở sảnh Tử Vi (tức sảnh Trung Thư đời Đường cũng có cây “Vô Phong Độc Dao Thảo [→22] ” nhưng khác loại ở Tản Viên). Ở Nhã Châu cũng có cây Vũ Thảo một cành có ba lá, lá như cây quyết minh (cây muồng muồng). Người ta đến gần vỗ tay thì lá nó tự lay động như nhảy múa, có người cho loại cỏ Ngu Mỹ Nhân [→23] cũng là loại cỏ Vô Phong Độc Dao ở Tản Viên. Nhưng cỏ Độc Dao ở núi Tản Viên nước ta hai bên lá đối nhau tự xòe ra rồi lại khép lại. Người ta tin rằng trai gái hay vợ chồng đeo lá cây này ở trong mình thì thương yêu nhau thắm thiết suốt đời. Núi Tản Viên được xem là trấn sơn cho nước ta, cao đến 2310 trượng, chu vi đến 48.605 trượng, rừng già âm u, phong cảnh đẹp hiếm có. Núi rừng có đủ loại dã thú đi lại nguy hiểm lắm, thế mà chỉ vì bệnh chốc lở, lại thêm ở ngôi hùng cứ chúa tể một vùng. Thành ra Sứ quân Kiều Thuận chẳng khỏi phạm vào những hành động tội lỗi. Muốn đem cây lá Độc Dao về để chế thuốc ái tình, thu hút hết gái đẹp để ngày đêm hưởng lạc. Sứ quân nghe lời bọn thầy mo thầy pháp, bày đặt lấy lá Độc Dao lập đàn cúng tế, lại nửa đêm ngày bảy tháng bảy bắt trinh nữ lấy máu nơi hai cổ tay để luyện thuốc trị chốc lở. Đem thuốc ấy gói vào trong sáp ong rồi bắt trinh nữ nuốt vào bụng. Thuốc nuốt rồi thì lập tức thắt cổ cho cô gái ấy chết ngạt, để đến giữa Ngọ hai ngày sau, tức ngày chín tháng bảy thì mổ đụng đem thuốc ấy ra mà bôi để trị bệnh. Không biết bệnh có hết không, nhưng chỉ riêng một việc này cũng làm hại không biết bao nhiêu gái đồng trinh. Bọn thuộc hạ thừa cơ bắt gái làm những chuyện dâm ô thật ghê gớm! Rồi đến việc đeo lá Độc Dao trong người, thì Sứ quân lệnh là: Những nhà nào có con gái đẹp, đều phải cho đeo lá ấy, để khi nào cô gái thấy yêu thương Sứ quân thì phải đưa vào để Sứ quân hưởng thụ. Sứ quân hưởng thụ đâu chưa thấy, thấy ngay đại họa cho các nhà ấy! Số là, vợ Sứ quân cũng là người tộc sơn cước. Không có nhan sắc, thành ra vì ghen khi thấy Sứ quân ưa đi lại với gái đẹp, thì bà căm ghét người có nhan sắc. Ngấm ngầm sai thuộc hạ đi tìm mọi cách để phá hoại nhan sắc của các thiếu nữ ấy. Có khi gây ra chết người là sự thường! Ngày tôi vào Hồi Hồ, đúng lúc Sứ quân cho luyện thuốc ma, thuộc hạ của vợ Sứ quân ra tay làm chết mất ba thiếu nữ. Tình cảnh dân Hồi Hồ ngày đêm như sống trong địa ngục, chờ bị ma quỷ hành hạ!
Quân sư mới chỉ nói một việc, các tướng nghe đã thấy lạ lùng. Tất cả ngồi lắng nghe như nghe kể chuyện cổ tích. Quân sư lại tiếp:
- Con người Kiều Thuận đã thế, vợ con thuộc hạ lại như thế, hỏi làm sao dân chúng không khổ? Kiều Thuận một phần nghe thuộc hạ xúi bẩy, một phần cũng tự cho là mình lớn lao, một hôm bảo thuộc hạ: “Ta hùng cứ một giang sơn, Cổ Loa chẳng dám động đến, nhưng đám Sứ quân cùng những hạng giặc cướp, thì có thể chúng chẳng biết trời cao biển rộng là gì. Có khi chúng xâm phạm bờ cõi của ta, vậy phải đắp thành xây lũy đề phòng mới được!”. Rồi Sứ quân cho xây hai thành, một ở Trương Xá, huyện Hoa Khê (tức Cẩm Khê), một ở Phú Lập (Bạch Hạc). Xây hai thành này Sứ quân Kiều Thuận làm cho trăm họ điêu đứng trăm bề. Chỉ một giang sơn con con như thế mà người đời bảo là “Cảnh khổ xây thành cho Sứ quân, thật chẳng khác gì những việc đời xưa người ta phải đi xây Vạn Lý Trường Thành cho Tần Thủy Hoàng”. Lời ta thán đến tại Sứ quân, ngài thản nhiên bảo: “Tần Thủy Hoàng Đế xây Vạn Lý Trường Thành ghi danh vạn đại. Ta xây hai thành sử sách sẽ còn nói đến nghìn năm”.
Quân sư ngưng lại, các tướng xôn xao. Rồi tướng quân Ân Mạnh Thiệu là tướng cũ của Siêu Loại nói:
- Thưa Quân sư, như thế thì đánh Kiều Thuận không khó!
Quân sư hỏi ngay:
- Tại sao ông bảo là không khó?
- Bẩm, Kiều Thuận như thế chẳng qua chỉ là quân cường sơn, cướp đảng. Không lập sơn trại ở trên núi, mà đóng đại doanh nơi đồng ruộng dân cư. Nhất định y không biết phép chiến trận. Cho nên ta đánh chỉ một trận là tan quân cướp ấy!
Nhiều tướng cho lời nói của Ân Mạnh Thiệu là quá đáng, nhưng Quân sư lại mỉm cười bảo:
- Đúng! Đánh Kiều Thuận không khó, có nhiều cách. Hai thành ông ta cho xây dựng, thật ra cũng có công dụng lớn. Ngày ta đi qua, có thấy một tòa là thành Trường Xá, thành đá lẫn đất đắp, ở ngay phủ đường. Đánh được thành này là lấy được phủ đường. Nhưng trước hết phải hiểu phủ đường của Kiều Thuận vị trí như thế nào đã. Sau đấy mới nói đến thành và binh tướng của ông ta.
Phủ đường của Kiều Thuận như thế nào thì chưa có tướng nào đến, cho nên chẳng ai biết. Quân sư nói:
- Kiều Thuận cát cứ ở nơi chung quanh là núi rừng, ít người biết đến. Thành ra ta chỉ được biết nơi ấy theo tin tế tác của ông Mạc Sa Cảnh. Cứ theo như những việc dò la được, thì phủ đường của Kiều Thuận ở ngay trong phạm vi thành Trường Xá. Thành ra như thế nếu phá được Trường Xá là ta phá xong phủ đường.
Thành quách thường thì có lối xây dựng gần giống nhau. Trừ có thành Cổ Loa thì lại đặc cách xây theo hình xoắn trôn ốc. Ta nghĩ rằng: Kiều Thuận như thế, tất y không thể có ý tưởng gì khác thường siêu việt cả. Cho nên thành cũng không ra ngoài cái cách: Bên ngoài là tường thành, bên trong phân chia thành các khu. Tế tác của ta cho hay: Thành Trường Xá có bốn cửa trông ra bốn hướng Đông Tây Nam Bắc. Ta sẽ tiến binh đánh vào ba cửa trừ cửa Đông. Nghĩa là mặt phía Đông là Hồi Hồ của ta rồi chẳng cần phải mở trận. Binh ta theo dòng Bạch Hạc từ Hát Môn xuất phát. Một phần đổ bộ lên rặng Tam Sơn phía Bắc, ý là đánh Tam Đái, nhưng kì thực là chực sẵn ở đấy. Thủy quân ta tiếp tục tiến lên đến chỗ Bạch Hạc chuyên dùng từ hướng Bắc rẽ sang phía Đông. Tại chỗ này binh ta cũng lên phía Bắc Bạch Hạc, tức là đổ bộ lên tả ngạn con sông này. Một phần sức của ta ở lại dưới sông, đợi lúc xuất chiến sẽ bất thần tràn lên chiếm giữ núi Mộng Thất. Từ Mộng Thất binh ta hợp với hai mặt Bắc Nam đánh vào thành Trường Xá, phá phủ đường Hồi Hồ. Không cho Kiều Thuận có đường rút chạy vào núi Tản Viên, dứt hẳn cái họa Kiều Thuận. Mặt Nam, ta từ Hồi Hồ thúc quân đến chặn đường không cho Kiều Thuận có lối trốn vào núi Tây Phương.
Các tướng chăm chú nghe Quân sư nói về các dàn xếp để đánh vào Hồi Hồ. Ông nào cũng mường tượng thấy Sứ quân Kiều Thuận ở đấy chẳng khác nào như con chuột bị giam trong lồng kín, chẳng có chỗ chạy ra. Quân sư lại bảo:
- Thật ra, ta tiến quân không chỉ đánh một mình Hồi Hồ của Kiều Thuận, mà còn đánh luôn cả Tam Đái của Sứ quân Nguyễn Khoan. Đánh Hồi Hồ thì đã vậy rồi, còn đánh Nguyễn Khoan thì thế nào? Về mặt quân bị, ta hiện đã có binh của tướng Phạm Cự Lượng trấn ở phía Nam Bình Xuyên, Bắc Cung Thương. Nhờ có ông Mạc Sa Cảnh với ông Lưu Cơ phao tin là binh ta đánh Phong Châu trước, cho nên Nguyễn Khoan chưa thấy động đậy. Nay Hồi Hồ đã mất, binh ta lên Tam Sơn, đổ bộ Bắc Bạch Hạc đối diện với tòa Mộng Thất Sơn, thì thế nào Nguyễn Khoan cũng phải gấp rút phòng bị. Thành ra vì thế ta phải hành động thật nhanh, thật ăn khớp với nhau ở các mặt!
Chiến trận xem ra lớn lao. Như thế thì tất nhiều tướng được vào trận. Quân sư bảo:
- Ông Nghi Bá Tường đưa quân thủy ngược dòng đi lên. Ông làm sao để đủ thuyền chiến chở được ba mươi ngàn quân bộ chiến. Lại phải phòng sẵn lấy mười nghìn quân kị, để khi cần thì ta đưa quân ấy lên bộ phía Bắc được ngay. Trong ba mươi ngàn binh bộ chiến ấy, thì mười nghìn đổ bộ Tam Sơn, mười nghìn lên phía Bắc Hồi Hồ, mười nghìn lên Mộng Thất Sơn. Cùng đi phụ trợ cho tướng Nghi Bá Tường là các tướng Đào Long Vân, Vũ Mạnh Đạt, Đỗ Trường Tồn.
Quân sư cắt bốn tướng giỏi nghề thủy chiến của các Sứ quân cũ điều động quân thuyền. Là vì trong lần xếp đặt này, tuy đánh Hồi Hồ chẳng mấy quan trọng, nhưng Quân sư muốn sau đấy thì thúc đại quân tiến lên phía Bắc. Cho nên mới cho nhiều tướng vào trận, cũng là để cho các tướng từ khi theo về với Hoa Lư cũng được dự phần lập công ở những trận quân hành lớn.
Còn trên bộ, Quân sư cử tướng quân Lê Hoàn mang mười nghìn binh đánh cửa Nam. Có các tướng Khúc Việt Thư, Quách Cước Đồng đi phụ trợ.
Quân sư lại sai tướng trẻ mặt đẹp tài hoa là Triệu Đằng Long, tướng cũ của Sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp ở Tiên Du. Đi cùng thủy quân, rồi lĩnh trách nhiệm đưa mười nghìn quân đổ bộ phía Bắc sông Bạch Hạc, chỗ đối diện với Mộng Thất Sơn. Nhưng dặn: “Chỉ khi nào được tin đã xong phủ đường Hồi Hồ. Lúc ấy mới đem quân đổ bộ, rồi đợi lệnh sau”.
Các tướng nhận lệnh. Quân sư bảo:
- Ta không muốn để phí mất nhiều lợi thế sau khi xong việc Hồi Hồ. Cho nên phải xếp đặt binh tướng gấp. Thành ra chưa trình lên để Vạn Thắng Vượng được rõ. Tuy nhiên, ngay sau hội nghị này, tướng quân Mạc Sa Cảnh sẽ cho trình tin về ngay, và ta đợi các ông sửa soạn xong thì cũng về phủ đường Hồi Hồ để lạy mừng Vương!
Quân sư chưa kịp trình Vương, thì đã có tế tác giục ngựa vượt đường, căng cơ hỏa tốc đến trước doanh xin vào trình tin gấp. Quân sư nghe báo giật mình, không biết có việc gì quan trọng mà tế tác phải gấp rút đến như vậy? Tướng Mạc Sa Cảnh vội vã ra nhận tin, rồi ông trở lại, mặt tươi tỉnh, trình Quân sư:
- Bẩm trình Quân sư, hỉ sự, hỉ sự! Vương vào phủ đường Hồi Hồ, sai bảo mọi việc, lại nặng lòng thương yêu mẹ của Ngô Nhật Khánh. Cho nên ngài đã quyết định là đem phu nhân đặt làm hoàng hậu mai sau! Tế tác vâng lệnh tướng quân Trịnh Tú gấp trình để Quân sư rõ, xem xét lợi hại thế nào!?
Mạc Sa Cảnh cũng trình lên Quân sư một phong thư thật lớn của Trịnh Tú trình rõ mọi việc. Thư của Trịnh Tú nói rằng:
Vâng lệnh tin, Trịnh Tú mang quân gấp rút xuống lấy phủ đường Hồi Hồ. Trên đường vào phủ trăm họ chen nhau chạy giặc, bồng bế nhau gấp bỏ phủ đường tránh ra xa. Tin cho hay là binh Hoa Lư sắp tràn đến, bên trong phủ đường Sứ quân đã có biến lớn. Lại nghe trong dân gian ồn ào, đồn lớn là vợ yêu của Sứ quân đã tự ải, Sứ quân đã bị giết. Trịnh Tú kinh hãi, sai quân giữ một số dân lại để hỏi về các tin đồn. Tú lập tức ra lệnh cho quân trấn giữ các nơi, chặn dân chúng lại. Bảo cho biết binh Hoa Lư không bao giờ chém giết dân chúng. Bây giờ binh Hoa Lư vào phủ đường nhận phủ vì Sứ quân đã đầu hàng. Tú lại ra nghiêm lệnh sai đem ra chỗ kẻ chợ chém đầu bốn tên lưu manh, thừa cơ hội dân chúng náo loạn để cướp phá bạc vàng của dân, hãm hiếp phụ nữ. Rồi Trịnh Tú đem quân vào thẳng phủ đường. Lúc ấy đúng vào tại đại sảnh đang náo loạn lớn với việc Trường Kì Cao Xuân Minh Phúc toan giết Sứ quân. Trịnh Tú dàn xếp việc vừa xong thì Vạn Thắng Vương tới. Vương đã hiểu dụ Sứ quân cùng các tướng Hồi Hồ. Ngài lại cho mở tiệc mừng, cho cả Hồi Hồ được ba ngày mở hội vui chơi ra sao, Trịnh Tú nhất nhất thuật đủ mọi chuyện. Rồi Quân sư đọc lớn đoạn Trinh Tú trình bảo là điều Trịnh Tú lo lắng nhất, vì không biết sai đúng hay hậu quả sẽ thế nào. Đoạn này Tú viết:
Mẹ Sứ quân Ngô Nhật Khánh bao nhiêu tuổi thì không thể nào nhìn gương mặt mà đoán được. Cứ xem như Ngô Nhật Khánh lúc ấy tuy chưa là già nhưng cũng phải là người chững chạc. Như thế thì bà bao nhiêu tuổi? Tuy vậy, nhan sắc của bà lại thật rực rỡ, tươi nhuận đến con gái cũng phải thua xa. Nhan sắc ấy già dặn mà rất quyến rũ trong sạch. Vương gặp thấy chắc là vừa lòng ngay, ngài tỏ ra thật ân cần săn sóc đến phu nhân. Trong những buổi tiệc bao giờ Vương cũng để phu nhân ngồi bên cạnh, từ trong lời nói đến cử chỉ Vương đều tỏ ra thật ưu ái quyến luyến phu nhân. Việc này chẳng ai là không biết. Chính phu nhân thì cũng tỏ vẻ vui mừng được gặp Vương. Rồi Vương có hỏi ý Trịnh Tú cùng các tướng Hoa Lư, Vương nói:
- Ta vì việc lớn liên miên chinh chiến, gác bỏ việc riêng. Cách đây chẳng lâu, trên sông gặp được Phượng Mai quận chúa, đã tưởng là trên đường trường chinh lại gặp được bạn đời. Thế mà chẳng hiểu vì đâu duyên mới bén tự dưng quận chúa lại bỏ đi biệt tích, trong lòng ta vẫn tưởng nhớ buồn phiền. Đến nay, vào Hồi Hồ gặp phu nhân mẹ của Ngô Nhật Khánh thì ta chắc là trời cao đã định. Ta với phu nhân hẳn là phải có duyên nợ với nhau từ kiếp trước. Cho nên nhân việc vui này, ta muốn thành thân với phu nhân. Trước là để trấn an Hồi Hồ, giữ cho Nhật Khánh cùng các thuộc hạ của ông ta không có gì phải nghi ngại nữa. Sau là vững thêm được thế hợp nhất, góp lực đi nốt cuộc trường chinh thu giang sơn về một mối. Các tướng nghĩ có là việc tốt lành không?
Vương vừa dứt câu hỏi, tức thì các tướng đều nhất tề hô vang: “Vạn tuế Vạn Thắng Vương!” Các tướng vui mừng tỏ ý cho là việc làm của Vương không có gì sai lạc. Vương vui vẻ chọn Phụng Trì Cung ngoại hiệu là Tiểu Thần Tiên, vốn là mưu sĩ của Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc ở Đỗ Động trước, hợp cùng với văn sĩ Hồ Kính Trung của chính Sứ quân Ngô Nhật Khánh đứng ra đem một trăm cây lụa quý, vàng ròng hai mâm, lại thêm nhiều phẩm vật quý nữa vâng lệnh Vương đi làm mai.
Vương sai Phụng Trì Cung đi, ấy là vì Cung là người đọc sách, tính tình thận trọng, làm việc biết suy nghĩ. Còn Hồ Kính trung là tay lọc lõi ở đời, giỏi nhiều chuyện, khéo nói, là người cũ của Sứ quân thì chắc là giỏi mồm mép. Thế nào cũng xong việc.
Các tướng mừng vui với hỉ sự, một mình Trịnh Tú thì lại xem việc này là quan trọng. Bởi vì Tú thấy trong thái độ của Sứ quân Ngô Nhật Khánh có gì lộ ra vẻ không bằng lòng. Vì thế Trịnh Tú không biết việc này ra sao, nên vội cho người trình về để Quân sư biết mà định liệu, dàn xếp.
Quân sư đọc xong, bảo các tướng:
- Việc lấy vợ lấy chồng là việc bình thường ở đời, nay Vương vào Hồi Hồ rồi lấy vợ thì cũng là việc bình thường mà thôi. Duy, có chỗ không bình thường là: Phải chi vương thư thả, đợi đến lúc đại cuộc đã xong, an định việc nước rồi để quần thần dâng lời có phải là tốt đẹp hơn không? Tuy thế, việc tình yêu ở đời lại không phải là việc lý luận mà xong được. Cho nên xưa nay việc tình ái đã xảy ra nhiều tình sử lạ lùng. Việc Hồi Hô hôm nay, cứ theo như mắt nhìn của ông Trịnh Tú, thì có vẻ Sứ quân không bằng lòng. Có thể Trịnh Tú nhìn đúng! Ngô Nhật Khánh vừa thất bại lớn, tan nát sự nghiệp, mẹ lại vào tay kẻ địch. Nếu như việc này mà lại ép buộc thì mới thật tai hại hơn nữa. May còn có chỗ Tú nói là chính phu nhân cũng tỏ ý vui thuận, thế thì ta cứ cho là không có gì nguy hại. Chỉ có việc không vui của Ngô Nhật Khánh, Khánh lại vừa mất người vợ cực yêu trong lúc sự nghiệp tan nát, tất là mối buồn lại càng buồn hơn nữa. Ta có nghe Vương có người con gái nhan sắc cũng tốt tươi. Nay nhân việc tốt lành này các ông nên cùng nhau khuyên Vương đem nàng ấy gả cho Nhật Khánh thì là một điều tốt đẹp đấy!
Các tướng nghe Quân sư đọc thư tình của Trịnh Tú lúc gay cấn, lúc vui với những chuyện lạ, lúc lại hồi hộp với việc không ai nghĩ tới. Rồi lại đến việc đem con gái Vương gả cho Nhật Khánh thì các tướng cười vang. Ai cũng cho là ý hay, tất cả đều cùng nhau xin Quân sư tạm hoãn việc quân, kéo nhau về phủ đường Hồi Hồ dự việc vui của Vương. Xem việc Vương đem con gái gả cho Ngô Nhật Khánh.
Quân sư bảo:
- Các ông muốn thế cũng được, hỉ sự thì chẳng nên xa lánh, đi dự một lần cũng là hay! Tuy thế, nếu ta ngưng binh, tất các nơi có thể có hành động lỡ ra nguy hiểm thì sao. Vậy nên phải xếp đặt trước mới được!
Rồi Quân sư bảo tướng Mạc Sa Cảnh cho ngay tế tác về phủ đường Hồi Hồ, gọi Thẩm Thụy Hùng người ở Hồng Châu, nguyên là văn sĩ của Sứ quân Ngô Xương Xí ngày trước tới nghe lệnh Quân sư. Quân sư bảo họ Thẩm trước hết gấp vào Hồi Hồ, cứ thế cứ thế mà làm, rồi lên Tam Đái, cứ thế cứ thế ra tay hành động…
Thẩm Thụy Hùng cùng với Mạc Sa Cảnh vâng lệnh lập tức đi dàn xếp. Quân sư bảo các tướng ai công việc nào thì hãy xếp đặt cho được yên ổn việc mình, giữ kín không cho quân biết là mình sẽ vắng mặt trong quân. Các tướng nghe lệnh thì vội bắt tay vào việc, quân chuyển động như thể định trấn lại lâu ngày. Chắc còn phải lâu lắm mới lại có việc binh đao.
Hai ngày sau, Quân sư lại nhận được khẩn trình của tướng Trịnh Tú, nói rằng: Vạn Thắng Vương quyết định vào ngày rằm tháng Sáu này thì làm lễ thành hôn với phu nhân mẹ Ngô Nhật Khánh. Quân sư nghe trình tính toán lại thời gian, vừa đúng lúc tướng tế sứ Mạc Sa Cảnh về trình: Mọi việc ở Hồi Hồ, Tam Đái đã bắt đầu. Quân sư hài lòng lắm, triệu tập tất cả các tướng, bảo các tướng lên đường về phủ đường Hồi Hồ. Lúc ra đi người nào có trách nhiệm trong quân thì hãy cẩn thận. Các tướng khác thì cùng với Quân sư cùng đi, lại bảo tướng Mạc Sa Cảnh cho tăng tế tác đi lại khắp nơi coi chừng có biến động gì chăng. Rồi cả bọn lên đường hôm ấy là ngày mười bốn tháng Sáu, ngày mai là ngày Vương chọn để mở lễ thành hôn của ngài.
Chiều tối, cả bọn về đến phủ đường, quang cảnh thật vui mừng khác lạ. Xem ra chẳng có dấu tích gì là nơi đây vừa xảy ra những biến động kinh hồn có cả máu đổ thịt rơi. Trăm họ chăng đèn kết hoa, bày cả hương án ra trước nhà, khắp nơi mở hội tiệc rượu tưng bừng. Quân sư làm như khách ở xa mới tới không biết, hỏi thì dân bảo: “Vạn Thắng Vương anh hùng trong thiên hạ, vào ngày trăng rằm thì thành hôn với mẹ Sứ quân. Cho nên bá tánh cũng được vui lây mở hội rượu chè tha hồ vui mừng”.
Nhìn quang cảnh khắp nơi, các tướng cũng thấy trong lòng náo nức. Lễ hội mừng này rõ ràng chẳng phải là của riêng ai, nhưng Quân sư lại ra chiều suy nghĩ.
Vào đến phủ đường, tin trình lên. Vương đích thân đem các tướng ra đón Quân sư. Vừa thấy Vương, các tướng đi cùng Quân sư đã nhất tề hô vang mừng việc đại hỉ, rồi lại hô “vạn tuế” rầm rầm. Bốn ngày trước, binh tướng Hoa Lư vào phủ đường Hồi Hồ, mọi việc xáo trộn, rồi im lặng lại. Đến việc Quân sư cùng các tướng về, phủ đường đang lại chộn rộn với việc Vương làm lễ rước phu nhân, bây giờ càng thêm chộn rộn. Ngô Nhật Khánh được tin cũng vội mặc áo đến ngay. Phu nhân cũng sai tì nữ sửa soạn kiệu hoa để bà đến phủ đường gặp Quân sư của Hoa Lư, người bà từng nghe thiên hạ nói đến nhiều lắm.
Phủ đường chiều hôm ấy gần như chẳng còn thiếu một người nào. Quân sư đáp lễ ngần ấy người phải thật lâu mới hết, thì đã lại được tin Sứ quân Ngô Nhật Khánh tới. Quân sư phải xin phép Vương ra tận cửa phủ để đón Sứ quân.
Vừa thấy mặt Sứ quân, nghe Sứ quân cất tiếng chào, Quân sư chợt thấy xúc động tâm linh. Ông hơi nhíu mày rồi tươi tỉnh lại ngay, nhưng thái độ ấy của Quân sư thì tướng tế sứ Mạc Sa Cảnh cặp mắt cực tinh tường đã nhận thấy.
Quân sư đưa Sứ quân vào phủ, ông để cho Vương chỉ chỗ ngồi cho Ngô Nhật Khánh. Vương sai lấy ghế để Khánh ngồi phía bên trái Vương, bên phải là ghế Quân sư.
Quân sư nói:
- Bẩm trình Vương, vì bận các việc ở phía Bắc, cho nên mãi đến tận hôm nay các tướng cùng với tôi mới về được. Trước là mừng Sứ quân bình an, sau mừng việc Vương tốt đẹp.
Quân sư nói mơ hồ không rõ ra việc gì cốt để thăm dò thái độ của Vương cũng như của Ngô Nhật Khánh Vương nghe Quân sư nói thì cười thật tươi, còn Ngô Nhật Khánh thì nói:
- Tôi xin được phép thưa trước Vương, tôi ở Hồi Hồ mù mịt nhưng vẫn nghe đại danh ngài. Hôm nay được gặp ở đây thật là vạn phúc, quả nhiên ngài là bậc nhân thần!
Quân sư hết sức bình tĩnh đáp:
- Đa tạ ngài quá lời khen, tôi làm mọi việc chỉ là làm theo lệnh chủ là Vạn Thắng Vương sai bảo. Việc có nơi an bình, có nơi náo động, như ở phủ đường này tôi có nghe ngài gặp đôi chút xáo trộn. May nhờ phúc lớn nên vẫn bình yên, chỉ tiếc một điều là phu nhân chẳng hiểu vì sao lại quy tiên như thế? Tôi xin kính cẩn trình lòng thương tiếc lên ngài, cầu chúc cho linh hồn người đã ra đi được thanh thản.
Quân sư cố tình nói đến việc vợ Ngô Nhật Khánh tự sát, để xem thái độ của ông ta thế nào. Ngô Nhật Khánh lạnh nhạt đáp:
- Đã đành sống chết ở đời là có số cả, nhưng nếu gió không thổi thì lá xanh không bị bắt, nước không chảy làm sao con thuyền lại bị tuột dây trôi đi được! Việc đã qua rồi có nói lại nhiều đến đâu cũng chẳng lấy lại được, nhưng nỗi niềm thì chẳng thể nói là đã qua. Đa tạ ngài chúc lành!
Phu nhân xuống kiệu, bà thong dong bước tới. Quân sư tấm tắc ngầm khen trong lòng, lại mừng Vạn Thắng Vương khéo chọn người. Quân sư vòng tay thi lễ, rồi nói:
- Thưa phu nhân, hàn sĩ ở Bồ Điền nghe danh bậc quốc sắc từ lâu. Nay mới được diện kiến, thật là vạn hạnh!
Phu nhân mỉm cười, mặt rạng rỡ. Bà cũng thầm xúc động trước con người lẫy lừng tên tuổi với những hành động biểu lộ một trí tuệ vô song. Trong lòng bà vui mà chợt có suy nghĩ.
Phu nhân vào sảnh, Vương đã sai mang thêm ghế đặt bên cạnh ghế của Quân sư. Ghế ấy dành cho phu nhân mẹ Ngô Nhật Khánh. Quân sư thấy thế liền tự tay nhấc ghế thay đổi, để cho ghế của phu nhân thay chỗ ghế của mình. Như vậy Quân sư ngồi hẳn ra bên ngoài, thành ra Vương ngồi ở giữa. Hai bên là hai mẹ con Ngô Nhật Khánh.
Khi mọi người đã an vị. Quân sư nói:
- Bẩm trình Vương, hôm nay tất cả các tướng cùng với tôi hội ở đây, mừng việc vui mừng của riêng vương. Cầu chúc ngài ngoài sớm xong được việc lớn đất nước, trong toại nguyện gặp được thần tiên trong cuộc đời. Bẩm trình Vương, tôi nghe người xưa nói: “Con chim có thể chọn được cây, chứ cây kia làm sao mà chọn chim được”. Ấy là việc người xưa quyết định về việc lựa chọn chủ đề thờ. Chim có thể bỏ cây cao có ma quỷ ẩn nấp để bay vào bụi cây thấp che phủ cho miếu mạo đền thờ. Cũng bởi thế các tướng mới cùng hội lại hôm nay để mừng Vương đã quyết định chọn người trăm năm xứng đáng. Thế mới biết nơi chiến trận cũng chẳng phải là chỉ có việc tang tóc, mà tùy ở đức của bậc chủ tể. Cho nên trong chiến trận vẫn có việc phúc là vậy!
Các tướng nghe Quân sư nói dứt, thì nhất loạt hô to “Vạn tuế Vạn Thắng Vương!” Sảnh đường ồn ào với những lời nói mừng Vạn Thắng Vương. Vẻ mặt Vương rạng rỡ, ngài thật vui. Mấy tay văn sĩ ưa đọc sách, mấy lão tướng nghe Quân sư nói, thì cho là trong những lời nói ấy Quân sư hàm ý gì quan trọng. Các ông đều để tâm, nhớ để đợi khi nếu đúng thì thế nào cũng có việc trong mai sau.
Phu nhân mẹ Ngô Nhật Khánh nói:
- Bẩm trình Vương, thưa các ông. Vương được các ông hết lòng theo phò, đại nghiệp dù chưa trọn vẹn cũng đã rạng rỡ khắp cõi Giao Châu ta. Nhờ thế mà binh tướng của Vương đến Hồi Hồ lại một lần nữa tỏ rõ đức lớn của người quân tử thắng mà lại thi ân bố đức chứ không thị uy hành động mạnh bạo. Vì thế chẳng riêng một mình Hồi Hồ là chịu ơn sâu nặng của Vương. Cả cõi Giao Châu này rồi đây sẽ được hưởng ơn phúc lộc Vưởng ban. Nhân buổi vui ngày hôm nay, tôi lại xin trình Vương, đợi lệnh ngài ban ơn cho tôi được quyết định về việc của tiện nữ!
Các tướng chưa hiểu ý phu nhân, Quân sư hơi nhíu mày. Quân sư có nghe nói Ngô Nhật Khánh có người em gái nhan sắc cũng thật mặn mà. Nghe phu nhân nói thì Quân sư chợt thấy có gì khác thường trong lời nói. Bởi vậy Quân sư mới vui vẻ thưa:
- Bẩm trình Vương, bẩm phu nhân, quả thật phu nhân cao kiến! Cũng vẫn lại “con chim tìm cây mà đậu”. Bởi vậy tôi xin được thay cho hết thảy các tướng trước là mừng Vương và phu nhân, sau là đón nhận minh ý của phu nhân…
Phu nhân gương mặt đã rực rỡ, lúc này lại càng rực rỡ dẹp bội phần. Bà bảo:
- Hay lắm! Quân sư quả thật là người “chưa đi đã tới, chưa nghe đã hiểu”. Tôi thật hết sức vui mừng!
Tất cả mọi người lại vẫn chẳng hiểu câu nói của phu nhân mang ý nghĩ như thế nào, mà câu nói của Quân sư ra sao để phu nhân lại vui mừng mà nói như vậy?! Ý của phu nhân chỉ mình bà biết, bà hiểu. Khi nghe Quân sư nói bà mừng rỡ vô cùng, cho là ý của bà đã được con người thông minh tuyệt vời Lê Thảo hiểu ngay, và ông đã thuận với ý bà. Quân sư vẫn vui vẻ thưa:
- Bẩm trình Vương, quả nhiên ý tốt lành của phu nhân đã rõ, việc lành thật chẳng khác nào như trời đã trong lại thêm có gió mát! Bẩm trình Vương, thưa các ông. Tôi xin được mạn phép phu nhân nói rõ ý của phu nhân ra để mọi người cùng mừng với tôi...
Vạn Thắng Vương cùng các tướng chẳng hiểu phu nhân và Quân sư đối đáp với nhau những chuyện gì. Bây giờ thấy Quân sư nói là xin nói rõ ý của phu nhân, thì Vương bảo:
- Tốt lắm, vậy Quân sư nói mau đi?
Quân sư trịnh trọng:
- Bẩm trình Vương, thưa các ông, trước kia tôi có nghe thiên hạ nói nhiều lắm về việc: “Sứ quân Hồi Hồ có người em gái hương trời sắc nước. Sứ quân chưa gả cho ai có ý còn đợi người anh tài”. Nay phu nhân giữa hội có nói rõ ý muốn đem lệnh ái trao cho...
Đến đây thì cả sảnh chợt bừng lên ồn ào, các tướng tranh nhau bàn tán. Bây giờ mọi người bật hiểu những gì phu nhân và Quân sư đối đáp, ai cũng cho là phu nhân chọn Quân sư mà trao cho người quốc sắc. Và chính Quân sư trước đã nói tỏ ý mong được mọi người cùng mừng với ông. Phải một lúc sảnh đường mới im trở lại được. Vạn Thắng Vương gương mặt thật vui, ngài nhìn phu nhân với tất cả nỗi niềm âu yếm, rồi lại nhìn Quân sư với ánh nhìn thật hiền từ.
Quân sư nghiêm trang tiếp:
- Bẩm trình Vương, tôi xin được mạn phép thay phu nhân nói rõ ý của phu nhân. Thưa các ông, tôi xin các ông hãy cùng mừng với tôi việc tốt lành này. Ý phu nhân muốn đem tiểu thư, lệnh ái muội của Sứ quân Ngô Nhật Khánh, trình và xin phép Vương trao tiểu thư cho đại tướng trưởng tử của Vương là Đinh Liễn!
Thật là bất ngờ! Cả sảnh đường ầm ầm với tiếng hô to mừng tướng Đinh Liễn. Đinh Liễn lúng túng, tính ông vốn ít nói bây giờ càng thêm khó khăn. Tướng quân cứ đỏ mặt, mặc cho các tướng xúm xít tranh nhau chúc tụng. Trên kia, gương mặt Vương rạng rỡ, nhưng nếu có ai để ý sẽ thấy phu nhân không được vui. Dường như ý đúng của bà không phải là như thế, nhưng bà không làm sao cải chính được đành phải cười gượng. Bên ghế kia, Ngô Nhật Khánh vẻ mặt lại càng không vui hơn mẹ, ông có điều gì ấp ủ trong lòng!
Vẻ mặt của phu nhân và Ngô Nhật Khánh hình như chỉ một mình Quân sư là nhận thấy. Quân sư vẫn thản nhiên cùng các tướng nói lời mừng Đinh Liễn. Rồi Quân sư thưa với Vương:
- Bẩm trình Vương, hôm nay mười tư, ngày mai trăng rằm tháng Sáu. Sách thiên văn bảo rằng “Rằm tháng Sáu đúng giữa năm, ấy là lúc âm dương, trời đất giao hội. Lành thay!”. Vậy xin Vương ban lệnh để các tướng nhân đã về đây mừng việc Vương. Cũng lại được mừng luôn việc của tướng Đinh Liễn!
Vương rất hài lòng, ngài bảo:
- Ta cảm ơn phu nhân đã nghĩ đến ta mà hành động thật ý nghĩa như vậy! Mai sau, khi đại nghiệp cánh thành, lúc ấy ở Cổ Loa phu nhân sẽ là hoàng hậu của ta!
Phu nhân như đóa thược dược mới nở, mặt hoa đẹp đến say đắm lòng người. Bà nhìn Vương với tất cả nỗi lòng kính yêu vô hạn.
Dưới kia, các tướng vẫn còn đang chộn rộn, chen nhau đến chúc mừng Đinh Liễn.
Nhân lúc đông người lộn xộn, tướng tế sứ Mạc Sa Cảnh đến bên Quân sư đang lẫn trong đám đông. Khẽ hỏi:
- Thưa Quân sư, việc này là thế nào?
Quân sư nói ngay:
- Ta xem ý Ngô Nhật Khánh không vui về việc mẹ y, sợ rằng có chuyện không hay gì chăng. Cho nên mới phải buộc lòng cột thêm nữa để tránh mai sau chẳng lành chăng?
Mạc Sa Cảnh băn khoăn hỏi:
- Quân sư có thể vắn tắt việc chẳng lành ấy cho tôi nghe được không?
- Ông là người phải biết tất cả, vậy tôi phải nói. Trên đời này chưa có người thua trận nào đang cay đắng đủ điều, lại còn bị tướng địch lấy mẹ mình làm vợ, lại có thể giữ cho lòng yên ổn để chỉ thấy có điều mừng. Ngày trước, lúc Tào Thừa tướng nước Ngụy đi đánh Thục Ngô, thắng trận lại tư thông với chị dâu góa chồng của tướng giữ thành. Khiến tướng ấy căm hận nổi loạn suýt chút nữa thì Thừa tướng mất mạng, làm chết mấy tướng, thiệt bao nhiêu quân. Nay Vương lấy mẹ Nhật Khánh, làm sao Khánh chẳng hận thêm trong lòng được! Ông cần phải biết để đừng lọt mắt không biết một việc nào cả nhé!
Mạc Sa Cảnh lo lắng:
- Như vậy, Quân sư có cách gì để làm cho Ngô Nhật Khánh quân hận được không?
- Ông nghĩ cách nào?
- Ta không thể làm điều bất nhân, bất nghĩa giết Nhật Khánh được!
- Thật đúng! Không bao giờ ta được phép làm như thế cả! Nhân tiện việc “Con chim tìm cây mà đậu. Chứ chẳng có việc cây lại tìm chim”. Ta sẽ lựa cơ hội để làm tiếp việc đã rồi!
Mạc Sa Cảnh hỏi vội:
- Thưa, Quân sư định làm tiếp việc như thế nào?
- Ta biết Vương có con gái, nhan sắc tuy không phải là hạng quốc sắc thiên hương, em của ông Liễn. Ta cột cô ta vào với Nhật Khánh để chặn hậu họa có được không?
Mạc Sa Cảnh mừng lắm, đáp:
- Thưa, tôi nghĩ là được lắm chứ! Sao Quân sư không nhận việc vui mừng ngày hôm nay. Thi hành nốt việc ấy đi có hơn không?
- Ta e thiên hạ dị nghị điều gì chăng?
- Sao lại dị nghị được! Việc lành ý tốt, ấy chính là “con chim tìm cây mà đậu”. Dù rằng cây ấy có thể là không xứng! Tôi nghĩ Quân sư nên làm đi là hơn!
Quân sư suy nghĩ, đáp:
- Để ta nghĩ xem sao!
Rồi Quân sư cùng tướng Mạc Sa Cảnh len lỏi giữa các tướng. Tìm đến lão tướng thần tiên Đổng Thừa Trọng của Tiên Du cũ. Nói cho lão tướng nghe hết mọi việc, rồi bảo:
- Vậy, nếu lão tướng bằng lòng, thì đợi khi tôi nói xong về việc Ngô Nhật Khánh vợ chết, thì lão tướng nên đứng lên thay các tướng xin Vương đem con gái gả cho Nhật Khánh nhé! Cứ cung cách này, thì khi nghe lão tướng đưa ý như thế, thế nào các tướng cũng lại ùa vào khen ngợi. Thế là Ngô Nhật Khánh không thể từ chối được. Do đấy thì mọi cái lo mai sau chắc sẽ chẳng còn!
- Lão tướng vui vẻ nhận lời.
Quân sư đợi cho đến khi trong sinh các tướng lại về chỗ ngồi, lại đứng lên nói:
- Bẩm trình Vương, thưa phu nhân, việc vui hôm nay lẽ ra là trọn cả mười phần, nhưng lại có một phần chẳng được vẹn toàn. Ấy là Sứ quân đây trong lúc hỗn loạn, chẳng may lại bị ám hại. May mà tướng Nhật Hướng kịp phóng gươm cứu kịp Sứ quân, ngài chỉ bị thương đao kiếm đâm chém vào da thịt. Không hiểu vì lý do gì phu nhân Sứ quân qua đời, đây mới là nỗi buồn tâm hồn khó lành. Vì vậy những việc vui hôm nay chẳng được trọn vẹn là vì thế! Bẩm trình Vương, thưa phu nhân, ta không thể vì những cái vui to lớn, mà lại quên đi nỗi buồn của Sứ quân. Vì thế tôi mong Vương, phu nhân, cùng hết thảy các tướng ở đây tìm xem có cách nào an ủi được Sứ quân chăng?
Những lời nói của Quân sư, quả nhiên làm cho cả nghị sảnh đang vui vẻ bỗng hóa thành lặng lẽ. Trăm cặp mắt đổ dồn nhìn cả vào Sứ quân Ngô Nhật Khánh. Ngài ngồi rầu rĩ bên cạnh Vạn Thắng Vương. Bên trong chiếc áo gấm xanh dệt cúc vàng đại đóa vai bên trái ngài cộm lên vì lụa buộc vết thương. Vương lặng lẽ nhìn phu nhân mẹ Ngô Nhật Khánh, bà cũng lặng lẽ ra chiều suy tư.
Trong hàng các tướng, có người bước ra, đây chính là tướng Đổng Thừa Trọng. Lão tướng vốn được mọi người kính trọng, nay trong hoàn cảnh này giữa lúc mọi người lặng lẽ, lão tướng muốn nói ắt hẳn sẽ là những lời đáng nghe. Cho nên tất cả đều im lặng chăm chú. Vạn Thắng Vương có nghe nói đến lão tướng, ngài ngắm nhìn lão tướng như nhìn một cây đại thụ khả kính. Lão tướng đi ra giữa sảnh, vòng tay thi lễ, rồi cất giọng rõ ràng nhưng lại thật êm mà rằng:
- Bẩm trình đại Vương, Đổng Thừa Trọng tôi ngồi trong hội đã thấy đủ mọi việc, đã nghe đủ mọi điều. Quả thật những lời Quân sư vừa nói chính là những lời đáng để cho hết thảy mọi người ở đây để tâm tìm cách đối xử. Sứ quân bây giờ tuy chẳng còn ở ngôi nữa, ngài đã là khách của Hoa Lư. Tiếng lại là người trong nhà của Vạn Thắng Vương, thì nỗi buồn của ngài cũng là nỗi buồn chung của mọi người. Chúng tôi là những võ tướng, vào ra trận mạc, mắt nhìn hàng nghìn cái chết, lại thật xúc động về việc phu nhân Sứ quân qua đời. Nỗi buồn này chúng tôi rất hiểu. Nay, theo lời Quân sư nói, mỗi người trong chúng ta nên để tâm tìm cách để giúp Sứ quân vơi đi nỗi buồn. Tôi thiết nghĩ chính Đại Vương là người trước tất cả ở đây có thể giúp lấy đi được nỗi buồn cho ngài Nhật Khánh!
Nghị sảnh chưa hiểu như thế thì Vạn Thắng Vương sẽ phải làm cách nào, chính Vương cũng thắc mắc. Ngài bảo:
- Nếu quả thật như lời lão tướng nói, ta làm gì được thì ta sẽ làm ngay!
Lão tướng giọng như vui lên, ông bảo:
- Bẩm trình Đại vương, tôi quả quyết là Đại vương làm được. Đại vương thế nào cũng giữ đúng lời ngài mới nói. Thưa Đại vương, tôi có nghe trong nhà Đại vương có ái nữ dung hạnh hơn đời, tuổi cũng đã tới lúc xuất giá. Thuyền quyên gửi cửa anh hùng là điều phải, thành thử vì thế tôi mạo muội nhìn vào việc riêng của Đại vương để cầu xin Đại vương. Nhân buổi vui hôm nay làm cho đã vui thêm vui, thuận nhận lời cầu xin của chúng tôi mà phát lệnh là ngài đã chọn được đồng sàng!
Tức thì cả sảnh lại ầm ầm với những lời khen hùa vào của các tướng khiến Vương phải ngẩn người. Sứ quân Ngô Nhật Khánh bối rối, phu nhân mẹ Sứ quân mặt hoa lộ vẻ thật ngạc nhiên.
Quân sư bước ra, các tướng vội im lặng. Quân sư chắc là sắp nói ra lời quan trọng, nhưng Quân sư chỉ nói:
- Bẩm trình Vương, thưa phu nhân, tôi xin được thay cho các tướng khen ngợi ý kiến thật đẹp của lão tướng. Như thế quả thật Hồi Hồ ta mới thật trọn vẹn niềm vui. Chúng tôi xin được mừng Vương, mừng phu nhân vạn phú